Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)

Trang chủ »» Kinh Nam truyền »» Kinh Trường Bộ (Dīgha Nikāya) »» 28. Kinh Tự Hoan Hỷ - 28. Serene Faith »»

Kinh Trường Bộ (Dīgha Nikāya) »» 28. Kinh Tự Hoan Hỷ - 28. Serene Faith

Donate

Sampasādanīya sutta

Quay lại bản Việt dịch || Tải về bảng song ngữ

Xem đối chiếu:

Font chữ:
Nghe đọc phần này hoặc tải về.
Listen to this chapter or download.

28. Kinh Tự Hoan Hỷ

28. Serene Faith

Dịch từ Pāli sang Việt: Thích Minh Châu
Translated from Pāli to English: Maurice Walshe
Như vầy tôi nghe.
1. Một thời, Thế Tôn ở tại Nāḷandā, trong rừng xoài Pāvārika. Lúc bấy giờ, tôn giả Sāriputta (Xá-lợi-phất) đến tại chỗ Thế Tôn ở, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Khi ngồi xuống một bên, tôn giả Sāriputta bạch Thế Tôn:
[99] 1. THUS HAVE I HEARD. Once the Lord was staying at Nālandā in Pāvārika’s mango-grove. And the Venerable Sāriputta came to see the Lord, saluted him, sat down to one side, and said:856
- Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại, không thể có một vị Sa môn, một vị Bà-la-môn khác nào có thể vĩ đại hơn Thế Tôn, sáng suốt hơn Thế Tôn, về phương diện giác ngộ.
‘It is clear to me, Lord, that there never has been, never will be and is not now another ascetic or Brahmin who is better or more enlightened than the Lord.’
- Này Sāriputta, lời nói của Ngươi thật là đại ngôn, thật là gan dạ. Ngươi thật là rống tiếng rống con sư tử khi Ngươi nói: "Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại, không thể có một vị Sa môn, một vị Bà-la-môn nào có thể vĩ đại hơn Thế Tôn, sáng suốt hơn Thế Tôn, về phương diện giác ngộ."
‘You have spoken boldly with a bull’s voice, Sāriputta, you have roared the lion’s roar of certainty. How is this? Have all the Arahant Buddhas of the past appeared to you, and were the minds of all those Lords open to you, so as to say: “These Lords were of such virtue, such was their teaching, [100] such their wisdom, such their way, such their liberation”?’
‘No, Lord.’
Này Sāriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong quá khứ, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của tất cả các vị Thế Tôn - Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?
‘And have you perceived all the Arahant Buddhas who will appear in the future?’
- Bạch Thế Tôn, không!
‘No, Lord.’
- Này Sāriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong tương lai, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của tất cả các vị Thế Tôn - Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?
‘Well then, Sāriputta, you know me as the Arahant Buddha, and do you know: “The Lord is of such virtue, such his teaching, such his wisdom, such his way, such his liberation”?’
- Bạch Thế Tôn, không!
‘No, Lord.’
- Này Sāriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong hiện tại Ta là vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của Thế Tôn - Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải thoát Thế Tôn là như vậy?
‘So, Sāriputta, you do not have knowledge of the minds of the Buddhas of the past, the future or the present. Then, Sāriputta, have you not spoken boldly with a bull’s voice and roared the lion’s roar of certainty with your declaration?’
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Sāriputta, hãy xem! Ngươi không có trí tuệ biết được tâm tư của chư vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở quá khứ, ở hiện tại và ở tương lai! Vậy sao, này Sāriputta, lời nói của Ngươi tuyên bố thật là đại ngôn, thật là gan dạ. Ngươi thật đã rống tiếng rống con sư tử khi Ngươi nói: "Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại, không thể có một vị Sa môn, vị Bà-la-môn khác nào có thể vĩ đại hơn Thế Tôn, sáng suốt hơn Thế Tôn, về phương diện giác ngộ."
2. Bạch Thế Tôn, con không có trí tuệ để được biết tâm tư của chư vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Bạch Thế Tôn, nhưng con biết truyền thống về Chánh pháp. Bạch Thế Tôn, như vị vua có một thành trì ở biên cảnh, có hào lũy kiên cố, có thành quách tháp canh kiên cố và chỉ có một cửa thành ra vào. Cửa thành có vị giữ cửa thông minh, biệt tài và giàu kinh nghiệm, ngăn chận những người lạ, chỉ cho vào những ai quen biết.
2. ‘Lord, the minds of the Arahant Buddhas of the past, future and present are not open to me. But I know the drift of the Dhamma. Lord, it is as if there were a [101] royal frontier city, with mighty bastions and a mighty encircling wall in which was a single gate, at which was a gatekeeper, wise, skilled and clever, who kept out strangers and let in those he knew.
Người này, trong khi đi tuần tiểu xung quanh thành, có thể không thấy hết các chắp nối và khe hở của tường, nhỏ cho đến một con mèo có thể đi qua được. Nhưng người ấy chỉ cần biết rằng các sinh vật to lớn hơn muốn đi vào hay đi ra thành này, tất cả đều phải đi vào hay đi ra cửa này.
And he, constantly patrolling and following along a path, might not see the joins and clefts in the bastion, even such as a cat might creep through. But whatever larger creatures entered or left the city, must all go through this very gate.
Bạch Thế Tôn, cũng vậy con biết truyền thống về Chánh pháp. Tất cả những vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trong thời quá khứ, tất cả những bậc Thế Tôn này đã diệt trừ Năm Triền cái, những nhiễm tâm khiến trí tuệ yếu ớt, đã khéo an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, đã như thật tu hạnh Bảy Giác chi, đã chứng ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Giác.
And it seems to me, Lord, that the drift of the Dhamma is the same. All those Arahant Buddhas of the past attained to supreme enlightenment by abandoning the five hindrances, defilements of mind which weaken understanding, having firmly established the four foundations of mindfulness in their minds, and realised the seven factors of enlightenment as they really are.
Tất cả những vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trong thời vị lai, tất cả những bậc Thế Tôn này sẽ diệt trừ Năm Triền cái, những nhiễm tâm khiến trí tuệ yếu ớt, sẽ khéo an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, sẽ như thật tu hạnh Bảy Giác chi và sẽ chứng ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Bạch Thế Tôn, và nay Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã diệt trừ Năm Triền cái, những nhiễm tâm khiến trí tuệ yếu ớt, sẽ khéo an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, đã như thật tu hạnh Bảy Giác chi, đã chứng ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Giác.
All the Arahant Buddhas of the future will do likewise, and you, Lord, who are now the Arahant, fully-enlightened Buddha, have done the same.
Và nay ở đây, con một thời yết kiến Thế Tôn để nghe pháp. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết pháp cho con, mỗi pháp lại cao thượng, thâm thúy hơn pháp trước, hắc pháp và bạch pháp đều được đề cập, đối chiếu. Bạch Thế Tôn, nhờ Thế Tôn thuyết pháp cho con, mỗi pháp lại cao thượng, thâm thúy hơn pháp trước, hắc pháp và bạch pháp đều được đề cập, đối chiếu như vậy, nên trong sự thâm hiểu Chánh pháp, một pháp được con thâm hiểu trọn vẹn, đó là lòng tin của con vào vị Bổn Sư - Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng và chúng Tăng đã khéo hành trì.
‘So I came once [102] to the Blessed Lord to listen to Dhamma. And the Blessed Lord taught me Dhamma most excellently and perfectly, contrasting the dark with the light. And as he did so, I gained insight into that Dhamma, and from among the various things I established one in particular, which was serene confidence857 in the Teacher, that the Blessed Lord is a fully-enlightened Buddha, that the Dhamma is well taught by the Blessed Lord, and that the order of monks is well-trained.
3. Bạch Thế Tôn, lại nữa, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về các thiện pháp. Ở đây những thiện pháp là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Như ý túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác chi, Thánh đạo tám ngành. Bạch Thế Tôn, ở đây vị Tỷ kheo tận diệt các lậu hoặc, có thể tự mình chứng tri và chứng ngộ, đạt đến và an trú ngay trong hiện tại, Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát vô lậu này.
3. ‘Also, lord, the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to the wholesome factors is unsurpassed, that is to say: the four foundations of mindfulness, the four right efforts, the four roads to power, the five spiritual faculties, the five mental powers, the seven factors of enlightenment, the Noble Eightfold Path.858 By these a monk, through the destruction of the corruptions, can in this very life, by his own super-knowledge, realise and attain the corruption-free liberation of heart and liberation by wisdom, and abide therein.
Bạch Thế Tôn, thật là vô thượng đối với các thiện pháp. Tất cả điểm này, Thế Tôn đã biết và ngoài sự hiểu biết của Ngài, không có gì còn lại để hiểu biết hơn nữa. Không có một ai, một Sa môn hay một Bà-la-môn nào khác có thể chứng biết hơn Thế Tôn về vấn đề các thiện pháp.
This is the unsurpassed teaching in regard to the wholesome factors. This the Blessed Lord fully comprehends, and beyond it lies nothing further to be comprehended; and in such understanding there is no other ascetic or Brahmin who is greater or more enlightened than the Blessed Lord, as regards the wholesome factors.
4. Bạch Thế Tôn, lại nữa, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về sự trình bày các Nhập xứ. Bạch Thế Tôn, sáu nội xứ và ngoại xứ, tức là mắt và sắc, tai và tiếng, mũi và hương, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và pháp. Bạch Thế Tôn, thật là vô thượng về sự trình bày các Nhập xứ. Tất cả điểm này, Thế Tôn đã biết và ngoài sự hiểu biết của Ngài, không có gì còn lại để hiểu biết hơn nữa. Không có một ai, một Sa môn hay một Bà-la-môn nào khác có thể chứng biết hơn Thế Tôn về vấn đề trình bày các Nhập xứ.
4. ‘Also unsurpassed is the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to the elucidation of the sense-spheres: there are the six internal and external sense-bases:859 eye and visible objects, ear and sounds, nose and smells, tongue and tastes, body and tactiles, mind and mind-objects. This is the unsurpassed teaching in regard to the sense-spheres ...
5. Bạch Thế Tôn, lại nữa, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề nhập thai. Bạch Thế Tôn, có bốn loại nhập thai. Bạch Thế Tôn, ở đây, có loại không biết mình nhập bụng người mẹ, không biết mình trú trong bụng người mẹ và không biết mình ra khỏi bụng người mẹ. Ðó là loại nhập thai thứ nhất.
5. ‘Also unsurpassed is the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to the modes of rebirth in four ways: thus, one descends into the mother’s womb unknowing,860 stays there unknowing, and leaves it unknowing. That is the first way.
Lại nữa bạch Thế Tôn, có loại biết mình nhập bụng người mẹ, nhưng không biết mình an trú trong bụng người mẹ và không biết mình ra khỏi bụng người mẹ. Ðó là loại nhập thai nhứ hai.
Or, one enters the womb knowing, stays there unknowing, and leaves it unknowing. That is the second way.
Lại nữa bạch Thế Tôn, có loại biết mình nhập bụng người mẹ, biết mình an trú trong bụng người mẹ, và không biết mình ra khỏi bụng người mẹ. Ðó là loại nhập thai thứ ba.
Or, one enters the womb knowing, stays there knowing, and leaves it unknowing. That is the third way.
Lại nữa Bạch Thế Tôn, có loại biết mình nhập bụng người mẹ, biết mình an trú trong bụng người mẹ và biết mình ra khỏi bụng người mẹ. Ðó là loại nhập thai thứ tư.
Or, one enters the womb knowing, stays there knowing, and leaves it knowing. That is the fourth way.
Ðây là bốn loại nhập thai. Bạch Thế Tôn, thật là vô thượng về vấn đề nhập thai.
This is the unsurpassed teaching in regard to the modes of rebirth...
6. Bạch Thế Tôn, lại nữa, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề sai khác trong sự ký tâm. Bạch Thế Tôn có bốn loại ký tâm sai khác như thế này.
6. ‘Also unsurpassed is the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to the telling of thoughts861 in four ways.
Bạch Thế Tôn, có hạng tự tỏ lộ bằng hình tướng: "Ý của Ngươi là như thế này, ý của Ngươi là như vậy, tâm của Ngươi là như thế này. Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thì sự tỏ lộ là như vậy, không phải gì khác." Như vậy là loại ký tâm thứ nhất.
Thus, one tells by a visible sign, saying: “This is what you think, this is in your mind, your thought is like this.” And however much one declares, it is so and not otherwise. That is the first way.
Lại nữa bạch Thế Tôn, ở đây có loại không tự tỏ lộ bằng hình tướng, nhưng tỏ lộ sau khi nghe tiếng phát ra bởi người, phi nhân, hay chư Thiên: "Ý của Ngươi là như thế này, ý của Ngươi là như vậy, tâm của Ngươi là như thế này. Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thì sự tỏ lộ là như vậy, không phải gì khác." Như vậy là loại ký tâm thứ hai.
Or, one tells not by a visible sign, but through hearing a sound made by humans, non-humans,862 or devas ...That is the second way.
Lại nữa bạch Thế Tôn, ở đây có loại không tự tỏ lộ bằng hình tướng, cũng không tự tỏ lộ sau khi nghe tiếng phát ra bởi Người, phi nhân hay chư Thiên, mà tự tỏ lộ sau khi nghe tiếng rõ ràng và hợp lý, phát ra từ sự suy tầm, tư duy: "Ý của Ngươi là như thế này, ý của Ngươi là như vậy, tâm của Ngươi là như thế này. Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thời sự tỏ lộ là như vậy, không phải gì khác." Như vậy là loại ký tâm thứ ba.
Or one tells not by a sound uttered, [104] but by applying one’s mind and attending to something conveyed by sound ... That is the third way.
Lại nữa bạch Thế Tôn, ở đây có loại không tự tỏ lộ bằng hình tướng, cũng không tự tỏ lộ sau khi nghe tiếng phát ra bởi người, phi nhân, hay chư Thiên, cũng không tự tỏ lộ, sau khi nghe tiếng rõ ràng và hợp lý, phát ra từ sự suy tầm và tư duy, nhưng khi chứng được định, không tầm, không tứ, có thể biết được tâm người khác với tâm của mình: "Tùy ước nguyện hợp ý hành của Tôn giả này, vị này sẽ hướng tâm đến tâm này. Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thời sự tỏ lộ là như vậy, không phải gì khác". Như vậy là loại ký tâm thứ tư.
Or one tells, not by any of these means, when one has attained a state of mental concentration without thinking and pondering, 863 by divining another’s thoughts in one’s mind, and one says: “As far as so-and-so’s mind-force is directed, so his thoughts will turn to that thing.” And however much one declares, it is so and not otherwise. That is the fourth way.
Bạch Thế Tôn, thật là vô thượng về vấn đề ký tâm sai khác.
This is the unsurpassed teaching in regard to the telling of thoughts in four ways...
7. Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: lúc Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề kiến định (dassanasamāpatti). Bạch Thế Tôn, có bốn loại kiến định như thế này:
7. ‘Also unsurpassed is the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to the attainment of vision,864 in four ways.
Ở đây bạch Thế Tôn, có vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Với tâm nhập định như vậy, vị ấy quan sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt:
Here, some ascetic or Brahmin, by means of ardour, endeavour, application, vigilance and due attention, reaches such a level of concentration that he considers just this body — upwards from the soles of the feet and downwards from the crown of the head, enclosed by the skin and full of manifold impurities:
Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước ở khớp xương, nước tiểu. Như vậy là kiến định thứ nhất.
“In this body there are head-hairs, body-hairs, nails, teeth, skin, flesh, sinews, bones, bone-marrow, kidneys, heart, liver, pleura, spleen, lungs, mesentery, bowels, stomach, excrement, bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears, tallow, saliva, snot, synovic fluid, urine.” (as Sutta 22, verse 5) That is the first attainment of vision.
Lại nữa bạch Thế Tôn, ở đây có vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Với tâm nhập định như vậy, vị ấy quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt:
Again, having done this and gone further, [105] he contemplates the bones covered with skin, flesh and blood. This is the second attainment.
Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước ở khớp xương, nước tiểu. Hơn nữa, vị ấy quán sát bộ xương của người ấy còn liên kết với nhau, còn dính thịt, máu và da. Như vậy là kiến định thứ hai.
Lại nữa bạch Thế Tôn,... Hơn nữa, vị ấy vượt qua sự quán sát bộ xương của người ấy còn liên kết với nhau, còn dính thịt, máu và da, quán sát dòng tâm thức của người ấy, không gián đoạn, như là an trú cả đời này và an trú cả đời sau. Như vậy là kiến định thứ ba.
Again, having done this and gone further, he comes to know the unbroken stream of human consciousness as established both in this world and in the next.865 That is the third attainment.
Lại nữa, bạch Thế Tôn,... Hơn nữa, vị ấy vượt qua sự quán sát bộ xương của người ấy còn liên kết với nhau, còn dính thịt, máu và da, quán sát dòng tâm thức của người ấy, không gián đoạn, như là không an trú cả đời này và cả đời sau. Như vậy là kiến định thứ tư.
Again, having done this and gone still further, he comes to know the unbroken stream of human consciousness that is not established either in this world or in the next.866 That is the fourth attainment of vision.
Bạch Thế Tôn, thật là vô thượng về vấn đề kiến định.
This is the unsurpassed teaching in regard to the attainments of vision...
8. Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề phân loại các loại Người. Bạch Thế Tôn, có bảy loại Người như thế này: Câu giải thoát, Tuệ giải thoát, Thân chứng, Kiến chí, Tín thắng giải, Tùy pháp hành, Tùy tín hành. Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề phân loại loài Người.
8. ‘Also unsurpassed is the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to the designation of individuals.867There are these seven types: the Both-Ways-Liberated,868 the Wisdom-Liberated, 869 the Body-Witness,870 the Vision-Attainer,871 the Faith-Liberated,872 the Dhamma-Devotee,873 the Faith-Devotee. 874 This is the unsurpassed teaching in regard to the designation of individuals...
9. Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề tinh cần. Bạch Thế Tôn có Bảy Giác chi như thế này: Niệm Giác chi, Trạch pháp Giác chi, Tinh tấn Giác chi, Hỷ Giác chi, Khinh an Giác chi, Ðịnh Giác chi, Xả Giác chi. Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề tinh cần.
9. ‘Also unsurpassed is the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to the [106] exertions.875 There are these seven factors of enlightenment: mindfulness, investigation of states, energy, delight, tranquility, concentration and equanimity. This is the unsurpassed teaching in regard to the exertions...
10. Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề tiến bộ trong sự tu hành (Patipāda = đạo hành). Bạch Thế Tôn, có bốn loại đạo hành như thế này: Hành trì khổ chứng ngộ chậm, hành trì khổ chứng ngộ mau, hành trì lạc chứng ngộ chậm, hành trì lạc chứng ngộ mau.
10. ‘Also unsurpassed in the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to the modes of progress,876 which are four: painful progress with slow comprehension, painful progress with quick comprehension, pleasant progress with slow comprehension, pleasant progress with quick comprehension.
Bạch Thế Tôn, ở đây, thế này là hành trì khổ, chứng ngộ chậm. Bạch Thế Tôn, sự hành trì cả hai phương diện đều được xem là hạ liệt, vừa khổ vừa chậm.
In the case of painful progress with slow comprehension, progress is considered poor on account of both painfulness and slowness.
Bạch Thế Tôn, ở đây, thế này là hành trì khổ, chứng ngộ mau. Bạch Thế Tôn, sự hành trì này vì khổ nên được gọi là hạ liệt.
In the case of painful progress with quick comprehension, progress is considered poor on account of painfulness.
Bạch Thế Tôn, ở đây, thế này là hành trì lạc, chứng ngộ chậm. Bạch Thế Tôn, sự hành trì này vì chậm nên được gọi là hạ liệt.
In the case of pleasant progress with slow comprehension, progress is considered poor on account of slowness.
Bạch Thế Tôn, ở đây, thế này là hành trì lạc, chứng ngộ mau. Bạch Thế Tôn sự hành trì này cả hai phương diện đều được xem là cao thượng, vừa lạc vừa mau. Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề đạo hành (tiến bộ trên đường tu hành).
In the case of pleasant progress with quick comprehension, progress is considered excellent on account of both pleasantness and quick comprehension. This is the unsurpassed teaching in regard to the modes of progress...
11. Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề chánh hạnh trong ngôn ngữ. Bạch Thế Tôn, ở đây, một người không những không nói những lời liên hệ đến nói láo, mà cũng phải, trong khi tìm cách thắng cuộc, không dùng lời vu khống, lời ác khẩu và lời ly gián; trái lại, người ấy nói lời từ hòa, sáng suốt, đáng được giữ gìn, và nói đúng thời. Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về chánh hạnh trong ngôn ngữ.
11. ‘Also unsurpassed is the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to proper conduct in speech: how one should avoid not only any speech involving lying, but also speech that is divisive 877 or sneeringly triumphant,878 but should use wise words, words to be treasured, words in season. This is the unsurpassed teaching in regard to proper conduct in speech...
12. Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề giới hạnh của con người. Bạch Thế Tôn, ở đây, có người chân thật, thành tín, không dối trá, không lừa gạt, không gợi ý, không chiêm tướng, không lấy lợi câu lợi; hộ trì các căn, ăn uống tiết độ, hành động ôn hòa, luôn luôn cảnh giác, không chán nản, tinh cần, trầm tư, chánh niệm, ngôn từ lanh lợi, hành vi gan dạ, chịu đựng, biết điều, không tham dục, tỉnh giác, cẩn trọng. Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề giới hạnh của con người.
12. ‘Also unsurpassed is the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to a person’s proper ethical conduct. One should be truthful and faithful, not using deception, patter, hinting or belittling,879 not [107] always on the make for further gains, but with sense-doors guarded, abstemious, a peace-maker, given to watchfulness, active, strenuous in effort, a meditator,880 mindful, of fitting conversation, steady-going,881 resolute882 and sensible,883 not hankering after sense-pleasures but mindful and prudent. This is the unsurpassed teaching in regard to a person’s proper ethical conduct...
13. Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về sự sai biệt trong sự giảng dạy. Bạch Thế Tôn, có bốn loại giảng dạy. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy, biết người khác: Người này theo sự giảng dạy, hành trì như thế này, sẽ diệt trừ ba kiết sử, sẽ chứng Dự lưu, không còn bị đọa lạc, chắc chắn sẽ được giác ngộ.
13. ‘Also unsurpassed is the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to modes of receptivity to instruction, of which there are four: The Blessed Lord knows by his own skilled observation:884 “That one will, by following instructions, by the complete destruction of three fetters, become a Stream-Winner, no more subject to rebirth in lower worlds, firmly established, destined for full enlightenment”;
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy, biết người khác: Người này theo sự giảng dạy, hành trì như thế này, sẽ diệt trừ ba kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, si, sẽ chứng Nhất lai, phải sanh đời này một lần nữa trước khi diệt tận khổ đau.
“that one will, by following instructions, by the complete destruction of three fetters and the reduction of greed, hatred and delusion, become a Once-Returner, and having returned once more to this world, will put an end to suffering”;
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy biết người khác: Người này theo sự giảng dạy, hành trì như thế này, sẽ diệt trừ năm hạ phần kiết sử, sẽ được hóa sanh và ở tại cảnh giới ấy nhập Niết bàn, không còn về lại đời này.
“that one will, by following instructions, by the complete destruction of the five lower fetters, be spontaneously reborn,885 and there will reach Nibbāna without returning from that world”;
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy biết người khác: Người này theo sự giảng dạy hành trì như thế này, sẽ diệt trừ các lậu hoặc, tự mình giác tri, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, vô lậu Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát. Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề sai biệt trong sự giảng dạy.
“that one will, by following instructions, by the destruction of the corruptions, gain in this very life the deliverance of mind, the deliverance through wisdom which is uncorrupted, and which one has understood and realised by one’s own super-knowledge.” This is the unsurpassed teaching in regard to the modes of receptivity to instruction... [108]
14. Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về giải thoát trí của người khác. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy biết người khác: Người này diệt trừ ba kiết sử, sẽ chứng quả Dự lưu, không còn bị đọa lạc, nhất định sẽ được giác ngộ.
14. ‘Also unsurpassed is the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to the knowledge of the liberation of others. The Blessed Lord knows, by his own skilled observation: “That one will, by the complete destruction of three fetters, become a Stream-Winner...;
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy biết được người khác: Người này sẽ diệt trừ ba kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, si, sẽ chứng quả Nhất lai, phải sanh đời này một lần nữa, sẽ diệt tận khổ đau.
then with the reduction of greed, hatred and delusion, become a Once-Returner...;
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy biết được người khác: Người này diệt trừ năm hạ phần kiết sử, sẽ được hóa sanh, tự chỗ ấy nhập Niết bàn, không còn phải trở lại đời này.
by the complete destruction of the five lower fetters, be spontaneously reborn...;
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy biết người khác: Người này, diệt trừ các lậu hoặc, tự tri tự chứng, đạt đạo và an trú ngay trong đời hiện tại vô lậu Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát. Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề giải thoát trí của người khác.
by the destruction of the corruptions, gain in this very life the deliverance of mind, the deliverance through wisdom which is uncorrupted ... ʺ
15. Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề Thường trú luận. Bạch Thế Tôn, có ba loại Thường trú luận như thế này.
15. ‘Also unsurpassed is the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to the doctrine of Eternalism.886 There are three such theories:
Bạch Thế Tôn ở đây có vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm nên tâm nhập định; khi tâm nhập định, vị ấy nhớ được nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời, vô số trăm đời, vô số ngàn đời, vô số trăm ngàn đời, nhớ rằng: "Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi sống với tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi được sanh đến chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống với tên như thế này, tuổi thọ như thế này." Như vậy vị ấy nhớ nhiều đời quá khứ với những đặc điểm và những chi tiết. Vị ấy nói rằng: "Trong thời quá khứ, tôi biết được thế giới là trong hoại kiếp hay thành hoại kiếp. Nhưng trong tương lai tôi không được biết thế giới là trong hoại kiếp hay thành kiếp.
(1) Here, some ascetic or Brahmin, by means of ardour, endeavour, ... recalls various past existences ...up to several hundred thousand births...(as Sutta 1, verse 1.31). [109] In this way he remembers the details of his various past lives, and he says: “I know the past, whether the universe was expanding or contracting,887 but I do not know the future, whether it will expand or contract.
Bản ngả và thế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đỉnh núi, như trụ đá. Còn những loại hữu tình kia thì lưu chuyển, luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú." Ðó là Thường trú luận thứ nhất.
The self and the world are eternal, barren, steady as a mountain-peak, rooted like a pillar. Beings run on, transmigrate, pass away and rearise, yet these persist eternally.”
Lại nữa, bạch Thế Tôn, ở đây, có vị Sa môn hay Bà-la-môn nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ được nhiều đời sống quá khứ, như một thành kiếp hoại kiếp, hai thành kiếp hoại kiếp, ba thành kiếp hoại kiếp, bốn thành kiếp hoại kiếp, năm thành kiếp hoại kiếp, mười thành kiếp hoại kiếp, nhớ rằng:
(2) Again, some ascetic or Brahmin recalls various existences ... (as (1), but “up to twenty aeons ... ʺ). [110]
"Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại sanh tại chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống với tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ kia chết đi, tôi được sanh tại chỗ này."
Như vậy vị ấy nhớ nhiều đời quá khứ với những đặc điểm và những chi tiết. Vị ấy nói: "Trong thời quá khứ, tôi biết được thế giới là trong hoại kiếp hay thành kiếp. Trong tương lai, tôi biết được thế giới sẽ là trong hoại kiếp hay thành kiếp. Bản ngã và thế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đỉnh núi, như trụ đá, còn những loại hữu tình kia thì lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú." Ðó là Thường trú luận thứ hai.
Lại nữa, bạch Thế Tôn, ở đây, vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định vị ấy nhớ được nhiều đời sống quá khứ, như mười thành kiếp hoại kiếp, hai mươi thành kiếp hoại kiếp, ba mươi thành kiếp hoại kiếp, bốn mươi thành kiếp hoại kiếp, nhớ rằng:
(3) Again, some ascetic or Brahmin recalls various existence... (as (i), but “up to ten, twenty, thirty, forty aeons...”). This is the unsurpassed teaching in regard to the doctrine of Eternalism...
"Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại được sanh tại chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống với tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này."
Như vậy vị ấy nhớ nhiều đời quá khứ, với những đặc điểm và những chi tiết. Vị ấy nói: "Trong thời quá khứ, tôi biết được thế giới là trong hoại kiếp hay thành kiếp. Trong tương lai, tôi biết được thế giới là trong hoại kiếp hay trong thành kiếp. Bản ngã và thế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đỉnh núi, như trụ đá, còn những loại hữu tình kia thì lưu chuyển luân hồi, chết đi sống lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú." Ðó là Thường trú luận thứ ba. Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề Thường trú luận.
16. Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề Túc mạng trí. Bạch Thế Tôn, ở đây có vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ được nhiều đời sống quá khứ như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại kiếp thành kiếp.
16. ‘Also unsurpassed is the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to past lives. Here, some ascetic or Brahmin... recalls various past existences — one birth, two births, three, four, five, ten, twenty, thirty, forty, fifty, a hundred, a thousand, a hundred thousand lives, many aeons of contraction, [111] of expansion, of contraction and expansion:
Nhớ rằng: "Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại được sanh tại chỗ kia. Tại chỗ kia tôi đã sống với tâm như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại được sanh tại chỗ kia. Tại chỗ kia tôi đã sống với tâm như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này." Như vậy, vị ấy nhớ nhiều đời quá khứ, với những đặc điểm và những chi tiết.
“Then I was called so-and-so, this was my clan, my caste, I ate this, had these happy and unhappy experiences, lived for so long. And when I passed away from there I was reborn in such-and-such other circumstances. Passing away from there, I was reborn here.” In this way he remembers the details of his various past lives.
Bạch Thế Tôn, có những chư Thiên, mà tuổi thọ không thể đếm được hay không thể tính được. Nhưng dưới bất cứ ngã thể nào được có trong quá khứ, hoặc có sắc hay không sắc, hoặc có tưởng hay không tưởng, hoặc phi tưởng phi phi tưởng, chúng nhớ đến đời quá khứ với các đặc điểm và chi tiết như vậy. Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề Túc mạng trí.
There are devas whose life-span is not to be reckoned by counting or computation,888 yet whatever existence 889 they have previously experienced, whether in the World of Form or in the Formless World, whether conscious, unconscious or neither-conscious-nor-unconscious, they remember the details of those past lives. This is the unsurpassed teaching in regard to remembrance of past lives...
17. Lại nữa, bạch Thế Tôn điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề Sanh tử trí của các loài hữu tình. Ở đây, bạch Thế Tôn, có vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ:
17. ‘Also unsurpassed is the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to knowledge of the death and rebirth of beings. Here, some ascetic or Brahmin ... attains to such concentration of mind that he sees with the divine eye, purified and surpassing that of humans, beings passing away and arising: base and noble, well-favoured and ill-favoured, to happy and unhappy destinations as kamma directs them, and he knows:
"Này các Hiền giả, những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, ngữ và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Hiền giả, còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngữ và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo Chánh kiến, tạo các nghiệp theo Chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này".
“These beings, on account of misconduct of body, speech or thought or disparaging the Noble Ones, have wrong view and will suffer the kammic fate of wrong view. At the breaking-up of the body after death they are reborn in a lower world, a bad destination, a state of suffering, hell. But these beings, on account of good conduct of body, speech or thought, of praising the Noble Ones, have right view and will reap the kammic reward of right view. At the breaking-up of the body [112] after death they are reborn in a good destination, a heavenly world.”
Như vậy, vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề Sanh tử trí của các loại hữu tình.
Thus with the divine eye, purified and surpassing that of humans, he sees beings passing away and rearising... This is the unsurpassed teaching in regard to knowledge of the death and birth of beings...
18. Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề Thần túc thông. Bạch Thế Tôn, có hai loại thần thông như thế này. Bạch Thế Tôn, có loại thần thông hữu lậu, hữu dư y, được gọi là "không phải Thánh". Bạch Thế Tôn, có loại thần thông vô lậu, vô dư y, được gọi là "bậc Thánh".
18. ‘Also unsurpassed is the Blessed Lord’s way of teaching Dhamma in regard to the supernormal powers. These are of two kinds. There is the kind that is bound up with the corruptions and with attachment,890 which is called “un-Ariyan”, and there is the kind that is free of the corruptions and not bound up with attachment, which is called “Ariyan”.
Bạch Thế Tôn, thế nào là loại thần thông hữu lậu, hữu dư y, được gọi là "không phải Thánh"? Ở đây, bạch Thế Tôn, có vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, nhờ cần mẫn, nhờ bất phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy chứng được nhiều loại Thần túc thông sai khác. Một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân. Hiện hình biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư không; độn thổ trồi lên ngang qua đất liền, như ở trong nước; đi trên nước không chìm như trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên.
What is the “un-Ariyan” supernormal power? Here some ascetic or Brahmin enjoys various supernormal powers: being one, he becomes many — being many, he becomes one; he appears and disappears; he passes through fences, walls and mountains unhindered as if through air; he sinks into the ground and emerges from it as if it were water; he walks on the water without breaking the surface as if on land; he flies cross-legged through the sky like a bird with wings; he even touches and strokes with his hand the sun and moon, mighty and powerful as they are; and he travels in the body as far as the Brahma world.
Bạch Thế Tôn, như vậy là loại thần thông hữu lậu, hữu dư y, được gọi là "không phải Thánh".
That is the ʺun-Ariyariʺ supernormal power.
Bạch Thế Tôn, thế nào là thần thông vô lậu, vô dư y, được gọi là "bậc Thánh?" Ở đây, bạch Thế Tôn vị Tỷ kheo, nếu vị này muốn: "Ðối với sự vật đối nghịch, ta sẽ an trú với tưởng không đối nghịch", và ở đây vị ấy an trú với tưởng không đối nghịch. Nếu vị ấy muốn: "Ðối với sự vật không đối nghịch, ta sẽ an trú với tưởng đối nghịch", và ở đây vị ấy an trú với tưởng đối nghịch. Nếu vị ấy muốn: "Ðối với sự vật đối nghịch và không đối nghịch, ta sẽ an trú với tưởng không đối nghịch", và ở đây vị ấy an trú với tưởng không đối nghịch. Nếu vị ấy muốn: "Ðối với sự vật không đối nghịch và đối nghịch, ta sẽ an trú với tưởng đối nghịch", và ở đây vị ấy an trú với tưởng đối nghịch. Nếu vị ấy muốn: "Loại bỏ cả hai đối nghịch và không đối nghịch, ta sẽ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác", và ở đây vị ấy trú xả, chánh niệm, tỉnh giác.
And what is the “Ariyan” supernormal power? Here a monk, if he wishes: “Let me abide with the disgusting891 not feeling disgust”, can so abide, and if he wishes: “Let me [113] abide with the non-disgusting feeling disgust”, he can so abide, also feeling either disgust or non-disgust in the presence of both ... or: “Ignoring both the disgusting and the non-disgusting may I abide in equanimity, mindful and clearly aware”, he can so abide.
Bạch Thế Tôn, như vậy là thần thông vô lậu, vô dư y, và được gọi là "bậc Thánh".
That is the ʺAriyanʺ supernormal power, that is free of the corruptions and not bound up with attachment. This is the unsurpassed teaching in regard to the supernormal powers.
Bạch Thế Tôn, như vậy là vô thượng về các loại Thần túc thông. Tất cả điểm này, Thế Tôn đã biết, và ngoài sự hiểu biết của Ngài, không có gì còn lại để hiểu biết hơn nữa. Không có một ai, một Sa môn hay Bà-la-môn nào khác, có thể chứng biết hơn Thế Tôn về vấn đề các loại Thần túc thông.
This the Blessed Lord fully comprehends, and beyond it lies nothing further to be comprehended; and in such understanding there is no other ascetic or Brahmin who is greater or more enlightened than the Blessed Lord, as regards the supernormal powers.
19. Bạch Thế Tôn, những gì có thể đạt được bởi một thiện nam tử có lòng tin, có tinh tấn, có kiên trì bởi sự kiên trì của con người, bởi sự tinh tấn của con người, bởi sự tiến bộ của con người, bởi sự nhẫn nhục của con người, đều được Thế Tôn chứng đạt. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không có đam mê các dục lạc, dục lạc này là đê tiện, hèn hạ, thuộc phàm phu, không xứng bậc Thánh, không có lợi ích. Thế Tôn cũng không đam mê tu hành khổ hạnh, khổ hạnh này là khổ, không xứng bậc Thánh, không có lợi ích. Thế Tôn có thể đạt được nếu Ngài muốn, một cách dễ dàng, một cách đầy đủ, sự hạnh phúc ngay trong hiện tại, do bốn Thiền định đem lại.
19. ‘Whatever, Lord, it is possible for a clansman endowed with confidence to achieve by putting forth effort and by persistence, by human effort, human exertion and human endurance, 892 that the Blessed Lord has achieved. For the Blessed Lord gives himself up neither to the pleasures of the senses, which are base, vulgar, for worldlings and not for the Noble, and unprofitable, nor to self-torment, which is painful, ignoble and unprofitable.893 The Blessed Lord is able, here and now,894 to enjoy the surpassing895 happiness of dwelling in the four jhānas.
Bạch Thế Tôn, nếu có ai hỏi con: "Này Hiền giả Sāriputta, trong thời quá khứ, có vị Sa môn hay Bà-la-môn nào còn lớn hơn, còn sáng suốt hơn Thế Tôn về vấn đề giác ngộ?" Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy, con trả lời không. Bạch Thế Tôn, nếu có ai hỏi con: "Này Hiền giả Sāriputta, trong thời vị lai, có vị Sa môn hay Bà-la-môn nào còn lớn hơn, sáng suốt hơn Thế Tôn về vấn đề giác ngộ?" Bạch Thế Tôn, được hỏi như vậy con trả lời không.
‘Lord, if I were asked: “Well now, friend Sāriputta, have there ever been in the past any ascetics and Brahmins more exalted in enlightenment than the Blessed Lord?” I should say: “No.” If asked: “Will there be any such in the future?” I should say: “No.” [114] If asked: “Is there any such at present ?ʺ I should say: “No.”
Bạch Thế Tôn, nếu có ai hỏi con: "Này Hiền giả Sāriputta, trong thời quá khứ, có vị Sa môn hay Bà-la-môn nào có thể bằng Thế Tôn về vấn đề giác ngộ?" Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy con trả lời có. "Này Hiền giả Sāriputta, trong thời vị lai, có vị Sa môn hay Bà-la-môn nào có thể bằng Thế Tôn về vấn đề giác ngộ?" Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy con trả lời có.
Again, if I were asked: “Have there been any such in the past equal in enlightenment to the Blessed Lord?” I should say: “Yes.” If asked: “Will there be any such in the future?” I should say: “Yes.”
Bạch Thế Tôn, nếu có ai hỏi con: "Này Hiền giả Sāriputta, trong thời hiện tại, có vị Sa môn hay Bà-la-môn nào có thể bằng Thế Tôn về vấn đề giác ngộ?" Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy con trả lời không.
But if I were asked: “Are there any such at present equal in enlightenment to the Blessed Lord?” I should say: “No.”
Bạch Thế Tôn, nếu có ai hỏi con: "Vì sao, Tôn giả Sāriputta một mặt thì xác nhận là có, một mặt xác nhận là không có?" Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy con sẽ trả lời: "Này Hiền giả, trước mặt Thế Tôn, tôi có nghe nói, từ nơi Ngài tôi có ghi nhận: "Trong thời quá khứ, có vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác bằng Ta về phương diện giác ngộ." Này Hiền giả trước mặt Thế Tôn tôi có nghe nói, từ nơi Ngài tôi có ghi nhận: "Trong thời vị lai, có các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác bằng Ta về phương diện giác ngộ." Này Hiền giả, trước mặt Thế Tôn tôi có nghe nói từ nơi Ngài tôi có nghi nhận: "Không có trường hợp, không có sự kiện trong một thế giới, hai vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác cùng xuất hiện ở đời, không trước, không sau. Sự kiện như vậy không thể xảy ra".
And if I were then asked: “Venerable Sariputta, why do you accord this highest recognition to one and not the other?” I should say: “I have heard and received it from the Blessed Lord’s own lips: ‘There have been in the past, and there will be in the future, Arahant Buddhas equal in enlightenment to myself.’ I have also heard and received it from the Blessed Lord’s own lips that it is not possible, it cannot be that in one and the same world-system two Arahant supreme Buddhas should arise simultaneously. 896 No such situation can exist.”
Bạch Thế Tôn, có phải khi được hỏi và trả lời như vậy, con đã nói lên đúng ý với Thế Tôn, không có sai lạc, không có hiểu lầm Thế Tôn? Có phải con đã trả lời thuận pháp, đúng pháp? Có phải không một đối phương hợp pháp nào có thể tìm ra lý do để chỉ trích phê bình?
‘Lord, if I were [115] to reply thus to such questions, would I be speaking in conformity with the Blessed Lord’s word, and not misrepresenting him by departing from the truth? Would I be explaining Dhamma correctly, so that no fellow-follower of the Dhamma could contest it or find occasion for censure?’
- Này Sāriputta, được hỏi và trả lời như vậy, Ngươi đã nói lên đúng ý với Ta, không có sai lạc, không có hiểu lầm Ta. Ngươi đã trả lời thuận pháp và đúng pháp. Không một đối phương hợp pháp nào có thể tìm ra lý do để chỉ trích, phê bình.
‘Certainly, Sāriputta, if you answered like this you would not misrepresent me, you would be explaining Dhamma correctly and not laying yourself open to censure.’
20. Ðược nghe nói vậy, Tôn giả Udāyi bạch Thế Tôn:
20. At this, the Venerable Udayi said to the Lord:
- Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Như Lai thiểu dục như vậy, tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy; trong khi Như Lai có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ. Bạch Thế Tôn, nếu có một du sĩ ngoại đạo nào, tự thấy mình chứng được dầu chỉ có một pháp, họ đã dương cờ (gióng trống) lên rồi. Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Như Lai thiểu dục như vậy, tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy; trong khi Như Lai có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ.
‘It is wonderful, Lord, it is marvellous how content the Blessed Lord is, how satisfied and restrained,897 when being endowed with such power and influence he does not make a display of himself! If the wanderers professing other doctrines were able to discern in themselves even one of such qualities, they would proclaim it with a banner! It is wonderful ... that the Blessed Lord does not make display of himself!’
- Hãy ghi nhận, này Udāyi! Như Lai thiểu dục như vậy, tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy; trong khi Như Lai có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ. Này Udāyi, nếu có một du sĩ ngoại đạo nào, tự thấy mình dầu chỉ có một pháp như vậy, họ đã dương cờ (gióng trống) lên rồi. Này Udāyi hãy ghi nhận! Như Lai thiểu dục như vậy, tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy; trong khi Như Lai có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ.
‘Well then, Udayi, just observe: so it is. If such wanderers were able to discern in themselves even one of such qualities, they would proclaim it with a banner. But the Tāthagata is content,... he does not make a display of himself.’ [116]
21. Rồi Thế Tôn bảo tôn giả Sāriputta:
21. Then the Lord said to Sāriputta:
- Vậy Sāriputta, Ngươi phải luôn luôn thuyết pháp phân biệt này cho các Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, các Nam cư sĩ và các Nữ cư sĩ. Này Sāriputta, nếu có những kẻ ngu nào còn nghi ngờ hay ngần ngại đối với Như Lai, nếu họ được nghe pháp phân biệt này, nghi ngờ hay ngần ngại của họ đối với Như Lai sẽ được diệt trừ.
‘And therefore you, Sāriputta, should frequently speak about this matter to monks and nuns, to male and female lay-followers. And any foolish people who have doubts or queries about the Tāthagata will, by listening to such talk, have their doubts and queries resolved.’
Như vậy, tôn giả Sāriputta nói lên lòng hoan hỷ của mình đối với Thế Tôn. Do vậy, danh từ “Tự hoan hỷ” (Sampasādaniyam) được dùng cho câu trả lời này.
This was how the Venerable Sāriputta proclaimed his confidence in the Lord. And so one name for this exposition is ‘The Serene Faith’.



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.144.45.197 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (198 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - ... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học