|    | 
      
         Chương 
        Một - Phật Bảo 
        Tiết VI 
        Các 
        Tinh Thần Giáo Dục của Thế Tôn và 
        sự Liên Hệ giữa Ngài với các hàng Ðệ Tử, Chư Thiên, 
        Ác Ma và Ngoại Ðạo.
        (tiếp theo)  
         
        
        Giáo Dục Ðánh Thức 
        Thế Tôn chỉ là người 
        chỉ đường, con người có thể thực hiện giải thoát 
        bằng nỗ lực riêng của mình. Như thế, giáo dục Phật giáo 
        là đường hướng giáo dục đánh thức. Ðạo đế là con 
        đường giúp con người đánh thức Tuệ giải thoát vốn có 
        sẵn trong mình. Dạy Ðạo có nghĩa là trao truyền phương pháp, 
        soi sáng tư duy để khơi dậy nguồn sáng trong mỗi con người, 
        chỉ đường để vạch mở những gì đang che mờ tâm 
        thức. 
        Một nền giáo dục như 
        thế hoàn toàn không đặt nặng ký ức, tín điều, cũng không 
        đặt nặng kiến thức, bởi mục đích nhằm đến là giúp 
        người học đi ra khỏi sầu, bi, khổ, ưu não đang đè 
        nặng tâm tư họ, mặt khác giúp họ thích ứng với hướng 
        phát triển của xã hội. 
        Học đường tiên 
        tiến ngày nay đào tạo con người đáp ứng hai mục tiêu: 
        con người chính nó và con người xã hội. Nhưng chiều hướng 
        phát triển có thể nhấn mạnh con người chính nó để có 
        thể tận gốc giải quyết các khủng hoảng tâm lý và xã 
        hội. 
        Chúng ta có thể chủ 
        quan cho rằng: Giáo dục Phật giáo có thể ổn định hướng 
        phát triển cho một nền giáo dục nhân bản và toàn diện. 
        Với tinh thần khoa học và kỹ thuật giáo dục tiên tiến, 
        và với tinh thần chỉ đạo giáo dục của Phật giáo, học 
        đường có thể hiện tốt hai mục tiêu chính của giáo 
        dục ấy. 
        
        Giáo Dục Thiền Ðịnh 
        Giáo dục Thiền định 
        là sắc thái giáo dục đặc biệt của Phật giáo, chưa được 
        thực sự vận dụng vào trong bất cứ một hệ thống giáo 
        dục hiện đại nào. 
        Phương pháp giáo dục 
        Thiền định rất giản dị, rất người, nhưng đưa đến 
        những kết quả lớn, kết quả tốt về mặt giáo dục tâm 
        lý, tình cảm, hoàn bị tinh thần giáo dục tự trị tự 
        chủ, tự tín, trách nhiệm cá nhân; đồng thời mở rộng hướng 
        sáng tạo, nhân tố của văn hóa và văn minh. 
        Về tình cảm, Thiền 
        định đưa con người vào phấn khởi, hân hoan, hỷ lạc, an 
        tịnh, buông xả và tình thương v.v.. 
        Về tâm lý, Thiền định 
        là quá trình chuyển đổi tâm lý, từ tâm lý thụ động 
        sang tích cực; từ tham, sân, si qua vô tham, vô sân, vô si; 
        từ thất niệm qua tỉnh giác v.v... 
        Về cảm thọ, Thiền 
        định đưa vào các cảm thọ lạc, hạnh phúc và khắc 
        phục các cảm thọ khổ của thân và tâm. Trong cảm thọ này 
        của Thiền định, hành giả hầu như bắt gặp cái đối tượng 
        gọi là "hạnh phúc" mà con người đang mãi tìm kiếm (sẽ 
        nói thêm ở Chương Pháp Bảo). 
        Thiền định còn giáo 
        dục tốt ký ức, khả năng tập trung. Kết quả này sẽ giúp 
        tuổi trẻ tiếp thu kiến thức tốt. 
        Các điểm tâm lý tự 
        chủ, độc lập, cảnh tỉnh và khả năng tập trung là các 
        điều kiện tốt chuẩn bị cho các nguồn sáng tạo bung 
        vỡ. Tự thân các cảnh giới Thiền đã là kết quả sáng 
        tạo của Tâm. Trạng thái tâm lý ổn định, an toàn của 
        Thiền, không bị vướng mắc nặng vào tư duy, đúng là 
        trạng thái tâm lý của người sáng tạo ở thời điểm sáng 
        tạo, như các nhà giáo dục khảo sát về sáng tạo đã tìm 
        thấy. 
        Mặt khác, Thiền định 
        giúp tuổi trẻ loại bỏ các tâm lý mệt mỏi, thụ động, 
        chán nản, sầu muộn, dao động. 
        Ðây là đối tượng 
        giáo dục mà ngành tâm lý giáo dục cần thực hiện để 
        hổ trơủ cho việc dạy và học có kết quả tốt. 
        Ngày nay, Nhật Bản đã 
        vận dụng Thiền vào họa, nhạc, thi ca, trà đạo và nhu đạo 
        (Judo), Thiền như là sắc thái cuả văn hóa Nhật trong cận 
        đại và hiện đại. 
        Ở Việt Nam, Thiền đã 
        ảnh hưởng sâu đậm vào văn hóa trong suốt bốn trăm năm 
        dưới triều đại nhà Lý và nhà Trần, đã tạo nên một 
        giai đoạn lịch sử vàng son: mạnh về quốc phòng, sáng 
        về văn hóa và đoàn kết chặt chẽ lực lượng dân tộc, 
        Triều Lý thì Bắc đánh Tống, Nam bình Chiêm; triều Trần 
        thì ba lần đánh tan quân Nguyên, đạo quân đã đánh bại 
        cả châu Âu. Lịch sử Việt Nam đã ghi lại thành công 
        lịch sử của giai đoạn này như là kết quả chịu ảnh hưởng 
        của Thiền định Phật giáo. 
        Trong tập bia ký của 
        vua A-dục (Asoka), "Les Inscriptions d'Asoka" (Jules Bloch, Paris, 
        Société d'édition "Les Belles Letters", 1950), vua A-dục đã để 
        lại cho thế hệ ta một sự ngạc nhiên kỳ thú: Vua là 
        một nhà chinh phục lừng danh lại gác kiếm và dùng Chánh 
        pháp (Phật giáo) để giáo dục nhân dân. Giáo lý mà nhà 
        vua giảng dạy cho dân Ấn bấy giờ là Thiền Ðịnh. Nguyên 
        văn bia ký ghi: "Tiến bộ của luật pháp trong loài người 
        chỉ có hai phần, do các luật lệ và do Thiền định. Nhưng 
        các luật lệ thì có ích lợi ít, Thiền định thì có lợi 
        ích nhiều hơn". (Ce progès de la loi parmi les hommes a été 
        obtenu de deux facons seulement, par les règles de la loi et par la méditation. 
        Mais sur ce point, les règles sont peu de chose, la méditation compte 
        d' avantage - p. 171). 
        Nhà vua cho rằng Thiền 
        định còn hữu hiệu hơn là giới luật và luật pháp. 
        Ðạo đế mà Thế Tôn 
        dạy, nội dung là con đường thực hiện Thiền định để 
        đi vào Tâm và Tuệ giải thoát. 
        Lời di huấn sau cùng 
        của Thế Tôn là: "Ðây là gốc cây, đây là căn nhà 
        trống, hãy nỗ lực Thiền định, chớ để hối tiếc về 
        sau". 
        Giáo dục Thiền định 
        như thế có dấu hiệu sẽ là nhân tố tốt cho một nền giáo 
        dục nhân bản và toàn diện. 
        
        Tinh Thần Giáo Dục 
        Trung Ðạo 
        Ý nghĩa Trung đạo 
        của hành động là lánh xa hai cực đoan: hưởng thụ lục 
        dục lạc và khổ hạnh ép xác, lười biếng và nỗ lực quá 
        mức. 
        Khi dạy về tinh tấn, 
        Thế Tôn cho rằng tinh tấn như là một đức tính chủ yếu 
        để hoàn thành các đức tính khác. Tuy nhiên, phải hành động 
        đúng nghĩa Trung đạo. 
        Tinh tấn quá mức, tâm 
        lý sẽ rơi vào trạo cử; tinh tấn không đúng mức (yếu) 
        thì tâm lý sẽ rơi vào hôn trầm thụ động. Thế Tôn đã 
        để lại bài học lịch sử của kinh nghiệm tự thân của 
        Ngài về tinh thần giáo dục Trung đạo ấy: sau khi từ bỏ 
        sáu năm ép xác khổ hạnh, Thế Tôn đi vào con đường 
        trầm tư của Thiền định và đã đi vào giải thoát toàn 
        triệt. 
        Giáo lý chỉ đạo 
        sống thể hiện Trung đạo là Bát Thánh đạo: thấy đúng, 
        suy nghĩ đúng, lời nói đúng, sinh hoạt đúng, hành động 
        đúng, nhớ nghĩ đúng, nỗ lực đúng, và năng lực tập 
        trung đúng. Ðấy là giáo lý chỉ đường vào mục tiêu sau 
        cùng của giáo dục, hạnh phúc và giải thoát ngay tại đây 
        và bây giờ. 
        Giáo dục Thiền định 
        xuất hiện như là chỉ dẫn con đường sống thể hiện hòa 
        điệu giữa tim và óc, giữa cá nhân và tập thể, giữa con 
        người và thiên nhiên v.v... 
        Hạnh phúc của lứa đôi, 
        theo kết quả khảo sát của ngành tâm lý giáo dục, chỉ đến 
        trong sự hòa điệu của hai người về các mặt vật lý, tâm 
        lý, sinh lý, tình cảm và tư duy. 
        Kinh nghiệm sống cho 
        thấy một bản đại hòa tấu tuyệt diệu là kết quả 
        của một thể hiện hòa điệu của các âm thanh khác nhau 
        của nhiều nhạc cụ khác nhau. Cuộc sống hòa điệu cũng 
        thế, sẽ tiết ra ý nghĩa phong phú của sự sống đầy tính 
        người và tình người. 
        Tại đây chúng ta chưa 
        đi vào ý nghĩa Trung đạo như là giải thoát mọi phạm trù 
        ý niệm, Trung đạo như là thực tại như thực. 
        
        Tinh Thần Không Chấp 
        Thủ 
        Tinh thần "Vô chấp 
        thủ" rất quen thuộc với hầu hết mọi Phật tử Nam tông 
        và Bắc tông. Ai cũng hiểu rằng do chấp thủ mà tham ái 
        sinh, sân hận sinh, khổ sinh. Ngay cả sự chấp thủ giáo lý 
        giải thoát cũng chỉ đem lại ràng buộc khổ đau. 
        Thế Tôn đã dạy "Giáo 
        lý Ta như là chiếc bè để qua sông chứ không phải để ôm 
        giữ" (Nikàya và A-hàm). Kinh Kim Cương cũng dạy cùng ý nghĩa 
        ấy: "Giáo lý như phiệt dụ giả. Chánh pháp thượng ưng 
        xả, hà huống phi pháp". 
        Các nơi khác của Giáo 
        lý Bắc tạng thường nói: "Nhất thiết Tu-đa-la giáo như 
        tiêu nguyện chỉ" (Hết thảy kinh điển như ngón tay chỉ 
        mặt trăng). 
        Thành kiến, cố chấp 
        là biểu hiện của chấp thủ. Chúng ngăn cản cảm thông, 
        tiến bộ và giải thoát. 
        Hạnh phúc tuyệt đối 
        hay Niết-bàn, theo lời dạy của Thế Tôn, là loại bỏ hoàn 
        toàn chấp thủ. Hạnh phúc tương đối của con người trong 
        hiện tại và tương lai là tuỳ thuộc vào mức độ loại 
        bỏ chấp thủ ấy, như những gì chứa đựng trong pháp bố 
        thí. Tinh thần vô chấp ấy chẳng những đem lại an lạc 
        cho cá nhân mà còn đem lại an lạc cho tha nhân, tập thể. 
        Nhờ ảnh hưởng tinh 
        thần giáo dục vô chấp này mà đời Lý Trần đã thực 
        hiện được sự đoàn kết keo sơn của dân tộc, thống 
        nhất Tam giáo. Nhờ vô chấp mà Trần Quang Khải đã sánh 
        vai với Trần Hưng Ðạo, bỏ mối thù nhà hẹp hòi, để lo 
        việc nước. Ở đâu có vô chấp, ở đó có cảm thông, đoàn 
        kết và thương yêu. 
        Ðấy cũng là một tinh 
        thần giáo dục nhân bản được vận dụng vào mục tiêu đoàn 
        kết dân tộc. 
        
        Tinh Thần Tùy Duyên 
        Bất Biến 
        Ðây là tinh thần xử 
        sự, hành động uyển chuyển thích nghi với hoàn cảnh 
        sống tùy thời, tùy chỗ, tùy người (tùy duyên), miễn là 
        sự uyển chuyển linh động ấy mang lại điều tốt đẹp 
        cho cả mình và người (bất biến). Nói khác đi, hình thức 
        và phương tiện hành động có thể uyển chuyển, nhưng 
        dụng ý và kết quả của hành động phải là thiện, đúng 
        pháp. Thái độ sống này luôn luôn không rời khỏi lòng 
        từ, lòng nhân và luôn luôn được soi sáng bởi trí tuệ 
        hay chánh kiến... Nắm được tinh thần hành động này là 
        nắm được cái trục quay của sự sống. Chiếc áo không 
        quan trọng mà quan trọng là ở tấm lòng. Cái tâm của con 
        người giữ lòng mình hợp Ðạo là ý nghĩa của bất 
        biến, linh động hòa mình vào cuộc sống là ý nghĩa của 
        tuỳ duyên. 
        Ði vào lãnh vực giáo 
        dục và xã hội, cái gọi là Việt Nam hay Việt tính là tinh 
        thần, thái độ sống, thái độ nhận thức mà không phải 
        kiểu áo, màu áo, kiểu tóc v.v... Tinh thần độc lập bất 
        khuất là thuộc Việt tính, tinh thần uyển chuyển sống để 
        tồn tại và phát triển là thuộc Việt tính (có thể gọi 
        là tinh thần dung hóa). 
        Người Việt Nam có 
        thể tiếp thu các nền văn minh phương Tây, nhưng nội dung 
        cần được Việt hóa (chuyển thành cái của Việt Nam), nhưng 
        không để đánh mất Việt tính. Ðây là ý nghĩa của tuỳ 
        duyên bất biến. 
        Ở hành động, tinh 
        thần tùy duyên phá vỡ tính câu nệ cố chấp, và tinh 
        thần này được đảm bảo giá trị nhờ động cơ của tâm 
        lý hành động và nhờ chủ đích mà hành động nhằm đến. 
        Tinh thần giáo dục hành 
        động tuỳ duyên bất biến là tinh thần rất tích cực, giúp 
        con nguời của thời đại có nhiều biến đổi nhanh chóng, 
        có điều kiện rộng rãi để hành động thích nghi với 
        những nhân duyên mới, khai thông nhiều bế tắc do chủ nghĩa 
        đem lại. 
        Thuật ngữ Phật giáo 
        có nghĩa tương đương với tinh thần tùy duyên là "Phương 
        tiện thiện xảo" mà Thế Tôn đã vận dụng để dẫn 
        dắt các đệ tử đi dần vào giải thoát. Tinh thần phương 
        tiện lại được làm sống lại ở Kinh Pháp Hoa qua phẩm "Phương 
        Tiện". 
        Tinh thần giáo dục 
        tuỳ duyên sẽ giúp học đường soi sáng, chỉ lối hành động 
        tốt cho tuổi trẻ. 
        
        Tinh Thần Lục Hòa và 
        Tứ Nhiếp 
        Chỉ đạo đời sống 
        tập thể, Thế Tôn giảng dạy nguyên tắc Lục Hòa, Kinh Xá 
        Di Thôn chỉ rõ nguyên tắc sống chung của chư Tăng gồm có 
        sáu điểm: (8) 
        
          1. Thân hòa đồng 
          trú: có sự hòa hợp, hợp lý về chỗ ăn, chỗ ở, khéo 
          an trú thân nghiệp. 
          2. Khẩu hòa vô tránh: 
          lời nói hòa hợp, không tranh cãi, khéo an trú khẩu 
          nghiệp. 
          3. Giới hòa đồng 
          tu: cùng nhau giữ gìn một giới luật chung, an trú 
          giới, giữ thanh tịnh giới. 
          4. Lợi hòa đồng 
          quân: cùng san sẻ các lợi dưỡng. 
          5. Ý hòa đồng 
          duyệt: an trú ý nghiệp, hòa hợp thống nhất. 
          6. Kiến hòa đồng 
          giải: cùng với các vị đồng tu nuôi dưỡng những 
          tri kiến thánh thiện đưa đến xuất ly khổ. 
         
        Thế Tôn dạy giả 
        A-nan: sáu pháp hòa này sẽ đưa đến đoàn tụ, không tranh 
        luận, hòa hợp, đồng nhất và đưa đến cho con người an 
        lạc và hạnh phúc lâu dài. 
        Nếu ứng dụng nguyên 
        tắc: "Lục hòa" vào sinh hoạt nhóm hay tập thể, chúng ta 
        thấy rất thích ứng với các nguyên tắc tâm lý mà các nhà 
        giáo dục tâm lý hiện đại giáo dục cho các sinh hoạt 
        tập thể. 
        Bài học thứ nhất là, 
        nếu học đường áp dụng nghĩa "hòa" của "Thân hòa" vào 
        đồng phục cho học sinh thì sẽ giúp cho tuổi trẻ đoàn 
        kết, thân mật nhau, đến gần nhau hơn, không phân rẽ thành 
        nhiều nhóm do ăn mặc xấu, đẹp, sang, hèn khác nhau. Tuổi 
        trẻ cần được giáo dục tinh thần hòa hợp, đoàn kết 
        ngay từ bây giờ. 
        Bài học thứ hai, trong 
        sinh hoạt tập thể, trong giờ bàn bạc, thảo luận, tuổi 
        trẻ cần được giáo dục nguyên tắc "Khẩu hòa", biết cách 
        phát biểu ý kiến của mình nhưng đồng thời cũng phải 
        biết tôn trọng ý kiến của các bạn khác, không được 
        nặng lời chỉ trích, đả kích v.v... 
        Thái độ chỉ trích, 
        đả kích chỉ đem lại không khí nặng nề, bất hòa cho 
        sinh hoạt tập thể, và làm trở ngai nội dung của đề tài 
        thảo luận. Trái lại, trong không khí hòa hợp, tương kính 
        của thảo luận, mọi người sẽ đón nhận được cảm giác 
        an ổn, hạnh phúc của sinh hoạt tập thể. 
        Bài học thứ ba, học 
        đường cần dạy tinh thần "Kiến hòa". Sự khác biệt 
        về màu áo cũng đủ khiến tuổi trẻ tách rời thành 
        nhiều nhóm nhỏ, huống chi là sự khác biệt về tư tưởng 
        hay tín ngưỡng. Tư tưởng hay tín ngưỡng là màu áo của tâm 
        hồn tuổi trẻ. Học đường cần nhận rõ vai trò giáo 
        dục của mình là gieo thêm ý thức đoàn kết dân tộc cho 
        tuổi trẻ, cần phải tế nhị tạo ra một nhận thức xem 
        như là một loại triết lý giáo dục, làm thế nào để các 
        em, trong điều kiện khác biệt về tư biệt về tư tưởng, 
        tín ngưỡng có thể đến gần nhau, thân mật, hòa hợp, đoàn 
        kết. Ðây là ý nghĩa "kiến hòa đồng giải". 
        Bài học thứ tư là bài 
        học về nguyên tắc "Lợi hòa". Các em học sinh cần được 
        hưởng ứng đồng đều các quyền lợi vật chất, học hành, 
        thi cử nếu có ở học đường. Sự khác biệt về quyền 
        lợi chỉ là việc đi ngược với tinh thần giáo dục hòa 
        hợp và đoàn kết. 
        Bài học thứ năm về 
        "Giới hòa". Các em học sinh đều đặt mình trong một kỷ 
        luật chung của học đường, cùng nỗ lực tôn trọng kỷ 
        luật, bảo vệ kỷ luật học đường để việc học và 
        dạy có hiệu quả tốt. Trong điều kiện sống giống nhau 
        đó, các em dễ gần nhau, dễ hòa hợp và đoàn kết. 
        Bài học thứ sáu là 
        về "Ý hòa". Học đường cần dạy tuổi trẻ thành thật 
        với nhau, chấp nhận nhau, kính trọng nhau, cùng nhau xây 
        dựng tinh thần hòa hợp, đoàn kết. Có thành ý xây dựng, 
        học tập như thế thì mục tiêu giáo dục của học đường 
        mới thực sự thành tựu. 
        Có một bài học quan 
        trọng hơn nữa của "Lục hòa" là khi nói đến Hòa là xác 
        nhận sự bất đồng. Học đường vừa tôn trọng cá nhân, 
        cá tính của từng người, nhưng vừa giáo dục thế nào để 
        cá tính phát triển tốt trong không khí hòa hợp ấy. Hòa mà 
        không Ðồng thì đánh mất hết mọi ý nghĩa giáo dục. Do 
        đó, học đường một mặt giáo dục tuổi trẻ biết kính 
        trọng suy tư, tình cảm, tư tưởng v.v... của kẻ khác, 
        một mặt biết hòa hợp trong tập thể những cá tính khác 
        biệt ấy. 
        Về mặt lãnh đạo 
        tập thể, Thế Tôn dạy nguyên tắc "Tứ nhiếp" (Trong Tăng 
        Chi IV, phẩm Gia Chủ Hatthaka) là nguyên tắc mà cư sĩ 
        Hatthaka đã ứng dụng thành công tốt đẹp trong việc lãnh 
        đạo một chúng cư sĩ năm trăm người. 
        Tùy theo trình độ, cá 
        tính và nhu cầu cuả mỗi cá nhân mà biện pháp tâm lý để 
        nhiếp hòa, thu phục được thể hiện khác nhau. 
        
          -- Ðối với những 
          ai cần sự giúp đỡ về vật chất, kiến thức, an ủi, 
          kinh nghiệm sống, kinh nghiệm tu học, thì Hatthaka áp dụng 
          nguyên tắc "Bố Thí". Do có sự giúp đỡ mà sự 
          cảm thông, cảm mến có mặt. Do có sự hiểu biết, cảm 
          mến, Hatthaka thu phục được những cá nhân này và giảng 
          dạy cho họ có kết quả. 
          -- Ðối với những 
          ai tâm lý thích "Ái ngữ", thích nghe những lời nó 
          dịu dàng, hòa ái dễ nghe, thành thực, khôn khéo... thì 
          Hatthaka dùng "Ái ngữ" để cảm hóa, nhiếp phục họ. Thông 
          thường, mọi người đều thích ái ngữ và khó chịu 
          với những lời lẽ nặng nề, thiếu tế nhị v.v... Người 
          lãnh đạo muốn thành công phải biết vận dụng "Ái 
          ngữ". 
          -- Với những ai cần 
          "Lợi hành", cần khích lệ, cần giúp đỡ trong công 
          việc, thì Hatthaka đáp ứng họ. Do lợi hành đưa đến 
          cảm mến và chịu sự lãnh đạo. 
          -- Với những tâm lý 
          nào cần phải cùng làm việc, cùng ăn, cùng ở v.v.. cần 
          có thời gian gần gũi, thì Hatthaka áp dụng nguyên tắc "Ðồng 
          sự". Có giống với người, có cùng làm, cùng lo chung 
          công việc mới có điều kiện để chia xẻ, cảm thông. 
          Từ đây, tình cảm tốt, tương giao tốt nảy sinh. Có đồng 
          sự thì dễ nghe nhau nói và dễ nói cho nhau nghe. Do đó, người 
          lãnh đạo mới gây được lãnh đạo của mình. 
          - Với những ai cần 
          phối hợp các nguyên tắc trên để nhiếp hóa, thì người 
          lãnh đạo tùy duyên mà vận dụng. 
         
        Nhà tâm lý giáo dục 
        hiện đại trong nghệ thuật vận dụng tâm lý để đạt 
        mục tiêu giáo dục cũng không làm gì khác hơn bốn nguyên 
        tắc ấy. 
        
        Tinh Thần Giáo Dục, 
        Giảng Dạy Nêu Thí Dụ Cụ Thể 
        Nhà giáo giỏi là nhà 
        giáo khéo giảng, khéo làm cho học trò chóng hiểu được 
        những gì mình dạy. Một nội dung giảng dạy tốt nếu không 
        được truyền đạt bằng một kỹ thuật truyền đạt tốt 
        thì chưa thật tốt. 
        Lối truyền đạt tư tưởng 
        tốt là lối truyền đạt sáng sủa, rõ ràng và cụ thể 
        cho dù nội dung truyền đạt trừu tượng. 
        Thế Tôn, trong phương 
        pháp giảng dạy của Ngài, vừa ứng dụng nguyên tắc "Khế 
        cơ", "Khế lý", "Khế thời", vừa "Khích lệ"... lại 
        vừa vận dụng các thí dụ với các hình ảnh cụ thể, 
        quen thuộc với người nghe, để soi sáng cho người nghe để 
        hiểu điều Ngài muốn nói. 
        Thật là phong phú với 
        rất nhiều hình ảnh ví dụ trong kinh điển Nam tạng và 
        Bắc tạng Phật giáo. 
        Hình ảnh ví dụ thời 
        danh, hầu như quen thuộc với hầu hết các người học 
        Phật, là hình ảnh Thế Tôn ví dụ giáo lý Phật giáo như 
        chiếc bè (Kim Cương, A-hàm và Nikàya) để qua sông mà không 
        phải để mang trên vai. Hoặc là ví dụ giáo lý như ngón 
        tay chỉ mặt trăng, hay giáo lý như bản đồ chỉ đường. 
        Nói đến hương vị, 
        sắc thái đặc biệt của nội dung giáo lý Phật giáo, Thế 
        Tôn dạy: "Như biển chỉ có một vị: Vị mặn của muối; 
        cũng thế, giáo lý của Ta chỉ có một vị: vị giải thoát". 
        Các tên Kinh của Nam và 
        Bắc tạng cũng nổi bật lên hình ảnh ví dụ. Như Kinh 
        Phạm Võng (ví dụ như cái lưới), Kinh Bánh Mật (chiếc bánh 
        mật), Kinh Xà Dụ (ví dụ như con rắn), Kinh Gò Mối (ví 
        dụ gò mối), Kinh Khúc Gỗ (ví dụ như khúc gỗ trôi sông 
        về biển)... Kinh Kim Cương (ví dụ so sánh với kim cương), 
        Kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Ðịa Tạng v.v... 
        Thế Tôn đã sử dụng 
        phương pháp giảng dạy rất sống động, cụ thể, dễ 
        hiểu, hấp dẫn, thu hút sự chú ý của người khác và có 
        tác dụng đánh mạnh vào tâm thức của người nghe. Kèm 
        theo với phương pháp này, Thế Tôn còn giảng những đề tài 
        có duyên sự và bối cảnh sống động của nó (tương tự 
        như lối giảng dạy ngày nay theo sự sắp xếp của chương 
        trình, thời khóa biểu, nên người ta thường hay dựng lên 
        bối cảnh tác dụng giảng dạy càng hữu hiệu hơn nữa). 
        Ta hãy lấy một ví 
        dụ điển hình: 
        Ở Kosambi, bên bờ sông 
        Gangà (Hằng Hà), khi thấy một khúc gỗ lềnh bềnh trên 
        mặt nước, Thế Tôn liền gọi các Tỷ-kheo lại, chỉ khúc 
        gỗ và giảng dạy về con đường giải thoát. Ngài dạy: "Nếu 
        khúc gỗ không hư nát trong ruột, không tấp vào hai bên 
        bờ, không bị vướng vào nước xoáy, không bị loài người 
        hay các loài khác nhặt, thì nhất định khúc gỗ ấy trôi 
        thẳng về biển. Cũng thế, người tu sĩ nếu không như khúc 
        gỗ hư ruột (chỉ tà kiến của người tu, hay chỉ các 
        ngoại đạo), nếu không tấp vào hai bờ (có nghĩa là không 
        vướng mắc vào các căn, các trần), nếu không mắc vào nước 
        xoáy (nếu không ngã mạn), nếu không bị người ta nhặt 
        (nếu không bị ràng buộc nhiều với người đời, cư sĩ), 
        nếu không bị phi nhơn, chư Thiên nhặt (chỉ người tu cầu 
        sanh Thiên để hưởng các phước lạc), thì nhất định người 
        tu sĩ ấy sẽ như khúc gỗ, trôi thẳng về biển, sẽ vào 
        biển Thánh, thành tựu Phạm hạnh, chứng ngộ giải thoát 
        Niết-bàn". Trong khi Thế Tôn giảng như thế, một người 
        chăn bò tên là Nanda đứng cạnh đấy nghe lén. Nanda hiểu rõ 
        ngay con đường tu tập, liền xin Thế Tôn xuất gia và 
        bạch: "Con nguyện sẽ là người tu hành như khúc gỗ không 
        mục nát trôi xuôi về biển. Xin Thế Tôn cho con thọ Ðại 
        giới". Thế Tôn hoan hỷ nhận lời. Quả thực, chỉ sau có 
        một thời gian ngắn, Nanda liền chứng đắc A-la-hán (Kinh Tương 
        ng Bộ IV, Phẩm Rắn Ðộc, ví dụ về khúc gỗ). 
        Trong các Kinh, những đoạn 
        mở đầu bằng chữ "Ví dụ" và bắt đầu phần kết thúc 
        cuả đoạn bằng chữ "Cũng thế" là những đoạn Thế Tôn 
        so sánh, ví dụ. 
        Ở đây, chỉ trưng 
        dẫn một số ví dụ trong Kinh Pháp Cú và Kinh Pháp Hoa làm 
        điển hình: 
        
          
          Như mái nhà vụng 
          lợp, 
          Mưa có thể thấm vào; 
          Cũng vậy, tâm không tu, 
          Tham dục dễ xâm nhập -- (Pháp Cú câu 13). 
          Như mái nhà khéo 
          lợp, 
          Mưa không thể thấm vào; 
          Cũng vậy, tâm khéo tu, 
          Tham dục không xâm nhập. -- (Pháp Cú câu 14) 
         
        Có khi hình ảnh ví 
        dụ vừa cụ thể lại vừa thi vị, không đơn điệu, không 
        gây cảm giác chán nản ở người nghe. 
        
          
          Ai sống ở đời này, 
          Ái dục được hàng phục, 
          Sầu rơi khỏi người ấy, 
          Như nước rơi lá sen. -- (Pháp Cú câu 336). 
         
        Những lời dạy của 
        Thế Tôn có khi rất cụ thể, rất ngắn gọn, rất giản 
        dị, nhưng vẫn nói lên ý nghĩa thâm sâu và chứa đựng 
        cả nội dung giáo lý Phật giáo: 
        
          
          Cỏ làm hại ruộng vườn, 
          Tham làm hại người đời, 
          Bố thí, người lìa tham, 
          Do vậy được quả lớn -- (Pháp Cú câu 356). 
         
        Có những khi Thế Tôn 
        dạy vừa cụ thể, rõ ràng, thi vị, lại vừa rất triết lý. 
        Biển của người đời là một trong vùng nước rộng, còn 
        biển trong giáo lý của Ngài thì: 
        "Này các Tỷ-kheo, 
        mắt là biển của người... Tai, mũi, lưỡi, thân và ý là 
        biển của người... Ai vượt qua được các biển ấy với 
        nước xoáy, với sóng lớn, với cá mập, La-sát... thì đến 
        bờ biển (Niết-bàn)" (Tương Ưng Bộ Kinh IV, phẩm Biển). 
        Khi muốn làm nổi bật 
        cái nguy hiểm của sinh tử, Thế Tôn dạy: "Tất cả, này các 
        Tỷ-kheo, đều bị bốc cháy. Mắt bị bốc cháy; mũi, tai, lưỡi, 
        thân và ý đều bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? 
        Bởi lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa sanh, già, bệnh, 
        chết, sầu, bi, khổ, ưu, não". (Tương Ưng Bộ Kinh IV, 
        phẩm Bốc cháy). 
        Giữa khi các đệ tử 
        bị ràng buộc bởi cái "có" của mình vào cuộc đời thì 
        lời dạy của Thế Tôn xuất hiện như một tiếng sấm 
        khiến tâm thức vùng dậy trong cơn bàng hoàng của chấp 
        thủ: 
        "Này A-nan, tất cả các 
        thế giới này là trống không. Sắc, thọ, tưởng, hành, 
        thức là trống không (vì chúng vô ngã)" (Tương Ưng IV, 
        phẩm Channa, mục Trống Không, và các Kinh khác). 
        Kinh Pháp Hoa thì nêu lên 
        những hình ảnh đầy biểu tượng, đầy ý vị những rất 
        cụ thể và nói lên được diệu pháp của Thế Tôn: 
        
          - Phẩm Thí Dụ, tam 
          giới như ngôi nhà lửa đang bốc cháy nói lên lối giảng 
          dạy phương tiện, quyền biến của Thế Tôn, đồng thời 
          giới thiệu giáo lý Nhất thừa. 
          - Hình ảnh "Cùng 
          tử" thật là sống động, làm nổi bật thân phận của 
          người nghe, người tu, khiến họ nhận ra căn cơ thấp kém 
          của mình và thức tỉnh để đi vào Diệu Pháp. 
          - Phẩm Dược Thảo 
          Dụ, ví đức Thế Tôn nói pháp như cơn mưa, cây lớn 
          thấm nước nhiều, cây nhỏ hút nước ít, nhưng tất cả 
          đều thấm nhuần nước. 
         
        Các hình ảnh sống động 
        trên đây tuy khác nhau, nhưng tất cả đều phục vụ nội 
        dung nói lên diệu lý của Kinh. 
        Phương pháp giảng 
        dạy bằng nhiều thí dụ của Thế Tôn là một phương pháp 
        rất khoa học và rất tâm lý, khiến cho việc giảng dạy đem 
        lại nhiều kết quả tốt, có thể là phương pháp mẫu 
        mực, chỉ đạo cho học đường mới. Thế Tôn đã xuất 
        hiện như một nhà giáo dục rất nhân bản và lý tưởng 
        qua các tinh thần và phương thức giáo dục được trình bày 
        ở trên. 
        Còn nhiều bài học 
        về giáo dục khác nữa của Thế Tôn mà chúng ta sẽ đề 
        cập thêm ở phần tiếp theo: Liên hệ giữa Thế Tôn và các 
        hàng đệ tử, ngoại đạo, ác ma và chư Thiên. 
        
        Liên Hệ Giữa Thế Tôn 
        và Các Hàng Ðệ Tử Của Ngài 
        - Hình 
        ảnh tổng quát của Thế Tôn từ khi Thành đạo. 
        Ngay sau khi Thành đạo, 
        Thế Tôn có đủ mười Như Lai lực và bốn Vô sở uý 
        (Trung Bộ I Tr. 71-B), tuy nhiên, Thế Tôn đã suy nghĩ một cách 
        đầy khiêm tốn rằng: "Thật là khó khăn sống không cung kính, 
        không vâng lời. Vậy ta hãy cung kính, đảnh lễ và sống y 
        chỉ vào một Sa-môn hay một Bà-la-môn... Nhưng Ta không 
        thấy một nơi nào trong thế giới chư Thiên và loài Người 
        có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào có giới, định, tuệ, 
        giải thoát và tri kiến giải thoát đầy đủ hơn Ta mà Ta có 
        thể cung kính, đảnh lễ, và sống y chỉ... rồi Ta suy nghĩ, 
        với Pháp mà Ta y chỉ vào Pháp ấy" (9). 
        Trên đường Thế Tôn 
        đi đến Lộc Uyển để chuyển bánh xe pháp, du sĩ ngoại đạo 
        Upaka đã hỏi về bậc Ðạo sư của Ngài và Ngài đã trả 
        lời: 
        
          
          "Ta không có Ðạo sư! 
          Bậc như Ta không có. 
          Giữa thế giới Nhân, Thiên 
          Không có ai bằng Ta..." (10) 
         
        Upaka nghi ngờ về cao 
        mạn của lời nói Thế Tôn nên bỏ đi. Ðây không phải là 
        lời tự đề cao hay tự hãnh diện về mình (Vì Thế Tôn đã 
        đoạn tận mười kiết sử) mà là lời tuyên bố sự thật 
        về địa vị tối thượng của Thế Tôn. 
        Suốt bốn mươi lăm năm 
        giáo hóa, Thế Tôn đi chân không với một bình bát và ba y 
        như các Tỷ-kheo đệ tử của Ngài. Hằng ngày Thế Tôn đi 
        khất thực, ngồi Thiền và thuyết pháp; buổi sáng sớm thường 
        thuyết pháp cho các vị Thiên, buổi chiều tối thường 
        thuyết pháp cho các hàng đệ tử. Ngài thường đi hoằng hóa 
        một mình, hoặc có chúng Tỷ-kheo đi theo. Khi nghỉ ngơi 
        tại một gốc cây, Thế Tôn tự đi nhặt lá khô lót thảo 
        tọa (một tấm cỏ đan) để ngồi, hoặc có một đệ tử 
        nhặt hộ; cho đến khi trọng tuổi Ngài mới có thị giả. 
        Thế Tôn thọ trai với 
        chúng Tỷ-kheo bất cứ nơi nào có thí chủ thỉnh mời. Sau 
        mỗi lần thọ trai, Thế Tôn nói lên một bài pháp ngắn để 
        tuỳ hỷ hay chúc lành. 
        Trong các mùa an cư, 
        Thế Tôn cùng chúng Tỷ-kheo (có giới hạn) nghỉ ở các 
        Tịnh xá do cư sĩ Cấp Cô Ðộc, nữ cư sĩ Visàkà hay vua 
        Tần-bà-sa-la xây cất cúng dường. Tại đây, đã có các 
        Phật tử cúng dường suốt mùa kiết hạ (mùa mưa ở Ấn 
        Ðộ) 
        Thế Tôn hằng ngày 
        ngồi Thiền và giảng dạy Phật pháp. Thế Tôn nói pháp cho 
        những ai muốn nghe và muốn đặt vấn đề. Có lần, một 
        du sĩ ngoại đạo đã đi theo Ngài trên đường vào làng 
        khất thực và cầu mong Ngài trả lời một số câu hỏi. 
        Sau ba lần thỉnh cầu, Thế Tôn đã dừng lại thuyết 
        giảng cho du sĩ ngoại đạo ấy. Ngài thuyết pháp không phân 
        biệt giai cấp, giới tính, tuổi tác... Ngài đã từng nhận 
        lời thọ trai cùng chúng Tỷ-kheo ở tư thất của một kỹ 
        nữ. 
        Một lần khác, Ngài đã 
        dạy các Tỷ-kheo hãy để cho nàng Patacarà, một người 
        loạn trí vì đau khổ, không có một mảnh vải che thân, đến 
        gặp Ngài. Bấy giờ các Tỷ-kheo ngăn nàng lại. Khi vừa 
        thấy Thế Tôn, nàng liền tỉnh táo và lấy một mảnh y do 
        các Tỷ-kheo ném đến để che thân và sụp lạy, khóc dưới 
        chân Thế Tôn, cho đến khi nhận được những lời dạy vàng 
        ngọc (11). 
        Ngài tiếp chuyện và 
        giảng dạy cho các vua chúa, đại thần và nhận lời thỉnh 
        mời thọ trai của họ. 
        Ngài mặc nhiên vấn đáp 
        với các ác ma và ngoại đạo. Có nhiều trường hợp vì 
        lợi ích độ sanh, Thế Tôn kín đáo sử dụng thần thông 
        xuất hiện trước các hội chúng Sát-đế-lợi, Sa-môn, Bà-la-môn, 
        chư Thiên v.v... trong hình ảnh, cung cách và ngôn ngữ giống 
        họ; nói chuyện và khích lệ họ, khiến họ được an 
        lạc, lợi ích. Khi Ngài rời họ ra đi (biến mất) thì các 
        hội chúng ấy không biết Ngài là ai, từ đâu lại. (Tiểu 
        Bộ Kinh: "Phật thuyết Như Vậy"). 
        Có lần Ngài lâm bệnh 
        nặng như một số đệ tử của Ngài. Lúc trọng tuổi, Ngài 
        thỉnh thoảng bị rêm mình, đau lưng, đôi khi phải ngưng 
        ngay giữa thời thuyết pháp và nhờ Tôn giả Xá-lợi-phất 
        nói tiếp. Lúc già, Ngài như mọi người, lưng hơi còng, da 
        nhăn, các căn đều bị biến đổi. Trước khi thị tịch, 
        trong bữa cơm cuối cùng do người thợ sắt Thuần-đà dâng 
        cúng, Ngài dùng phải một loại nấm rừng kịch độc, bị 
        đi chảy. Ngài phải dùng định lưĩc của Như Lai để 
        nhiếp phục cơn bịnh. Ðang cơn khát, Thế Tôn dạy Tôn 
        giả A-nan lấy nước lã từ dòng sông bên cạnh cho Thế Tôn 
        dùng (Kinh Niết-bàn). 
        Thế Tôn vì lợi ích 
        của chư Thiên và loài Người, dạy đủ các căn cơ, trình 
        độ; với một số đối tượng, Ngài dạy tu phước đức 
        để sanh Thiên; với một số, Ngài dạy hạnh phúc thiết 
        thực ở đời: như hạnh phúc của đời sống gia đình, 
        với vợ con và trang điểm, như những điều cần thiết 
        của một số cô dâu về nhà chồng, như thế nào là người 
        vợ tốt, người chồng tốt, như thế nào là một nhà lãnh 
        đạo tốt, người thợ tốt, người học trò tốt, người 
        láng giềng tốt, v.v... 
        Ngài dạy con người 
        tự mình tu tập mà không phải cầu nguyện hay tế lễ. 
        Thế Tôn là ai mà Ngài 
        có kinh nghiệm thiết thực để giáo hóa đủ các hội chúùng: 
        Chư Thiên, Càn-thát-bà, loài Người v.v... ? Tăng Chi Bộ Kinh 
        IIA, tr. 51 (Bản dịch của HT. Thích Minh Châu, 1980) ghi lại 
        lời xác nhận của Thế Tôn về Ngài rằng: "Ðối với 
        những người chưa đoạn tận lậu hoặc, Ta có thể là chư 
        Thiên với các lậu hoặc đã đoạn tận..., Ta có thể là Càn-thát-bà 
        với các lậu hoặc đã đoạn tận..., Ta có thể là Dạ-xoa 
        với các lậu hoặc đã đoạn tận..., Ta có thể là người 
        với các lậu hoặc đã đoạn tận... Ví như bông sen xanh, bông 
        sen hồng hay bông sen trắng sanh ra trong nước, lớn lên trong 
        nước, vươn ra khỏi nước, đứng thẳng, không bị nước 
        thấm ướt. Cũng vậy, sanh ra trong đời, lớn lên trong đời, 
        Ta sống chinh phục đời, không bị đời thấm ướt, này Bà-la-môn, 
        Ta là Phật, hãy ghi nhớ như vậy". 
        Có một điểm biểu 
        hiện bên ngoài nữa của Thế Tôn khác biệt với người đời 
        là: Ngài được sanh khi bà mẹ đứng, được sanh ra dưới 
        gốc cây, tu tập dưới gốc cây, thành đạo dưới gốc cây, 
        chuyển bánh xe pháp dưới gốc cây, và nhập Niết-bàn cũng 
        dưới gốc cây. Thiên nhiên như gắn liền với Ngài qua các 
        mốc điểm lịch sử của đời Ngài. 
        Ðã có cái nhìn rõ hơn 
        về Ngài qua những sinh hoạt trong cuộc sống, giờ đây chúng 
        ta đi vào tìm hiểu mối tương hệ giữa Thế Tôn với các 
        đệ tử của Ngài và các đối tượng nghe Pháp. 
        
        - 
        Thế Tôn và Tôn Giả Xá-Lợi-Phất
        Sau khi được Thế Tôn 
        độ, Tôn giả Xá-lợi-phất đắc A-la-hán quả bốn tuần 
        lễ sau, khi cùng trú với Thế Tôn ở độg Sukarakhata ở Vương 
        Xá (Ràjagaha) (Trưởng Lão Tăng Kệ). 
        Tôn giả Xá-lợi-phất 
        đã được Thế Tôn xác nhận trước Tăng chúng là vị đệ 
        tử trí tuệ đệ nhất của Ngài (12). 
        Một lần Thế Tôn 
        dạy: "Tỷ kheo nếu hy cầu một cách chơn chánh, sẽ hy 
        cầu như sau: 'Mong rằng ta sẽ như Xá-lợi-phất và 
        Mục-kiền-liên'. Ðây là cán cân, này các Tỷ kheo, đây là 
        đồ đo lường đối với các đệ tử Tỷ-kheo của Ta, 
        tức là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên" (Tăng Chi I, tr. 
        102). 
        Tôn giả Xá-lợi-phất 
        thường có mặt bên cạnh Thế Tôn trong nhiều thời pháp 
        của Thế Tôn, Tôn giả thường cùng với Tôn giả 
        Mục-kiền-liên giảng dạy, hướng dẫn trực tiếp chúng 
        Tỷ-kheo, tân Tỷ-kheo, thay mặt Thế Tôn. 
        Ðây là một lời khen 
        điển hình của Thế Tôn dành cho Tôn giả: "Ai là người 
        không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại 
        có thể không hoan hỷ đối với Xá-lợi-phất? Này A-nan, Xá-lợi-phất 
        là bậc hiền triết, là bậc đại tuệ, là bậc quảng 
        tuệ, là bậc hỷ tuệ, là bậc tiệp tuệ, là bậc lợi 
        tuệ, là bậc quyết trạch tuệ. Này A-nan, Xá-lợi-phất là 
        bậc tri túc, là bậc thiểu dục, là bậc viễn ly, là bậc 
        bất cộng trí. Này A-nan, Xá-lợi-phất là bậc hiện tại, 
        nghe lời trung ngôn, cáo tội trung thực, chỉ trích ác pháp" 
        (13). 
        Một hôm Tôn giả Xá-lợi-phất 
        đến hầu Thế Tôn và hỏi Thế Tôn về ý nghĩa Ðại nhân. 
        Thế Tôn dạy: "Với tâm giải thoát, này Xá-lợi-phất, Ta 
        gọi là Ðại nhân. Không có tâm giải thoát, Ta không gọi là 
        Ðại nhân". Có những lúc tương tự, Tôn giả có vấn đề 
        trong việc giáo hóa, thường đến xin lời dạy của Thế Tôn; 
        có khi có vấn đề cần giảng dạy, Thế Tôn lại gọi Tôn 
        giả đến. Trước Thế Tôn, Tôn giả luôn luôn là một đệ 
        tử rất khiêm tốn. Một lần ở Nàlanda, Tôn giả đã tán 
        thán Thế Tôn với tất cả trí tuệ và lòng tôn kính: "Như 
        vậy là lòng tịnh tín của con đối với Thế Tôn. Không 
        thể đã có, không thể sẽ có, không thể hiện có một 
        Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có thể vĩ đại hơn, thắng trí 
        hơn Thế Tôn về Chánh giác" (Tương Ưng V, phẩm Nàlanda 
        Thứ Hai). Sau khi Tôn giả nhập Niết bàn không lâu, Thế Tôn 
        nhìn chung quanh chúng Tỷ-kheo im lặng và nói lên lời cảm 
        thán này: "Này các Tỷ-kheo, chúng này của Ta được xem như 
        trống không. Nay Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đã mệnh 
        chung, này các Tỷ-kheo, chúng của Ta thành trống không. Phương 
        hướng nào Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên trú, phương hướng 
        đó không còn ước vọng gì."(Tương Ưng V, phẩm Nàlanda 
        Thứ Hai). 
        
        - 
        Thế Tôn và Tôn Giả Mục-Kiền-Liên
        Bảy ngày sau khi xuất 
        gia, tại Magakka, sau khi nhờ Thế Tôn khích lệ, Tôn giả 
        Mục-kiền-liên nhiếp phục được hôn trầm thụy miên. 
        Liền đó, khi nghe Thế Tôn dạy về Giới, Tôn giả đắc 
        A-la-hán, Tôn giả được Thế Tôn tuyên bố là bậc có 
        thần thông đệ nhất và được chọn làm đệ tử lớn 
        thứ hai của Thế Tôn. 
        Tại thành Vương Xá, 
        khi Tôn giả lâm bệnh nặng, đau đớn kịch liệt, Thế Tôn 
        đến thăm, nói pháp Thất giác chi. Nghe xong, Tôn giả thoát 
        khỏi bệwnh. Ảnh hưởng của Tôn giả Mục-kiền-liên trong 
        Giáo hội tương tự như ảnh hưởng của Tôn giả Xá-lợi-phất, 
        thường được Thế Tôn ca ngợi. Sự mệnh chung của Tôn 
        giả đã để lại một chỗ trống lớn trong Giáo hội, theo 
        ghi nhận của Thế Tôn. 
        
        - 
        Thế Tôn và Tôn Giả Ðại Ca-Diếp (Maha-Kassapa)
        Tôn giả Ca-diếp là người 
        được Thế Tôn nhiếp hóa trước Tôn giả Xá-lợi-phất và 
        Tôn giả Mục-kiền-liên, được Thế Tôn tuyên bố trước 
        Thánh chúng là "Ðầu-đà đệ nhất". Sau khi xuất gia, Tôn 
        giả hành đầu-đà, chỉ tám ngày sau liền đắc quả A-la-hán 
        (14). 
        Lúc Tôn giả bị đau 
        nặng kịch liệt ở hang động Pipphali, Thế Tôn, vào một 
        buổi chiều, sau khi xuất Thiền, đến thăm Tôn giả và đã 
        nói về Thất giác chi. Nghe xong, Tôn giả liền khỏi bệnh 
        (15). 
        Lúc Tôn giả về già, 
        một hôm đến hầu Thế Tôn, Thế Tôn dạy: "Này Kassapa, Ông 
        nay đã già rồi, y phấn tảo, vải thô của Ông đã cũ nát, 
        đáng được quăng bỏ. Vậy này Kassapa, hãy mang những áo 
        do các gia chủ cúng, thọ dụng các món ăn được mời và hãy 
        ở gần bên ta" (16). 
        Tôn giã đã bạch: Ðấy 
        là hạnh sống ở rừng, hạnh mang ba y, hạnh thiều dục tri 
        túc, hạnh tinh tấn, viễn ly của Tôn giả, vì lợi ích 
        của tự thân và vì lòng từ mẫn làm gương cho chúng sanh 
        sắp đến. Thế Tôn tùy hỷ. 
        Tôn giả Ca-diếp là 
        vị ít khi thuyết pháp, giáo giới cho chư Tỷ-kheo. Các vị 
        Tỷ kheo, Tăng và Ni trẻ không nhận ra chân giá trị của Tôn 
        giả nên một lần Thế Tôn đã tán thán Tôn giả giữa đại 
        chúng Tỷ-kheo rằng: "Tùy theo ý muốn, Thế Tôn ra vào các 
        cảnh Thiền, chứng các thần thông và các minh. Cũng thế, tùy 
        theo ý muốn, Tôn giả Ca-diếp vào ra các cảnh Thiền, 
        chứng các thần thông và các minh" (Tương Ưng II, phẩm 
        Kassapa). 
        Một hôm, Tôn giả 
        thuật cho Tôn giả A-nan nghe về liên hệ thầy trò mật 
        thiết giữa Thế Tôn và Tôn giả: Khi Thế Tôn ngồi nghỉ 
        ở một gốc cây, Tôn giả dâng cúng Thế Tôn một y Tăng già-lê 
        do tự tay Tôn giả cắt may (bấy giờ là ngày xuất gia thứ 
        tám) liền sau khi Tôn giả được hạnh phúc và an lạc lâu 
        dài, Thế Tôn đã từ mẫn đón nhận và trao tấm y cũ 
        bằng vải thô phấn tảo đáng được quăng bỏ của Thế Tôn 
        cho Tôn giả. Tôn giả tiếp: "Nếu có ai nói về Ta một cách 
        chơn chánh, thì ta là con ruột Thế Tôn, sanh ra từ miệng, 
        do Pháp sanh, do Pháp hóa sanh, thừa tự Chánh pháp, và đã 
        nhận được tấm y phấn tảo làm bằng vải gai thô đáng 
        được quăng bỏ từ Thế Tôn" (Tương Ưng II, phẩm 
        Kassapa). 
        
        - 
        Thế Tôn và Tôn Giả Upàli
        (Trưởng Lão Tăng 
        Kệ và Tăng Chi IIIB, phẩm Upàli). 
        Tôn giả Upàli (Ưu-bà-ly) 
        vốn là người thợ hớt tóc cho các hoàng thân của dòng 
        họ Thích Ca. Noi gương xuất giả của các Tôn giả A-nậu-lâu-đà... 
        Tôn giả xuất gia và xin Thế Tôn được tu ở rừng. Thế Tôn 
        dạy: "Nếu Ông sống trong rừng, ông chỉ phát triển được 
        một vấn đề. Nhưng nếu ông sống với chúng ta, Ông sẽ 
        trở thành thuần thục cả kinh học và Thiền quán". Ngài vâng 
        theo lời dạy của Thế Tôn, tu Thiền quán, và sau một 
        thời gian ngắn chứng quả A-la-hán. 
        Thế Tôn giảng dạy 
        cho Tôn giả về Luật. Về sau, Tôn giả được Thế Tôn tuyên 
        bố là vị đệ nhất trì luật của Giáo hội. Tôn giả 
        được Thế Tôn giao việc xử lý và tuyên luật. 
        (xem tiếp đoạn 
        kế) 
        -oOo- 
        Ðoạn 
        trước | Mục lục | Ðoạn 
        kế  |