Thiên VI
-ooOoo-
SỰ TẠO NGHIỆP
Quả
của nghiệp xảy ra từ sự hành vi của chính mình. Khi mình
tạo lành, quả lành sẽ trả lại, làm dữ, quả khổ cũng
sẽ đến, như nhau. Vì thế không nên sưu tầm cái chi tốt
hoặc xấu từ nơi nào khác, hay người nào khác, ngoài mình.
Những hàng trí tuệ
nói rằng, các việc lành mà người ao ước cần dùng nhất là
đức tin hướng thiện từ bi, hoặc chánh pháp thì phải tìm
xét cẩn thận trong chính mình, nếu có cũng có trong chính mình,
nếu kiếm trong nơi nào hay trong kẻ khác là nan đắc. Vì các
pháp ấy hằng sinh từ nơi mình. Nó đến do lòng từ bi,
bằng chánh pháp và tâm chân thật v.v.
chẳng có ai cho (vui khổ được).
Chỉ
tự mình phải gây dựng theo đức từ bi hay chánh pháp mà thôi.
Hơn nữa, lành hay
dữ không định chỗ và không kỳ ngày, người có thể làm lành
hay gây dữ được trong mỗi nơi, trong mỗi thời. Việc lành
mà người mong được, không cần phải chia nhau cùng làm, vì
nó là vô lượng không có mức cùng tột. Trong đời, ai làm
phải được hưởng quả vui, nếu mọi người đều giúp đỡ
lẫn nhau trong việc lành thì ai ai cũng đều được vui. Ngoài
ra, xã hội, quốc độ cũng thịnh đạt, thế giới đều an cư
lạc nghiệp.
Trong Kinh Tikanipaata
Anguttara-nikaaya có thuyết ba pháp chủ trong việc làm là:
1.-
attaadhipateyya: lấy mình là chủ.
2.- Lokaadhipateyya : lấy đời là chủ.
3.- Dhammaadhipateyya: lấy pháp là chủ.
1.- Lấy
mình là chủ như: người làm lành hằng đề cập đến
mình là chủ đứng đầu, hay chỉ mong được quả vui đến mình
rồi mới làm, theo sự hiểu biết của mình, mong được kẻ
khác tôn trọng kính vì v.v.
2.- Lấy
đời là chủ: là lúc muốn làm phước, trước khi
khởi công, thường noi theo thế lực của đời, mong đuợc
kẻ khác ca tụng, nếu không thì sợ họ chê trách, hay hành
theo thói quen của quần chúng.
Lokaadharateyya
cao hơn Attaadhipateyya, vì còn tùy phần đông, căn cứ vào
sự hiểu biết của họ. Đặc tính của sự hành thiện lấy
đời là chủ, có ba:
a/-
Làm vì ao ước được người khen.
b/- Nếu không e sợ người chê.
c/- Làm theo thói quen của đại chúng.
3.- Lấy
pháp là chủ như: người làm phước, không đề cập
đến mình và đến đời là chủ, hành theo thế lực của chánh
pháp. Thấy là đúng, là đáng rồi khởi sự, hoặc làm bằng
tâm từ bi v.v. như bố thí, trì giới v.v. Kẻ tạo phước
lấy pháp là chủ hằng không sai lầm, hối hận.
Dhammaadhipateyya
có hai chi, là:
a/-
Làm vì sự thích hợp hoặc chân chính.
b/- Vì thế lực tâm từ bi.
Phương pháp làm lành
gồm có hai đặc tính quan trọng là: sự tự tỉnh hay tự
quan sát tức là tự vấn rằng:
a/-
Nay ta là hạng người nào?
b/- Ta có phận sự gì?
c/- Ta đã làm tròn phận sự chưa?
d/- Phận sự ấy có làm cho người phiền muộn chăng?
Xin dẫn tích căn
bản và cách thực hành hoặc tạo nghiệp dưới đây cho độc
giả khảo sát.
Trong
Kinh Baahitiya-sutra
Majjhima-nikaya-pa~n~naasaka có tích rằng:
Trong Phật giáo chúng
ta, có đức vua Pasenaadikosala được trò chuyện cùng đức
Aananda tại mé sông Aciiravadi, như vầy:
Đức vua pasenàdikosala
hỏi rằng:
- Bạch Đức Aananda!
Phạm hạnh nào mà các Sa môn và Bà-la-môn
[1]
) người hiểu biết cao siêu đáng
dung thứ được, Đức Thế Tôn có hành thân hạnh như thế
chăng?
- Tâu Đại Vương!
Thân hạnh ấy các Sa môn và Bà-la-môn hạng hiểu biết cao siêu
tha thứ được, Đức Thế Tôn không hành thân hạnh ấy.
- Bạch Đức Aananda!
Khẩu hạnh nào mà chư Sa môn và Bà-la-môn hạng hiểu biết
cao siêu nên tha thứ được, Đức Thế Tôn có hành khẩu
hạnh ấy chăng?
-
Tâu Đại Vương! Khẩu hạnh nào mà chư Sa môn và Bà-la-môn
hạng hiểu biết cao siêu xá tội được, Đức Thế Tôn không
hành khẩu hạnh ấy.
- Bạch Đức Aananda!
Ý hạnh nào mà các Sa môn và Bà-la-môn hạng hiểu biết cao
siêu xá lỗi được, Đức Thế Tôn có hành ý hạnh như thế
chăng?
-
Tâu Đại Vương! Ý hạnh nào mà các Sa môn và Bà-la-môn
hạng hiểu biết cao siêu nên dung tha được, Đức Thế Tôn
không hành ý hạnh ấy.
- Thật là phi thường,
cái chưa từng có mà xảy ra được, tôi quẩn bách(
[2]
)
trong điều nào, Ngài đã giảng giải cho nghe bằng
cách đầy đủ.
- Bạch Ngài những
kẻ si mê, không sáng trí, chưa được quan sát hằng thốt
lời ca tụng hay khiển trách kẻ khác. Tôi không ngoan cố
những lời ấy là có giá trị v.v.
Phần các bậc minh
triết là hạng sáng suốt có trí tuệ đã khảo sát rồi
mới nói đến đạo đức và tội lỗi của những kẻ khác,
tôi thường tôn trọng lời nói ấy là có giá trị.
- Bạch Đức Aananda!
Thân hạnh nào mà các Sa môn và Bà-la-môn hạng hiểu biết
cao siêu nên khiển trách?
- Tâu Đại Vương!
Thân hạnh nào ác thì hạng Sa môn và Bà-la-môn hạng hiểu
cao siêu khiển trách được.
- Bạch Đức Aananda!
Thân hạnh nào là ác?
- Tâu Đại Vương!
Thân hạnh nào hành có tội thân hạnh ấy là ác.
- Bạch Đức Aananda!
Thân hạnh nào hành có tội?
- Tâu Đại Vương!
Thân hạnh nào hành để hãm hại, thân hạnh ấy là có tội.
- Bạch Đức Aananda!
Thân hạnh nào hành để hãm hại?
- Tâu Đại Vương!
Thân hạnh nào có khổ là quả, thân hạnh ấy gọi là hành
để hãm hại.
- Bạch Đức Aananda!
Thân hạnh nào có khổ là quả?
- Tâu Đại Vương!
Thân hạnh nào hành để hại mình hoặc hại kẻ khác hay
hại cả mình và kẻ khác và các pháp ác của kẻ có thân
hạnh hành cho sự hãm hại tăng gia, cho các pháp lành tiêu
diệt, thân hạnh như vậy các bậc Sa môn và Bà-la-môn hạng
hiểu biết cao siêu nên khiển trách được.
- Bạch Đức Aananda!
Khẩu hạnh nào mà các Sa môn và Bà-la-môn nên khiển trách?
- Tâu Đại Vương!
Khẩu hạnh nào ác, khẩu hạnh ấy các Sa môn và Bà-la-môn
hạng hiểu biết cao siêu nên khiển trách được.
- Bạch Đức Aananda!
Ý hạnh nào mà các bậc Sa môn và Bà-la-môn hạng hiểu biết
cao siêu nên khiển trách?
- Tâu Đại Vuơng! Ý
hạnh nào ác, ý hạnh ấy các bậc Sa môn và Bà-la-môn nên
khiển trách được.
- Bạch Đức Aananda!
Đức Thế Tôn chỉ ca tụng sự trừ tuyệt các pháp ác phải
chăng?
- Tâu Đại Vương!
Đức Thế Tôn đã trừ tuyệt tất cả ác pháp rồi, Ngài
gồm có đủ thiện pháp.
- Bạch Đức Aananda!
Thân hạnh nào mà các bậc Sa môn và Bà-la-môn hạng hiểu
biết cao siêu không nên khiển trách?
- Tâu Đại Vương!
Thân hạnh nào lành thân hạnh ấy các bậc Sa môn và Bà-la-môn,
hạng hiểu biết cao siêu không khiển trách.
- Bạch Đức Aananda!
Thân hạnh nào là lành?
- Tâu Đại Vuơng! Thân
hạnh nào vô tội, thân hạnh ấy là lành.
- Bạch Đức Aananda!
Thân hạnh nào là vô tội?
- Tâu Đại Vương!
Thân hạnh nào vô hại, thân hạnh ấy là vô tội.
- Bạch Đức Ànanda!
Thân hạnh nào là vô hại?
- Tâu Đại Vương!
Thân hạnh nào có vui là quả, thân hạnh ấy là vô hại.
- Bạch Đức Aananda!
Thân hạnh nào có vui là quả?
-
Tâu Đại Vương! Thân hạnh nào hành không hại mình, không
hại kẻ khác hay không hại cả mình và kẻ khác; các pháp ác
có hại đến mình v.v. hằng tiêu diệt, các pháp lành thường
tăng gia, thân hạnh ấy các hạng Sa môn và Bà-la-môn, hạng
hiểu biết cao siêu không khiển trách được.
- Bạch Đức Aananda!
Khẩu hạnh nào mà các bậc Sa môn và Bà-la-môn hạng hiểu
biết cao siêu không khiển trách được?
- Tâu Đại Vương!
Khẩu hạnh nào lành khẩu hạnh ấy các Sa môn và Bà-la-môn
hạng hiểu biết cao siêu không khiển trách được.
- Bạch Đức Aananda!
Ý hạnh nào mà các Sa môn và Bà-la-môn hạng hiểu biết cao
siêu không nên khiển trách được?
- Tâu Đại Vương!
Ý hạnh nào lành ý hạnh ấy các Sa môn và Bà-la-môn hạng
hiểu biết cao siêu không khiển trách được.
- Bạch Đức Aananda!
Đức Thế Tôn tán dương sự gồm có đủ các pháp lành
phải chăng?
- Tâu Đại Vương!
Đức Thế Tôn Ngài đã diệt tuyệt tất cả ác pháp rồi và
Ngài có đầy đủ thiện pháp.
Ngoài ra, ta có một
căn bản là sự tạo nghiệp do cửa thân, cửa khẩu và cửa
ý, nếu nghiệp ấy không hiệp theo ba nhân, thì nên tạo ba nhân
ấy là:
1/-
Hại mình.
2/- Hại kẻ khác.
3/- Hại cả mình lẫn kẻ khác.
Tóm tắt trong thiên
này là sự tạo nghiệp đúng đắn theo nền tảng rằng:
1/-
Nghiệp không hại mình.
2/- Nghiệp không hại kẻ khác.
3/- Nghiệp không hại mình lẫn kẻ khác.
Như thế thì nên làm
và phải hành theo dhammaadhipateyya (lấy pháp là chủ) không
nên hướng theo attaadhipateyya (lấy mình là chủ) và lokaadhipateyya
(lấy đời là chủ).
(
[1]
) Bà-la-môn: bậc tu Phạm hạnh.
(
[2]
) Quẩn bách: bối rối
-ooOoo-
Chương
trước | Ðầu trang | Mục
lục | Chương kế |