Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc-lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc (Kalandakanivapa).
1. THUS HAVE I HEARD. On one occasion the Blessed One was living at Rājagaha in the Bamboo Grove, the Squirrels’ Sanctuary.
Lúc bấy giờ Tôn giả Sāriputta (Xá lợi phất), Tôn giả Mahā Cunda (Ðại Chu-na) và Tôn giả Channa (Xiển-đà) cùng trú ở Gijjhakuta (Linh Thứu).
2. Now on that occasion the venerable Sāriputta, the venerable Mahā Cunda, and the venerable Channa were living on the mountain Vulture Peak.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Channa bị bệnh, đau khổ, bị trọng bệnh. Rồi Tôn giả Sāriputta, vào buổi chiều từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahā Cunda, sau khi đến, nói với Tôn giả Mahā Cunda:
3. On that occasion the venerable Channa was afflicted, suffering, and gravely ill. Then, when it was evening, the venerable Sāriputta rose from meditation, went to the venerable Mahā Cunda, and said to him:
-- Chúng ta hãy đi, này Hiền giả Cunda, chúng ta hãy đi đến Tôn giả Channa để hỏi thăm bệnh trạng.
“Friend Cunda, let us go to the venerable Channa and ask about his illness.”
-- Thưa vâng, Hiền giả.
Tôn giả Mahā Cunda vâng đáp Tôn giả Sāriputta.
— “Yes, friend,” the venerable Mahā Cunda replied.
Rồi Tôn giả Sāriputta cùng với Tôn giả Mahā Cunda đi đến Tôn giả Channa; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Channa những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sāriputta nói với Tôn giả Channa:
4. Then the venerable Sāriputta and the venerable Mahā Cunda went to the venerable Channa and exchanged greetings with him. When [264] this courteous and amiable talk was finished, they sat down at one side and the venerable Sāriputta said to the venerable Channa:
-- Này Hiền giả Channa, mong rằng Hiền giả có thể kham nhẫn! Mong rằng Hiền giả có thể chịu đựng! Mong rằng khổ thọ được giảm thiểu không có gia tăng, và sự giảm thiểu được rõ rệt, không có gia tăng!
“I hope you are getting well, friend Channa, I hope you are comfortable. I hope your painful feelings are subsiding and not increasing, and that their subsiding, not their increase, is apparent.”
-- Thưa Hiền giả Sāriputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Sự thống khổ của tôi gia tăng không có giảm thiểu, và sự gia tăng rõ rệt, không có giảm thiểu. Thưa Hiền giả Sāriputta, tôi sẽ đem dao (cho tôi). Tôi không còn muốn sống.
5. “Friend Sāriputta, I am not getting well, I am not comfortable. My painful feelings are increasing, not subsiding;… (as Sutta 143, §4)… their increase and not their subsiding is apparent. I shall use the knife,1307 friend Sāriputta; I have no desire to live.”
-- Tôn giả Channa, chớ có đem lại con dao! Tôn giả Channa, hãy tiếp tục sống! Chúng tôi muốn Tôn giả Channa tiếp tục sống. Nếu Tôn giả Channa không có các món ăn tốt lành, tôi sẽ đi tìm các món ăn tốt lành cho Tôn giả Channa. Nếu Tôn giả Channa không có các dược phẩm tốt lành, tôi sẽ đi tìm các dược phẩm tốt lành cho Tôn giả Channa. Nếu Tôn giả Channa không có người thị giả thích đáng, tôi sẽ hầu hạ Tôn giả Channa. Tôn giả Channa chớ có đem lại con dao! Tôn giả Channa hãy tiếp tục sống! Chúng tôi muốn Tôn giả Channa tiếp tục sống.
6. “Let the venerable Channa not use the knife. Let the venerable Channa live. We want the venerable Channa to live. If he lacks suitable food, I will go in search of suitable food for him. If he lacks suitable medicine, I will go in search of suitable medicine for him. If he lacks a proper attendant, I will attend on him. Let the venerable Channa not use the knife. Let the venerable Channa live. We want the venerable Channa to live.”
-- Thưa Hiền giả Sāriputta, không phải tôi không có các món ăn tốt lành, cũng không phải tôi không có các dược phẩm tốt lành. Cũng không phải tôi không có thị giả thích đáng. Thưa Hiền giả Sāriputta, trong một thời gian dài, tôi đã hầu hạ bậc Ðạo Sư, làm cho (bậc Ðạo sư) được đẹp lòng, không phải không được đẹp lòng. Thưa Hiền giả Sāriputta, thật là thích đáng cho người đệ tử hầu hạ bậc Ðạo Sư, làm cho (bậc Ðạo Sư) được đẹp lòng, không phải không được đẹp lòng. Tỷ-kheo Channa đem lại con dao không có phạm tội. Thưa Hiền giả Sāriputta, hãy thọ trì như vậy!
7. “Friend Sāriputta, it is not that I have no suitable food and medicine or no proper attendant. But rather, friend Sāriputta, the Teacher has long been worshipped by me with love, not without love; for it is proper for the disciple to worship the Teacher with love, not without love. Friend Sāriputta, remember this: the bhikkhu Channa will use the knife blamelessly.”1308
-- Chúng tôi muốn hỏi Tôn giả Channa về một vấn đề đặc biệt, nếu Tôn giả Channa cho chúng tôi được phép đặt câu hỏi.
8. “We would ask the venerable Channa certain questions, if the venerable Channa finds it opportune to reply.”
-- Hãy hỏi đi, Hiền giả Sāriputta; sau khi nghe, tôi sẽ biết (nói như thế nào).
“Ask, friend Sāriputta. When I have heard, I shall know.”
-- Hiền giả Channa, Hiền giả có xem con mắt, nhãn thức và các pháp do mắt nhận thức là:
9. “Friend Channa, do you regard the eye, eye-consciousness, and things cognizable [by the mind] through eye-consciousness thus:
"Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi? " Hiền giả Channa, Hiền giả có xem tai, nhĩ thức... Hiền giả Channa, Hiền giả có xem mũi, tỷ thức... Hiền giả Channa, Hiền giả có xem lưỡi, thiệt thức... Hiền giả Channa, Hiền giả có xem thân, thân thức... Hiền giả Channa, Hiền giả có xem ý, ý thức và các pháp do ý nhận thức là: "Cái này của tôi, cái này là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi"?
‘This is mine, this I am, [265] this is my self’? Do you regard the ear… the nose… the tongue… the body… the mind, mind-consciousness, and things cognizable [by the mind] through mind-consciousness thus: ‘This is mine, this I am, this is my self’?”
-- Hiền giả Sāriputta, tôi xem mắt, nhãn thức và các pháp do mắt nhận thức là:
“Friend Sāriputta, I regard the eye, eye-consciousness, and things cognizable [by the mind] through eye-consciousness thus:
"Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Hiền giả Sāriputta, tôi xem tai, nhĩ thức.. Hiền giả Sāriputta, tôi xem mũi, tỷ thức... Hiền giả Sāriputta, tôi xem lưỡi, thiệt thức... Hiền giả Sāriputta, tôi xem thân, thân thức... Hiền giả Sāriputta, tôi xem ý, ý thức và các pháp do ý nhận thức là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’ I regard the ear… the nose… the tongue… the body… the mind, mind-consciousness, and things cognizable [by the mind] through mind-consciousness thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’”
-- Này Hiền giả Channa, Hiền giả đã thấy cái gì, đã chứng tri cái gì trong mắt, trong nhãn thức, trong các pháp được mắt nhận thức mà Hiền giả xem mắt, nhãn thức và các pháp do mắt nhận thức là:
10. “Friend Channa, what have you seen and directly known in the eye, in eye-consciousness, and in things cognizable [by the mind] through eye-consciousness, that you regard them thus:
"Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi?" Hiền giả Channa, Hiền giả đã thấy cái gì, đã chứng tri cái gì trong tai, trong nhĩ thức... trong mũi, trong tỷ thức... trong lưỡi, trong thiệt thức... trong thân, trong thân thức... trong ý, trong ý thức và trong các pháp do ý nhận thức mà Hiền giả xem ý, ý thức và các pháp do ý nhận thức là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi "?
‘This is not mine, this I am not, this is not my self’? What have you seen and directly known in the ear… in the nose… in the tongue… in the body… in the mind, in mind-consciousness, and in things cognizable [by the mind] through mind-consciousness, that you regard them thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self’?”
-- Thưa Hiền giả Sāriputta, chính vì tôi thấy sự diệt (nirodha), chứng tri sự diệt trong mắt, trong nhãn thức và trong các pháp do mắt nhận thức, mà tôi xem mắt, nhãn thức, và các pháp do mắt nhận thức là:
“Friend Sāriputta, it is through seeing and directly knowing cessation in the eye, in eye-consciousness, and in things cognizable [by the mind] through eye-consciousness, that I regard them thus:
"Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Thưa Hiền giả Sāriputta, chính vì tôi thấy sự diệt, chứng tri sự diệt trong tai, trong nhĩ thức... trong mũi, trong tỷ thức... trong lưỡi, trong thiệt thức... trong thân, trong thân thức... trong ý, trong ý thức và trong các pháp do ý nhận thức mà tôi xem ý, ý thức và các pháp do ý nhận thức là: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi".
‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’ It is through seeing and directly knowing cessation in the ear… in the nose… in the tongue… in the body… in the mind, in mind-consciousness, and in things cognizable [by the mind] through mind-consciousness, [266] that I regard them thus: ‘This is not mine, this I am not, this is not my self.’”
Khi được nghe nói vậy, Tôn giả Mahā Cunda nói với Tôn giả Channa:
11. When this was said, the venerable Mahā Cunda said to the venerable Channa:1309
-- Do vậy, này Hiền giả Channa, lời dạy này của Thế Tôn phải được thường trực tác ý:
“Therefore, friend Channa, this instruction of the Blessed One’s is to be constantly given attention:
"Ai có chấp trước là có dao động.
‘There is wavering in one who is dependent,
Ai không chấp trước là không có dao động.
there is no wavering in one who is independent;
Không có dao động, thời có khinh an;
when there is no wavering, there is tranquillity;
có khinh an thời không có hy cầu (nati);
when there is tranquillity, there is no bias;
không có hy cầu thời không có khứ lai;
when there is no bias, there is no coming and going;
không có khứ lai thời không có tử sanh;
when there is no coming and going, there is no passing away and reappearing;
không có tử sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có giữa hai đời.
when there is no passing away and reappearing, there is no here nor beyond nor in between.
Như vậy là sự đoạn tận đau khổ".
This is the end of suffering.’”1310
Rồi Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Mahā Cunda sau khi giáo giới cho Tôn giả Channa, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Rồi Tôn giả Channa, sau khi Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Mahā Cunda ra đi không bao lâu, đem dao lại (cho mình).
12. Then when the venerable Sāriputta and the venerable Mahā Cunda had advised the venerable Channa thus, they rose from their seats and went away. Then, soon after they had gone, the venerable Channa used the knife.1311
Rồi Tôn giả Sāriputta đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sāriputta bạch Thế Tôn:
13. Then the venerable Sāriputta went to the Blessed One, and after paying homage to him, he sat down at one side and said to the Blessed One:
-- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Channa đã đem dao lại (cho mình), sanh xứ của Tôn giả ấy là gì? Ðời sống tương lai là gì?
“Venerable sir, the venerable Channa has used the knife. What is his destination, what is his future course?”
-- Này Sāriputta, có phải trước mặt Ông, Tỷ-kheo Channa đã tuyên bố sự không phạm tội?
“Sāriputta, didn’t the bhikkhu Channa declare to you his blamelessness?”1312
-- Bạch Thế Tôn, có một ngôi làng của dòng họ Vajji (Bạt-kỳ) tên là Pubbajira. Tại đấy, có những gia đình thân hữu, những gia đình hộ trì Tôn giả Channa, những gia đình cần được viếng thăm.
“Venerable sir, there is a Vajjian village called Pubbajira. There the venerable Channa had friendly families, intimate families, approachable families [as his supporters].”1313
-- Này Sāriputta, có những gia đình ấy là những gia đình thân hữu, những gia đình hộ trì Tỷ-kheo Channa, những gia đình cần được viếng thăm. Này Sāriputta, cho đến nay, Ta không nói rằng Tỷ-kheo Channa có phạm tội. Này Sāriputta, ai quăng bỏ thân này, và chấp thủ thân khác, Ta nói rằng người ấy có phạm tội. Tỷ-kheo Channa không có (chấp thủ) như vậy. Tỷ-kheo Channa đem con dao lại (cho mình), không có phạm tội.
“Indeed, Sāriputta, the bhikkhu Channa had friendly families, intimate families, approachable families [as his supporters]; but I do not say that to this extent he was blameworthy. Sāriputta, when one lays down this body and takes up a new body, then I say one is blameworthy. This did not happen in the case of the bhikkhu Channa; the bhikkhu Channa used the knife blamelessly.”1314
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Sāriputta hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
That is what the Blessed One said. The venerable Sāriputta was satisfied and delighted in the Blessed One’s words.