Chim Việt Cành Nam [ Trở Về ] [Home Page]
Phần III - Các bài phê bình
Sónh dữ vỗ bờPhần III - Các bài phê bình ( Sóng dữ vỗ bờ ) . Cái vại tương, một biểu tương của căn bệnh văn hóa Trung Quốc / . Làm sao sửa chữa cái bệnh đến chết cũng không nhận lỗi / . Năng lực suy luận bị trục trặc / . Nhẩy ra khỏi hũ tương / . Cần dấu cái ác phô trương cái thiện, đừng tự hạ mình / . Người Trung Quốc hèn hạ / . Không hiểu được hài ước / . Có cái văn hóa không có văn minh ? / . Không thể bôi nhọ văn hóa Trung Quốc / . Văn hóa Trung Quốc, bôi nhọ hay đánh phấn ? / . Người Trung Quốc vĩ đại.
Cái vại tương, một biểu tương của
căn bệnh văn hóa Trung QuốcKhiêu Lập Dân
Trong " Thất thập niên đại Tạp chí ", Hồng Kông, ngày 12-11-1973.Phàm người Trung Quốc nào còn quan tâm đến tiền đồ tổ quốc đều có thể nghĩ đến một vấn đề căn bản sau đây : tại sao Trung Quốc (từ 1842 đến 1949) lại yếu thế ? Mỹ, Nhật tại sao lại mạnh thế ?
Diện tích của Trung Quốc rất lớn (đứng thứ nhì trên thế giới chỉ sau Liên-xô), người lại rất đông (vào bậc nhất thế giới), tài nguyên tương đối phong phú. Thêm vào đó, lại có một nền văn hóa mà một số người tự hào là lâu đời tới 5.000 năm. Ðáng lý Trung Quốc phải là một quốc gia vào hạng mạnh nhất thế giới mới đúng. Nhưng sự thực lại không phải như vậy. Từ Chiến tranh Nha phiến (1840), bị các cường quốc liên tục đến xâu xé, Trung Quốc phải cắt đất bồi thường, chỉ tý nữa là đã bị phân chia.
Ðối với câu hỏi trên, chỉ có hai cách trả lời :
Thứ nhất : Ðầu óc và sức lực của người Trung Quốc tồi quá.
Thứ hai : Cái văn hóa truyền thống của Trung Quốc có vấn đề.
Ðối với cái khả năng thứ nhất, có hai cách giải thích không giống nhau. Cách thứ nhất làụ: đầu óc, sức lực người Trung Quốc tồi quá. Có lẽ họ chỉ khá hơn rợ Hung-nô, Ðột-quyết và người da đen ở Phi Châu ngày hôm nay (chứ không phải ngày mai), nhưng chắc chắn là thua người Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Nhật.
Cách giải thích thứ hai : trí lực của tổ tiên người Trung Quốc rất khá, ít nhất cũng tài giỏi ở mức độ huy hoàng của những đời Hán, Ðường. Nhưng bất hạnh thay, cái trí lực ấy càng ngày càng kiệt quệ, đời sau không bằng đời trước, sau vài trăm năm đã biến thành một dân tộc của những thằng ngu.
Giả sử đúng là trí lực của chúng ta quá tồi, chúng ta phải chấp nhận nó như thế thôi. Nhưng ai đã dậy chúng ta không biết tự mình phấn đấu nhỉ ? Căn cứ trên " Ðịnh luật sinh tồn - mạnh được yếu thua " thì một đất nước bị biến thành cái loại " thuộc địa hạng bét " như thế bởi vì nó xứng đáng như thế. Nếu nói ngược lại, giả sử không phải vì trí lực của chúng ta có vấn đề, nhưng vì cái văn hóa của chúng ta có vấn đề, thì tiền đồ của chúng ta còn có thể khá được, nhưng chúng ta phải biết tự sửa mình, can đảm vứt cái gánh nặng văn hóa ấy đi mới được.
Chúng ta vừa nói qua khả năng thứ nhất (trí lực có vấn đề), đó là một khả năng trên mặt lý luận, nhưng không tồn tại trong thực tế. Bởi vì không có một người Trung Quốc nào thừa nhận rằng trí lực của dân tộc Trung Quốc chúng ta lại thấp kém. Ðấy không phải là một vấn đề cảm tính hoặc vì muốn tự thổi phồng mình lên, nhưng một vấn đề trên mặt lý luận có chứng cớ, không thể phủ nhận.
Những chứng cớ này là gì ?
Ta có thể nhìn thấy trong hai sự kiện sau :
1- Phần đóng góp của người Hoa vào công cuộc phát triển kinh tế ở Ðông-Nam-Á.
2- Những thành tựu về học thuật của người Hoa tại Mỹ, những thành quả này làm cho người da trắng vốn đầy tự tôn mặc cảm cũng phải thừa nhận rằng trí tuệ cá nhân người Hoa cao. Nhưng họ cũng biết người Hoa không đoàn kết, không hợp tác với nhau, chống đối nhau một cách kịch liệt và không phát huy được sức mạnh tập đoàn.
Ông Bá Dương trong tập " Ðến chết không nhận lỗi " đã đưa ra một cách giải thích tuyệt vời về vấn đề của người Hoa chúng ta :
Một người đến thỉnh giáo một vị cao tăng, hỏi về kiếp trước và kiếp sau của mình. Vị cao tăng đáp bằng mấy câu thơ sau :
Muốn biết kiếp trước thế nào
Cứ xem mình sống ra sao kiếp này
Ðầu thai rồi thế nào đây
Hãy nhìn vào việc hiện nay đang làm[Dục tri tiền thế nhân
Kim sinh thụ giả thị
Dục tri hậu thế quả
Kim sinh tác giả thị ]Bá Dương lại còn than rằng : " Mấy câu danh ngôn này làm cho tôi liên tưởng đến cái văn hóa 5.000 năm của chúng ta ". Muốn biết cái văn hóa này tốt hay xấu, không phải cứ vùi đầu vào nghiên cứu cái đống giấy cũ, mà phải mở to mắt nhìn những tội nợ mà chúng ta đang phải chịu hôm nay thì may ra mới rõ được.
Vấn đề thì rõ ràng có rồi, mà cũng có thể nói rằng đó là vấn đề văn hóa. Vậy phải đi thêm một bước nữa để tìm cách phân tích nó.
Ông Tôn Quang Hán, một người rất ngưỡng mộ ông Bá Dương, trong bài " Hoàn cảnh và đất đai " có viết:
" Nguyên nhân tại sao Trung Quốc không thể xây dựng được một quốc gia cường thịnh ? Ðó không phải vấn đề bẩm sinh, nhưng một vấn đề sau khi sinh. Nếu dùng ngôn ngữ của người làm ruộng để nói thì đó không phải là vấn đề " giống " mà là vấn đề " đất ".
Ðối với thực vật, đất là thổ nhưỡng, thủy phân, không khí, ánh sáng mặt trời, v.v...; đối với một dân tộc, đất là hoàn cảnh, tập tục của nhân tính nói chung.
Cho đến nay thực sự chúng ta chưa sinh sản được những loại cây tốt. Nguyên nhân, nếu không do hạt giống, thì nhất định phải vì đất đai, hoàn cảnh, có gì đó không thích hợp cho những giống cây này sinh trưởng.
Trong văn hóa và tập tục 5.000 năm của Trung Quốc, ngoài phần tốt ra cũng có phần xấu. Phần xấu này là mảnh đất nơi hạt giống kia không thể lớn lên được. Cái phần văn hóa, tập tục rộng lớn, xấu xa này đúng như ông Bá Dương gọi một cách đơn giản và tóm lược là cái " vại tương ".
Tôi thấy Lỗ Tấn tiên sinh đã sáng tạo ra cái " A Q ", Lý Tông Ngô tiên sinh lại sáng tạo ra cái " Hậu hắc ", sau đó Bá Dương tiên sinh còn sáng tạo ra cái " hũ tương ", ba thứ này đều chí lý cả, chẳng khác nào ba chân của một cái đỉnh.
Nếu nói " A Q " đã vạch trần " nhân tính " của người Trung Quốc, " Hậu hắc " đã tố giác cái " quan tính " của người Trung Quốc, thì " Hũ tương " tựa hồ như gốc gác của hai thứ trên. Tại sao có " A Q " ? Chính do cái " Hũ tương " mà ra !
Thế thì cái " Hũ tương " đây là gì, và có gì ở trong đó ? Ðịnh nghĩa của ông Bá Dương như sau :
" Một xã hội hỗn độn bị sâu ruỗng và tù hãm, lại bị loại chính trị nô tài thao túng, đạo đức què quặt, nhân sinh quan cá nhân, đồng tiền và thế lực làm vua. Một xã hội như thế làm cho linh tính con người chỉ có xơ cứng và tiêu tan đi thôi ".
Ông Bá Dương còn nói tất cả các thứ trong hũ tương ấy lại đẻ ra những hiện tượng khác như : " sự sùng bái quyền thế một cách mù quáng ", " tính ích kỷ chắc như gông cùm ", " ngôn ngữ bịp bợm ", " mê đắm những xác chết ", " bất hợp tác ", " tàn nhẫn và đố kỵ một cách lạnh lùng, trắng trợn ", " làm phách và ngớ ngẩn ".
Trước khi nói về những sản phẩm của hũ tương, tôi xin được nói thêm vài câu, vì một khi tràng giang đại hải về hũ tương rồi sợ không thể quay trở lại được nữa.
Một số người yêu nước nghĩ rằng Trung Quốc phải giầu mạnh. Không ai có thể phủ nhận điều đó. Nhưng làm thế nào để giàu mạnh mới là vấn đề. Chẳng lẽ cứ phô trương cái sẹo của tổ tiên ra ? Cứ trách cứ tổ tiên phỏng có ích gì ? Chẳng lẽ cứ trách cứ tổ tiên cho đã đời, rồi thì quốc gia sẽ giầu mạnh lên chăng ?
Tôi cho rằng làm như thế không phải là thượng sách. Dân tộc Trung Quốc là một dân tộc bị " bệnh ", năm tháng càng dài thì bệnh càng nặng.
Cái bệnh này bắt nguồn từ thời Hán Vũ Ðế sùng đạo Nho, lại càng bị nặng thêm với những thứ kỳ quặc như khoa cử, như Lý học thời Minh, Tống, làm cho dân tộc Trung Quốc hầu như bị tiêu tan hết linh tính, chỉ còn thoi thóp sống mà thôi.
Những đối thủ ngày trước như Hung - Nô, Ðột - Quyết, Khiết - Ðan, Tây - Hạ thực ra có một nền tảng văn hóa quá thấp, nên không tránh khỏi bị Hán hóa. Ngay cả sau này Mông Cổ và Mãn Thanh chỉ chinh phục được chúng ta trên mặt võ lực, còn trên mặt văn hóa lại bị chúng ta chinh phục lại. Những chiến thắng về văn hóa này làm cho chúng ta vốn mắc bệnh mà không hề biết.
Cho đến khi nhà Thanh bị ép buộc phải mở cửa cho Tây phương chúng ta mới gặp phải đối thủ lợi hại mà chúng ta chưa bao giờ gặp trước kia. Lúc đó, cái trạng thái bệnh tật nọ mới bị lộ tẩy ra ngoài.
Một dân tộc mắc " bệnh " cũng giống như một cá nhân, nếu không chữa cho hết bệnh thì không có cách nào khá lên được. Dù dân chủ, dù khoa học, mà ngay cả đến những thứ thuốc bổ nhất thiên hạ cũng chẳng có ích gì cho một người bị bệnh đường ruột và dạ dày quá nặng.
Muốn chữa được bệnh trước hết phải tìm cho ra " căn bệnh ". Không thể vì sợ thuốc hoặc sợ đau mà giấu bệnh được. Nếu cần, dẫu phải cưa tay cưa chân cũng kiên quyết làm, dù phải cắt bỏ dạ dày, thay thận cũng không tiếc. Cần phải có cái dũng khí như thế mới có khả năng cải tử hoàn sinh được. Vấn đề cốt lõi ở đây là phải khiêm tốn kiểm thảo căn bệnh văn hóa lâu đời này.
" Căn bệnh " này của dân tộc Trung Quốc xét cho cùng là gì ? Lỗ Tấn, Lý Tông Ngô, Bá Dương,... trước sau đều đã chỉ rõ. Nhưng " thuốc thang " thế nào cho khỏi ? Vấn đề trị bệnh này còn lớn hơn việc nêu rõ tên bệnh, song cơ hồ các vị đó chưa thấy ai đề cập đến cho chúng ta. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ ta có thể thấy cái " ý tại ngôn ngoại " của họ. Dường như trước tiên họ muốn chúng ta cùng tham khảo để thấy rõ từng chứng bệnh một, liệt kê ra từng nguyên nhân của căn bệnh. Ðể rồi sau đó người Trung Quốc - những ai còn biết suy nghĩ - từng người một nhìn vào những bệnh chứng này mà suy xét, cái nào xấu thì bỏ đi, cái nào không xấu thì giữ lại.
Nếu những người có lòng này càng ngày nhiều, " cái bỏ đi " và " cái giữ lại " càng ngày càng lớn. Như thế, tất chẳng mấy chốc cái bệnh lâu đời đó của dân tộc Trung Quốc sẽ không thuốc mà tự lành. Cái này có lẽ sẽ dính dáng đến vấn đề " biết dễ, làm khó " hoặc " biết khó, làm dễ " mà ở đây chúng ta không bàn đến.
Trong bài " Ðến chết không nhận lỗi " (ở tập " Ðập vỡ hũ tương ") có đoạn như sau:
" Có kẻ cho rằng người Trung Quốc bản thân không xứng đáng, cho nên mới để cho nước nhà ra nông nỗi này. Không những không biết tự trách móc mình, mà trái lại, họ còn tức tối, đi trách cứ tổ tiên cái này không đúng, cái nọ không đúng, làm họ phải chịu hậu quả. Thay vì xây dựng một giang sơn tốt đẹp để họ được hưởng phúc lộc thì tổ tiên để lại cho họ một đất nước như thế ".
Ðối với cách nói ấy, ông Bá Dương đã trả lời :
" Ðiều này chả khác chuyện cha với con. Nếu con khá giả, thông minh linh lợi, học qua được đại học, thế mà đời lại hỏng thì đương nhiên không thể trách cứ được bố nó ; mà nó chỉ có thể tự trách mình không xứng đáng. Nhưng nếu như đứa con từ khi sinh ra đã bị vi trùng lậu làm cho hỏng mắt, lại bị di truyền làm cho dở điên dở khùng, ngớ ngớ ngẩn ngẩn, lang thang đầu đường xó chợ xin ăn kiếm sống thì cái trách nhiệm của nó quá nhỏ. Nếu nó có mở mồm trách bố nó tại sao lại mắc bệnh phong tình, trách mẹ nó vì sao không chữa khỏi bệnh đi, thì chúng ta cũng không thể nhẫn tâm bắt nó im mồm được ".
Các sản phẩm của cái hũ tương mà ông Bá Dương đã nói đương nhiên không nhất thiết cái nào cũng hoàn toàn đúng, nhưng ít nhất cũng có một phần không sai. Văn chương ông Bá Dương xưa nay vốn mạch lạc phân minh, chỉ tiếc lúc nói về những sản phẩm hũ tương, hành văn lại hơi lộn xộn, có lúc lung tung lạc đề. Lúc thì vụt một cái lộn trở lại, lúc vụt một cái lại phóng đi.
Chúng tôi xin trích một phần giới thiệu nhỏ dưới đây - đã qua một lần chỉnh lại theo nguyên tắc giữ đúng nguyên ý tác giả - để người đọc đối chiếu với nguyên văn làm bằng chứng :
Sản phẩm đầu tiên của hũ tương là sự sùng bái quyền thế một cách điên cuồng. Ở Trung Quốc thời cổ, người có quyền thế tối cao là Hoàng đế. Ðối với ông ta những nguyên tắc luân lý đều vô nghĩa. Thân thuộc nhánh bên (không phải trực hệ) ở trước mặt Hoàng đế bất quá chỉ là " thần ", là " nô tài ", (Ví phỏng Hoàng đế đã được tấn phong, cho dù là bố mẹ cũng không được là ngoại lệ). Ðối với cái thứ tính cách oái oăm trái với luân lý này (quan tính lớn hơn nhân tính), một loại đạo đức dị hình, không những không ai phản đối mà còn cho là ý trời, nghĩa đất.
Về mặt hoang dâm trong đời sống cung đình thì những Hoàng đế Tây phương còn phải kém xa. Chưa cần bàn đến cái " Ba nghìn người đẹp trong hậu cung " của thời Ðường, ngay thời Chu vương triều, thiên tử có thể có tới 121 bà vợ một cách hợp pháp.
Theo " Nội tắc " trong " Lễ ký " chỉ để sắp xếp cho chu tất chương trình hàng ngày của cái việc " điên loan đảo phụng ", sao cho cả hơn trăm bà đều được thấm đượm ơn mưa móc của nhà vua cũng đã là một điều khổ tâm rồi; chưa kể những chuyện ghen tuông tranh giành giữa các bà.
Tất cả các ông thánh đối với mấy việc này không những không phản đối, mà họ còn biến các loại " dâm đồ " này thành thiên tử thánh thần, biến cái kiểu " chơi loạn chơi tạp " này thành ra phép tắc chính thức của quốc gia, xã hội. Vì vậy Bá Dương cho rằng :
Thánh nhân không những chỉ hùa theo mà còn là đầu sỏ, cùng phạm tội với những kẻ có quyền và bọn dâm đồ. Quyền lực nào khác xăng dầu, thánh nhân không những không tìm cách đề phòng sự dễ cháy của nó mà lại còn châm lửa thì khi nó bốc lên làm sao mà dập được ?
Bá Dương cho là quyền lực của Hoàng đế Tây phương luôn luôn bị thành phần trí thức giới hạn, giám sát. Nhưng ở Trung Quốc thì các ông thánh lại vì phe nắm quyền mà phát minh ra thứ triết học kỳ quặc kiểu như sau :
" Khắp dưới gầm trời không có chỗ nào không là đất của nhà vua. Tất cả các kẻ sĩ trong thiên hạ có kẻ nào mà không phải là tôi của nhà vua ". Thì ra, sinh mạng tài sản của nhân dân đều do cái tên " đại dâm đồ " đó ban cho. Chẳng trách cái thằng chơi gái thứ dữ đó cứ muốn làm gì thì làm.
Khi sự tôn sùng quyền thế là nền tảng của 5.000 năm văn hóa truyền thống thì cái quan hệ giữa người và người chỉ có sự " kính và sợ ", còn sự " thương yêu " thì không đáng kể. Cái gọi là " nhân " chỉ là thứ tìm thấy trong sách vở, khó mà gặp được trong hành động. Vả lại, chữ " nhân " này tựa hồ không có tính cách bình đẳng của hai bên cùng được lợi.
Sùng bái quyền thế một cách tuyệt đối đưa đến một nền chính trị nô tài và cái đạo đức dị hình, không còn tiêu chuẩn về thị phi, chỉ còn cái tiêu chuẩn vụ lợi bất kể phải trái. Chỉ còn một con đường là tiền tài, phú quý, công danh. Mọi người đều phải gọt đầu cho nhọn để liều mạng chui vào chỗ quan trường. Chỉ cần tôi có thể làm quan thì bắt tôi làm gì tôi cũng làm.
Như Ðào Uyên Minh - không vì năm hộc thóc mà uốn cong lưng - thì có được mấy người ?
" Mười năm tân khổ " chẳng vì nghiên cứu phát minh, chẳng vì viết sách lập thuyết, chẳng vì bôn ba cách mạng, mà chỉ vì " một ngày thành danh ". " Thành danh " ở đây có nghĩa là làm quan vậy.
Xưa nay, việc làm quan hấp dẫn người ta như điên cuồng cũng bởi vì:
1- Có quyền trong tay, dù ở cấp bực nào (tùy quan lớn nhỏ) cũng muốn gì được nấy.
2- Ðược mọi người sùng bái.
3- Học vấn trở thành uyên bác (Ðối với người Tây phương : tri thức là quyền lực. Ðối với người Trung Quốc : quyền lực là tri thức).
4- Tài sản được gia tăng (Người Tây phương lấy buôn bán làm nguồn gốc của sự giàu sang. Người Trung Quốc trọng sĩ, khinh thương; lại bị ảnh hưởng của cái " Hà tất viết lợi " của Mạnh Tử).
Sở dĩ mồm không nói đến lợi, nhưng trong bụng lại nghĩ đến lợi một cách sống chết, vì thế mới làm quan để vơ vét. Chuyện tên đạo tặc khét tiếng Trịnh Chúng đời Nam Tống, sau khi quy hàng được bổ làm quan, bị đồng liêu coi rẻ, y tức mình bèn có thơ rằng :
" Các vị làm quan để ăn trộm,
Trịnh Chúng ăn trộm mới làm quan ! "(Các vị tố quan hựu tố tặc,
Trịnh Chúng tố tăẽc tài tố quan)Ðúng là một câu nói toạc móng heo cái việc làm quan !
Tôn thờ quyền thế quá độ - không cần nói đến trường hợp chính trị, học thuật - ngay cả đến tình hữu nghị giữa người với người cũng biến chất, biến thành thiển cận, thành thế lợi.
Nhà văn Ðài Loan nổi tiếng Bá Dương đang đến thăm nước Mỹ, trong bài diễn thuyết hôm qua tại đây ông có nói rằng dân tộc Trung Quốc sở dĩ ngã một lần mà không dậy được nữa chủ yếu vì cái tính " đến chết cũng không nhận lỗi ". Làm sao sửa chữa cái bệnh đến chết cũng không nhận lỗi
Xã luận đăng trong tờ " Tin nhanh tiếng Hoa ",
New York, ngày 12 tháng 8 năm 1981.Cách nhìn này của ông Bá Dương tuy chỉ là một sự thực hiển nhiên - không phải một phát hiện gì mới - nhưng không phải vì thế mà không là một phán đoán rất sâu sắc.
Chúng ta hãy thử nghĩ xem : những chính sách lừa nước hại dân, khư khư cố chấp của mấy chục năm gần đây ở Trung Quốc có phải vì cái tính đến chết cũng không nhận lỗi ấy mà ra sao ? Cứ cho dù không phải hoàn toàn đúng như thế, nhưng trên thực tế cũng chẳng sai là bao nhiêu.
Và nếu ta nhìn rộng ra thì việc giữ thể diện, việc đến chết không nhận lỗi cũng chỉ là bản tính thông thường của toàn nhân loại, là khuyết điểm của tất cả các dân tộc và cộng đồng.
Kinh thánh của đạo Cơ đốc nói mỗi người có hai cái túi. Cái túi đằng trước chứa các lỗi lầm của kẻ khác, cái túi đằng sau lưng chứa lỗi lầm của mình.
Nói cách khác, con người ta chỉ thích nói đến những chỗ không hay của kẻ khác mà không thích nói thật về cái sai của mình. Từ 2.000 năm trước cũng đã thế rồi, đến chết không nhận lỗi đã là cái bệnh chung của con người chứ không cứ chỉ của riêng người Trung Quốc.
Cái tính của con người vốn đều như vậy. Nhưng sao các quốc gia phương Tây lại bỗng tiến bộ vượt bậc về các mặt chính trị kinh tế, văn hóa, còn người Trung Quốc lại như thế ? Có gì mâu thuẫn ở đây chăng ?
Theo ý tôi câu trả lời cho việc này có liên quan đến vấn đề chế độ chính trị.
Nếu mỗi người đều có hai cái túi, cái đằng trước đựng các lỗi lầm của người, cái đằng sau đựng các lỗi lầm của mình, thì mỗi người đúng ra phải đem những cái gì trong cái túi ở sau lưng mình mà bỏ vào cái túi ở đằng trước của người khác để có thể xem cho tỏ tường.
Vì nếu như mọi người đều đồng ý mở cái túi ở đằng trước mình, công bố toàn bộ tất cả, thì những cái sai lầm trong cái túi ở đằng sau của mọi người tất nhiên cũng phải lộ ra, không có cách gì dấu được, chối được.
Chế độ này gọi là tự do ngôn luận, chính nó là dân chủ.
Tự do ngôn luận, dân chủ là một thứ linh đan rất hiệu nghiệm để chữa chứng bệnh " Ðến chết cũng không nhận lỗi ". Trái lại, nếu không có dân chủ, kẻ có quyền thế sẽ bịt mồm những kẻ thấp cổ bé họng; bọn có quyền thế lúc ấy chỉ nhìn thấy cái túi của bọn không có quyền kia ở trước mặt chúng mà thôi. Còn bọn chúng lại bịt kín cái túi chứa lỗi lầm của chúng lại.
Không được nói đến, các lỗi lầm của những kẻ nắm quyền sẽ vĩnh viễn không lộ ra ngoài, và vì thế cũng không bao giờ có cơ hội để được sửa sai. Cho đến lúc cái sai lầm này trở thành quá lớn thì toàn bộ xã hội sẽ mắc phải tai ương.
Các quốc gia Tây phương có sai lầm không ? Ðương nhiên là có, và nhiều cái sai lầm cũng chẳng phải nhỏ gì.
Ví dụ sự bóc lột giai cấp thợ thuyền trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, sự áp bức các dân tộc bị trị dưới chế độ thuộc địa trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa đế quốc. Ðó đều là những lỗi lầm to lớn.
Nhưng vì họ có dân chủ nên không đi bịt mồm mọi người. Vì vậy ngay tại Luân Ðôn, Các-Mác vẫn có thể mở Ðại hội Cộng sản Quốc tế đầu tiên, phát biểu Tuyên ngôn Cộng sản mà không bị cấm đoán - đó là một dẫn chứng không thể phản bác.
Cho nên, dưới các chế độ tự do dân chủ, những lỗi lầm của họ không ngừng được đưa ra ánh sáng, và nhờ thế không ngừng được sửa sai. - Quốc hội được thành lập, các pháp chế bảo vệ quyền lợi công nhân đã ra đời, đời sống công nhân được cải thiện rất nhiều. Sau đó, những bài học của hai trận Ðại chiến Thế giới cũng đã đưa đến cơ hội độc lập cho các thuộc địa.
Khổng Tử tán dương vua Vũ rằng : " Văn quá tắc hỷ " (Nghe được lỗi lầm của mình thì rất mừng) ; lại nói : " Thánh nhân chi quá, như nhật nguyệt kinh thiên " (Sự sai lầm của thánh nhân như mặt trời và mặt trăng đi qua trên bầu trời), ý nói những người bình thường, vì khác với thánh nhân, mới đi dấu diếm những lỗi lầm của mình.
Khổng Tử tuy hy vọng mỗi người bình thường đều trở thành thánh nhân, nhưng lại không hề đưa ra được phương pháp tu thân cụ thể nào khả dĩ áp dụng được trong thực tế để đạt đến mục đích.
Trong khi đó, người phương Tây lại nghĩ ra cách dùng chế độ dân chủ biến mỗi người làm chính trị trở thành một ông thánh, hoặc ít nhất cũng có khả năng trở thành ông thánh trong việc xử lý những sai lầm của mình khi nắm quyền. -
Vì " Như mặt trời và mặt trăng đi qua trên bầu trời ", tất cả mọi người ai cũng đều nhìn thấy, nên không thể nào có sai lầm mà không chịu sửa chữa. Cứ thử nghĩ cho kỹ ta sẽ thấy cái công dụng của chế độ này to lớn là nhường nào !
Từ chuyện này chúng ta có thể rút ra một kết luận : Nếu chúng ta muốn mỗi người đều tự giác nhận lỗi của mình, dù chẳng phải để trở thành thánh cả, thì chỉ có một phương pháp duy nhất là thực hành dân chủ.
Dân chủ làm cho mỗi người không thể dấu diếm lỗi lầm của mình, tự nhiên có thể sửa đổi được cái tính " Ðến chết cũng không nhận lỗi " kia.
Cho nên nếu hỏi Trung Quốc cần gì, cầu gì, thì chỉ có một thứ duy nhất mà thôi, đó là dân chủ.
Nhân bài diễn thuyết của ông Bá Dương về việc người Trung Quốc " đến chết cũng không nhận lỗi ", hôm qua trong mục xã luận chúng tôi đã nói rõ là để sửa chữa chứng bệnh này chúng ta không nên hy vọng vào sự " tự mình tỉnh ngộ " nơi mỗi cá nhân con người. Năng lực suy luận bị trục trặc
Xã luận, trong tờ " Tin nhanh tiếng Hoa ",
New York, ngày 13 tháng 8 năm 1981Kỳ vọng vào sự tỉnh ngộ của một cá nhân chẳng khác nào như bảo rằng : " Mọi người ai cũng là Nghiêu Thuấn cả ! " Ðó là chuyện nằm mơ giữa ban ngày.
Chúng ta chỉ có thể sửa đổi chế độ chính trị, dùng áp lực của chế độ bắt những người không tự nguyện sửa đổi lỗi lầm không còn đường tránh né, không sửa không được. Chỉ có cách giải quyết đó mới thích đáng.
Nói đến những khuyết điểm của người Trung Quốc, chúng ta lại liên tưởng tới một vấn đề khác, đó là cái lô-gíc của người Trung Quốc. Có thể nói so với cái lô-gíc của người phương Tây thì cái lô-gíc của người Trung Quốc kém hẳn một bậc.
Mỗi một dân tộc đều có cái ưu và khuyết điểm của nó. Cái năng lực về trực giác của người Trung Quốc có thể nói là đứng vào hạng nhất thế giới, Tây phương cũng không thể sánh kịp. Ðiều này thật rõ qua những phát minh ra la-bàn (Kim chỉ Nam), thuốc súng, v.v...
Người Trung Quốc bằng trực giác đã có thể tìm ra những thứ này trước bất kỳ quốc gia nào cả vài trăm năm hoặc cả nghìn năm. Nhưng người Trung Quốc vẫn chưa từng sáng tạo được khoa luận lý học. Vì vậy, tuy chế tạo ra la-bàn, thuốc súng, nhưng lại chẳng hiểu gì về nguyên lý khoa học của chúng. Thậm chí ngay đến cả thời nay Trung Quốc cũng không có khoa lô-gíc học như một bộ môn khoa học. Thế mà Tây phương từ rất sớm - ở thời đại A-ri-xtốt - đã tìm ra những nguyên lý của lô-gíc học và sử dụng nó như một công cụ.
Ông Bá Dương đơn cử những ví dụ để nói lên chuyện người Trung Quốc đến chết cũng không nhận lỗi. Kỳ thực người Trung Quốc đã thấy tầm quan trọng của điều này từ lâu rồi. Hơn 2.000 năm trước Khổng Tử đã thành khẩn khuyên răn : " Quá như năng cải, thiện mạc đại yên " (Không có việc gì lớn lao hơn là biết sửa chữa lỗi lầm của mình). Nhưng phương pháp mà Khổng Tử đề xuất là mỗi người phải học theo Nghiêu Thuấn, đó là một phương pháp giải quyết bằng trực giác.
Ðương nhiên, nếu mọi người đều có thể biến thành Nghiêu Thuấn thì còn gì bằng. Nhưng đáng tiếc rằng sự thực lại không thể nào như thế được. Cho nên cái phương pháp biến mọi người thành Nghiêu Thuấn rốt cuộc chẳng khác nào là không có phương pháp. Kết quả là sau 2.000 năm đề xướng cũng đã chẳng biến được thêm một kẻ nào thành Nghiêu Thuấn cả.
Nếu người Trung Quốc biết vận dụng lô-gíc để suy nghĩ thì đã tìm ra được chế độ dân chủ từ lâu, đã dùng được tự do ngôn luận để sửa đổi những lầm lạc của các kẻ thống trị.
Dưới chế độ dân chủ của nước Mỹ, Nixon phạm một cái lỗi nhỏ là muốn ăn cắp các văn kiện của đảng đối lập, kết quả bị tờ Bưu báo Hoa-Thịnh-Ðốn (Washington Post) tố giác, muốn che đậy mà không che đậy nổi, rốt cuộc buộc phải từ chức Tổng Thống. Cho nên dưới chế độ dân chủ không có cách nào giấu được những sai lầm, có lỗi tất phải chịu trách nhiệm, không sửa chữa không được.
Ngược lại, ở Trung Quốc lục địa dưới chế độ độc đảng chuyên chế, trận động đất lớn tại Ðường Sơn (1976) phải đến bao nhiêu năm sau này chúng ta mới biết được đã có bao nhiêu người bị thiệt mạng !
Trong tai vạ mười năm do bọn " Tứ nhân bang " (Bè lũ bốn tên) gây ra, số người chết oan trong toàn quốc có đến bao nhiêu triệu. Nếu bọn " Tứ nhân bang " không bị tan rã và bị xử tội, có lẽ đến ngày hôm nay chúng ta vẫn còn bị lừa bịp bởi cái " Bất đoạn đấu tranh luận " (Thuyết đấu tranh không ngừng) do Mao Trạch Ðông nghĩ ra và nói rằng dùng nó để xây dựng thiên đường cho nhân dân Trung Quốc.
Những chế độ không dân chủ, tức không có chân lý, tức không thể sửa đổi lỗi lầm, điều này chẳng phải đã rõ như ban ngày ư ?
Thế mà cho đến hôm nay vẫn còn nhiều người Trung Quốc tin rằng những kẻ thống trị sẽ tự động biến thành Nghiêu Thuấn, không cần có quyền lực khác để chế ngự và xét đoán, không cần có dân chủ để giám sát, lại cũng không cần có cả tự do ngôn luận để tố cáo !
Ðiều này chẳng phải đã chứng minh rằng người Trung Quốc không có một tý gì đầu óc lô-gíc ư ? Bất cứ kẻ thống trị nào cũng đều ghét cay ghét đắng dân chủ, bởi vì nếu có dân chủ tức thì họ sẽ bị dân chủ tước bỏ tất cả những đặc quyền.
Ðiều kỳ quái là ở Trung Quốc có nhiều kẻ cũng hùa theo tập đoàn thống trị mà rêu rao rằng : " Dân chủ Tây phương là dân chủ của giai cấp tư sản, đó là một chế độ phản động " ; mà nghịch lý thay những kẻ bị thống trị này lại chẳng có gì để mất vì chế độ dân chủ, cái đầu óc lý luận của họ quả tình bị trục trặc gì đó.
Ðiều này là một khuyết điểm rất đáng lo ngại của người Trung Quốc chúng ta.
Nhảy ra khỏi hũ tương Ông Bá Dương, nhà phê bình xã hội rất nổi tiếng ở Ðài Loan một thời, có một ngòi bút hài hước chứa chất chua cay; cơn thịnh nộ và lời chửi mắng của ông thường bắt người ta suy nghĩ và lo âu.Xã luận trong " Bắc Mỹ nhật báo ",
New York, ngày 24 tháng 8 năm 1981.Văn ông tiêu biểu cho loại văn phê bình ra đời sau khi Trung Quốc thoát khỏi ách của thời đế chế. Ông từng ngồi tù mười năm - có thể nói đấy cũng là vận mệnh của một nhà phê bình xã hội giữa thời văn hóa và chính trị chưa chuyển mình.
Hãy xếp lại một bên cảnh ngộ của ông, và mặc dù có thể làm cho những người yêu quý ông mếch lòng, chúng ta hãy từ góc độ lịch sử thử bình luận về những phương thức lập luận của ông trong bối cảnh phê bình xã hội Trung Quốc cận đại xem nó như thế nào.
Hôm trước ông Bá Dương lấy đề tài là: " Người Trung Quốc và cái hũ tương " để diễn giảng tại New York. Ðương nhiên " Hũ tương " không phải là một khái niệm duy nhất mà ông nghĩ ra, nhưng vì từ trước đến nay ông vẫn dùng nó để giải thích những hiện tượng bệnh hoạn của xã hội Trung Quốc, nên ở đây chúng tôi mới lấy nó làm đối tượng.
" Hũ tương " được dùng làm một phép ẩn dụ tuyệt vời. Bởi vì đó là một hình tượng rất gần gũi đời thường, làm cho thoáng một cái, trong lòng, trước mắt, mọi người ai cũng có thể hình dung được cái xấu xa về tình trạng nhiều bệnh tật của xã hội Trung Quốc. Sự thực đây cũng là cái chức năng cơ bản của các nhà tư tưởng : đề xuất ra những khái niệm để cho mọi người có thể tìm thấy được ý nghĩa trong cái phức tạp rối ren.
Về phương diện này ông Bá Dương đã góp phần mở mang dân trí, cái công ấy không phải nhỏ. Ðiều chúng tôi muốn nói là : Cái loại khái niệm này có công dụng nêu lên những hiện tượng xã hội làm tiêu đề nhưng không giải thích được chúng. Nghĩa là thế nào ?
Hãy lấy một ví dụ : Nếu ta tìm thấy một tương quan giữa hiện tượng phân phối của cải, tài sản trong xã hội Trung Quốc với các hiện tượng thuộc về " hũ tương " kia, tất có thể dùng sự phân phối tài sản này để " giải thích " những hiện tượng xã hội nọ.
Hơn nữa chúng ta có thể suy ra rằng chính sách thuế má và chế độ tài chính có thể uốn nắn các hiện tượng " hũ tương " này. Nhất là khi một số ít người kiểm soát sự phân phối tài sản trong một cơ quan (bằng hình thức lương bổng chẳng hạn) thì tất yếu sẽ đưa đến những sự chui luồn, đấu đá ở trong đó.
Nếu không nhìn thấy được cái tương quan giữa phương thức phân phối của cải và hiện tượng chui luồn thì mặc dù nhiều người " ý thức " được những hội chứng " hũ tương " một cách chung chung, nhưng các hành vi " hũ tương " đặc thù này e rằng vẫn bị xem như chỉ giới hạn trong sự chia của cải thôi và như vậy sẽ không thể nào sửa đổi được.
Ðương nhiên, sự phân phối của cải chỉ là một ví dụ, những tiến trình bầu cử, tố tụng,v.v... đều có thể lấy ra làm các ví dụ khác.
Ở đây không bàn đến giá trị văn chương, chỉ nói đến ý nghĩa xã hội, thì trong vòng 100 năm nay ở Trung Quốc, tất cả các ông tiến sĩ chính trị học, xã hội học cũng chỉ đáng xách dép cho ông Bá Dương trong việc làm cho nhân dân ý thức được các thói hư tật xấu của xã hội Trung Quốc.
Trong quá trình cải thiện cách cư xử của người Trung Quốc chúng tôi chỉ hy vọng mọi người phân biệt được hai điểm : Một mặt làm sao kêu gọi được ý thức của từng cá nhân, và một mặt là khơi dậy ý thức xã hội, một thứ ý thức vượt lên trên vương quốc cá nhân.
Vì chủ yếu nhắm vào ý thức cá nhân, nên ông Bá Dương không tránh khỏi bị mỉa mai, chê cười, chửi bới từ mọi phía.
Nhưng dù sao đi nữa, cái đóng góp của ông vào sự nghiệp xây dựng dân tộc Trung Quốc đã vượt xa hơn hàng vạn lần các vị được gọi là " học giả ".
Ðọc báo thấy tin ông Bá Dương viếng nước Mỹ, tôi rất cảm thương cho những gì ông đã trải qua. Bây giờ ông có thể sang đây, những người quan tâm đến ông không khỏi lấy làm mừng. Vì không ít người vẫn kỳ vọng nơi ông, mong ông có thể soi sáng phần nào những ưu tư của người Trung Quốc hôm nay. Cần dấu cái ác phô trương cái thiện, đừng tự hạ mình,
Kiến nghị và phê bình đối với ông Bá Dương.Từ Cẩn
" Hoa Kiều Nhật báo ", New York, ngày 11 tháng 9 năm 1981Ông đến đây, lại vẫn cường điệu về cái gọi là " văn hóa hũ tương ". Cái văn hóa 5.000 năm của Trung Quốc khai sáng từ Ðường tông, Tống tổ bỗng bị ông sổ toẹt và vứt vào đống rác, làm cho lòng tin và kiêu ngạo về văn hóa của chúng ta bỗng như bị dội một gáo nước lạnh. Lời nói của ông Bá Dương tôi tin rằng nó được thốt từ trong đáy lòng và dựa trên những kinh nghiệm đau thương của bản thân ông. Nhưng với địa vị trên văn đàn của ông hôm nay - nhất là trong lúc ông có thể ảnh hưởng đến không ít người - thì ông không thể nào trắng trợn đùa cợt chửi bới lung tung được. Cho nên đối với cái lý luận " hũ tương " của ông lần này tôi muốn đóng góp một vài lời phê bình không ác ý.
Ông Bá Dương không những chỉ tạt nước lạnh vào bao người, đả kích lòng tự tôn về văn hóa của bản thân chúng ta, mà lại còn giơ ra trước mặt người nước ngoài những thứ như hoạn quan, bó chân để họ cười vào mũi chúng ta nữa.
Thực chất cách nhìn của ông Bá Dương là một cách nhìn cực đoan nên mới hiểu lầm rằng hoạn quan, bó chân là những khuyết tật văn hóa. Thật ra những thứ ấy chỉ là những hành vi tàn khốc, bắt nguồn từ dục vọng cá nhân của các hôn quân độc tài, chuyên chế, hoàn toàn không thuộc về nền văn hóa chân chính của Trung Quốc.
Lấy một ví dụ: hậu thế vẫn cho rằng các luật thơ của Ðường thi gò bó thơ ca. Nhưng thơ của người đời Ðường sinh động, tự nhiên ; luật thơ Ðường được hình thành dựa trên ngôn ngữ và mức độ văn tự của thời đại nó. Ðó là một tinh thần thơ chân chính, chủ trương tự nhiên và sáng tạo. Người đời Ðường không hề cần hậu thế lấy luật thơ của họ làm chuẩn. Chỉ vì hậu thế bỏ gốc lấy ngọn mà cho rằng nó gò bó.
Lại dựa vào thói quen trong cuộc sống mà nói thì cái áo " kỳ bào " là một thứ phục trang của dân tộc Mãn, vốn yêu kiều, đẹp đẽ. Nhưng cái " kỳ bào " đời nay lại bó người, xẻ cao, chẳng còn được vẻ gì của ngày xưa nữa.
Ðương nhiên chúng ta cũng không thể coi nhẹ tập quán độc ác của tổ tiên như hoạn quan, bó chân, nhưng chúng ta đều biết rằng truyền thống Trung Quốc vẫn có cái đức tính " ẩn ác, dương thiện " (Giấu điều ác, phô trương điều thiện).
Cứ như việc khai phá miền Tây nước Mỹ chẳng hạn, hiện đang được ca tụng như một bộ sử thi về lập nghiệp và phấn đấu, như những truyện cổ đầy tính truyền kỳ và lãng mạn. Nhưng những gì đen tối và tàn khốc của thời ấy - mặc dù về mặt nào đó rất quan trọng - lại bị xóa bỏ đến dấu vết cuối cùng.
Các nhà nghiên cứu Tây phương chân chính không những chỉ ca ngợi mà còn rất thán phục cái đẹp và tinh tế của văn hóa Trung Quốc.
Nhật Bản đã hoàn toàn bắt chước phương Tây từ thời Minh Trị Duy Tân, song từ thời Ê-đô (1600 -1867) trở về trước đối với nền văn hóa Trung Quốc người Nhật lúc nào cũng phục sát đất.
Tinh thần văn hóa cơ bản của nước Nhật chẳng phải đã đến từ Trung Quốc hay sao ?
Một nhà danh họa Nhật thế kỷ thứ XVIII, Tạ Xuân Tinh, không những lấy tên Trung Quốc, vẽ tranh Trung Quốc mà lại còn làm thơ Trung Quốc và được mọi ca tụng là " một người Trung Quốc chính hiệu ".
Mặc dù được ca ngợi như một nước văn minh tiên tiến của thế giới, Nhật Bản ngày nay từ trong nhà ra đến ngõ đều mang dấu vết sâu sắc của ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc. Bây giờ họ tìm cách phân định ranh giới, phủ nhận quan hệ huyết thống với người Trung Quốc, quên hẳn cái khẩu hiệu " đồng văn đồng chủng " (cùng chữ viết, cùng nòi giống) trong thời kỳ Chiến tranh Trung - Nhật. Nhưng dù sao họ cũng không hề dám chối bỏ văn hóa Trung Quốc. Vì lý do gì ?
Nếu là người Trung Quốc, có lẽ chúng ta cũng nên tự hỏi : văn hóa Trung Quốc là cái thứ gì ? Chúng ta hiểu được nó đến đâu ? Tại sao lại cứ đi chà đạp lên cái văn hóa đẹp đẽ thuộc về chúng ta, mà nhất thiết cho rằng cái vận xấu của người Trung Quốc ngày nay là do lỗi của cái " văn hóa hũ tương ". Như vậy có phải là lý luận không ?
Trung Quốc hiện có hơn 800 triệu người (năm 1981 ?). Cái việc cần kíp hiện nay là làm sao cho số người ấy đoàn kết với nhau và có được hạnh phúc. Ngay cả những người Trung Quốc ở Ðài Loan chắc cũng nghĩ như vậy.
Ðể có điều kiện quốc phòng khả dĩ tự vệ được, nhân dân trẻ già lớn bé đều có cơ may được giáo dục, cái duy nhất có thể giúp cho một số đông người đi lên văn minh hiện đại - mà tinh thần vẫn còn có chỗ nương tựa - thì không phải văn hóa Tây phương, cũng không phải văn hóa Nhật Bản có thể làm được, mà chính là cái truyền thống văn hóa cổ xưa của chúng ta. Nó đã tích tụ những kinh nghiệm nhân sinh rất sâu sắc, có những tư tưởng khoa học rất phong phú, có thi ca, văn tự tốt đẹp, lại có cả mỹ thuật, công nghệ, kiến trúc, âm nhạc, trang phục,v.v... muôn mầu muôn vẻ.
Chỉ có văn hóa Trung Quốc mới có thể đưa chúng ta lên con đường văn minh, đưa 800 triệu người Trung Quốc đến con đường hạnh phúc được.
Người Nhật Bản đã dùng qua, đã tìm thấy lợi ích. Người Tây phương cũng đang nghiên cứu học tập nó. Chúng ta - những người thuộc về chính nền văn hóa đó - chúng ta lại lại nỡ lòng nào đi bêu riếu nó. Làm như vậy không những gây nguy hại đến tiền đồ quốc gia đân tộc mà lại còn trở thành lũ cháu con bất hiếu nữa.
Hãy đừng để cho người Nhật Bản nói rằng chỉ có họ mới là con cháu thừa kế chính thức của nền văn hóa Trung Quốc. Chúng ta phải mở to mắt ra mà nhìn cho rõ, suy cho kỹ, phán đoán nhiều, giống như ông Bá Dương bảo cần suy nghĩ, bồi dưỡng năng lực phán đoán chính xác; trước tiên là cho hạnh phúc bản thân mình, sau đó cho hạnh phúc của 800 triệu người Trung Quốc khác .
Tôi vừa được đọc " Người Trung Quốc xấu xí " của ông Bá Dương, cảm thấy trong lòng bực bội không thể không nói ra được. Vương Diệc Lệnh
" Luận Ðàn báo ", Los Angeles, ngày 2/1/1985,
" Bách Tính bán nguyệt san ", Hương Cảng, ngày 16/1/1985,
" Tin Nhanh tiếng Hoa ", New York, ngày 11/2/1985.Một trăm năm trở lại đây người Trung Quốc thật khổ, thật đáng thương, mà tình hình ngày càng tệ hại. Ban đầu, cái khẩu hiệu của Dương Vụ Phái : " Trung học vi thể, Tây học vi dụng " (Học truyền thống Trung Quốc để lấy làm thể chất, học theo Tây phương để làm công dụng) cũng còn có cái gì đó chưa đến nỗi lạc điệu lắm. Ðiều này có tính khả thi hay không thì chưa biết, nhưng nó còn có cái tâm ý muốn duy trì cái " thể chất " Trung Quốc. Về sau, dần dần " thể chất " này cũng không ai cần nữa, chỉ còn lời oán trách tại sao bố mẹ lại cho mình cái đầu tóc đen, cái bộ da vàng, giặt cũng không được, vứt cũng chẳng xong ; rồi ta thán rằng : " Trăng ở nước ngoài tròn hơn trăng Trung Quốc ", và một mực chửi bố, chửi mẹ, chửi tổ tông.
Cái đó gọi là " truyền thống Ngũ Tứ " (Phong trào mồng 4 tháng 5/1919).
Ðó là tình huống của mấy chục năm trước, thế mà so với thời nay vẫn còn khá hơn. Thời đó mới chỉ là trăng nước ngoài tròn hơn chứ chưa đến độ rắm ngoại thơm hơn. Bởi vì thời đó giao thông và thông tin chưa phát triển lắm nên không có cách nào bắt chước nhanh chóng và hiệu quả như thời nay được.
Vì vậy bây giờ, khi người Mỹ tự gọi họ là " xấu xí ", người Nhật tự gọi mình là " xấu xí ", tức thì có ngay người Trung Quốc lăng xăng ra vẻ thông thái, " tràng giang đại hải " viết liền một cuốn " Người Trung Quốc xấu xí ".
Mấy người Trung Quốc cố ý chửi đổng đó đều không phải là cái loại người Trung Quốc thông thường. Vài chục năm trước những phần tử " Ngũ tứ " - mồm hô " đả đảo ", tự xưng là " tiến bộ " - đều tự cho mình là đại văn hào, có trách nhiệm với đất nước. Chúng đội những tên họ giả, và một người trong bọn họ đã thành danh với những quyển "Gia" (nhà),"Xuân ", "Thu" chất chứa mối thâm thù đại hận đối với truyền thống Trung Quốc. (Ám chỉ Ba Kim, nhà văn hiện đại Trung Quốc gốc Mãn Thanh - ND).
Chính họ đã, cố ý hoặc vô tình, làm công tác tuyên truyền mở đường cho sự nhuộm đỏ Trung Quốc sau này bởi Chủ nghĩa Mác.
Những tai vạ của thường dân Trung Quốc hơn 30 năm nay thực ra đã bắt đầu từ loại nhà văn chạy theo mốt này từ 60 năm về trước.
Ngày hôm nay lại chui ra cái ông Bá Dương, tự xưng là một nhà văn yêu quần chúng một cách phi thường để giương cao thêm cái truyền thống " Ngũ tứ ". Trước hết y gào to : " Văn hóa hũ tương ", sau đó là bôi nhọ cái anh chàng " Trung Quốc xấu xí ".
Tôi là người Trung Quốc. Tôi có rất nhiều khuyết điểm và lỗi lầm - thậm chí những lỗi lớn, những lầm lớn - nhưng tôi không hề xấu xa, lại không hề công nhận người Trung Quốc nhất loạt đều xấu xa.
Bá Dương không biết có cho mình là người Trung Quốc không ? Nếu ông còn cho mình là người Trung Quốc, tức phải thừa nhận rằng mình xấu xa, cái đó là tự do của ông ta. Nhưng ông ta không thể lôi kéo người khác đi theo ông ta như thế được.
Tôi không đồng ý với cái quan niệm " Người Trung Quốc xấu xí " này tý nào, nhất là với cái chủ ý và giọng điệu đó, nhưng không phải vì vậy mà tôi cho rằng toàn bộ quyển sách của ông Bá Dương là vô ích. Nó cũng có được vài câu đúng.
Ví dụ như chính Bá Dương đã nhìn nhận như sau :
" Người Trung Quốc có thể nói là một dân tộc thông minh nhất thế giới. Tại Mỹ, mấy người đỗ đầu các đại học thường là người Trung Quốc. Rất nhiều nhà khoa học lớn, kể cả người cha của khoa học nguyên tử Trung Quốc là ông Tôn Quan Hán, những người được giải thưởng Nobel là ông Dương Chấn Ninh, Lý Chính Ðạo đều là những bộ óc hạng nhất.
Người Trung Quốc quả là không phải có phẩm chất xấu. Phẩm chất này có thể đưa Trung Quốc đến được một thế giới lành mạnh và hạnh phúc. Chúng ta có tư cách làm chuyện đó và chúng ta có lý do để tin rằng Trung Quốc có thể trở thành một nước rất tốt đẹp.
Nhưng chúng ta không cần phải cứ muốn quốc gia lớn mạnh. Quốc gia không lớn mạnh thì có can hệ gì? Chỉ cần làm sao cho nhân dân hạnh phúc rồi thì đi tìm một quốc gia lớn mạnh cũng không muộn. "
Ðoạn văn trên tôi cho là rất đúng. Ðặc biệt tôi vô cùng tán thành câu " chỉ cần nhân dân hạnh phúc ". Chỉ tiếc ý chính của cả quyển sách lại không phải là những lời lẽ ngay thẳng này, nó toàn chất chứa những thứ kể tội " người Trung Quốc xấu xa " mà tôi hoàn toàn không đồng ý.
Ðọc hết quyển sách, người đọc có thể tự hỏi : " Thật ra người Trung Quốc có " xấu xa " không ? " Bá Dương đã trả lời một cách vớ vẩn và rườm với một đống ví dụ rút ra từ thực tế nhằm chứng minh người Trung Quốc là " bẩn, loạn, ồn, và hay cấu xé nhau ".
Tôi tin rằng Bá Dương không thể bịa đặt, mà dù ông có đặt chuyện thì ý định của ông là gì ?
Trên thế giới này dân tộc nào, quốc gia nào mà không làm ồn, không cấu xé lẫn nhau ? Người Híp-py Mỹ không bẩn sao? Tầu điện ngầm ở New York không loạn sao ? Trên diễn đàn chính trị Mỹ, Âu, Nhật ồn ào náo nhiệt, sự hục hặc đấu đá lẫn nhau có phải ít đâu ? Có cái xó xỉnh nào lại không có sự cấu xé lẫn nhau ? Cứ theo cái lô-gíc của Bá Dương thì phải đặt cái đầu đề lại cho đúng là " Nhân loại xấu xí ".
Cái việc hoang đường nhất là ngay cả cổ họng của người Trung Quốc có to thật đi nữa thì có gì gọi là xấu xa ? Quả vậy ! Nhập sông tùy khúc, nhập gia tùy tục, phàm người Trung Quốc đến Mỹ - gồm cả bản thân tôi - đều phải sửa đổi cái tập quán nói to của người Trung Quốc, cố gắng bắt chước cách nói của những người có học thức trong giới thượng lưu nhân sĩ Mỹ, nói năng nhỏ nhẹ, thậm chí nói trên đường dây điện thoại chỉ nhỏ như tiếng muỗi. Ðiều này là tất yếu.
Nhưng nếu có người nhất thời không thể sửa đổi được thói quen của mình thì cũng chẳng phải là một tội ác gì ghê gớm lắm. Làm sao lại có thể gọi họ là " xấu xa " được. Ngay ở chỗ này chúng ta cũng có thể thấy rằng ông Bá Dương trong lòng ghét người Trung Quốc đến chừng nào. Và một khi đã ghét mà muốn đổ tội cho người thì có khó gì đâu !
Tại sao một nhà văn tự xưng là " yêu nước thương dân " lại rắp tâm dùng đủ thứ hiện tượng vụn vặt chẳng có đầu cua tai nheo gì để bôi nhọ đồng bào mình ? Tôi không có duyên được gặp vị này, chỉ căn cứ vào bài phỏng vấn ông do nữ sĩ Lý Lê thực hiện. Bà này xem ông là một nhà ái quốc lớn và nói rằng ông có một tấm lòng yêu nước mãnh liệt, ông rất kỳ vọng vào nước nhà, dân tộc.
Nhưng khi ông viết ra tất cả lại là một chuỗi toàn những giận trời, trách người, nguyền rủa không thôi. Cái nguyên nhân căn bản có lẽ vì Bá Dương đã hiểu một cách lệch lạc về văn hóa truyền thống Trung Quốc, nên đã lầm đường lạc lối; có lẽ bị cái " văn hóa hũ tương " do chính ông ta bịa đặt ra mê hoặc tâm trí, bị chính cái " mầm bệnh độc " do ông ta gieo ra làm tê liệt thần kinh của bản thân.
Cái văn hóa " bác đại tinh thông " của Trung Quốc dĩ nhiên có phần vương đạo, nhưng cũng có phần bá đạo, có nhân nghĩa, đạo đức, có trộm cắp, đĩ điếm, có chính tâm thành ý, có phong hoa tuyết nguyệt, bất kỳ phương diện nào cũng đều đạt đến đỉnh cao; trăm thứ bà dằn thứ gì cũng có.
Chẳng cứ nói anh chuyên tìm cái " hũ tương " và " mầm bệnh độc ", chứ thậm chí nếu muốn cố ý tìm cái " hũ cứt " hoặc vi trùng cũng đều có thể tìm thấy. Nếu anh muốn bảo văn hóa Trung Quốc là một hũ cứt đầy vi trùng, thì văn hóa Trung Quốc cũng chẳng thiệt hại gì mà chỉ chứng minh rằng : anh là thằng thối tha không ngửi được đến mức vô phương cứu chữa.
Nếu lấy cùng một bộ " Tư trị thông giám " (xem chú thích của người viết bài này -Vương Diệc Lệnh - ở cuối bài) ra mà bàn, có người đọc xong nó có thể học được cách trị quốc bình thiên hạ. Trong khi đó Mao Trạch Ðông đọc xong thì lại càng hoàn chỉnh hơn những thủ đoạn tẩy não và chôn sống người, có lẽ ngay cả Xta-lin cũng không bì kịp.
Cái văn hóa truyền thống Trung Quốc là như vậy, giống như một lưỡi dao sắc, tùy anh có sử dụng nó hay không, và sử dụng như thế nào. Anh có thể dùng nó để trị bệnh cứu người, cũng có thể dùng nó để giết người. Ðương nhiên cũng có thể dùng nó để tự sát.
Cho nên, bất kỳ ai nếu manh tâm đi tìm cái lưỡi sắc của nó, đi tìm những thứ như " hũ tương ", " mầm bệnh độc ", thì chính người đó sẽ bị mắc bệnh độc chứ không phải văn hóa Trung Quốc.
Tôi xin nói thêm vài điều hơi ngoài lề.
Một trăm năm trở lại đây, vì chính trị Trung Quốc đen tối, nhà văn, trí thức viết lách thường bị tù đày, giết chóc, quản thúc lâu dài, bị chụp mũ. Ðiều đó chứng tỏ rằng những chính quyền tại chức vẫn tự coi mình là trời cao, đất rộng.
Bởi vì mọi người đều thù ghét các chính quyền chuyên chế, nên những cá nhân nào dám công khai thách thức bạo quyền đều được mọi người đồng tình, kính nể. Những kẻ bị tù đày vì lý do chính trị hoặc là nạn nhân của một ý đồ chính trị cũng đều mang một vầng hào quang trên đầu.
Tôi cho rằng không hẳn như vậy hoặc ít nhất cũng không thể nói nhất loạt đều như vậy. Thật ra cũng có một số người bị tù ngục hoặc bị sát hại đáng được tôn kính. Ví dụ như những sứ thần ngày xưa dám can gián hoàng đế mà không sợ bị chém.
Gần đây một số nhà báo không sợ quyền lực dám vạch trần những sự đồi bại của các gia đình quyền quý họ Khổng, họ Tống. Có kẻ bị giết, kẻ ngồi tù, những sự hy sinh của họ đương nhiên có ý nghĩa, có giá trị đáng tôn thờ.
Còn đối với cái nhãn hiệu " liệt sĩ " của Lý Ðại Chiêu và Hồ Giã Tân thì tôi cho là chết cũng không đáng tiếc. Nó chẳng khác gì cái nhãn hiệu " hữu phái " của Vương Diệc Lệnh này, tôi cho rằng đó chỉ là việc tự đi chuốc vạ vào mình.
Tất cả " liệt sĩ " cũng như " hữu phái " ở Trung Quốc chỉ là những sản phẩm đồi bại của các chính phủ độc tài dựng lên. Nhưng nói về bản thân những người bị hại này, đối với cái việc họ bị bức hại thì chỉ có họ là thiệt thòi mà chẳng đem lại được ích lợi gì cho những người đang sống. Nói tóm lại nếu chịu đau khổ mà không đem lại một kết quả gì thì thật là đáng kiếp !
Dựa trên cái đạo lý này, tôi cho rằng ông Bá Dương mở mồm, rồi ngậm miệng, ngồi trong nhà lao hơn 9 năm và không biết lẻ bao ngày, tựa hồ như lao tù là cái đất mạ vàng của ông ta; nhưng cuối cùng tất cả những thứ đó chỉ là một việc thật vô ích !
Nếu nói theo lô-gíc của Bá Dương, thì trên đảo Ðài Loan có một nhà văn còn tài tình hơn Bá Dương. Sau khi ông ta ra tù, cho đến hôm nay ông ta vẫn còn múa bút trên đảo chửi loạn lên, phong độ không khác trước một tý nào, vẫn chửi đến cả 18 đời tổ tông của kẻ khác. Nhưng theo quan điểm của tôi thì điều đó chẳng có gì là ghê gớm hết.
Bất quá anh ta cũng chỉ là một nhà văn vong mạng (hết thời) mà thôi.
Cuối cùng, xin tóm lại một câu : Người Trung Quốc chưa chắc đã xấu, nhưng trong đám người Trung Quốc lại không thiếu những đồ hèn hạ !
***
Chú thích của Vương Diệc Lệnh :
Tôi chưa được đọc quyển " Tư Trị Thông Giám bản của Bá Dương ", mà cũng không thích đọc. Bởi vì tôi tin rằng dùng cái kiểu đánh đổ tất cả, chửi tất cả kiểu " Ngũ Tứ " hay " Hồng Vệ Binh " để diễn giải " Tư Trị Thông Giám " thì sẽ chẳng còn gì là hình dạng của nó.
Tôi cực kỳ thán phục Tư Mã Ôn Công (Tư Mã Quang). Sách của ông dạy dỗ các vua trị nước như thế nào, dậy các quần thần làm việc nước, dậy cho thường dân cách ăn ở, nước có đạo và vô đạo xử sự như thế nào. Ở xã hội như Trung Quốc, nếu nghiên cứu kỹ một chút quyển sách này thì sẽ bổ ích không ít, tối thiểu cũng không đến nỗi bị ngồi nhà lao của Quốc Dân Ðảng hoặc phải đội mũ nhọn [bị đấu tố] của Ðảng Cộng Sản.
Trong báo " Bách tính " kỳ này có một bài văn nhan đề " Người Trung Quốc hèn hạ " của Vương Diệc Lệnh. Sau khi đọc Bá Dương ông này tuyên bố : " Trong lòng tức tối không thể không nói được ". Hồi Tuyên Xứ
" Tín báo ", Hương Cảng, ngày 23/1/1985.
Bài văn mang tính bút chiến này đã công kích Bá Dương một cách thậm tệ. Giọng văn nhuần nhuyễn nhưng văn phong ác liệt, không hề có cái đôn hậu, hòa nhã trong truyền thống tốt đẹp, cao quý của Trung Quốc. Ông ta sử dụng những thứ như " thối không ngửi được ", " vô phương cứu chữa ", " đồ hèn hạ ", " xem lao tù là cái đất mạ vàng ",v.v...Có thể nói thật là khe khắt.
Nếu cái thuyết " người Trung Quốc xấu xí " của ông Bá Dương có cơ sở thì ông Vương qua bài văn này lại bị chính gậy ông đập lưng ông, và không những không phản bác được lý luận của ông Bá Dương mà còn cung cấp thêm bằng chứng cho nó.
Bộ mặt xấu xí của Vương Diệc Lệnh là bộ mặt thật của người Trung Quốc cả nghìn năm nay. Ðó là một bộ mặĩt thiếu vắng phần hài hước.
Bá Dương chửi người Trung Quốc là xấu xí, nhưng có phải vì ông ta làm công tác nghiên cứu nhân chủng học và hy vọng đoạt được giải Nobel không ?
Người viết tạp văn, cốt ý gây ra phản ứng nơi người khác để kích động tranh luận, hoàn toàn khác với các chuyên gia viết có chứng cớ rõ rệt của các ngành học thuật. Người Trung Quốc có xấu xí hay không cũng chẳng quan trọng gì, nhưng có người tức quá, la làng lên, đã tiêu phí không biết bao nhiêu tế bào não, đó mới là điều thật quan trọng.
Cũng cùng trong số " Bách tính " này có bức thư độc giả họ Lương. Ông này sau khi đọc " Người Trung Quốc xấu xí " của Bá Dương đã tỏ vẻ bị xúc động sâu xa, nên buồn bã chán nản mà rơi lệ.
Nhưng theo tôi thấy thì nước mắt của ông này và sự phẫn nộ của ông Vương Diệc Lệnh cũng chỉ là một thứ thằng điếc cười thằng câm.
Cả hai người đều có cái tinh thần của những người theo học thuyết Lão Trang, trong bụng đầy những quan niệm quá ư là siêu thoát. Cho nên họ chưa có thể đọc được những gì ở giữa những hàng chữ của Bá Dương để lĩnh hội ra cái thú vị của hài hước, mà chỉ rơi vào mấy cái ví dụ mỹ miều, sinh động với những lời chú giải hoang đường cổ quái thôi.
Ðọc văn chương Bá Dương thực ra cần có sẵn một ít tinh thần hài hước. Ông ta phá rối, làm trò, đem cái lưỡi dao của trí tuệ se sẽ lấp loáng trước mắt chúng ta. Người đầu óc linh hoạt có thể nắm bắt được tinh túy, những kẻ quá nghiêm nghị, ra vẻ trịnh trọng, thì lại hoàn toàn bị oóc-dơ.
Dân tộc Trung Quốc có một lịch sử lâu đời, làm sao tất cả đều có thể hoàn mỹ không tỳ vết ? Ông Bá Dương tìm những thứ này ra chế diễu, kỳ thực là tự trào, gây ra cho chúng ta một ít tác dụng cảnh tỉnh. Vả lại nói xấu mà không nói đẹp, đó cũng là một cách tự khiêm.
Không hiểu được hài hước lại cho rằng ông ta đi ngoáy dao vào vết thương của mình thì thật là phụ cái lòng đau khổ của Bá Dương. Tuy thế, e rằng Bá Dương cũng không thích gì mấy cái việc người đọc bài mình phải khóc sụt sùi.
Nói tóm lại, dân tộc Trung Quốc là một dân tộc lớn, nói đẹp đẽ thì đẹp đẽ hơn bất cứ dân tộc nào, nói xấu xí thì cũng xấu xí hơn bất cứ dân tộc nào.
Nhưng có lẽ nên nói ra cái xấu vẫn tốt hơn là ca tụng cái đẹp của nó. Nói một cách khác, cho dù có xấu, cũng có cái đẹp của cái xấu chứ !
" Văn minh " và " Văn hóa " là hai khái niệm hay bị nhầm lẫn. Văn minh thật ra là gì ? Còn cái gì gọi là văn hóa ? Ðịnh nghĩa như thế nào ? Thường thường mỗi người mỗi cách. Có cái văn hóa không có văn minh ?
Hồ Cúc Nhân
Báo " Luận đàn ", Los Angeles, ngày 6/2/1985.
Một vài người trí thức Trung Quốc sô-vanh có cách nói rất cổ quái ly kỳ là Tây phương không có văn hóa, chỉ có văn minh. Hoặc xua tay một cách khinh miệt : " Nước Mỹ không có văn hóa ! ", nhưng không hề nghe họ nói nước Mỹ không có văn minh.
Giả sử chúng ta lại hỏi một câu : Trung Quốc có một văn hóa ưu tú, nhưng không có văn minh ư ? Hoặc hỏi : Thế văn minh quan trọng hay văn hóa quan trọng ? Không có văn minh làm sao có văn hóa ?
Kỳ thực văn minh và văn hóa tuy hai mà một, tuy một mà hai, không thể tách rời ra được. Chúng ta có thể nói cái tương quan của chúng như sau : văn minh là sự thể hiện của văn hóa, văn hóa là bà vú nuôi của văn minh.
Văn hóa khi được biểu hiện cụ thể trong sinh hoạt và xã hội, cái đó là văn minh. Lấy một ví dụ giản dị nhất : lễ phép là sự biểu hiện của văn minh. Mà Khổng Tử hệ thống hóa chữ " lễ ", chính đó là văn hóa.
Tại Trung Quốc từ hơn 2.000 năm nay cái nghi lễ của Khổng giáo được thể hiện trong chế độ xã hội, trong lời nói và việc làm, ở sinh hoạt thường ngày của nhân dân cũng như qua dịp lễ tiết quanh năm bốn mùa và những nghi thức khác. Tất cả những cái đó chúng ta phải hiểu là văn minh Trung Quốc. Văn minh chính là cuộc sống.
Nếu chúng ta chấp nhận cách nói này thì người Trung Quốc xem ra rất đáng bị chê cười. Vì ngay cả văn minh Trung Quốc chúng ta cũng không có, nói gì đến có thể có cái thứ xa xỉ là văn hóa. Bởi vì cái văn minh của chúng ta (nếu như có) thì đối với cái văn hóa của chúng ta nó thật không tương ứng tý nào. Vậy làm sao nó thể hiện được cái văn hóa của chúng ta ?
Nói thế có nghĩa là cái mà chúng ta thể hiện trong sinh hoạt hôm nay không phải là các giá trị của văn hóa Trung Quốc mà chỉ là những thứ đến từ văn hóa khác.
Vì vậy văn minh Trung Quốc ngày nay, nếu có nó, thì nó là một thứ con tư sinh mà đối với mẹ nó - văn hóa truyền thống Trung Quốc - không có gì gọi là liên hệ huyết thống nhiều lắm.
Gần đây tôi có đọc tác phẩm mới của ông Bá Dương là " Dẫm lên đuôi nó ", trong đó nói đến ấn tượng của ông khi sang thăm nước Mỹ. Ông thấy rằng nếu so sánh thì người Mỹ lễ phép hơn người Trung Quốc. Ðiều này cũng là ấn tượng của tôi khi đi du lịch ở Mỹ.
Người Trung Quốc so sánh với người Mỹ - những người bình thường trong cuộc sống hàng ngày - thì trở thành những người " nguyên thủy ", " man rợ ", vì chúng ta ngay cả " Cảm ơn ! ", " Xin lỗi ! " đều cũng không biết nói.
Ðiều này hoàn toàn không phải tôi đặt điều. Nhân dân Trung Quốc, về lễ độ - biểu hiện của văn minh - không thể nào sánh được với nhân dân Mỹ, cũng không thể sánh được với Nhật Bản và Nam Hàn.
Nếu không có cái văn minh sinh hoạt cơ bản, làm sao có thể còn huênh hoang được về cái văn hóa của tổ tiên đã bị mai một rồi ?
Không có văn minh làm sao có được văn hóa ?
Cho dù có văn minh thì cũng chỉ là một thứ văn minh lai căng, còn nói cái văn hóa Trung Quốc nào nữa ?
Tại Ðài Loan, những người biết tiếng ông Bá Dương không phải ít. Ngay cả tôi, tuy chưa hề đọc tác phẩm nào của nhà văn này, nhưng vì nghe đồn đại mãi về sự từng trải, cảnh ngộ của ông rồi cũng thành ra biết. Không thể bôi nhọ văn hóa Trung Quốc
Lưu Tiền Mẫn
Báo " Luận Ðàn ", Los Angeles, ngày 6/3/1985.
Hai mươi năm trước Bá Dương viết tạp văn ở Ðài Loan. Thời ấy xã hội Ðài Loan còn là một xã hội đóng kín, khô khan, nhạt nhẽo. Tạp văn của ông đương thời đã là một thang thuốc mát mẻ thích ứng với những lòng người bị ngột ngạt. Chính vì thế tạp văn của ông đã làm ông nổi tiếng.
Nhưng ở đời thường những sự thuận lợi dễ dàng nhiều khi vẫn mang lại cái rủi ro rất lớn. Ông viết rất nhiều, trên trời dưới biển không chuyện gì không động đến, lại không biết che đậy dấu diếm, sao tránh được việc xúc phạm vào vùng đất cấm, vào các húy kỵ của thời đại. Kết quả là sau đó ông bị tống đi Lục Ðảo để đóng cửa nghiền ngẫm sự đời.
Ðến khi được phóng thích, tiếng tăm của ông lại càng lẫy lừng; thừa thắng xông lên, cái ngang ngược của ông lại càng ghê gớm. Chửi bới một nhóm người chưa đã, ông bèn vung roi, phê kim bình cổ. Ngay cả cái văn hóa 5.000 năm của Trung Quốc cũng bị ông đánh tơi bời.
Gần đây tôi được đọc trên báo " Luận Ðàn " bài diễn thuyết của Bá Dương tại Ðại học Iowa (Mỹ) nhan đề " Người Trung Quốc xấu xí " ; đọc xong lòng đầy xúc cảm. Ðúng thế ! Một nước to lớn như Trung Quốc, mà người cứ nghèo, chí cứ thấp, cùng quẫn lâu dài thì sẽ không thể nào thống nhất được mãi, đến lúc nào đó sẽ không khỏi bị tan rã. Ngay ngày hôm nay cũng đã có một bộ phận người Trung Quốc ở ngoài nước vượt được qua trình độ đại học đã không còn thừa nhận mình là người Trung Quốc, và tuyên bố thẳng thừng là chẳng còn gì dính líu đến nước này nữa.
Hiện nay trên thế giới có lẽ ngoài cái loại người như Bá Dương, không có một người dân thường nào ở các quốc gia nghèo khổ, vì nịnh nọt hoặc oán hận lại vội vàng đi bôi nhọ đồng bào và văn hóa mà mình vẫn còn sống nhờ vào đó.
Nhà khoa học lớn người Hy Lạp Ác-Si-Mét có nói : " Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ bẩy được cả quả đất ". Ðại khái Bá Dương cũng mơ tìm được một điểm tựa - cái văn hóa hũ tương của ông - và dùng điểm tựa này để tấn công vào vận mệnh văn hóa của một nước lớn hơn một tỷ người.
Tại những nước giầu có, người dân nói về sự xấu xa của quốc gia mình thì cũng đã có hai quyển sách đã chào đời. Sau Ðệ nhị Thế chiến, có một vị người Mỹ viết một quyển gọi là " Người Mỹ xấu xí ". Một vị khác người Nhật sau đó vài năm cũng vội vàng viết cuốn " Người Nhật xấu xí ". Hai tác giả này cảm thấy người nước mình hoặc vì tính tình kiêu xa, hoặc vì thiếu lễ độ đạo đức, mới viết văn cảnh tỉnh mọi người.
Ðặc biệt để nhấn mạnh những điều không đồng tình, ông tác giả Nhật bất chấp đang ở giữa nhiệm kỳ đại sứ tại nước ngoài, đã cho in luôn. Việc phải đến tất đến, cái hành vi sai trái của một nhân viên nhà nước ấy đã làm ông mất chức. Nhưng qua việc này ta có thể thấy được tấm lòng thành của ông ta đối với đất nước như thế nào.
Tôi đã sống ở Mỹ hơn 10 năm, không lạ gì chuyện người Mỹ khá bận rộn trong cuộc sống thường ngày. Hàng ngày, vì việc này việc nọ bận đến không có thể rứt ra, nên một quyển sách dẫu hay như quyển " Người Mỹ xấu xí " có lẽ cũng chẳng làm cho người Mỹ bình thường nào cảm thấy thích thú được. Theo tôi, số người Mỹ biết đến quyển sách này không nhiều, đọc được kỹ nó có lẽ còn ít hơn nữa.
Tình hình ở Ðài Loan lại khác hẳn. Dù công thương nghiệp đang phát triển mạnh mẽ, dù cuộc sống thường ngày của người dân chẳng được nhàn hạ gì, nhưng cái thú tò mò hiếu kỳ nơi con người lại không hề giảm thiểu.
Nếu các ngài không tin thì cứ đến khu chợ Tây Môn Ðỉnh, vừa đi chầm chậm vừa ngửa cổ nhìn lên trời, thì tôi bảo đảm với các ngài rằng chỉ trong khoảnh khắc những người chung quanh cũng sẽ đều nghển cổ nhìn lên trời xem có gì không.
Người dân sống ở Ðài Loan đối với những sự vật xung quanh mình đều rất tò mò. Cho nên quyển sách của Bá Dương vừa ra đời một cái, dù không như giấy quý Lạc Dương, nhưng chắc chắn bán rất chạy.
Nhiều người Trung Quốc khi cãi nhau mồm miệng thường thường không lựa lời, chửi nhau đến cả ba đời tổ tông. Nguyên nhân vì người Trung Quốc rất trọng chữ hiếu, nên động đến tổ tông tức có thể làm cho đối phương đau và giận nhất.
Nhưng Bá Dương - trong quyển sách ông viết - đã chứng tỏ kỹ thuật chửi của mình còn tinh thâm hơn. Ông dè bỉu cả một nền văn hóa. Ðó là cách trút giận hay nhất bằng cách tóm cổ cả bọn Trung Quốc cùng một lúc.
Nếu rập khuôn theo công thức của Bá Dương mà nói thì " Ðất nào quả nấy, xã hội nào nhân tài ấy ", và nhân tài Bá Dương đúng là đã làm được cái mình muốn. Ông đã chửi cả bàn dân thiên hạ người Trung Quốc.
Lịch sử hiện đại Trung Quốc là lịch sử của một dân tộc đầy rẫy tai họa. Xâm lăng từ bên ngoài, loạn lạc bên trong, nghèo khó, khổ nạn lâu dài làm cho đức tự tin dân tộc của người Trung Quốc đã bị suy giảm.
Quốc gia chúng ta ngày nay bị chia đôi. Trung Cộng ở lục địa thì, ôi thôi, nghèo khổ, lạc hậu ! Ởủ Ðài Loan tình trạng hiện nay có khá hơn với lợi tức trung bình hàng năm hơn 3.000 đô-la Mỹ, nhưng so với hai nước Mỹ, Nhật thì thật ra vẫn còn là một xứ sở bần cùng.
Vì vậy người Trung Quốc ở giai đoạn này nên chú trọng đến một câu thích hợp với cái tình thế của mình hơn, đó là " Bần nhi vô xiển " (nghèo nhưng không nịnh), còn cái câu " Phú nhi vô kiêu " (giầu nhưng không kiêu), hoặc " Phú nhi hảo lễ " (giầu mà biết cư xử) chưa phải là chuyện ngay trước mắt, e rằng cái đó còn phải chờ đến một nửa thế kỷ nữa. Ðến lúc đó có nói đến quyển " Người Trung Quốc xấu xí " của Bá Dương cũng vẫn chưa muộn.
Nhưng đáng tiếc là Bá Dương lại quá quan tâm đến danh lợi trước mắt nên không nghĩ như vậy. Ông ta muốn bắt chước người Nhật, người Mỹ để làm người Trung Quốc đầu tiên bêu riếu cái xấu của người Trung Quốc ra, càng sớm chừng nào càng tốt chừng đó.
Kế hoạch của ông ta rất lớn, ông không chỉ chuẩn bị
nó theo kiểu một người một ngựa, mà hy vọng mọi người cũụng nhất tề xông vào cùng ông tham chiến, cùng giúp ông làm cái việc bôi nhọ Trung Quốc cho được rầm rộ thêm.
Có lẽ vì có được cái kinh nghiệm phải trả giá đắt ở trong tù, Bá Dương biết rằng phàm việc gì muốn thành công phải suy nghĩ kỹ và có mưu sâu. Ông mời mọi người cùng viết với ông, để thứ nhất : gây thanh thế lớn, tăng thêm hiệu quả việc bôi nhọ này ; thứ hai : nhỡ không may gặp phải tai vạ sau này thì còn có người đưa cơm nước vào nhà lao cho. Ðúng là nhất cử lưỡng tiện.
Bây giờ chúng ta hãy thử xem chiến dịch bôi nhọ văn hóa Trung Quốc do Bá Dương tiến hành gây ảnh hưởng đến những người dân lương thiện như thế nào bằng cách lấy ngay những ví dụ mà Bá Dương đã đơn cử :
Chuyến đi Mỹ của vợ chồng Bá Dương đến Iowa một phần do chủ nhà hàng Yến Kinh là ông Bùi Trúc Chương tài trợ. Bá Dương tuyên bố ông Bùi đã thổ lộ với mình như thế này :
" Trước khi đọc sách của ông, tôi cho rằng người Trung Quốc là ghê gớm lắm. Sau khi đọc sách của ông xong, quan niệm của tôi đã thay đổi. Vì vậy tôi muốn mời ông đến để gặp mặt ".
Bá Dương nói thêm :
" Lúc ông Bùi đã thấy văn hóa chúng ta có vấn đề mới tựĩ hỏi phải chăng đấy là do phẩm chất của người Trung Quốc chúng ta có vấn đề ? "
Ðối với câu hỏi của ông Bùi, Bá Dương đã dùng cái kiến thức uyên thâm để trả lời như thế này :
" Tôi không nghĩ rằng phẩm chất chúng ta có vấn đề, đó không phải là một điều an ủi. Người Trung Quốc có thể là một trong những dân tộc thông minh nhất thế giới.
Tại các đại học Mỹ những người xếp hạng đầu bảng thường là người Trung Quốc, nhiều nhà khoa học lớn - gồm cả người cha đẻ của nền khoa học nguyên tử lực Trung Quốc Tôn Quan Hán, được giải Nobel như Dương Chấn Ninh, Lý Chính Ðạo đều là những bộ óc hàng đầu.
Tôi cho rằng người Trung Quốc chúng ta vốn có phẩm chất cao quý ".
Một phẩm chất cao quý ? Thì ra cái phẩm chất mà ông ta muốn nói đó chỉ là thứ phẩm chất sinh lý (sinh vật) chứ không phải là phẩm chất văn hóa.
Nhưng trên phương diện sinh vật học, các dân tộc và các giống người trên trái đất đều có một bộ não không hơn kém nhau mấy về kích cỡ. Các nhà khoa học đều không tin vào thuyết có sự sai biệt về phẩm chất của bộ óc giữa các dân tộc. Tại sao có dân tộc vào một thời kỳ nào đó lại biểu lộ óc thông minh đặc biệt, nhưng về sau lại bị suy đồi, tàn lụi đi ? Tại sao người Anh ở thời đại Newton (Newton) nhân tài không ngừng xuất hiện, mà bây giờ lại như tuổi già sắp chết, không còn sinh khí nữa ? Người Anh thời nay và người Anh ở thời đại Newton đầu óc không giống nhau hay sao ?
Chúng ta thấy một điều là người mù thường vẫn có một thính lực phi thường. Kỳ thực các tế bào thính giác của họ cũng chẳng khác gì những người khác, chẳng qua vì người mù cần phải khai thác tiềm năng thính giác của họ nhiều hơn so với người bình thường mà thôi.
Người Trung Quốc học rất giỏi. Năng lực trí tuệ vào bậc nhất. Nhiều nhà xã hội học, tâm lý học, giáo dục học đang tìm hiểu xem việc này có phải do nguyên nhân văn hóa Trung Quốc không. Hễ dân tộc nào mà uống vào cái văn hóa có đầy tính dẻo dai, bền bỉ mà mạnh mẽ cứng cỏi này đều có khả năng trị được bệnh lười và bệnh ngu. Giống như Nhật Bản, Nam Hàn đều là những ví dụ rành rành trước mắt.
Giở những tạp chí khoa học có uy tín của Mỹ như " Vật lý quan sát " ta sẽ thấy mỗi một kỳ số lượng các bài người Trung Quốc gửi đăng nhiều kinh khủng. Cho nên có thể nói rằng văn hóa là một yếu tố của phẩm chất thông minh.
Mỗi khi tôi đi trên mảnh đất lớn của Trung Quốc, bất kỳ ở xó xỉnh nào, đối diện với đám đông người, nơi tâm linh tôi thường rạo rực cảm thấy một thứ trí tuệ mênh mông không bờ bến.
Cái " Hũ tương luận " của Bá Dương đã chà đạp văn hóa Trung Quốc rất nhiều. Nhưng muốn mà vẫn không thể hạ thấp được trí thông minh của người Trung Quốc, nên ông đành phải tách nó ra khỏi phẩm chất văn hóa của Trung Quốc. Ðấy là vì Bá Dương không nhìn lại vấn đề nhân quả, " Hũ tương luận " là hậu quả của một sự " xét đoán " thiếu suy nghĩ trên nhiều mặt.
Bá Dương nói rằng người Trung Quốc đã cống hiến rất ít cho văn hóa nhân loại. Từ thời Khổng Tử về sau mấy nghìn năm cũng không sản sinh được thêm một nhà tư tưởng nào lớn nữa. Cái văn hóa này như một đầm nước ao tù. Ðó là cái hũ tương văn hóa. Hũ tương bị thối làm cho người Trung Quốc biến thành xấu xa. Cái cách suy luận này nếu nói cho có vẻ thanh nhã thì nó rất nghèo nàn, dung tục; còn nếu nói một cách sỗ sàng thì nó là một sự giỡn mặt, đùa dai.
Học trò trung học đều biết : sau Khổng Tử có Mạnh Tử, sau đó lại có Chu Hy, Vương Dương Minh, v.v...là những nhà lý học lớn (triết gia duy tân). Những vị này đều là những nhà tư tưởng lớn, nhưng không phải không có thể đếm được trên đầu ngón tay.
Ta hãy thử bàn một tý về Mạnh Tử.
Tư tưởng chính trị của Khổng Tử được nói đến trong thiên " Lễ vận " của " Lễ ký " rất cụ thể, có hệ thống ; nhưng hệ thống tư tưởng này không phải không có chỗ sai sót, sơ hở, và nó đứng vững được như một quốc sách hay không cũng vẫn còn là một vấn đề cần phải đắn đo, cân nhắc.
Khổng Tử bàn về vua, luận về dân, nhưng đáng tiếc ông đã không làm sáng tỏ cái quan hệ giữa hai bên với nhau. Ðến thời Mạnh Tử, cái lý luận chính trị của nhà nho mới tiến lên một bậc và đi đến được chỗ đột phá.
Mạnh Tử nói : " Vua sai lầm lớn thì phải can gián. Nếu lại cứ tiếp tục sai mà không nghe lời can ngăn tức phải truất ngôi. " (Quân hữu đại quá tắc gián, phản phục chi nhi bất thính, tắc dịch vị). Lại nói : " Dân mới quý, và sau đó mới đến nước nhà, còn vua thì không có gì là quan trọng " (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Mạnh Tử nói rõ rằng quốc gia và chế độ quân chủ đều do dân mà ra, nếu làm vua một nước mà không xứng đáng với chức vụ của mình thì phải phế bỏ đi.
Cái cơ bản nhất trong tư tưởng trác tuyệt của Khổng Tử là câu " Thiên hạ là của mọi người " (Thiên hạ vi công), mà chủ nghĩa lấy dân làm gốc của Mạnh Tử đã nói rõ cái chữ " Công " này nghĩa là " Dân ". Vì vậy, " Thiên hạ vi công " có thể được tóm lược vào hai ý niệm dân chủ là " của dân " và " vì dân ".
Dân tộc Trung Quốc suốt 2.000 năm cùng xưng tụng Khổng Tử và Mạnh Tử vì thực ra Mạnh Tử đã phát huy rộng rãi và làm sáng tỏ tư tưởng của Khổng Tử.
Nếu nói đến vấn đề người Trung Quốc cống hiến rất ít cho văn hóa nhân loại thì theo tôi cần phải giải thích từ một góc độ khác. Sự truyền bá của văn hóa nhân loại hoàn toàn tùy thuộc vào vấn đề thông tin. Mà ở thời cổ đại sự thông tin đều dựa trên sức người, qua lối giao thông đường thủy hoặc đường bộ mà lan ra.
Cho nên yếu tố địa lý đối với sự phát triển, truyền bá văn minh cổ đại là một vấn đề then chốt. Cho tới ngày nay tình trạng này cũng vẫn vậy. Một nước nhỏ ở dưới chân núi Hy-ma-la-ya như nước Bu-Tan (Bhutan) thử hỏi làm sao có thể phát triển công thương nghiệp như Ðài Loan, Hồng Kông, Singapore ?
Ðịa thế Trung Quốc nằm ở đại lục Ðông Á, phía tây có sa mạc lớn chạy dài, các đường giao thông với Tây phương đều xa vời và hiểm trở. Cái điều kiện bất lợi về địa thế này làm cho phạm vi hoạt động của Trung Quốc bị giới hạn vào một góc Á châu.
Từ mấy nghìn năm nay người Trung Quốc phàm việc gì cũng phải tự lực cánh sinh. Ở vào hoàn cảnh thiếu sự tiếp xúc với bên ngoài, nền văn hóa Trung Quốc trở thành một thứ văn hóa riêng biệt, rất lẻ loi, trơ trọi.
Thế giới Tây phương lại hoàn toàn khác hẳn. Các khu vực, các dân tộc cả nghìn năm có giao lưu, nối liền với nhau, tập trung trí tuệ rộng rãi nên thu được nhiều kết quả lớn. Văn hóa Tây phương vì vậy đã năm lần bảy lượt có những bước đột phá để đến được thành tựu như ngày hôm nay.
Nếu ví thử từ xưa đến giờ không tồn tại những trở ngại địa lý đối với việc trao đổi văn hóa giữa Ðông-Tây, hoặc giả Trung Quốc là một nước nằm từ xưa ở Châu Âu, thì chúng ta có lý do để tin tưởng rằng sự cống hiến của người Trung Quốc sẽ cực kỳ nhiều và trọng đại đối với văn hóa nhân loại.
Cái tư tưởng lấy dân làm gốc của Nho gia Trung Quốc từ 2.000 năm nay chắc chắn có ảnh hưởng tích cực đối với sự giải phóng các xã hội La Mã, Hy Lạp thời kỳ nô lệ. Tần Thủy Hoàng sau khi bãi bỏ được chế độ phong kiến đã triển khai một chế độ chính trị trong đó những người dân bình thường cũng được tham dự vào việc chính trị. Sự kiện này có lẽ cũng đã thức tỉnh được Âu châu trong thời trung cổ phong kiến.
Lại còn có một loạt phát minh lớn lao của người Trung Quốc, như kỹ thuật ấn loát, nếu được đưa vào Âu châu sớm hơn 500 năm thì thế giới thế kỷ XX này chắc chắn không như ngày hôm nay.
Văn hóa Trung Quốc phát triển đến một đỉnh cao nào đó thì ngừng lại, như đã nói, chủ yếu vì bị hạn chế bởi hoàn cảnh địa lý; và vì thế mang lấy cái thiệt thòi của một nền văn hóa riêng lẻ.
Nhưng người Trung Quốc không phải là một dân tộc dẫm chân tại chỗ. Thật ra đối với văn hóa tư tưởng từ bên ngoài đến, Trung Quốc không phải là nước bài ngoại mạnh. Một trăm năm gần đây tại Trung Quốc phát sinh một loạt những sự kiện lịch sử đầy kịch tính. Cách đây bẩy mươi năm, cái chế độ quân chủ lâu đời từ mấy nghìn năm đã sụp đổ chỉ bởi tiếng súng của cuộc khởi nghĩa Võ Xương.
Khổng Tử - trong 2.000 năm đã thâm nhập và chiếm giữ cái địa vị tối cao trong lòng người Trung Quốc - nhưng rồi đã không chịu nổi những tiếng hò hét của đám thanh niên học sinh trong phong trào Ngũ Tứ, và phút chốc bị mất chỗ đứng.
Sau phong trào Ngũ Tứ, chủ nghĩa Mác có gốc gác từ Âu châu, vừa được đề xướng đã lập tức vang dội khắp nước Trung Quốc để trở thành một loại học thuyết lẫy lừng. Chiến tranh Trung-Nhật chấm dứt, sau bốn năm nội chiến, Chính phủ Quốc gia (Quốc Dân Ðảng) rút ra Ðài Loan thì Trung Quốc lục địa đã trở thành một nước cộng sản chủ nghĩa.
Qua 34 năm của chế độ cộng sản, chính phủ của một tỷ người Trung Quốc lại tuyên bố một cách chính thức với mọi người rằng chủ nghĩa Mác không thể giải quyết được những vấn đề Trung Quốc vốn có.
Người Trung Quốc dám làm, dám chịu, dám thay đổi. Trung Quốc bây giờ mà thành ra nông nỗi này không phải vì nó chỉ khư khư ôm lấy cái " hũ tương " của mình mà không dám đập vỡ.
Cách Mạng Văn Hóa Trung Quốc lại chính là một trường hợp trong đó người ta phủ nhận hoàn toàn giá trị văn hóa truyền thống, cho nên mới chịu cái hậu quả khốn khổ đến như vậy.
Bá Dương bảo : " Cái bẩn của người Trung Quốc là một trong những cái xấu xí của họ ", và lại còn bảo : " Có lẽ so với người Ấn Ðộ lại còn bẩn hơn một tý ". Tôi cho rằng tuyệt đại đa số người Trung Quốc sẽ không đồng ý với cách nhìn của Bá Dương.
Nếu so sánh các nước ở Á Ðông, ta thấy mức độ sạch sẽ của người Nhật chẳng thua bất cứ nước nào trên thế giới, nước Trung Quốc dân quốc ở Ðài Loan tuy có phần kém hơn, nhưng Ấn Ðộ thì phải nói là tệ nhất.
Mấy năm trước, lúc tổng thống Mỹ Carter đi thăm nước Ấn, trong chương trình tin tức buổi tối ở truyền hình Mỹ chiếu cảnh tiệc chiêu đãi của chính phủ, trong đó ai cũng thấy một chiêu đãi viên Ấn đứng sau lưng Các-tơ tay cầm một cái vỉ để đập ruồi cho vị thượng khách. Nếu đem so sánh điều kiện kinh tế, Nhật Bản là nước giầu nhất, Ðài Loan ở mức trung bình, còn Ấn Ðộ thì vào loại nghèo. Như vậy chúng ta có thể nói tình trạng vệ sinh của một dân tộc gắn liền với điều kiện kinh tế của nước đó.
Ở Los Angeles có hai khu phố Tàu (Chinatown), một cái ở trung tâm (nơi ông Bá Dương bảo tất cả đều có xu hướng bẩn, loạn) và một cái ở khu công viên Mông-tơ-rây (Monterrey Park). Khu phố Tàu thứ hai sạch sẽ hơn khu thứ nhất nhiều. Cả hai khu này đều do người Trung Quốc làm ra, nhưng phải thấy là sự khác biệt giữa hai khu này lại tùy thuộc vào mức độ giáo dục và thu nhập của người Trung Quốc ở mỗi nơi.
Người Trung Quốc khi tán gẫu rất ồn ào to tiếng. Cái chuyện không bình thường này cũng được Bá Dương quét vào trong cái thùng tính xấu của người Trung Quốc. Ông bảo :
" Tại sao tiếng nói người Trung Quốc lại to ? Bởi trong lòng họ không cảm thấy được yên ổn. Cứ tưởng tiếng càng to thì lý lẽ càng mạnh. Chỉ cần to tiếng, cao giọng thì lý lẽ sẽ về mình, nếu không tại sao cứ phải gân cổ lên như thế ? "
Ông Lương Thực Thu trong bài " Nhã xá tiểu phẩm " nói rằng vấn đề người Trung Quốc nói to có thể vì cơ bản họ vẫn còn là người ở một nước nông nghiệp. Nông dân buổi sáng ra đồng thường chào hỏi nhau từ những khoảng cách xa nên phải lớn tiếng.
Có người lại bảo tiếng họ to vì vấn đề âm điệu của tiếng Hoa. Vì người Tô Châu nếu dùng tiếng Ngô Nùng (vùng Chiết Giang), âm điệu rất thấp, thì cả lúc cãi nhau thanh âm cũng vẫn cứ nhỏ.
Theo tôi vì tiếng Trung Quốc là tiếng đơn âm, chữ đồng âm quá nhiều, mỗi âm lại có đến bốn âm tiết khác nhau (tiếng tiêu chuẩn). Cho nên lúc nói nếu không đủ to thì rất khó hiểu. Nhất là khi nói nhanh, nếu không nói lớn lại càng không có cách nào hiểu được.
Chúng ta đều có kinh nghiệm khi đi xem xi-nê bằng tiếng Trung, thường thường nếu cùng lúc không có phụ đề bằng chữ Hán trợ giúp, mà chỉ nghe tiếng không thôi, thì không thể hiểu được. Ðó là vì lý do trên.
Về mặt văn phạm, tiếng Trung Quốc lại cũng chẳng giống loại tiếng nào cả. Nó không có thể giả định (Subjunctive mood) như tiếng Anh, khiến người Trung Quốc lúc nói thường phải hoa chân múa tay để giúp mồm miệng lên bổng xuống trầm cho ý tưởng diễn đạt của mình được rõ ràng hơn. Nói tiếng Trung, nếu muốn nói nhỏ, phải nói thật chậm và rõ ràng, kéo dài phần phát âm của từng chữ ra thì người nghe mới hiểu rõ.
Theo tôi nhận thấy cái bệnh nói to của người Trung Quốc chẳng có thuốc nào chữa được. Nếu đã không có thuốc chữa thì chúng ta cũng có thể xem cái đức tính nói oang oang này là một loại quốc hồn quốc túy. Như vậy không được hay sao ?
Cái giao thông hỗn loạn ở Ðài Loan thì ai cũng biết rồi. Ðó là một sự thực không thể chối cãi. Nhưng đối với Bá Dương, người lấy điểm xuất phát là những cái xấu xa, thì nó lại là một yếu tố để quy tội cho cái văn hóa Trung Quốc. Ông ta bảo :
" Cũng chính vì cái hũ tương sâu không lường được này nên đối với biết bao vấn đề người Trung Quốc đều không dùng tư duy của mình để tự giải quyết, mà phải bắt chước, phải dùng cái tư duy của kẻ khác. Cái nước ao tù này, cái hũ tương này có vứt mứt đào vào cũng sẽ biến thành cứt khô.
Những thứ ngoại lai một khi vào Trung Quốc cũng biến chất. Người ta có dân chủ, chúng ta cũng có dân chủ. Nhưng dân chủ của chúng ta là " mày là dân, tao là chủ ". Người ta có pháp chế, chúng ta cũng có pháp chế. Người ta có tự do, ta cũng có tự do. Người ta có gì, ta có nấy. Anh có chỗ dành riêng cho bộ hành sang đường, tôi cũng có, dĩ nhiên, nhưng chỗ dành cho bộ hành của chúng tôi là chỗ để dụ dỗ họ đến cho xe cán chết ".
Tôi cũng đã suy nghĩ về vấn đề này nhiều năm, xin đưa ra đây vài ý kiến để đóng góp với những người quan tâm đến nó. Cái trật tự giao thông ở Ðài Loan mỗi năm mỗi tiến bộ, vì số xe cộ càng ngày càng đông. Trên đường cứ càng nhiều xe thì áp lực ngày càng tăng đối với người lái xe, làm cho họ phải càng tôn trọng luật đi đường, đó là cái hậu quả tất yếu của việc " vừa sống vừa học tập ".
Tại Mỹ trừ những người lái xe bình thường ra, tôi vẫn thường nghe nói còn có loại người lái xe " tự vệ ". Những người lái xe " tự vệ " này khác những người lái xe " tiêu chuẩn " ở chỗ họ có thêm hai đức tính : không sử dụng quyền ưu tiên của mình, và đối với những người phạm luật khác họ không tìm cách trả đũa.
Ở Ðài Loan những người lái xe bình thường ít nhiều cũng có một hoặc hai đức tính này, nhưng bản thân họ vẫn chưa phải là những người lái xe " tiêu chuẩn " thông thường. Vì vậy giao thông Ðài Loan mới phát sinh cái hiện tượng " bất loạn trong cái đại loạn ", và cái " đại loạn rất là kinh dị trong cái bất loạn đó ". Tại sao có chuyện người Trung Quốc và người Mỹ khi lái xe lại khác nhau ?
Nếu chúng ta so sánh cách thi bằng lái xe ở hai bên bờ Thái Bình Dương thì sẽ thấy ngay manh mối của việc này.
Người Mỹ học lái xe ngay ở ngoài đường, từ lúc bắt đầu đã phải học và tuân theo các quy tắc an toàn của giao thông. Ðến lúc đi thi cũng thi ngoài đường, ngoài vấn đề lái ở những nơi có rất nhiều xe còn phải kiểm soát tốc độ, cự ly sau trước, qua ngã tư, chọn tuyến phải trái, chuyển đường, giữ ưu tiên,v.v...Như vậy trong tâm lý người thi đồng thời hình thành được cái khuôn phép của một người lái xe " tiêu chuẩn " để có thể dùng vào việc lái xe trong thực tế sau này.
Tại Ðài Loan lại không như thế. Lúc học lái xe trong những khuôn viên cố định của nhà trường, người tập lái học các động tác bẻ lái, đạp phanh, nhấn ga v.v... Sau đó lúc đi thi họ được trắc nghiệm bởi những thiết bị điện của Sở Lục lộ. Ðỗ xong cái mảnh bằng đó, thay vì gọi là bằng lái, nhẽ ra phải gọi là bằng " thao tác " thì mới đúng. Ðến khi lái ra đường lớn, trong lòng hoàn toàn chưa có khuôn phép, vẫn rẽ ngang đảo dọc như một kẻ dã man không theo một quy tắc nào cả.
Ngay đến những người đã lái xe mười năm hoặc mấy mươi năm, trong lòng tuy đã có khuôn phép thành thục, nhưng đều cũng không phải là những tay lái tiêu chuẩn, nên tùy lúc, tùy thời đều có thể biến dạng. Tôi gọi đùa đó là kiểu tài xế " cao su ".
Vì vậy có thể nói vấn đề giao thông ở Ðài Loan cuối cùng không phải là vấn đề con người, càng không phải vấn đề văn hóa nào đó, nhưng là một vấn đề chính sách. Do chính sách không đúng ngay từ đầu, chính quyền sau này khó có thể cải tiến cho nó khá hơn được.
Viết đến đây tôi lại nhớ đến một chuyện mấy năm trước, lúc ông Alexander Solzhenitsyn (A-lếch-xan-đơ Giôn-xê-nhít-xin) - một cây bút người Nga được giải thưởng Nobel về văn học - được phóng thích đến Mỹ.
Ông được mời đến diễn thuyết trong một buổi lễ đón tiếp. Ai cũng chờ đợi ông sẽ nói đến những điều hay ho về vấn đề tự do, nhân quyền. Nhưng trước sự ngạc nhiên của mọi người, ông lại quay sang phê bình về kinh tế Mỹ. Ông công kích những nhà buôn Mỹ vì lợi nhuận đã táng tận lương tâm, bỏ vào thức ăn những chất hóa học dùng bảo quản thực phẩm rất độc hại.
Ông diễn thuyết vừa xong thì tờ báo lớn của Mỹ The NewYork Time (Thời báo New York) đã lên tiếng. Tờ báo viết :
" Dù ông Solzhenitsyn (Giôn-xê-nít-xin) ở tại Liên-xô đã kinh qua mọi khổ nạn mà không hề khuất phục, việc này làm cho mọi người rất ngưỡng mộ, nhưng không phải vì vậy mà ông có quyền được tùy tiện phê phán xã hội Mỹ ".
Từ đó về sau không ai còn nghe ông Solzhenitsyn diễn thuyết cái kiểu đó. Có thể ông đã tự câm như hến, hoặc có thể không ai muốn mời ông diễn thuyết nữa.
Trong một nước có chế độ tự do ngôn luận, mọi người đều có khả năng phát biểu ý kiến của mình, ngay cả nói những điều phương hại đến kẻ khác mà chính phủ hay pháp luật không thể ngăn cấm được. Nhưng một tờ báo lớn lại có thể trở thành một sức mạnh trọng tài, và có khả năng làm cho người nói kia ăn không ngon ngủ không yên.
Người Trung Quốc chúng ta chưa có cái loại báo chí có thứ quyền uy như thế, song chúng ta có dư luận quần chúng.
Vậy, những người Trung Quốc còn lương tâm xin hãy đứng lên, vì người Trung Quốc chúng ta, vì văn hóa Trung Quốc mà nói vài câu cho lẽ phải.
Mấy tháng trước ông Bá Dương nói chuyện ở Iowa về " Người Trung Quốc xấu xí " làm cho cộng đồng người Hoa ở Mỹ xôn xao, mãi đến bây giờ vẫn còn gợn sóng. Từ hai tháng nay trên tờ " Luận đàn báo " cơ hồ mỗi kỳ đều có một hai bài thảo luận về áng văn " xấu xí " của Bá Dương. Văn hóa Trung Quốc : Bôi nhọ hay đánh phấn
Trương Thiệu Thiên
" Luận đàn báo ", Los Angeles,
ngày 3-9 tháng 4 năm 1985.Trong số ra gần đây nhất tôi lại được đọc bài của ông Lưu Tiền Mẫn nhan đề " Không thể bôi nhọ văn hóa Trung Quốc ". Ngoài vấn đề chỉ trích ông Bá Dương đã bôi nhọ văn hóa Trung Quốc, ông còn đưa ra rất nhiều giải thích sách vở về các khuyết điểm của người Trung Quốc. Bài văn này của ông Lưu đã chứng tỏ ông mất khá nhiều công phu để suy nghĩ về vấn đề văn hóa Trung Quốc, lại cũng nói lên cái nhiệt tình của ông đối với nó.
Sự nghiên cứu và cái nhiệt tình này của ông làm tôi rất khâm phục. Nhưng có nhiều luận điểm của ông tôi lại không thể chấp nhận được. Cho nên ở đây xin thảo luận như sau :
1- Ông Lưu bảo người Trung Quốc trước hết nên " bần nhi vô xiển " (nghèo nhưng không nịnh), còn " phú nhi vô kiêu " (giàu nhưng không kiêu) thì chưa cần kíp lắm.
Theo thiển ý của tôi thì hai tâm trạng này có mối quan hệ nhân quả rất lớn. Giả sử một người có tiền, có quyền, hết sức kiêu căng, lại thích người ta nịnh nọt mình thì nhất định sẽ có những chuyên gia nịnh hót (mà Bá Dương gọi là " phái đoàn vẫy đuôi ") vây quanh người đó. Chỉ khi nào các vị có tiền, có quyền, biết tôn trọng bạn bè nghèo thì những bạn bè nghèo mới có thể bắt đầu không nịnh nọt được.
2- Ông Lưu bảo nước Anh ở thời đại Newton mới phát xuất nhân tài, còn thời nay chẳng khác nào một nước không còn sinh khí, như đến tuổi già sắp chết.
Vậy để xem thử cái " tuổi già sắp chết " của nước Anh bây giờ ở mức độ nào, ta cứ tiện tay dở danh mục các người đoạt giải Nobel từ năm 1960 cho đến năm 1984 (không nói đến cái tỷ lệ cao của Ðại đế quốc Anh lúc vẫn còn hưng thịnh trước năm 1960). Ta sẽ thấy trong 25 năm đó tổng cộng trên 153 người đoạt giải ở lĩnh vực khoa học (vật lý, hóa học, sinh vật và ba loại y học) thì người Anh đã chiếm 25 giải rưỡi [năm 1975 một nửa giải hóa học được chia cho một người quốc tịch Úc làm việc hoàn toàn ở Anh là John Cornforth.
Từ trước đến nay người gốc Hoa được giải vật lý có 3 vị, nhưng vì đều là quốc tịch Mỹ, làm việc nghiên cứu ở Mỹ nên trong danh sách họ chẳng được xem là người Trung Quốc nữa. Như vậy tỷ lệ số người Anh đoạt giải chiếm đúng 1 phần 6 của tổng số thế giới, và chỉ đứng sau nước Mỹ.
Ðúng là sau Thế chiến Thứ nhất, nước Anh đã mất địa vị ưu thế trong lãnh vực khoa học kỹ thuật của thời Newton, nhưng nếu nói là nước này đang ở vào tình trạng " không còn sinh khí " thì chẳng hóa ra là quá phóng đại lên không ?
3- Ông Lưu bảo vì phạm vi hoạt động của người Trung Quốc thủa xưa chỉ loanh quanh ở một góc châu Á, cho nên không có lợi cho sự phát triển văn hóa.
Tôi thấy điều này rất buồn cười, chẳng khác nào ông bảo trước khi Tân Thế Giới bị chiếm làm thuộc địa thì phạm vi hoạt động của người Tây phương không bị giới hạn trong một góc Âu châu vậy.
Trung Quốc so sánh về đất đai và nhân khẩu cũng xấp xỉ tương đương với Âu châu. Thêm vào đó lịch sử Trung Quốc còn có một cục diện thống nhất trong một thời gian lâu gấp đôi Âu châu (Âu châu từ thời Trung cổ về sau đã chia thành bao nhiêu nước, mỗi nước có riêng một thứ tiếng, một văn hóa, chính trị, tôn giáo,... chả có cái nào giống cái nào), cho nên sự giao lưu văn hóa giữa các khu vực với nhau đâu phải được dễ dàng thuận lợi hơn Trung Quốc như ông Lưu nói.
Thế tại sao Thời đại Phục hưng, Thế kỷ Ánh sáng, nền Chính trị Lập hiến Dân chủ, cuộc Cách mạng Công nghiệp, tất cả đều đã ra đời tại cái góc Âu châu đó ?
Theo thiển ý thì văn hóa và công nghiệp Trung Quốc cho đến thời nhà Tống đã dừng lại, không tiến được vì bị gò bó bởi tư tưởng của các nhà Lý học.
Ngay từ thời Hán trở xuống, cái Nho học nhà nước đã hoàn thành việc dựng lên nhiều trở ngại rất lớn đối với học thuật và tự do tư tưởng.
Thời Tống, những người như Trình Di, Chu Hy, v.v...đều là những nhà Lý học lớn, nhưng lại đem thu nhỏ phạm vi của Nho học lại. Họ cho rằng mỗi cá nhân, ít nhất mỗi cá nhân những người đèn sách, đều phải suốt đời không có con đường nào khác ngoài con đường học làm những ông thánh.
Cho đến lúc Lý học trở thành cái dòng chính của Nho học thì sức sống của văn hóa Trung Quốc liền bị chà đạp. Ðồng thời tầng lớp sĩ phu, để củng cố quyền lợi, địa vị cá nhân, đã phân chia một cách độc đoán xã hội thành 4 giai tầng : sĩ, nông, công, thương, và đẩy địa vị xã hội của những nhân tài chuyên nghiệp (công), những nhà buôn (thương) xuống bùn đen. Các phát minh về công nghiệp thường thường bị xem là thứ " tranh dâm tranh xảo " (Ðua đòi tà dâm và xảo trá), " điêu trùng tiểu kỹ " (tiểu xảo dùng tạc nên các con trùng - rồng phượng), và rất ít được báo đáp khích lệ.
Với tâm lý xã hội như vậy, những kẻ có tài cao đều nghĩ đến việc làm quan. Còn lại những kẻ kém tài hơn mới đi làm công-thương-nghiệp.
Một xã hội khinh rẻ công-thương-nghiệp như vậy làm sao có thể hy vọng phát triển được khoa học kỹ thuật, công nghiệp làm sao tiến được ?
Kỳ thực vào thời Nam Tống, Trung Quốc đã có thể có đủ điều kiện cho tư bản chủ nghĩa phát triển. Nếu như thời ấy có tự do trong lĩnh vực học thuật, nhà nước khích lệ công thương, cách mạng công nghiệp rất có khả năng xảy ra tại Trung Quốc trước khi ra đời tại nước Anh.
4- Ông Lưu đặt câu hỏi : " Một nước dưới chân rặng núi Hy-ma-la-ya như nước Bu-tan làm sao có thể phát triển công thương nghiệp như Ðài Loan được ? "
Tôi có thể đáp như thế này : " Cái đó chỉ tùy thuộc vào con người ! "
Ông không thấy nước Thụy-Sĩ ở dưới chân núi An-pơ (Alpes) hay sao ? Diện tích còn nhỏ hơn cả Bu-tan, không những nước này có công thương nghiệp phát triển, mà trong nhiều ngành nghề còn đứng vào hàng đầu thế giới.
Nếu căn cứ vào cái lý luận dựa trên vị trí địa lý thì tại sao Tây Ban Nha, Ý, Hy-Lạp, Ai-Cập đều là những nước có địa thế thuận lợi lại không thể phát triển công thương nghiệp như Thụy-Sĩ là một nước nằm giữa lục địa dưới chân núi. Chưa kể đến các nước như Na-Uy, Thụy-Ðiển là những nước nằm trong một góc rất biệt lập của Âu châu ?
5- Ông Lưu bảo Trung Quốc đã thay đổi quốc thể, chính thể và chính sách kinh tế một cách rất dễ dàng. Ông muốn chứng minh rằng người Trung Quốc đối với tư tưởng ngoại lai cũng không đến nỗi là những kẻ bảo thủ.
Tôi muốn hỏi ông Lưu :
Thế tất cả những thứ thay đổi ông nói ở trên đó có phải đã được thông qua một cuộc trưng cầu ý dân hoặc là sản phẩm của một quốc hội chân chính do dân bầu, nghĩa là bằng những trình tự hợp pháp của một quốc gia hay không ?
Nếu đúng như thế, thì luận điểm của ông Lưu mới đứng vững được.
Nhưng nếu những thay đổi này chỉ là pháp lệnh của những kẻ nắm quyền, hoặc được thông qua bằng hình thức " con dấu cao su " của kẻ thống trị, thì điều đó chỉ minh chứng một điều là Trung Quốc thiếu nhân quyền. Những kẻ thống trị sau khi nắm chính quyền, với súng đạn hễ chọn chính thể nào thì áp đặt chính thể đó, chẳng cần biết nhân dân có đồng ý hay không.
" Văn hóa đại cách mạng " (Cách Mạng Văn Hóa), tuy khẩu hiệu thì hô hào nhằm lật đổ văn hóa truyền thống của Trung Quốc, nhưng bản thân lại nói lên rất rõ cái tính chất độc tài chính trị truyền thống và thói quen xâu xé lẫn nhau của người Trung Quốc.
Vì vậy, tôi vẫn cho rằng Cách Mạng Văn Hóa đúng là sản phẩm 100 % của cái " văn hóa hũ tương ", nó không thể nào có thể phát sinh ở một nước tôn trọng nhân quyền và dân chủ được.
6- Ông Lưu bảo người Trung Quốc nói to vì trong tiếng Hán có nhiều chữ đồng âm, nên vừa phải nói to vừa phải hoa chân múa tay mới diễn đạt được ý nghĩa muốn nói.
Nếu ý của ông Lưu mà đúng thì chúng ta không thể nào giải thích được làm sao người Trung Quốc có thể dùng điện thoại để nói chuyện với nhau, vì lúc đó họ không thể hoa chân múa tay mà cũng không thể nói thật to được.
Các độc giả không tin cứ thử gọi ngay dây nói cho người thân hay bạn bè thử xem. Lúc đó mới thấy được cái lý luận của ông Lưu có tính thuyết phục hay không.
Theo ý tôi, người Trung Quốc nói to là vì họ không được dậy dỗ về cung cách nói chuyện và trình tự của hội nghị, không biết tôn trọng sự phát ngôn của người khác, nên thường khi đối phương nói chưa dứt đã vội át lời, bác bẻ lại luận điểm của người ta.
Cái hiện tượng giữa chừng ngắt lời kẻ khác trong xã giao thông thường là một việc luôn luôn xảy ra ở Trung Quốc. Bởi vì trong lúc nói ai cũng tranh nhau phát ngôn cùng một lúc, nên mọi người bắt buộc phải gân cổ càng to càng tốt.
7- Ông Lưu đã tốn khá nhiều mực để giải thích sự hỗn loạn giao thông ở Trung Quốc. Ông cho rằng vì người Trung Quốc học lái xe tại những khu riêng biệt của trường dạy lái, không như những người Mỹ học lái xe một cách thực tế ở ngoài đường. Vì vậy người Trung Quốc mặc dù thi đậu được bằng lái xe, nhưng vẫn tiếp tục xem ngoài đường như khu vực riêng của trường lái, và vẫn cứ tiếp tục lái ngang, đâm dọc.
Mặc dù tôi biết rất ít về tình hình dạy lái xe ở Ðài Loan, nhưng tôi có thể hình dung được khi dạy lái xe chẳng ai dạy cứ phải luôn luôn bóp còi hoặc đừng nhường người đi bộ ở chỗ dành cho bộ hành qua đường (nếu không tuân theo lời dạy thì làm sao đậu bằng được ?)
Thế tại sao khi lái xe ra đường họ lại không hề rời cái còi và không hề tôn trọng người bộ hành ở lối dành cho người đi bộ qua đường tý nào cả ? Xin ông Lưu giải thích giùm tôi.
Trên đây là một vài suy nghĩ của riêng cá nhân tôi sau khi đọc bài viết của ông Lưu.
Ông Lưu bảo ông Bá Dương bôi nhọ văn hóa Trung Quốc. Tôi thì cho rằng ông Lưu lại đi tô son cho những cái vết bẩn của văn hóa Trung Quốc.
Nhưng dù có nhấn mạnh trên những khuyết điểm hay che đậy sai lầm của văn hóa Trung Quốc chúng ta, tôi tin rằng cái động cơ của cả hai ông đều phát xuất từ tấm lòng thành.
Vì thế tôi cho rằng khi ông Lưu nói Bá Dương xu nịnh nước ngoài thì ông không những làm tổn thương đến sự trung hậu của ông Bá Dương mà còn không đúng với lô-gíc.
Nếu Bá Dương là loại người xu nịnh thì đối tượng nịnh của ông ta tất phải là Quốc Dân Ðảng chứ đâu phải là người Tây phương.
Một người có tài như Bá Dương, lại vốn là người của Cứu Quốc Ðoàn (ông đã từng là Tổng cán sự của " Hiệp hội Các nhà văn Thanh niên " trong Cứu Quốc Ðoàn), chỉ cần nịnh nọt nhà đương cục một tý là ông cũng có thể trở thành người được tin dùng từ bao đời nay rồi.
Hà tất ông phải chọn con đường mưu sinh bằng cách đi viết tạp văn đả kích thói hư tật xấu của xã hội, cuối cùng xúc phạm đến Quốc Dân Ðảng, để cho cái đảng này bắt nhốt ông trong vòng 10 năm.
Một người mang tình cảm và tư tưởng như ông, có thể còn có thái độ kiêu ngạo là đằng khác, đâu lý nào lại đi nịnh nọt.
Không biết ông Lưu có thấy thế không ?
Ông Bá Dương có một bài nói chuyện về " Người Trung Quốc xấu xí ". Ý kiến của tôi hơi trái ngược lại, tôi xin gọi nó ở đây là " Người Trung Quốc vĩ đại ". Châu Quế
" Luận đàn báo ", Los Angeles, ngày 13-3-1985,
" Tự lập vãn báo ", Ðài Bắc, ngày 12-4-1985,
" Bách tính bán nguyệt san ", Hương Cảng, ngày 16-5-1985.Bất cứ nơi nào có người Trung Quốc tụ tập sinh sống, việc điều đầu tiên ai cũng thấy được là " đông, ồn, bẩn, loạn ". " Ðông " vì chen chúc nhau mới vui nhộn, " ồn " vì người Trung Quốc thích ra oai hù dọa đối phương, " bẩn " vì không có bụi bay thì làm sao thấy được nắng đẹp, " loạn " vì tinh thần tự do, tự tại.
Mối quan tâm của người Trung Quốc đối với những đau khổ của kẻ khác, được biểu hiện qua lòng hiếu kỳ. Bởi vậy họ thích xem những cuộc hành hình, người chết, đám cháy, nước lụt, hoặc tai nạn xe cộ. Cảnh ngộ của người khác càng thê thảm chừng nào thì họ lại càng thấy thích thú chừng nấy. Nếu không thế tại sao khi lỡ dịp xem một thảm cảnh đối với họ lại là mất đi một cơ hội lớn để hưởng thụ hạnh phúc của cuộc đời.
" Liên ngã thế nhân, ưu hoạn thực đa ! " (Thương cho người đời ; buồn lo, hoạn nạn quá nhiều ! ) Nhìn những cái đau khổ của người đời, mà mừng rằng mình may mắn không bị sa vào trong đó, chẳng phải là một điều hưởng thụ lớn nhất trong cuộc sống hay sao ?
Mười mấy năm trước, lúc Ðài Loan đang xây dựng đường cao tốc trên toàn đảo, từ Ðài Bắc đi Cơ Long chỉ có một con lộ nhỏ. Có lần trước một trường tiểu học công lập ở Tịch Chỉ xảy ra một tai nạn xe cộ. Một đứa bé đi qua đường bị một chiếc xe chạy gấp cán chết ngay tại chỗ. Cái xe sau khi gây tai nạn trước mắt mọi người cứ thế đủng đỉnh bỏ đi.
Cả hàng nghìn vạn con mắt nhìn thấy sự việc trên, thế mà không có một người nào đứng ra chặn xe lại. Ðến khi cảnh sát tới, lại cũng không ai có thể đứng ra làm nhân chứng để cho biết một tý đầu mối nào về hung thủ. Mà ngay cả cái số biển xe cũng không ai ghi lại.
Trong phút chốc mọi người ào ào như ong vỡ tổ. Mặc dù cảnh sát hết sức mạnh tay ngăn chặn, quần chúng vẫn như một dòng thác dời non lấp bể ùn ùn đến vây quanh cái thi thể bé nhỏ đó, và làm tắc nghẽn ngay con lộ.
Trong đám đông bỗng thấy một người đàn ông tráng kiện, trạc độ tứ tuần, mặt mày phấn khởi, mồm miệng thô tục, vừa hùng hổ gạt đám đông ra chui vào vừa chửi đổng :
"Ð. M. nó, lại cán chết người nữa rồi !".
Anh ta chuẩn bị để thưởng thức một cảnh ngoạn mục hiếm thấy. Nhưng khi anh ta chen được đến chỗ nhìn thì bỗng nhiên như bị một cú điện giật, rồi khóc rống lên.
Ðã mười mấy năm qua mà chỉ cần nhắm mắt lại là trong đầu tôi vẫn còn thấy rõ ràng cảnh tượng ấy !
Mấy năm trước ở đoạn Tam Nghĩa trên xa lộ Ðài Loan đã xảy ra một vụ đụng xe lớn, trong đó có khoảng từ 60 đến 70 xe xô vào đít nhau.
Nguyên nhân đầu tiên của vụ này chỉ vì có một chiếc xe bị tai nạn, nhưng những xe chạy sau đó vội vàng ngừng lại để xem. Thế là các xe từ phía sau đến phanh không kịp và đổ xô hết vào nhau gây nên một đống nát bét khổng lồ.
Tại những nơi có người Trung Quốc, chỉ cần một tai nạn xảy ra thì không bao giờ thiếu đám đông đến xem. Nhà cháy ngùn ngụt, lửa lên ngút trời, người bị nạn đang dậm chân kêu cứu trong biển lửa, nhưng giữa đội cứu hỏa và đám cháy thế nào cũng có một bức tường người đứng xem làm cản trở công việc cứu chữa.
Trong núi có tai nạn mỏ, vô số thợ bị nạn còn nằm dưới mỏ, sống chết còn tùy vào không gian để thở. Ở vào thời điểm này, dù núi cao, đường xa thế nào đi nữa cũng sẽ có một đoàn người hiếu kỳ hỗn loạn từ xa lặn lội kéo tới lấp kín cửa mỏ, tranh giành đường đi với những người đến cứu nạn.
Chỉ cần nơi nào có dây ra một tý đường, thì chẳng quản khuất nẻo, thế nào đàn kiến cũng đánh hơi đến được. Xe lửa trật đường rầy, máy bay bị rơi, lụt làm vỡ đê, có người tự tử, hành quyết phạm nhân, người Trung Quốc đều như kiến tìm đường đến xem ngay.
Hơn hai mươi năm trước, một người đàn ông, trong lòng có điều uẩn ức, leo lên một mái nhà cao mười tầng ở Ðài Loan tuyên bố sẽ nhảy xuống tự tử. Tức thì người kéo đến xem đầy đường, chật phố. Cảnh sát như gặp phải quân giặc, một đằng lo chăng lưới hứng người phía dưới lầu, một đằng cho người lên thương thuyết, khuyên anh kia đừng nhảy.
Ký giả các báo đến giương sẵn máy ảnh, chỉnh sẵn ống kính chờ đợi để chụp lấy cái giây phút hiếm có. Nhưng anh chàng nọ vẫn tác quái, mặc cho cảnh sát nói gãy cả lưỡi, một mực vẫn nhất quyết bảo không nhảy không được, nhưng lại không nhảy ngay tức khắc, cứ kiểu đó kéo dài cả tiếng rưỡi đồng hồ.
Phải nói cái quần chúng tò mò của Trung Quốc có lòng kiên nhẫn trong thiên hạ không ai bì kịp, ngửng đầu theo dõi hai, ba tiếng đồng hồ rồi, cổ đã mỏi nhừ mà cũng không ai cần nghỉ ngơi một giây phút nào cả.
Khi cái đồng hồ nhà ga xe lửa đối diện gõ 11 giờ vẫn không thấy anh ta nhẩy, mà người xem vẫn chưa ai ra về. Trong đám người đứng đó, một bà nội trợ, tay xách cái làn không, mồm lẩm bẩm :
" Bảo nhảy mà mãi không nhảy cho rồi để cho người ta xem xong còn đi chợ chứ ! "
Tại sao người Trung Quốc lại thích xem tai nạn ? Bởi vì người Trung Quốc một đời họ là một trường tai nạn. Một lầụn sinh làm người Trung Quốc là một lần phải hứng chịu những tai vạ lớn. Tai họa vĩnh viễn là đứa anh em sinh đôi của người Trung Quốc, có tránh cũng không nổi, chỉ có không biết là nó đến lúc nào và ở đâu thôi.
Trong "Ðạo đức kinh" của Lão đam có viết :
" Có và không đều cùng sinh ra lẫn nhau. Dễ và khó đều cùng đưa nhau đến một kết quả. Dài ngắn rồi cũng cùng tạo hình dáng của nhau. Cao thấp cũng đều khuynh loát lẫn nhau. Âm và thanh đều hòa vào với nhau. Trước và sau đều tùy thuộc lẫn nhau " (Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu tương tùy).
Khổ và sướng, hạnh phúc và tai họa không có gì tuyệt đối, tất cả chỉ là tương đối:
" Người ta cưỡi ngựa tôi cưỡi lừa, nhìn về đằng trước thì tôi không bằng, nhìn về đằng sau còn có người phải đẩy xe, so với phía trên thì không đủ, so với phía dưới thì tôi có thừa ".
Những người khác gặp những đau khổ vô cùng lớn, riêng tôi may mắn được thoát nạn. Nhìn cảnh ngộ bi thảm của kẻ khác để rồi ngẫm nghĩ về sự may mắn của bản thân mình (không bị hề hấn gì). Cái sự hưởng thụ đó trong cuộc đời này nào phải được nhiều nhặn gì cho cam ! Nếu không nắm lấy thời cơ mà hưởng thụ hết mình thì chẳng phải là tội lỗi hay sao ?
Trong cuộc sống, người Trung Quốc thực sự luôn luôn phải sắm vai chính của những bi kịch, nên hễ gặp ai đang diễn bi kịch thì làm sao có thể dễ dàng bỏ lỡ cơ hội xem cho được ?
Tôi còn nhớ thời kỳ Kháng chiến chống Nhật, trên một bến phà bên bờ sông ở Triêu Thiên Môn tại Trùng Khánh, mùa đông nước cạn, phà không thể cập sát bờ, để lên phà phải qua một cầu nổi thô sơ.
Hôm ấy phà vừa cặp bến thì những người khách cứ theo thói quen dùng cái tài năng đặc biệt của người Trung Quốc là xung phong hãm trận, tranh nhau xuống trước, liều mạng chen lấn. Có một bà cụ già vì thế bị xô đẩy rơi tòm xuống sông, lúc chìm lúc nổi.
Dưới nước cả trăm chiếc thuyền lớn bé vẫn thản nhiên, trên bờ cả trăm nghìn người ai cũng chỉ đứng giương mắt nhìn mà không một kẻ nào nghĩ đến chuyện cứu người.
Lúc đó bỗng trong đám đông có một quân nhân Mỹ bước ra, cởi bỏ áo ngoài, nhảy ùm xuống sông. Sau một hồi rất chật vật, khó khăn, cuối cùng anh ta cũng cứu được người đàn bà ấy lên bờ.
Người lính Mỹ, sau khi hoàn thành cái việc nghĩa cứu người, bèn quay lại chỗ mình cởi bỏ áo để tìm, thì ôi thôi ! Cái áo đã không cánh mà bay mất tự bao giờ !
Vị quân nhân Mỹ kia chỉ bị mất một cái áo, nhưng việc tôi gặp phải sau đây có thể còn thảm thương hơn nhiều.
Ðó là câu chuyện ba mươi lăm năm trước, song nó còn đeo đẳng tôi không biết đến bao giờ. Hôm ấy ở ga xe lửa Ðài Trung, tôi thấy một người lạ đi một mình bỗng đột ngột bị bạo bệnh ngã xuống trước cửa ga.
Vì tình thế lúc đó quá gấp rút, tôi kêu bừa một xe ba gác đến chở ông ta đi nhà thương cấp cứu. Ðến bệnh viện, chưa làm xong thủ tục nhập viện thì người ấy đã qua đời. Bệnh viện bảo tôi phải thanh toán lệ phí thủ tục nhập viện rồi đem thi thể đi ngay, sợ ảnh hưởng đến thanh danh của họ.
Tôi chỉ trơ trọi có mỗi một mình ở đấy, không quen biết ai, cũng chẳng ai có thể cho tôi biết phải đem một tử thi vô danh đi nơi nào.
May mà nhà thương đã kêu cảnh sát lại. Cảnh sát dĩ nhiên bắt tôi khai tên tuổi người chết, nguyên nhân cái chết, lại bắt tôi phải đem thi thể đến một nơi thích hợp để chờ thầy thuốc pháp y đến khám nghiệm. Dĩ nhiên để trả lời, bằng mọi cách phải biết được lai lịch người chết. Rà đi rà lại cả ngày, phải khó khăn lắm tôi mới tìm được gia đình người chết.
Người nhà tới, lập tức nêu lên một vấn đề rất nghiêm trọng. Họ bảo rằng người chết có mang theo mình 50 quan tiền mà bây giờ không tìm thấy nữa. Tôi liền bị cảnh sát gọi đi lấy khẩu cung, viết giấy cam đoan, rồi tìm cả người bảo lãnh. Tất cả những thứ thủ tục này làm tôi mất đứt một tháng trời. May mắn là tổ tiên tôi còn để đức lại, nên gia đình người chết cuối cùng cũng nói sự thực.
Họ thú nhận rằng vốn sợ phải hoàn lại số tiền xe và tiền nhập viện mà tôi đã ứng trước nên đã dựng đứng lên chuyện trong người kẻ xấu số có 50 quan tiền, để cứ gọi là " tương " trước cho tôi " một quả " cái đã.
Nghìn may ! Vạn may ! Họ vẫn là người nhà quê thật thà, chỉ nói mất có 50 quan tiền. Chứ chẳng may họ lại bảo là mất 5 vạn quan tiền thì suốt đời, có lẽ đến bây giờ, tôi vẫn còn nằm trong nhà lao mất.
Người Trung Quốc đối với những đau khổ của kẻ khác thường có kiểu tò mò một cách trắng trợn, thích thú màụ có vẻ đồng tình, nhưng đối với những thành tựu và hạnh phúc của kẻ khác thì giữ kín như bưng, cực kỳ bí ẩn, tâm địa đố kị cực kỳ ác độc.
Người Trung Quốc dù khoan hồng đại lượng cũng tuyệt đối không thể chấp nhận chuyện người mình quen lại khá hơn mình, tuyệt nhiên không thể chịu đựng được bất cứ phần tử nào ở cùng trong cái biển khổ ấy lại thoát ly ra được. Ðó là cái gọi là " không muốn thấy cháo của người nghèo đóng váng " (Cùng phường ăn mày mắng nhau dầy chiếu).
Mọi người đều cùng khổ, nấu cháo húp qua ngày, vạn nhất có người nấu nhiều hơn một tý, cháo nấu đặc hơn một tý, trên mặt bát đóng một lớp váng mỏng thì cái đó sẽ không khỏi gây ra vấn đề và không ai chịu được cả. Không đánh cho nó gục thì không được.
Lúc mọi người đều ăn mỳ canh xì dầu thì rất là vui vẻ, không có việc gì xảy ra. Chẳng may tình hình biến đổi, tôi chỉ có thể ăn mỳ ruốc, mà anh lại được ăn mỳ sườn, như thế làm sao tôi có thể chịu nổi ? " Mình đói người khác cũng phải đói " thì lúc ấy mới không thấy được mình đói. " Mình chết đuối thì người khác cũng phải chết đuối " thì lúc đó mới không cảm thấy mình đang chết đuối. Nếu phải nhẩy xuống giếng tự tử tất phải tìm được người nhảy xuống trước để làm đệm cho mình.
Trong xã hội Trung Quốc, từ miệng kẻ bị thất bại vẫn nghe thấy nói có người thành công nào đó phải biết ơn anh ta, bởi vì nhờ có anh ta người nọ mới thành công được. Bạn bè cũ hoàn toàn không thể trở thành người làm của kẻ đã thành công. Người đã thành công cũng không thể nào có thể dùng bạn cũ của mình để làm việc cho mình được.
Trung Quốc là một dân tộc không biết sùng bái anh hùng. Người Trung Quốc chỉ sùng bái những con ma xui xẻo bị thất bại. Quan Công vì sơ xuất bị ám hại ở Kinh Châu, nên được người đời thắp hương cúng bái. Sở Bá Vương vì cùng đường phải tự cứa cổ nên được xem là anh hùng cái thế. Gia Cát Lượng vì cúc cung tận tụy dưới trướng Lưu Bị nên được tôn thờ là thần cơ diệu toán. Nếu Quan Công giữ được Kinh Châu, Sở Bá Vương có được thiên hạ, Gia Cát Lượng phục hưng được nhà Hán thì người đời sau chắc sẽ không sùng bái họ như vậy.
Ðối với người chết còn như thế, huống hồ những người đang sống. Cùng xuất thân, cùng một hạng người như nhau mà nó lại cứ dám ngoi lên cao. Nếu không kéo cho nó xuống ngựa thì làm sao chịu được ? Cái tinh thần " phản người cùng một tổ " này là một trong những thứ truyền thống " ưu tú " của dân tộc Trung Quốc từ mấy nghìn năm nay.
Người Trung Quốc đối với những người nước ngoài to khỏe xưa nay vẫn chăm chú đến việc giữ hòa bình, nhất là đối với những kẻ địch hung hãn. Dầu cho họ có cưỡi lên đầu lên cổ mình thì cũng cứ khoan hồng đại lượng, thản nhiên chịu đựng.
Duy chỉ đối với giữa người mình với nhau thì lại không thể để cho ai làm dù một hạt bụi bay vào mắt, không thể để ai nói điều ong tiếng ve gì về mình. Nếu có chuyện đó xảy ra tức thì phải đập cho vỡ đầu, hạ độc thủ, phóng ám khí.
Những thủ đoạn bôi mặt đá nhau này hễ dùng đến thì không thứ nào không dùng đến mức tối đa. Nhất là kiểu bịa đặt, thư nặc danh, tung tin đồn, báo cáo mật,... càng là những tuyệt kỹ mà người Trung Quốc xưa nay vẫn đoạt giải quán quân trong thiên hạ. Người Trung Quốc đặc biệt nghiện những thứ này. Bất kỳ dưới chính quyền nào, hễ trong tay họ nắm được quyền sinh sát là y như bị tật nghiện giống như nghiện ma túy, rất khoái được báo cáo mật về kẻ khác, nghe rồi tin những báo cáo ấy như một người mù.
Từ thời Tần (221-207 trước Công nguyên) Thương Ưởng đã làm một đạo luật gọi là " vu cáo phản tọa " (Vu oan cho người tội gì thì bị khép vào tội ấy), người Trung Quốc vốn là kẻ vẫn gìn giữ lại bất cứ thứ gì, thế mà không hiểu sao lại vứt cái đạo luật này đi ?
Một bạn cũ của tôi là ông Trưởng Cung, một con người tài hoa, viết chữ đẹp, vẽ đẹp, khắc đẹp, một người mến yêu cổ đạo, tâm địa tốt, lòng dạ ngay thẳng nghĩ thế nào nói thế ấy. Vào thời quân phiệt Bắc Dương, ông bị người mật báo với tội danh " thuộc đảng Cách mạng ", bị xử tử hình. Cũng may là ngay lúc còn chưa bị hành hình thì cuộc Bắc Phạt thành công. Ðến thời Mãn Châu Quốc (những năm 1930) ông lại bị mật báo là " phần tử Trùng Khánh ", cũng lại bị khép vào án tử hình. Chỉ còn một ngày nữa bị đem bắn thì quân Nhật đầu hàng, nếu không thì chắc chắn đã chết rồi.
Lúc quân cộng sản chiếm Ðông Bắc ông lại bị mật báo là " Hán gian " và " gián điệp Quốc Dân Ðảng ". Cùng một lúc hai tội danh này lại đưa ông đến một lần thứ ba bị tuyên án tử hình. Sau đó nhờ cuộc trao đổi tù binh ông được đem ra Ðài Loan. Nhưng ở đây ông lại bị mật báo là " phỉ điệp " (gián điệp của thổ phỉ, tức gián điệp cộng sản), bị xử 7 năm tù. Ông Trưởng Cung năm nay đã 82 tuổi, không biết rồi còn có thể bị chụp thêm một cái mũ nào nữa lên đầu hay không ?
Một người Trung Quốc, như một cá nhân thì thông minh tài trí ; nếu nói về năng lực, tinh thần hăng hái thì chẳng thua ai. Nhưng lạ thay, điều khiển một tỷ người Trung Quốc lại cũng dễ như lùa một đàn cừu.
Anh chỉ cần để cho tất cả mọi người cùng chịu khổ, cùng bị hà hiếp như nhau thì họ sẽ chịu đựng được những cực khổ và những sự ức hiếp đến độ không loại người nào có thể chịu được.
Nếu thi tài chịu đựng khổ cực, gánh vác tội vạ đồng thời ngậm đắng nuốt cay, nhất định người Trung Quốc đoạt giải quán quân.
Họ giỏi những thứ đó cho nên thường chỉ bị người dùng roi da quất lên lưng, bắt tụ tập lại thành hàng nghìn, hàng vạn giống một đàn kiến thợ để làm những công việc của bọn nô lệ, như xây Vạn Lý Trường Thành, đào Ðại Vận Hà (kênh đào liên tỉnh Hà Bắc - Sơn Ðông - Giang Tô - Chiết Giang - ND).
Nhất thiết anh đừng mong cải thiện cuộc đời họ. Cách tốt nhất là anh chịu khó lắng nghe họ kể khổ, làm phúc một tý cho họ bằng cách cho họ tưởng anh cũng khổ và đồng tình với họ. Chỉ cần như thế là họ thỏa mãn lắm rồi !
Chuyện " đập vỡ nồi để mọi người đều không có cơm ăn ", người Trung Quốc nào cũng làm được. Nhưng " nhặt củi để đốt cho đống lửa chung cháy to lên " thì không người Trung Quốc nào làm nổi.
Khi xem xi-nê, đến đoạn cô nhi quả phụ gặp bước đường cùng, bi thương tuyệt vọng, tất cả người xem kẻ thì lau nước mắt, người chùi nước mũi, hết đợt này đến đợt khác. Cả rạp sụt sùi chẳng khác nào cuộc đời của chính bản thân mình đang được chiếu trên màn bạc vậy. Lúc đó người Trung Quốc mới thông cảm làm sao cái tâm trạng " người đói cũng như ta đói, người chết đuối cũng như mình chết đuối " (Nhân cơ kỷ cơ, nhân nịch kỷ nịch), cái tình cảm đó lúc ấy thể hiện đến cùng cực.
Nhưng lúc tan phim đi về, ra đến ngoài đường, bỗng thấy bên vỉa hè bao nhiêu trẻ thơ tàn phế đang bò lê bò càng, người già yếu bệnh hoạn đang van xin bố thí. Những nhân sĩ hảo tâm mắt còn đỏ hoe vì vừa mới khóc trong rạp kia vội vàng hiên ngang đi lướt qua thật mau như không hề nhìn thấy gì.
Ðó đúng là người Trung Quốc. Họ sống ở hai thế giới khác nhau, vĩnh viễn mang trong người một nhân cách song đôi. Một mặt là thế giới hiện thực đầy rẫy chiến tranh, đói khát, đau khổ, chết chóc, người với người quyết liệt kiểu " mày chết tao mới sống ". Ở đó, dù cho có là vua Ðường, Nghiêu, Ngu, Thuấn cũng không thể cho ai một cái bánh nướng. Những thứ của Kinh Thi hay lời dạy của Khổng Tử cũng không thể đem bỏ vào cho đầy nồi, nấu lên cho thành cơm được. Tu (thân), tề (gia), trị (nước), bình (thiên hạ) chỉ là những thứ của nhà người khác. Khi đói thì chỉ có mỗi cái bụng của mình là thứ quan trọng nhất.
Dân tộc Trung Quốc là một dân tộc lâu đời, có lịch sử văn hóa 5.000 năm, mà cũng có cả kinh nghiệm của 5.000 năm sống khốn khổ. Những ông thánh hiền xưa để lại cho chúng ta một lô lý luận về cách làm người phải như thế nào. Nhưng 5.000 năm sống gian khổ kia cũng mài dũa ra một lô kinh nghiệm quý báu về cách phải làm như thế nào để sinh tồn.
Trên lý luận thì phải làm như thế này mới đúng, nhưng trong thực tế lại phải làm như thế kia mới có hy vọng sống còn. " Lý tưởng " và " thực tiễn " vĩnh viễn tương phản nhau. Ðã không thể vứt lý tưởng đi, lại không thể không chú ý đến thực tế. Thế là chỉ còn có cách cứ phải sống cùng một lúc trong cả hai cái thế giới đó, mang lấy cái nhân cách nhị trùng trong một thân phận.
Người Trung Quốc trong thế giới lý tưởng thì giảng đạo đức, nói nhân nghĩa, nhất thiết có đủ cả những đức tính trung, hiếu, nhân, ái, tín nghĩa, hòa bình. Người Trung Quốc trong thế giới hiện thực lại luôn luôn giãy dụa bên bờ đói khát, nằm giữa ranh giới của sự sống và cái chết.
Trong đời người chuyện lớn nhất là làm sao giữ được mạng sống của mình. Ðể giữ được nó, không có việc gì mà không dám làm, dù phải lừa dối lẫn nhau, dù gặp sao hay vậy, sống tạm bợ cho qua ngày. Cái đạo lý làm người trong thế giới lý tưởng chỉ là tấm gương để cho người khác soi, là lời để cho người khác nghe. Cái hành vi trong thế giới hiện thực mới là cuộc sống thật của mình.
Bởi vậy anh mãi mãi không tài nào có thể đoán được ý đồ của người Trung Quốc qua lời nói của họ được. Một người Trung Quốc bảo anh ta chúa ghét khách sáo, nhưng anh đừng tưởng thật mà tùy tiện với anh ta được. Anh ta bảo rằng hôm nay anh ta chẳng hứng nói chuyện gì cả, tuy vậy anh không thể không mời anh ta nói chuyện được.
Nếu chỉ có thế thì cũng đơn giản thôi. Chúng ta chỉ cần đảo ngược những lời anh ta nói, tất sẽ đúng ý anh ta, có phải thế không ? Nhưng thực ra lại không phải hiển nhiên như vậy.
Người Trung Quốc nói, nhiều khi có nghĩa ngược lại, nhưng có lúc nó lại thật là như vậy. Anh có là con giun trong bụng anh ta cũng chưa chắc có cách gì biết đúng được ý của anh ta.
Lão Trương và lão Vương là bạn cũ. Con trai của lão Trương cưới vợ nhưng không gửi thiếp mời lão Vương. Việc này làm cho lão Vương nắm chắc lý lẽ trong tay, nên sau đó lúc gặp lão Trương, khí thế đùng đùng, bắt đầu hỏi tội :
- " Anh xem bạn bè bằng nửa con mắt, có đúng không ? Sao con lấy vợ mà không báo cho người ta một tiếng ? "
- " Ðó là chuyện của con trẻ, tôi chẳng dám phiền đến ông anh làm gì ".
- " Nói gì lạ thế ! Chúng mình là chỗ thâm giao, sao lại có thể không báo cho nhau một tiếng nhỉ ? "
- " Thôi, xin lỗi ! Xin lỗi ! Chủ nhật tuần sau đứa con thứ hai của tôi cũng sẽ lấy vợ mà. Cho dù thế nào đi nữa, nhất định cũng mời anh vui lòng đến dự cho ! "
- " € ! ž ! "
Thế là sau đó lão Vương đi nói khắp nơi rằng lão Trương liên tục mượn cớ con lấy vợ để làm tiền. Rồi lại lén đến mật báo Cục Hành chính Nhân sự là lão Trương vi phạm vào " Mười điều Quy định đổi mới của ngành giáo chức ".
Các nhà hiền triết Trung Quốc đặt tiêu chuẩn cho con người quá cao, cái đòi hỏi của họ đối với con người quá khắc nghiệt, đặt ra quá nhiều quy phạm cho hành vi con người mà một kẻ trần tục hoàn toàn không thể tuân theo, nhất là càng không thể làm nổi trong một xã hội hiện thực.
Cứ chiếu theo các quy tắc của họ mà nhất nhất làm theo, nếu không bị gọi là đồ ngốc thì chắc chắn cũng sẽ đi đến chỗ bị diệt vong. Vả lại họ còn nhất quyết cho rằng " nếu không thành thánh hiền, thà làm cầm thú " (Bất vi thánh hiền, tiện tác cầm thú). Thánh hiền trong đền miếu chỉ là những thứ thần tượng làm bằng đất, gỗ ; cầm thú với con người thực ra có nhiều sự khác nhau. Người vẫn là người, tuy rằng có khuynh hướng muốn trở thành thánh hiền, nhưng xét cho cùng vẫn không phải là thánh hiền. Người là loại động vật có thất tình và lục dục.
Mục đích tối hậu của cuộc đời là sống còn. Mấy nghìn năm gian khổ đã tôi luyện cho người Trung Quốc tinh khôn ra. Cứ cái nguyên tắc nào, cái lý tưởng nào giúp cho họ sống còn được tức là những thứ cao nhất, lớn nhất, hay nhất.
Người Trung Quốc đều hy vọng mọi người nhiệt tâm vì công ích, ham làm việc nghĩa, xem việc thiên hạ cũng như việc mình, ít nhất có thể thấy bất bình thì tuốt gươm tương trợ, bênh vực lẽ phải, ủng hộ chính nghĩa. Nhưng mấy nghìn năm đó lại dạy cho con người tuyệt đối chớ chuốc lấy những việc không đâu, vì kết quả của nó, nếu nặng có thể đưa đến chuyện mất mạng như chơi, nếu nhẹ cũng đưa đến những chuyện hết sức phiền toái.
Ðể sống còn, phương pháp duy nhất là sống như con rùa, lúc phải rụt đầu thì rụt đầu. " Tuyết trước nhà ai người nấy quét, chớ có lo đến sương trên mái ngói nhà người khác " (Các nhân tự tảo môn tiền tuyết, hưu quản tha nhân ngõa thượng sương), " nghề có thể nuôi thân thì theo, việc không dính đến mình chớ mó " (Nghiệp khả dưỡng thân tu trước kỷ, sự vô can kỷ mạc lao tâm).
Trừ phi chán sống mới đi bắt chước Kinh Kha, Nhiếp Chính (Hai người hiệp khách đời Chiến Quốc, Kinh Kha đâm Tần Thủy Hoàng, Nhiếp Chính đâm Hàn Tường - ND). Tôi lại xin kể ra đây vài chuyện khác để nói về quy tắc sống đó :
Tại ngã tư, một người cưỡi xe máy bị xe đâm ngã lăn quay ra giữa đường, máu chảy lênh láng, nguy cấp trăm phần. Kẻ gây tai nạn đã cao chạy xa bay. Những xe qua lại đều vòng sang một bên mà đi thật nhanh, chẳng ai muốn rước phiền phức vào thân.
Ðột nhiên có một anh tài xế tắc-xi tốt bụng đi qua thấy không đành lòng mới vội vàng dừng xe lại, ôm người bị thương lên xe đưa ngay đến nhà thương, đồng thời nộp hộ cả tiền nhập viện, chỉ cốt làm sao có thể cứu được một mạng người.
Người bị thương sau khi từ cửa địa ngục trở về (tai qua nạn khỏi) liền tố ngược lại, vu oan cho ân nhân cứu mạng chính là hung thủ đã làm mình bị thương.
Lý do anh ta đưa ra rất đơn giản : nếu không phải là người đã gây ra tai nạn thì có lý gì mà vốn không quen biết bỗng nhiên đem một người bê bết máu lên xe mình đưa đến nhà thương, lại còn trả dùm cả tiền nhập viện nữa ?
Quan tòa cũng coi đó là lý do đầy đủ. Thế là vị lái xe tốt bụng ấy cuối cùng bị mắc vào ác báo, phải bán cả xe đi để bồi thường cho cái lỗi lầm đã cứu người của mình, lại còn bị xử ngồi tù thêm một năm trời nữa.
Còn chuyện kiểu thế này có lẽ nhiều người cũng đã từng chứng kiến : một hôm trời mưa, trên chuyến xe buýt chật ních người, các cửa xe đều đóng kín mít. Lúc ấy lại có một đứa du côn dở thuốc ra hút trong xe, khói thuốc cay xè. Mọi người trong xe chẩy cả nước mắt nước mũi, người thì ho, người thì nghẹt cả thở, thế mà không một ai dám đứng ra bảo cái đứa kia tắt thuốc đi.
Tại Trung Quốc, chỉ cần sự việc xúc phạm một lúc đến hai người trở lên thì tuyệt đối chẳng ai có thể đứng ra phản đối cả. Ai cũng nghĩ kẻ bị thiệt hại không phải chỉ có mỗi một mình ta. Nếu mọi người đều có thể chịu đựng được, không có lý do gì mình lại xuất đầu lộ diện để đối phó. Nếu phải thi sự nhẫn nại, chịu đựng thì trong trường hợp này, không loại người nào có thể so với người Trung Quốc.
Ðối với việc xâm phạm vào quyền lợi của bản thân, chỉ cần có người khác cũng bị như họ thì người Trung Quốc nuốt giận nín thinh, rút lui không dám đương đầu, không dám làm mếch lòng kẻ đang gây thiệt hại cho mọi người, không muốn cho ai khác có thể được hưởng lợi lây nhờ hành động hoặc sự can thiệp của mình.
Còn đối với những việc không liên quan đến quyền lợi bản thân, người Trung Quốc luôn luôn bo bo giữ mình, đứng ngoài cuộc, làm kẻ bàng quan đứng xem bên ngoài, không bao giờ nhúng tay vào. - Người giỏi dại gì đi ngửi cứt chó ? Anh bảo tôi là loại máu lạnh ư ? Máu không lạnh thì làm sao tôi có thể sống lâu trăm tuổi được ?
Bất cứ vào thời đại nào, làm người Trung Quốc mãi mãi còn là một thứ tai họa. Từ 5.000 năm nay, người Trung Quốc luôn luôn giẫy dụa trong đói khát, luôn luôn vật vờ trước cửa địa ngục, dở sống dở chết.
- " Ăn uống no đủ rồi mới biết đến vinh nhục; kho đụn có đầy thì mới biết được đến lễ nghi " (Y thực túc nhi hậu tri vinh nhục, thương lẫm thực nhi hậu tri lễ tiết).
Trong lúc còn đang sống chết, mất còn chưa biết thế nào thì làm sao có thể ung dung vái chào ai được. Nếu bốn, năm ngày chưa có một hột cơm vào bụng, mắt mũi tối sầm, thì bất kể thịt chó, thịt bò, mà thậm chí ngay cả đến thịt người anh cũng vẫn cứ phải ăn để mà sống. Các ông thánh Trung Quốc còn phán thế này :
" Ðừng lo ít, chỉ lo không đồng đều ; đừng lo nghèo, chỉ lo không được an thân ! " (Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần nhi hoạn bất an)
Ðây là hai câu rất hồ đồ.
Ðã ít thì làm sao mà đồng đều cho được ?
Một quả táo nếu đem chia cho một vạn người ăn thì làm sao mỗi người có được một phần bằng nhau ?
Ðã nghèo thì làm sao mà yên thân được ?
Nếu một người năm, sáu ngày không có một tý gì vào mồm thì làm sao anh ta có thể vui vẻ vái chào mọi người ? Ðể rồi lui vào chờ chết chăng ?
" Ðừng lo ít, chỉ lo không đồng đều " là câu dùng để dạy mọi người phải cố gắng chịu đói chịu khổ như nhau.
" Ðừng lo nghèo, chỉ lo không được an thân " là để yêu cầu mọi người Trung Quốc từ nơi đói khổ xin được tiến vào Ngục Môn Quan (Cửa Ðịa Ngục) một cách ngoan ngoãn.
Người giàu có chưa chắc đã rộng rãi, nhưng kẻ bần cùng và người keo kiệt nhất định là hai anh em sinh đôi, cả hai trạng thái này đều đưa con người ta đến chỗ trở thành ích kỷ.
Người Trung Quốc có ích kỷ không thì tôi không biết. Nhưng tôi nhớ một chuyện thế này. Năm 1949, tại một công xưởng quốc doanh, một viên chức có đôi giầy đế bị thủng muốn tìm miếng da để chữa. Anh thấy ở trong một cỗ máy, chỗ bộ phận khởi động, có cái dây đai bằng da dài hơn 10 thước, khả dĩ có thể dùng được cho việc chữa giầy. Thừa lúc đêm đến máy ngưng chạy, anh lén cắt lấy khoảng 3 tấc.
Kết quả là giầy anh sửa rất tốt, nhưng cỗ máy ở phân xưởng lại không chạy nữa. Nó nằm bất động trong một thời gian hơn hai tháng, vì thuở đó những dây đai da như loại ấy còn phải nhập từ nước ngoài vào.
Chuyện anh chàng này - chỉ vì cắt một miếng da nhỏ nhưng làm hại cho cả một công xưởng - còn có thể có nguyên do : một phần vì giầy hỏng cần sửa gấp mà lại không biết cách nào làm tốt hơn, một phần vì bản thân vốn là thợ thuyền không được giáo dục đến nơi đến chốn, việc này còn có thể hiểu được.
Nhưng một giáo sư đại học chắc chắn phải được giáo dục tốt hơn chứ ?!
Năm đó, một phái đoàn giáo sư đến tham quan một cơ sở, thấy trên một ngôi đình trong hoa viên nơi đây, hoa đậu tía (Wistaria, Glycine) đang nở rất tươi đẹp. Cái loại hoa này từ dưới đất chỉ có một thân gốc bò lên đến trên nóc đình mới tỏa ra làm nhiều nhánh nhỏ, lan đi khắp nơi, rũ xuống thành một cái tàn hoa lớn. Một giáo sư nhìn thấy loại hoa đẹp này rất lấy làm ưa thích, nhân lúc không ai chú ý, lấy kéo sắc ra, bụp một cái, anh ta cắt ngay một đoạn thân chính để đem về nhà ươm trồng.
Người Trung Quốc, nếu thấy một việc gì mang đến thuận tiện hay lợi ích cho mình, thì cứ làm chứ không cần biết đến những tai hại mà nó có thể gây ra cho những người khác.
Con đê phòng lụt là một thứ hệ trọng đến sinh mệnh và tài sản biết bao nghìn, vạn người. Thế mà có kẻ chỉ vì vài đồng bạc đã không ngần ngại cắt những giây thép trên cửa đê để đem đi bán cho đồng nát. Ðến lúc lụt lội xảy ra làm hàng nghìn người chết, tổn thất ức triệu tài sản thì người đó chỉ nghĩ rằng " đó là việc của các người, chẳng can dự gì đến tôi ". Trận thủy tai năm 1959 là một chứng cứ rành rành của việc ấy.
Chắc nhiều người hẳn vẫn còn nhớ câu chuyện xảy ra cách đây mấy năm. Có công ty nọ bán ra một lô thuốc kháng (trụ) sinh pê-ni-ci-lin dùng cho thú vật đã bị hư. Sau đó một nhà buôn mua được, đóng bao bì lại thành loại pê-ni-ci-lin cho người dùng, rồi đem bán ra thị trường. Người mua tiêm vào bị chết liên tục. Thế mà việc này rồi cũng " chìm xuồng " luôn, không ai biết được kẻ nào là thủ phạm !
Hiện tại ở Ðài Loan chẳng vẫn còn thấy có nhiều ống tiêm nhựa đã dùng ở nhà thương xong lại được đem ra bán trên thị trường hay sao ?
Một bộ máy cơ khí trị giá hàng nghìn, hàng vạn đô-la Mỹ là đồ công cộng, tài sản chung của mọi người, song nếu tôi cưa được một ống sắt từ trong đó ra để làm một cái gậy, dù cái gậy ấy không đáng giá tới vài chục đô nhưng nó là của tôi, thì tôi cứ làm. Nếu anh không thấy rõ chuyện này, anh không xứng đáng là người Trung Quốc chút nào hết.
Rất may thay ở các nơi công cộng bây giờ đều dùng cửa tự động. Việc này làm cho cơ hội mất mặt của người Trung Quốc đã bớt đi nhiều. Trước kia khi còn dùng cửa lò-xo, người Trung Quốc mỗi khi đi ngang chỉ cần lấy chân đạp một cái để mở cửa rồi bước phắt qua, mặc kệ không cần biết đằng sau có ai không, cứ thả cho cửa buông ra làm nhiều người đến sau dập mày, dập mặt. Ðó cũng là một trong những " đức tính " của người Trung Quốc.
Hiện nay Ðài Loan đã có tiền rồi, ngành du lịch cũng được mở mang, người Trung Quốc lại càng có nhiều cơ hội để biểu diễn những truyền thống ưu việt của họ ở những nơi ăn uống đông du khách.
Người Trung Quốc lúc nào cũng luôn mồm bảo " bị thiệt thòi là được phúc ". (Ngật khuy thị phúc). Nhưng trên thực tế họ lại rất sợ bị thiệt thòi.
Tại những bàn tiệc ăn thả cửa, lúc lấy thức ăn, bất kể mặn ngọt chua cay, lại cũng không hề ước lượng xem mình ăn được chừng nào ; cứ thấy có thứ nào bày trên bàn là nhồi cho thật đầy vào bát đến độ có thể làm bội thực được một con voi. Nhưng rồi lại không thể ăn nhiều hơn người khác, cuối cùng phải bỏ lại thừa mứa phí phạm biết bao nhiêu.
" Trời đất là quán trọ của muôn loài " (Thiên địa giả, vạn vật chi nghịch lữ); nhưng người Trung Quốc lại xem đất nước mình là một quán trọ, chỉ là chỗ để trú chân tạm thời, không có ý định ở lâu dài. Họ chỉ thích những việc nhanh được lợi của một thứ " chụp giật chủ nghĩa " nhỏ nhen.
Câu " Quan không sửa chữa công đường " (Quan bất tu nha) là ý nói không ai muốn làm việc gì để kẻ khác có thể trục lợi. " Trẻ tuổi không trồng cây hồ đào " (Thiếu bất chủng hồ đào), bởi vì cây này (walnut, noyer) phải trồng mười mấy năm mới ra quả.
Vật liệu mà người Trung Quốc dùng để xây nhà thường là đất, gỗ mặc dầu vẫn có những thứ bền bỉ hơn như gạch, ngói, đá, thép. Lịch sử Trung Quốc cả mấy nghìn năm nhưng chỉ thấy còn lại rất ít những nhà cửa cổ kính, cái cổ nhất nhiều lắm may ra được vài trăm năm. Trong khi đó, nhà cửa của người Tây phương ở khắp nơi đều xưa cũ như lịch sử của họ.
Người Trung Quốc không yêu mến một tý nào cái " quán trọ lớn " họ đang ở tạm trên trái đất này, cũng chẳng nghĩ gì đến những lữ khách sẽ đến đó một khi họ đã ra đi. Nguyên do cũng chỉ vì quá nghèo khổ, nghèo khổ nên ở đâu, lúc nào cũng gần kề sự chết đói, chẳng thể nào nghĩ được đến một việc gì khác ngoài sự sống còn.
Người Trung Quốc đối với những tài nguyên có tầm quan trọng sống còn của con người trên trái đất vẫn có thái độ " giết gà lấy trứng, tát đầm bắt cá ", chỉ cần có được cái lợi ngay trước mắt, không bao giờ nghĩ đến chuyện trường kỳ như kiểu nuôi cừu để lấy len.
Hễ chỗ nào có người Trung Quốc ở qua, đất đai thường bị khai thác đến kiệt quệ, rừng bị tàn phá một cách vô tội vạ, cầm thú bị săn bắn đến tuyệt chủng, cá tôm bị đánh bắt đến không còn sinh sản kịp. Mảnh đất trên đó vốn có một dây chuyền sinh thái của vạn vật đều bị người Trung Quốc bóc xé đến trơ trọi chẳng còn gì ngoài một vùng cát vàng mênh mông.
Tại Vũ Cống, ở Cửu Châu (Ung Châu), nơi ngày xưa là " ruộng đồng bát ngát " ; ngày nay " chỉ có nước mà không có thuyền, mười quả núi thì chín quả trọc ". Phía đông bắc Trung Quốc (Mãn Châu) và Ðài Loan ngày nay còn tương đối trù phú, bởi vì hai miền đất này là nơi người Trung Quốc di dân đến muộn, vì vậy tài nguyên vẫn còn chưa bị tàn phá đến cạn kiệt.
" Người quân tử mà thích của cải thì phải kiếm được nó bằng cách hợp đạo lý " (Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo). Cái câu nói của người xưa này xem ra vẫn còn có giá trị đến ngày nay. Con người phải theo đuổi lợi ích, nhưng không khi nào được quên chính nghĩa.
" Nghĩa " và " lợi " vốn không hề xung khắc mà còn bổ túc cho nhau nữa. Nhưng xưa nay các ông thánh Trung Quốc cứ ra rả bảo " nghĩa " và " lợi " không thể đi đôi với nhau. Nào là " hãy giữ tình bạn cho trong sáng, không được mưu lợi ; hãy làm cho đạo lý sáng tỏ, không được tính toán công lao " (Chính kỳ nghị bất mưu kỳ lợi, minh kỳ đạo bất kế kỳ công).
Vẫn cứ cái thói đạo đức giả, nào là trọng nghĩa khinh tài, không màng đến chuyện thành công. Ở đầu lưỡi lúc nào cũng lớn lối nói toàn chuyện trên trời dưới biển, hoàn toàn chẳng giống với cái gì xảy ra trong cuộc sống thực tế cả.
Mấy thế hệ người Trung Quốc được giáo dục trong tinh thần của " Nghĩa Hòa Ðoàn " (tên một hiệp hội đời Thanh, 1899 khởi nghĩa ở Thiên Tân, chủ trương phò Thanh diệt Tây phương, đưa đến việc tám cường quốc liên quân đánh Trung Quốc - Boxers - ND) hễ mở mồm ra là nói : " Vì cái chủ nghĩa thực dụng của Tây phương mù mịt, nên cái đạo đức của Trung Quốc bị đắm chìm " (Do vu Tây phương công lợi chủ nghĩa đích di mạn, tài sử đắc Trung Quốc nhân đạo đức luân táng). Sự thực thì lại hoàn toàn trái ngược. Vì trên thế giới này không có loại người nào lại thực dụng bằng người Trung Quốc.
Người Trung Quốc làm bất cứ việc gì, trước tiên bao giờ cũng nghĩ đến một vấn đề :
" Chuyện này có chỗ nào mình lợi dụng được không ? "
Ông bác học người Anh Newton trước khi tìm ra " Ðịnh luật vạn vật hấp dẫn " (còn gọi là " Thuyết trọng lực ") đi đồng thì phân rơi vào hố xí, sau khi phát minh định luật này, lúc đi đồng phân vẫn cứ rơi vào hố xí. Hoàn toàn không phải là trước khi phát minh thì đi đại tiện cứt bay lên đầy trời. Vì vậy dân tộc Trung Quốc không bao giờ " phát minh " ra được một " thằng ngốc " như Newton cả.
Ga-li-lê tìm được " Nguyên lý rơi tự do của vật thể ", đối với người Trung Quốc đấy chỉ là cái trò chơi mất thì giờ, chẳng có giá trị thực dụng gì cả. Những người " hiền " chẳng ai chơi cái trò đó !
Người Trung Quốc khấn Bồ-tát phù hộ cho họ trúng số độc đắc. Nếu họ trúng thì họ sẽ diễn ngay cái tuồng đền ơn, trả nghĩa. Nếu không trúng thì họ sẽ rủa Bồ-tát là đồ tượng gỗ, tượng đất. Chỉ cần có gì hay thì thần thánh nào họ cũng thờ. Bằng không thì họ chẳng tin thánh thần nào cả, chỉ tin vào chủ nghĩa thực dụng của họ mà thôi.
Người Trung Quốc không có cái cuồng tín tôn giáo, không hề có những thánh tử vì đạo, lại cũng không thể để xảy ra chiến tranh vì tín ngưỡng.
Người Trung Quốc lại càng không có những chuyện tình trong đó những người yêu nhau chết vì tình yêu. Người Trung Quốc học đạo " Trung Dung ", học " sự tự kiềm chế ", học cái gì cũng phải một vừa hai phải. Nói trắng ra tất cả lại vẫn xuất phát từ quan điểm thực dụng. Không thể buông thả cho nhiệt tình bộc lộ, càng không thể quả quyết về một việc nhỏ nhen nào. Bất cứ cái gì cũng cân nhắc lợi hại, đắn đo xem có đáng hay không đáng.
" Cần gì ! " (Hà tất !) là một câu đầu lưỡi nói lên cái nguyên tắc chỉ đạo tất yếu của người Trung Quốc khi buộc phải khuất phục một thế lực xấu.
Anh bị người ta gài bẫy, bị oan tày đình, tan cửa nát nhà, vợ con ly tán. Anh phải báo thù, phải đòi cho được lẽ phải.
Lúc đó bạn bè sẽ khuyên anh :
" Cần gì ! Sự việc đã thế rồi, dĩ nhiên anh phải rửa oan, báo thù. Nhưng người đã chết rồi có sống lại được nữa đâu ? Kẻ đã ly tán rồi làm sao có thể đoàn tụ được ? Ðối với anh (hành động bây giờ) phỏng có ích chi ? "
" Cần gì phải làm như thế ! ", " Có ích lợi gì đâu ! ". Hai câu này khiến cho xã hội Trung Quốc vĩnh viễn không có chính nghĩa, làm cho người Trung Quốc vĩnh viễn không thể giữ vững được nguyên tắc.
Bị chủ nghĩa thực dụng chi phối, hễ có người đụng một tý vào những việc khó khăn hay mạo hiểm là người Trung Quốc liền cho rằng đó là những thằng điên.
Châm ngôn của người Trung Quốc là :
" Thân nghìn vàng (của ta) không thể ngồi trong ngôi nhà sắp đổ " (Thiên kim chi tử, tọa bất thùy đường), và " Tay không đánh nhau với cọp, không thuyền mà lội bừa qua sông lớn thì có chết cũng không ai thương tiếc, nhưng ta thì không thể nào như vậy ! " (Bạo hổ bằng hà, tử nhi vô hối giả, ngô bất dữ giã -lời Khổng Tử khuyên Tử Lộ là học trò lỗ mãng).
Trên thế giới này biết bao việc mạo hiểm như nhảy dù từ trên không, đi thuyền qua thác nước, đi mô-tô qua tường lửa,v.v... đó chỉ là những thứ của mấy thằng khờ khạo, kiến thức nông cạn. Người Trung Quốc chân chính không thể nào làm những thứ đó. Bởi vì theo họ nghĩ, ngoài việc tìm lấy những cảm giác mạnh ra, làm những thứ đó chẳng đem lại được một lợi ích thực tế gì.
Người Trung Quốc lúc dự hội nghị không bao giờ dám nói ngay ra một cách thẳng thắn và chính xác ý kiến của mình. Hội nghị kết thúc rồi cũng tuyệt đối không dám bỏ đi những ý kiến riêng của mình.
Nói chuyện về đạo lý với người Trung Quốc chỉ là chuyện uổng công. Lúc bắt đầu xin góp ý về một việc nào đó thì mọi người không ai có ý kiến gì cả, nhưng khi sự việc đã được quyết định rồi thì tất cả mọi người đều muốn có ý kiến.
Nói tóm lại một câu : người Trung Quốc mãi mãi không thể nào một lòng đoàn kết, vĩnh viễn không thể chủ động giữ vững được các quy tắc, cho nên chỗ nào có người Trung Quốc nhất định là có khả năng xảy ra hỗn loạn.
Người Trung Quốc không bao giờ quý trọng tình cảm của người khác, cũng không bao giờ quan tâm đến sự sống chết của kẻ khác. Lúc người Trung Quốc nói, họ muốn cả thế giới nghe được lời họ. Lúc đang nói, vì muốn toàn thế giới lắng nghe, nên họ phải gào lên thật to cho tiếng rền mái ngói, cho tất cả đối phương đều khiếp sợ oai mình. Chỉ cần có hai người Trung Quốc ở một chỗ là có thể ồn ào đến chết người được.
Nơi nào người Trung Quốc đã đặt chân đến thì không thể có chỗ nào là không bẩn. Có hơn một tỷ người Trung Quốc trên thế giới này, làm sao mà không chật chội được ?
Ngoài ồn, chật, bẩn, loạn, lại còn thêm cái tật " thích xem " (người khác đau khổ), hoặc " chỉ quét tuyết trước nhà mình mà không động tý gì đến sương trên mái ngói nhà người khác ".
Họ luôn mồm " nhân nghĩa " mà tâm địa ích kỷ, tham lam. Một đằng hô to khẩu hiệu : " Phải tử tế với người và súc vật ! ", trong khi đó ngày ngày không ngừng xâu xé lẫn nhau.
Tóm lại, người Trung Quốc đúng là một dân tộc vĩ đại, vĩ đại đến độ làm cho người đời nay không có cách nào hiểu nổi tại sao họ có thể tồn tại được trên quả địa cầu này những 5.000 năm ?
Chữ viết tắt trong bài :
BD : Bá Dương
ND : Người dịch
NHT : Nguyễn Hồi Thủ
Lời người dịch - Thầy thuốc và người bịnh ở nước hũ tương (Tựa của Bá Dương)
Phần I - Các bài nói chuyện : 1. Người Trung Quốc xấu xí / 2. Người Trung Quốc và cái vại tương / 3. Ðời sống, văn học và lịch sử
Phần II - Các bài viết (phô bầy bệnh già nua lẩm cẩm) : . Cái Triết học bắt đầu bằng kính sợ / . Chỉ trừ tôi ra / . Tại sao không thể có mưu lợi được ? / . Giữ mình là thượng sách / . Loài động vật không biết cười / . Nước có lễ nghĩa / . Ba câu nói / . Cái nước xếp hàng / . Rút cuộc là cái nước gì ? ( Ðám cưới, đám ma, quán ăn ) / . Chẳng kể thị phi, chỉ nói đến chính đạo / . Phố Tầu, một động quỷ nuốt tươi người Trung Quốc . Nói chuyện về người Trung Quốc xấu xí . Kiêu ngạo hão . Noi gương Tây phương nhưng không làm nô lệ / . Kỳ thị chủng tộc / . Lấy hổ thẹn làm vinh dự
Phần III - Các bài phê bình ( Sóng dữ vỗ bờ ) . Cái vại tương, một biểu tương của căn bệnh văn hóa Trung Quốc / . Làm sao sửa chữa cái bệnh đến chết cũng không nhận lỗi / . Năng lực suy luận bị trục trặc / . Nhẩy ra khỏi hũ tương / . Cần dấu cái ác phô trương cái thiện, đừng tự hạ mình / . Người Trung Quốc hèn hạ / . Không hiểu được hài ước / . Có cái văn hóa không có văn minh ? / . Không thể bôi nhọ văn hóa Trung Quốc / . Văn hóa Trung Quốc, bôi nhọ hay đánh phấn ? / . Người Trung Quốc vĩ đại.