|    | 
    
      Thiên VII
      -ooOoo- 
      
       
            
      QUAN NIỆM VỀ NGHIỆP TRONG KINH SANDAKA
      Trong 
      kinh Sandaka-suutta Majjhima-nikaaya Majjhimapanaraasaka, Đức Aananda 
      có thuyết những quan niệm nghiệp trong các tôn giáo khác đối 
      với Phật giáo, cho Sandaka-paribbaajaka rằng ta có thấy 
      sự chế định của các giáo chủ khác trăm muôn ngàn lần xa 
      Phật giáo, vì lòng cố chấp và buông thả theo sự rủi may, 
      số mệnh cũng có như: 
      1.- Giáo chủ Para.nakassapa 
      thuyết rằng: không có nghiệp, không có phước không có tội 
      gọi là Akiriyaadi.t.thi nghĩa là làm thế nào cũng như không 
      làm, vì không có phước, tội. 
      2.- Giáo chủ Makkhaligosala 
      cho rằng: sự trong sạch hay nhơ bợn vô nhân quả tức là 
      sự hành vi cho trở nên liêm khiết không có, người với sự 
      luân hồi như cuộn dây nhỏ, họ nắm mối đầu rồi liệng 
      đi. Khi cuộn dây ấy tháo ra hết thì, tự nó ngừng. Quan 
      niệm này gọi là aketukadi.t.thi. Nghĩa là ý kiến độc đoán vô nhân. 
      3.- Giáo chủ Ajitakesakambala 
      dạy rằng, (tiếng gọi) là phước, tội, cha, mẹ, người, thú 
      ấy chẳng có chi cả, họ lầm gọi nhau như vậy. Cả tứ đại: 
      đất, nước, lửa, gió hòa nhau, khi tan rã thì tiêu mất. 
      Đây là Ucchedadi.t.thi 
      và Natthikadi.t.thi: ý kiến độc đoán tiêu diệt và ý 
      kiến độc đoán hư vô nghĩa là hiểu rằng trống không, không 
      có chi. 
      4.- Giáo chủ Pakuddhakaccaayana 
      giảng rằng: trong thân thể chúng ta có hai khối: 
      Khối  tức là đất 
      Khối  tức là nước 
      Khối  tức là gió 
      Khối  tức là lửa 
      Khối  tức là vui 
      Khối  tức là khổ 
      Khối  tức là sinh mệnh 
      Tất cả bảy khối 
      ấy dù bị ai làm thế nào cũng như không làm, vì là khối 
      với khối, gọi là natthikadi.t.thi ý kiến độc đáo hư vô. 
      5.- Giáo chủ Sa~navavelatthaputra 
      bảo rằng: thế này cũng chẳng có, thế kia cũng chẳng có, 
      nghĩa là phủ nhận bất kỳ cái gì, gọi là Vikkhepaladdhi 
      quan niệm lúc lắc, trở đi trở lại, hay ý niệm hòa lộn. 
      6.- Giáo chủ Nigandhanaataputra 
      có căn bản gần với nền tảng Phật giáo, chỉ khác nhau 
      chỗ hành vi sái nhau, nghĩa là phái này chế định rằng, người 
      tu ngoài Phật giáo phải gồm có bốn phương pháp là: 
      1.- 
      Cấm làm tội lẫn nhau. 
      2.- Gồm có "thiên" pháp. 
      3.- Tiêu diệt tội lỗi. 
      4.- Đặt quả cuối cùng của Phạm hạnh. 
      Người hạnh như 
      vậy gọi là chứng Atma"m (cái ta). 
      Những quan niệm 
      của giáo chủ ấy được xán lạn trước thời kỳ Đức 
      Phật giác ngộ bằng sự không đem lợi ích đến các tín đồ 
      vừa với sự tôn thờ, sùng bái của họ. Khi Đức Phật tuyên 
      bố Chánh pháp, phổ cập trong khắp nơi rồi, Phật giáo có 
      ánh sáng chói lọi, có sức chi phối các giáo phái ấy. Vì Ngài 
      giảng thuyết cho mọi người hiểu rằng: "nghiệp của 
      tự mình, chỉ có bấy nhiêu, áp bức mình cho thấp hèn và 
      nghiệp của chính mình, ngần Này, chống đỡ mình cho cao 
      sang". Ai là kẻ tạo nghiệp? Cũng tức là tự mình vậy.
            
        
      Khi Đức Aananda 
      giải như thế rồi, Sandakaparibbajaka (bần tụ hội) 
      rất ca tụng, rồi xin Ngài thuyết thêm rằng: 
      - Bạch Đức Aananda! 
      Giáo chủ mà hành giả nương theo sẽ được như thế nào? 
      - Này sandaka! Trong đời 
      Này, Đức Thế Tôn giáng thế là đấng Chánh đẳng Chánh giác, 
      gồm có Minh hạnh túc (pháp thực hành để đến sự giác 
      ngộ) Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự 
      trượng phu, Thiên nhơn sư, Thế tôn
      [1]
      ). 
      Ngài làm cho thế 
      gian này: Chư thiên, Ma vương và Phạm thiên, tất cả chúng 
      sinh, Sa môn và Bà-la-môn thấy rõ bằng trí tuệ cao siêu. Ngài 
      thuyết pháp nghe du dương chặn đầu, chặn giữa và nơi 
      cuối cùng, đầy đủ ý nghĩa hòa nhịp, tuyên bố phạm 
      hạnh trong sạch hoàn toàn. 
      Những gia chủ, con 
      gia chủ, con nhà gia giáo được nghe pháp, khi đã nghe xong 
      hằng phát tâm tín ngưỡng trong Đức Như Lai, rồi quan sát 
      thấy rằng: 
      - Ðời cư sĩ là nơi 
      chật hẹp hạn chế, là lối đến của bụi bặm. Xuất gia là 
      một cơ hội trong sạch sáng sủa. Sự ở nhà lo giữ gìn gia 
      thế, khó hành phạm hạnh được điều đủ, trong sạch được 
      như vỏ ốc đã trao dồi, như thế, ta nên cạo tóc và râu, 
      mặc y cà sa ra khỏi nhà, thọ giới đàn, không bận lòng đến 
      sự trị gia nữa. 
      Sau rồi họ có dịp 
      được ly gia cắt ái(
      [2]
      ), 
      không còn phải săn sóc gia đình, khi đã thành 
      một vị xuất gia và tinh tấn nuôi mệnh chân chính theo luât 
      định, là người chữa cải: 
      - Sự sát sinh, bỏ 
      hẳn những võ khí, có sự hổ thẹn tội lỗi, có tâm từ 
      bi, mong tìm lợi ích cho tất cả mọi loài. 
      - Không trộm cắp 
      chỉ dùng những vật mà họ cho. 
      - Không hành dâm, không 
      có đôi vợ chồng như người cư sĩ. 
      - Không nói dối 
      chỉ thốt lời ngay thật, không chưởi mắng kẻ khác chỉ nói 
      lời mát mẻ. 
      - Không xúi giục người 
      cho bất hòa nhau, chỉ nói lời hòa thuận, không nói lời thô 
      lỗ, chỉ thốt lời ngọt dịu; không nói chuyện hoang đàng vô 
      ích, không ăn sái giờ. 
      - Không xem múa hát, 
      không nghe đờn kèn, không dồi phấn đeo hoa, xoa nước thơm. 
      - Không nằm ngồi trên 
      chỗ cao đẹp v.v. 
      - Không thọ lãnh 
      cất giữ vàng bạc, châu báu, không thọ ngũ cốc. 
      - Không thọ thịt và 
      cá sống. 
      - Không nhận phụ 
      nữ và tôi trai tớ gái, ruông vườn, nhà trại
      [3]
      ) các cầm thú, không làm kẻ đem 
      tin tức v.v. 
      - Không bán buôn đổi 
      chác v.v. (xem trong luật xuất gia về tà mệnh). 
      Các Ngài là bậc tri 
      túc trong bốn món vật dụng (y, bát, thực phẩm, chỗ ngụ, 
      thuốc men), đi đến trong nơi nào cũng được nhẹ nhàng như 
      loài điểu thú chỉ có cặp cánh bay đến đâu như sở 
      nguyện, thế nào, Tỳ khưu tri túc trong bốn vật dụng trải 
      đi đến nơi nào hằng được như mong muốn. 
      Hằng gồm có giới 
      hạnh tức là thánh đức, như thế, hằng hưởng quả vui, vô 
      tội. 
      Mắt thấy sắc, tai 
      nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân đụng chạm, 
      Ngài không phạm luật, và không lưu tâm đến sắc, thinh, hương, 
      vị, xúc (tốt xấu, hay dở, thơm, thối, ngon, dở, mềm, 
      cứng v.v. ) tức là Ngài cố chế ngự lục căn, không cho 
      tiếp xúc lục trần, như thế. Ngài gồm có lục căn thu thúc 
      là thánh đức ấy rồi hằng thụ vui, vô phiền não. 
      Ngài thường ngụ 
      trong nơi thanh vắng dưới bóng cây, hay nơi mộ địa, rừng cây, 
      tịnh thất vắng. Sau khi đã ngọ thực, Ngài đi kinh hành 
      xong, tọa thiền. Ngài dứt được sự tham lam bỏ ác pháp, không 
      bất bình nóng giận, có tâm từ bi mong điều lợi ích đến 
      tất cả chúng sinh. Trừ được năm pháp cái (tham sắc, nóng 
      giận, phóng dật, hôn trầm, hoài nghi) là năm pháp ô nhiễm tâm, 
      an tỉnh khỏi những dục vọng, yên lặng các ác pháp rồi Ngài 
      đắc sơ thiền pathamojhamo có: Suy, Sát, Phỉ và An sinh 
      từ sự ẩn tu, như thế. 
      Này 
      Sandaka! Các hàng thinh văn đắc pháp cao quý 
      nan đắc của Đức Giáo chủ nào rồi, là người hiểu biết 
      cũng phải hành phạm hạnh trong đấng giáo chủ ấy. Hàng 
      thinh văn ấy sẽ đắc pháp giải thoát chắc chắn. 
      Này Sandaka! Ngoài 
      ra có lời giải thêm rằng, Tỳ khưu đắc nhị thiền (Dutiyajhaana) 
      có tâm trong sáng chỉ có phỉ lạc sanh từ thiền định. Này 
      sandaka! Bậc thinh văn hằng đạt đến pháp cao quý, như thế, 
      trong đấng giáo chủ nào, người được hiểu biết phải hành 
      phạm hạnh ấy. Như vậy họ sẽ được giải thoát. 
      Này Sankada! Ngoài 
      ra Tỳ khưu vì chán ngán phỉ, thường có tâm yên lặng, trung 
      lập có trí nhớ, và thận trọng thụ vui bằng loại danh pháp 
      (Naamakaaya) đắc tam thiền (Tatiyajhaana) mà các thánh 
      nhân gọi là bậc trầm tỉnh(
      [4]
      ) 
      (Upekkhaa) có trí nhớ, ở yên như thế. 
      Này Sandaka! 
      Hạng thinh văn đắc pháp cao siêu như vậy, trong đấng giáo 
      chủ nào, người hiểu biết phải hành phạm hạnh, trong đấng 
      giáo chủ ấy họ sẽ đến thiện pháp và được giải thoát 
      hẳn như thế. 
      Này Sandaka! Có 
      lời giải thêm rằng, Tỳ khưu đắc tứ thiền (Catutthjhaana) 
      không vui, không khổ, vì dứt được vui và khổ, đã vượt 
      qua nỗi vui và buồn, chỉ có trí nhớ điều tra
      [5]
      ) pháp thanh tịnh bằng tâm xả. 
      Này Sankada! 
      Bậc thinh văn hằng đạt đến pháp cao siêu trong đấng giáo 
      chủ nào, người hiểu biết phải thực hành phạm hạnh trong 
      đấng giáo chủ ấy, như thế họ sẽ đắc pháp giải thoát 
      chắc chắn. Hạng ấy khi có tâm định vững và thanh tịnh, 
      trong sáng, vô phiền não, khỏi tùy phiền não, là tâm mềm 
      dẻo, vừa hành sự. Họ có tâm bất động rồi phấn khởi 
      tuệ trực giác dùng trí nhớ hồi tưởng đến các tiền 
      kiếp như vậy: 
      Nhớ được một 
      kiếp, hai kiếp, ba kiếp, bốn kiếp, năm kiếp v.v. mười 
      kiếp, hai chục kiếp, ba chục kiếp, bốn chục kiếp, năm 
      chục kiếp, một trăm kiếp, một ngàn kiếp, mười ngàn 
      kiếp, nhiều muôn kiếp cho đến nhều kiếp hoại (Sanvattakappa) 
      v.v.  kiếp thành (Vivattakalapya) 
      v.v.  rằng ta đã sinh ra 
      trong cõi kia, danh hiệu như kia, dòng dõi như kia, giai cấp như 
      kia, dùng thực phẩm như kia, thụ vui, khổ như kia, sống đến 
      bấy nhiêu tuổi, sau khi thác tái sanh trong cõi nọ v.v. Bậc 
      ấy hồi tưởng đến những kiếp sống trong các cõi đã qua, 
      được hoàn toàn đầy đủ. 
      Này Sandaka! 
      Bậc thinh văn hằng đạt đến pháp cao siêu như vậy, trong đấng 
      giáo chủ nào người hiểu biết phải hành phạm hạnh trong 
      đấng giáo chủ ấy, khiến các thiện pháp được tăng gia 
      cho đến kỳ giải thoát thực hiện. 
      Bậc thinh văn khi tâm 
      đã trú vững, thanh tịnh trong sáng vô phiền não, khỏi tùy 
      phiền não, có tâm mềm dẻo, vừa hành sự và bất động, như 
      thế rồi phấn khởi, dùng tuệ trực giác điều tra sự luân 
      hồi của tất cả chúng sinh. Ngài đắc nhãn thông cao siêu, hơn 
      phàm nhơn và thấy rõ nhiều loại sanh linh, sanh ra hạng thấp 
      hèn cao sang, xấu xa xinh đẹp khổ vui. Ngài biết phân minh 
      rằng, chúng sanh này có hạnh kiểm, thân bất chánh, khẩu 
      bất chánh, ý bất chánh thốt lời khinh bỉ khiển trách bậc 
      thánh nhơn, là hạng tà kiến, thác rồi phải đọa trong ác 
      đạo (cầm thú, địa ngục v.v. ) 
      Hạng chúng sanh khác, 
      do hạnh kiểm tốt bằng thân thanh bạch(
      [6]
      ) 
      khẩu thanh bạch, ý thanh bạch, không phỉ báng các 
      bậc thánh nhân là hạng chánh kiến, chết rồi được sinh 
      trong thiên giới, có thiên nhãn vượt khỏi phàm nhơn. Ngài 
      thấy rõ chúng sinh, sinh ra thấp hèn, cao sang, xấu xa, xinh đẹp, 
      vui khổ và nhận thức rằng, chúng sinh đều do nghiệp tạo 
      ra như thế. 
      Này Sandaka! 
      Bậc thinh văn hằng đạt pháp cao siêu hiểu thấu triệt
      [7]
      ) như vậy, trong đấng giáo chủ nào, 
      người hiểu biết phải hành phạm hạnh, như thế, thì hằng 
      đắc thiện pháp cho đến thời kỳ giải thoát. 
      Bậc 
      Thinh văn khi tâm đã trú vững, thanh tịnh trong sáng, vô 
      phiền não, xa tùy phiền não, có tâm mềm dẻo vừa hành sự, 
      và bất động rồi, phấn chấn dùng tuệ trực giác trong sự 
      trừ tuyệt các lậu phiền não(
      [8]
      ) 
      (Aasavakkhaaya). Ngài 
      được quán triệt
      [9]
      ) 
      chân lý rằng, đây là 
      khổ, đây là nhân sinh khổ, đây là diệt khổ, đây là đạo 
      diệt khổ. Được thông suốt rằng, đây là lậu phiền não, 
      đây là nhân sinh lậu phiền não, đây là diệt lậu phiền não, 
      đây là đạo diệt lậu phiền não. Khi Ngài biết như thế, 
      thấy như thế, tâm giải thoát cao siêu khỏi Kamaasava 
      (Dục lậu phiền não), Bhavaasava (hữu lậu phiền não; 
      mong được như vậy, như kia), Avijjaasava (Vô minh lậu 
      phiền não). Khi tâm đã giải thoát cao siêu thì sinh trực giác 
      thông suốt mọi lẽ rằng tâm giải thoát cao siêu rồi, kiếp 
      này dứt rồi, phạm hạnh viên mãn rồi, chẳng còn phận sự 
      nào khác phải tu hành nữa, như vậy. 
      Này Sandaka! 
      Bậc thinh văn đắc pháp cao siêu trong đấng giáo chủ nào, người 
      hiểu biết phải hành phạm hạnh trong đấng giáo chủ ấy thì 
      thiện pháp sẽ đưa họ đến giải thoát hẳn như vậy. 
      - 
      Bạch Đức Aananda! Tỳ khưu ấy là Đức A-la-hán diệt 
      lậu phiền não rồi, hành tròn phạm hạnh rồi, phận sự nên 
      hành đã thành tựu rồi, hạ vật nặng rồi, những lợi ích 
      đã được theo thứ tự rồi, giải thoát cao siêu bằng trí 
      tuệ quán triệt chân chánh rồi, Tỳ khưu ấy còn có nhục 
      dục chăng? 
      - Này Sandaka! 
      Tỳ khưu là bậc A-la-hán dứt hẳn lậu phiền não rồi, 
      phạm hạnh viên mãn rồi, phận sự phải làm đã hành đầy 
      đủ rồi, đã hạ vật nặng rồi, những pháp trói buộc 
      trong luân hồi đã tuyệt rồi, được giải thoát cao siêu 
      bằng trí tuệ chân chánh rồi, Tỳ khưu ấy không còn vi 
      phạm năm điều là: 
      1.- 
      Sát sanh. 
      2.- Trộm đạo. 
      3.- Hành dâm. 
      4.- Nói dối. 
      5.- Tìm nhục dục để dành thụ dụng như kẻ thế nữa. 
      - Này Sandaka! 
      Đấy là vị Tỳ khưu bậc A-la-hán diệt lậu phiền não 
      rồi, hành tròn phạm hạnh rồi, hạ vật nặng xuống rồi 
      được giải thoát cho cao siêu bằng trí tuệ, hiểu biết đến 
      nơi đến chốn rồi. 
      - Bạch Đức Aananda! 
      Tỳ khưu ấy là bậc A-la-hán, dứt lậu phiền não rồi, hành 
      phạm hạnh viên mãn rồi. Giải thoát cao siêu bằng trí tuệ 
      thấu triệt rồi, khi Tỳ khưu ấy đi đứng, ngồi, nằm ngủ 
      hay thức có sự hiểu biết sáng suốt rồi, rằng các lậu 
      phiền não của ta dứt rồi như vậy chăng? 
      - Này Sandaka! 
      Ta thí dụ để ngươi hiểu. Có người trong đời Này sẽ 
      biết đuợc lời tỷ dụ như vầy: 
      - Này Sandaka! 
      Như tay và chân của người đã cụt, khi người ấy trải đi, 
      ngừng, ngủ, hoặc thức, tay và chân cũng đều cụt (đứt 
      hẳn). Khi họ quan sát cũng rõ rằng, tay và chân của ta cụt 
      rồi, như vậy, thế nào, Này Sandaka! Tỳ khưu là bậc 
      A-la-hán hết lậu phiền não rồi, khi Tỳ khưu ấy đi, đứng, 
      ngủ hay thức, các lậu phiền não cũng dứt hẳn rồi. Và khi 
      vị ấy quan sát, cũng được hiểu rằng "các lậu phiền 
      não của ta cũng hết rồi như vậy". 
      Theo như đã giảng 
      thuyết trong kinh Sandaka đây, chúng ta thấy sự chế định 
      nghiệp của các đấng giáo chủ ngoại đạo đều khác với 
      Phật giáo muôn ngàn lần xa. Có giáo chủ chấp hẳn ý kiến 
      độc đoán, có phái lại buông thả theo vận mệnh, không 
      giống như Phật giáo. 
       
          
     
      (
      [1]
      ) Xem lễ bái Tam Bảo (Ân Đức Phật) 
      (
      [2]
      ) Cắt ái: bất đắc dỉ phải cắt bỏ cái mình 
      yêu thích. 
      (
      [3]
      ) Trại: lều tranh. 
      (
      [4]
      ) Trầm tỉnh: ngấm ngầm, lặng lẽ. 
      (
      [5]
      ) Điều tra: tìm tòi, tra xét để biết rõ sự 
      thực. 
      (
      [6]
      ) Thanh bạch: trong sạch. 
      (
      [7]
      ) Thấu triệt: thông suốt. 
      (
      [8]
      ) Phiền não: khiến chúng sanh chìm đắm trong luân 
      hồi. 
      (
      [9]
      ) Quán triệt: đến nơi đến chốn. 
      -ooOoo- 
      Chương 
      trước | Ðầu trang | Mục 
      lục | Chương kế  |