|
Chương
Một - Phật Bảo
Tiết VI
Các
Tinh Thần Giáo Dục của Thế Tôn và
sự Liên Hệ giữa Ngài với các hàng Ðệ Tử, Chư Thiên,
Ác Ma và Ngoại Ðạo.
(tiếp theo)
Giáo Dục Ðánh Thức
Thế Tôn chỉ là người
chỉ đường, con người có thể thực hiện giải thoát
bằng nỗ lực riêng của mình. Như thế, giáo dục Phật giáo
là đường hướng giáo dục đánh thức. Ðạo đế là con
đường giúp con người đánh thức Tuệ giải thoát vốn có
sẵn trong mình. Dạy Ðạo có nghĩa là trao truyền phương pháp,
soi sáng tư duy để khơi dậy nguồn sáng trong mỗi con người,
chỉ đường để vạch mở những gì đang che mờ tâm
thức.
Một nền giáo dục như
thế hoàn toàn không đặt nặng ký ức, tín điều, cũng không
đặt nặng kiến thức, bởi mục đích nhằm đến là giúp
người học đi ra khỏi sầu, bi, khổ, ưu não đang đè
nặng tâm tư họ, mặt khác giúp họ thích ứng với hướng
phát triển của xã hội.
Học đường tiên
tiến ngày nay đào tạo con người đáp ứng hai mục tiêu:
con người chính nó và con người xã hội. Nhưng chiều hướng
phát triển có thể nhấn mạnh con người chính nó để có
thể tận gốc giải quyết các khủng hoảng tâm lý và xã
hội.
Chúng ta có thể chủ
quan cho rằng: Giáo dục Phật giáo có thể ổn định hướng
phát triển cho một nền giáo dục nhân bản và toàn diện.
Với tinh thần khoa học và kỹ thuật giáo dục tiên tiến,
và với tinh thần chỉ đạo giáo dục của Phật giáo, học
đường có thể hiện tốt hai mục tiêu chính của giáo
dục ấy.
Giáo Dục Thiền Ðịnh
Giáo dục Thiền định
là sắc thái giáo dục đặc biệt của Phật giáo, chưa được
thực sự vận dụng vào trong bất cứ một hệ thống giáo
dục hiện đại nào.
Phương pháp giáo dục
Thiền định rất giản dị, rất người, nhưng đưa đến
những kết quả lớn, kết quả tốt về mặt giáo dục tâm
lý, tình cảm, hoàn bị tinh thần giáo dục tự trị tự
chủ, tự tín, trách nhiệm cá nhân; đồng thời mở rộng hướng
sáng tạo, nhân tố của văn hóa và văn minh.
Về tình cảm, Thiền
định đưa con người vào phấn khởi, hân hoan, hỷ lạc, an
tịnh, buông xả và tình thương v.v..
Về tâm lý, Thiền định
là quá trình chuyển đổi tâm lý, từ tâm lý thụ động
sang tích cực; từ tham, sân, si qua vô tham, vô sân, vô si;
từ thất niệm qua tỉnh giác v.v...
Về cảm thọ, Thiền
định đưa vào các cảm thọ lạc, hạnh phúc và khắc
phục các cảm thọ khổ của thân và tâm. Trong cảm thọ này
của Thiền định, hành giả hầu như bắt gặp cái đối tượng
gọi là "hạnh phúc" mà con người đang mãi tìm kiếm (sẽ
nói thêm ở Chương Pháp Bảo).
Thiền định còn giáo
dục tốt ký ức, khả năng tập trung. Kết quả này sẽ giúp
tuổi trẻ tiếp thu kiến thức tốt.
Các điểm tâm lý tự
chủ, độc lập, cảnh tỉnh và khả năng tập trung là các
điều kiện tốt chuẩn bị cho các nguồn sáng tạo bung
vỡ. Tự thân các cảnh giới Thiền đã là kết quả sáng
tạo của Tâm. Trạng thái tâm lý ổn định, an toàn của
Thiền, không bị vướng mắc nặng vào tư duy, đúng là
trạng thái tâm lý của người sáng tạo ở thời điểm sáng
tạo, như các nhà giáo dục khảo sát về sáng tạo đã tìm
thấy.
Mặt khác, Thiền định
giúp tuổi trẻ loại bỏ các tâm lý mệt mỏi, thụ động,
chán nản, sầu muộn, dao động.
Ðây là đối tượng
giáo dục mà ngành tâm lý giáo dục cần thực hiện để
hổ trơủ cho việc dạy và học có kết quả tốt.
Ngày nay, Nhật Bản đã
vận dụng Thiền vào họa, nhạc, thi ca, trà đạo và nhu đạo
(Judo), Thiền như là sắc thái cuả văn hóa Nhật trong cận
đại và hiện đại.
Ở Việt Nam, Thiền đã
ảnh hưởng sâu đậm vào văn hóa trong suốt bốn trăm năm
dưới triều đại nhà Lý và nhà Trần, đã tạo nên một
giai đoạn lịch sử vàng son: mạnh về quốc phòng, sáng
về văn hóa và đoàn kết chặt chẽ lực lượng dân tộc,
Triều Lý thì Bắc đánh Tống, Nam bình Chiêm; triều Trần
thì ba lần đánh tan quân Nguyên, đạo quân đã đánh bại
cả châu Âu. Lịch sử Việt Nam đã ghi lại thành công
lịch sử của giai đoạn này như là kết quả chịu ảnh hưởng
của Thiền định Phật giáo.
Trong tập bia ký của
vua A-dục (Asoka), "Les Inscriptions d'Asoka" (Jules Bloch, Paris,
Société d'édition "Les Belles Letters", 1950), vua A-dục đã để
lại cho thế hệ ta một sự ngạc nhiên kỳ thú: Vua là
một nhà chinh phục lừng danh lại gác kiếm và dùng Chánh
pháp (Phật giáo) để giáo dục nhân dân. Giáo lý mà nhà
vua giảng dạy cho dân Ấn bấy giờ là Thiền Ðịnh. Nguyên
văn bia ký ghi: "Tiến bộ của luật pháp trong loài người
chỉ có hai phần, do các luật lệ và do Thiền định. Nhưng
các luật lệ thì có ích lợi ít, Thiền định thì có lợi
ích nhiều hơn". (Ce progès de la loi parmi les hommes a été
obtenu de deux facons seulement, par les règles de la loi et par la méditation.
Mais sur ce point, les règles sont peu de chose, la méditation compte
d' avantage - p. 171).
Nhà vua cho rằng Thiền
định còn hữu hiệu hơn là giới luật và luật pháp.
Ðạo đế mà Thế Tôn
dạy, nội dung là con đường thực hiện Thiền định để
đi vào Tâm và Tuệ giải thoát.
Lời di huấn sau cùng
của Thế Tôn là: "Ðây là gốc cây, đây là căn nhà
trống, hãy nỗ lực Thiền định, chớ để hối tiếc về
sau".
Giáo dục Thiền định
như thế có dấu hiệu sẽ là nhân tố tốt cho một nền giáo
dục nhân bản và toàn diện.
Tinh Thần Giáo Dục
Trung Ðạo
Ý nghĩa Trung đạo
của hành động là lánh xa hai cực đoan: hưởng thụ lục
dục lạc và khổ hạnh ép xác, lười biếng và nỗ lực quá
mức.
Khi dạy về tinh tấn,
Thế Tôn cho rằng tinh tấn như là một đức tính chủ yếu
để hoàn thành các đức tính khác. Tuy nhiên, phải hành động
đúng nghĩa Trung đạo.
Tinh tấn quá mức, tâm
lý sẽ rơi vào trạo cử; tinh tấn không đúng mức (yếu)
thì tâm lý sẽ rơi vào hôn trầm thụ động. Thế Tôn đã
để lại bài học lịch sử của kinh nghiệm tự thân của
Ngài về tinh thần giáo dục Trung đạo ấy: sau khi từ bỏ
sáu năm ép xác khổ hạnh, Thế Tôn đi vào con đường
trầm tư của Thiền định và đã đi vào giải thoát toàn
triệt.
Giáo lý chỉ đạo
sống thể hiện Trung đạo là Bát Thánh đạo: thấy đúng,
suy nghĩ đúng, lời nói đúng, sinh hoạt đúng, hành động
đúng, nhớ nghĩ đúng, nỗ lực đúng, và năng lực tập
trung đúng. Ðấy là giáo lý chỉ đường vào mục tiêu sau
cùng của giáo dục, hạnh phúc và giải thoát ngay tại đây
và bây giờ.
Giáo dục Thiền định
xuất hiện như là chỉ dẫn con đường sống thể hiện hòa
điệu giữa tim và óc, giữa cá nhân và tập thể, giữa con
người và thiên nhiên v.v...
Hạnh phúc của lứa đôi,
theo kết quả khảo sát của ngành tâm lý giáo dục, chỉ đến
trong sự hòa điệu của hai người về các mặt vật lý, tâm
lý, sinh lý, tình cảm và tư duy.
Kinh nghiệm sống cho
thấy một bản đại hòa tấu tuyệt diệu là kết quả
của một thể hiện hòa điệu của các âm thanh khác nhau
của nhiều nhạc cụ khác nhau. Cuộc sống hòa điệu cũng
thế, sẽ tiết ra ý nghĩa phong phú của sự sống đầy tính
người và tình người.
Tại đây chúng ta chưa
đi vào ý nghĩa Trung đạo như là giải thoát mọi phạm trù
ý niệm, Trung đạo như là thực tại như thực.
Tinh Thần Không Chấp
Thủ
Tinh thần "Vô chấp
thủ" rất quen thuộc với hầu hết mọi Phật tử Nam tông
và Bắc tông. Ai cũng hiểu rằng do chấp thủ mà tham ái
sinh, sân hận sinh, khổ sinh. Ngay cả sự chấp thủ giáo lý
giải thoát cũng chỉ đem lại ràng buộc khổ đau.
Thế Tôn đã dạy "Giáo
lý Ta như là chiếc bè để qua sông chứ không phải để ôm
giữ" (Nikàya và A-hàm). Kinh Kim Cương cũng dạy cùng ý nghĩa
ấy: "Giáo lý như phiệt dụ giả. Chánh pháp thượng ưng
xả, hà huống phi pháp".
Các nơi khác của Giáo
lý Bắc tạng thường nói: "Nhất thiết Tu-đa-la giáo như
tiêu nguyện chỉ" (Hết thảy kinh điển như ngón tay chỉ
mặt trăng).
Thành kiến, cố chấp
là biểu hiện của chấp thủ. Chúng ngăn cản cảm thông,
tiến bộ và giải thoát.
Hạnh phúc tuyệt đối
hay Niết-bàn, theo lời dạy của Thế Tôn, là loại bỏ hoàn
toàn chấp thủ. Hạnh phúc tương đối của con người trong
hiện tại và tương lai là tuỳ thuộc vào mức độ loại
bỏ chấp thủ ấy, như những gì chứa đựng trong pháp bố
thí. Tinh thần vô chấp ấy chẳng những đem lại an lạc
cho cá nhân mà còn đem lại an lạc cho tha nhân, tập thể.
Nhờ ảnh hưởng tinh
thần giáo dục vô chấp này mà đời Lý Trần đã thực
hiện được sự đoàn kết keo sơn của dân tộc, thống
nhất Tam giáo. Nhờ vô chấp mà Trần Quang Khải đã sánh
vai với Trần Hưng Ðạo, bỏ mối thù nhà hẹp hòi, để lo
việc nước. Ở đâu có vô chấp, ở đó có cảm thông, đoàn
kết và thương yêu.
Ðấy cũng là một tinh
thần giáo dục nhân bản được vận dụng vào mục tiêu đoàn
kết dân tộc.
Tinh Thần Tùy Duyên
Bất Biến
Ðây là tinh thần xử
sự, hành động uyển chuyển thích nghi với hoàn cảnh
sống tùy thời, tùy chỗ, tùy người (tùy duyên), miễn là
sự uyển chuyển linh động ấy mang lại điều tốt đẹp
cho cả mình và người (bất biến). Nói khác đi, hình thức
và phương tiện hành động có thể uyển chuyển, nhưng
dụng ý và kết quả của hành động phải là thiện, đúng
pháp. Thái độ sống này luôn luôn không rời khỏi lòng
từ, lòng nhân và luôn luôn được soi sáng bởi trí tuệ
hay chánh kiến... Nắm được tinh thần hành động này là
nắm được cái trục quay của sự sống. Chiếc áo không
quan trọng mà quan trọng là ở tấm lòng. Cái tâm của con
người giữ lòng mình hợp Ðạo là ý nghĩa của bất
biến, linh động hòa mình vào cuộc sống là ý nghĩa của
tuỳ duyên.
Ði vào lãnh vực giáo
dục và xã hội, cái gọi là Việt Nam hay Việt tính là tinh
thần, thái độ sống, thái độ nhận thức mà không phải
kiểu áo, màu áo, kiểu tóc v.v... Tinh thần độc lập bất
khuất là thuộc Việt tính, tinh thần uyển chuyển sống để
tồn tại và phát triển là thuộc Việt tính (có thể gọi
là tinh thần dung hóa).
Người Việt Nam có
thể tiếp thu các nền văn minh phương Tây, nhưng nội dung
cần được Việt hóa (chuyển thành cái của Việt Nam), nhưng
không để đánh mất Việt tính. Ðây là ý nghĩa của tuỳ
duyên bất biến.
Ở hành động, tinh
thần tùy duyên phá vỡ tính câu nệ cố chấp, và tinh
thần này được đảm bảo giá trị nhờ động cơ của tâm
lý hành động và nhờ chủ đích mà hành động nhằm đến.
Tinh thần giáo dục hành
động tuỳ duyên bất biến là tinh thần rất tích cực, giúp
con nguời của thời đại có nhiều biến đổi nhanh chóng,
có điều kiện rộng rãi để hành động thích nghi với
những nhân duyên mới, khai thông nhiều bế tắc do chủ nghĩa
đem lại.
Thuật ngữ Phật giáo
có nghĩa tương đương với tinh thần tùy duyên là "Phương
tiện thiện xảo" mà Thế Tôn đã vận dụng để dẫn
dắt các đệ tử đi dần vào giải thoát. Tinh thần phương
tiện lại được làm sống lại ở Kinh Pháp Hoa qua phẩm "Phương
Tiện".
Tinh thần giáo dục
tuỳ duyên sẽ giúp học đường soi sáng, chỉ lối hành động
tốt cho tuổi trẻ.
Tinh Thần Lục Hòa và
Tứ Nhiếp
Chỉ đạo đời sống
tập thể, Thế Tôn giảng dạy nguyên tắc Lục Hòa, Kinh Xá
Di Thôn chỉ rõ nguyên tắc sống chung của chư Tăng gồm có
sáu điểm: (8)
1. Thân hòa đồng
trú: có sự hòa hợp, hợp lý về chỗ ăn, chỗ ở, khéo
an trú thân nghiệp.
2. Khẩu hòa vô tránh:
lời nói hòa hợp, không tranh cãi, khéo an trú khẩu
nghiệp.
3. Giới hòa đồng
tu: cùng nhau giữ gìn một giới luật chung, an trú
giới, giữ thanh tịnh giới.
4. Lợi hòa đồng
quân: cùng san sẻ các lợi dưỡng.
5. Ý hòa đồng
duyệt: an trú ý nghiệp, hòa hợp thống nhất.
6. Kiến hòa đồng
giải: cùng với các vị đồng tu nuôi dưỡng những
tri kiến thánh thiện đưa đến xuất ly khổ.
Thế Tôn dạy giả
A-nan: sáu pháp hòa này sẽ đưa đến đoàn tụ, không tranh
luận, hòa hợp, đồng nhất và đưa đến cho con người an
lạc và hạnh phúc lâu dài.
Nếu ứng dụng nguyên
tắc: "Lục hòa" vào sinh hoạt nhóm hay tập thể, chúng ta
thấy rất thích ứng với các nguyên tắc tâm lý mà các nhà
giáo dục tâm lý hiện đại giáo dục cho các sinh hoạt
tập thể.
Bài học thứ nhất là,
nếu học đường áp dụng nghĩa "hòa" của "Thân hòa" vào
đồng phục cho học sinh thì sẽ giúp cho tuổi trẻ đoàn
kết, thân mật nhau, đến gần nhau hơn, không phân rẽ thành
nhiều nhóm do ăn mặc xấu, đẹp, sang, hèn khác nhau. Tuổi
trẻ cần được giáo dục tinh thần hòa hợp, đoàn kết
ngay từ bây giờ.
Bài học thứ hai, trong
sinh hoạt tập thể, trong giờ bàn bạc, thảo luận, tuổi
trẻ cần được giáo dục nguyên tắc "Khẩu hòa", biết cách
phát biểu ý kiến của mình nhưng đồng thời cũng phải
biết tôn trọng ý kiến của các bạn khác, không được
nặng lời chỉ trích, đả kích v.v...
Thái độ chỉ trích,
đả kích chỉ đem lại không khí nặng nề, bất hòa cho
sinh hoạt tập thể, và làm trở ngai nội dung của đề tài
thảo luận. Trái lại, trong không khí hòa hợp, tương kính
của thảo luận, mọi người sẽ đón nhận được cảm giác
an ổn, hạnh phúc của sinh hoạt tập thể.
Bài học thứ ba, học
đường cần dạy tinh thần "Kiến hòa". Sự khác biệt
về màu áo cũng đủ khiến tuổi trẻ tách rời thành
nhiều nhóm nhỏ, huống chi là sự khác biệt về tư tưởng
hay tín ngưỡng. Tư tưởng hay tín ngưỡng là màu áo của tâm
hồn tuổi trẻ. Học đường cần nhận rõ vai trò giáo
dục của mình là gieo thêm ý thức đoàn kết dân tộc cho
tuổi trẻ, cần phải tế nhị tạo ra một nhận thức xem
như là một loại triết lý giáo dục, làm thế nào để các
em, trong điều kiện khác biệt về tư biệt về tư tưởng,
tín ngưỡng có thể đến gần nhau, thân mật, hòa hợp, đoàn
kết. Ðây là ý nghĩa "kiến hòa đồng giải".
Bài học thứ tư là bài
học về nguyên tắc "Lợi hòa". Các em học sinh cần được
hưởng ứng đồng đều các quyền lợi vật chất, học hành,
thi cử nếu có ở học đường. Sự khác biệt về quyền
lợi chỉ là việc đi ngược với tinh thần giáo dục hòa
hợp và đoàn kết.
Bài học thứ năm về
"Giới hòa". Các em học sinh đều đặt mình trong một kỷ
luật chung của học đường, cùng nỗ lực tôn trọng kỷ
luật, bảo vệ kỷ luật học đường để việc học và
dạy có hiệu quả tốt. Trong điều kiện sống giống nhau
đó, các em dễ gần nhau, dễ hòa hợp và đoàn kết.
Bài học thứ sáu là
về "Ý hòa". Học đường cần dạy tuổi trẻ thành thật
với nhau, chấp nhận nhau, kính trọng nhau, cùng nhau xây
dựng tinh thần hòa hợp, đoàn kết. Có thành ý xây dựng,
học tập như thế thì mục tiêu giáo dục của học đường
mới thực sự thành tựu.
Có một bài học quan
trọng hơn nữa của "Lục hòa" là khi nói đến Hòa là xác
nhận sự bất đồng. Học đường vừa tôn trọng cá nhân,
cá tính của từng người, nhưng vừa giáo dục thế nào để
cá tính phát triển tốt trong không khí hòa hợp ấy. Hòa mà
không Ðồng thì đánh mất hết mọi ý nghĩa giáo dục. Do
đó, học đường một mặt giáo dục tuổi trẻ biết kính
trọng suy tư, tình cảm, tư tưởng v.v... của kẻ khác,
một mặt biết hòa hợp trong tập thể những cá tính khác
biệt ấy.
Về mặt lãnh đạo
tập thể, Thế Tôn dạy nguyên tắc "Tứ nhiếp" (Trong Tăng
Chi IV, phẩm Gia Chủ Hatthaka) là nguyên tắc mà cư sĩ
Hatthaka đã ứng dụng thành công tốt đẹp trong việc lãnh
đạo một chúng cư sĩ năm trăm người.
Tùy theo trình độ, cá
tính và nhu cầu cuả mỗi cá nhân mà biện pháp tâm lý để
nhiếp hòa, thu phục được thể hiện khác nhau.
-- Ðối với những
ai cần sự giúp đỡ về vật chất, kiến thức, an ủi,
kinh nghiệm sống, kinh nghiệm tu học, thì Hatthaka áp dụng
nguyên tắc "Bố Thí". Do có sự giúp đỡ mà sự
cảm thông, cảm mến có mặt. Do có sự hiểu biết, cảm
mến, Hatthaka thu phục được những cá nhân này và giảng
dạy cho họ có kết quả.
-- Ðối với những
ai tâm lý thích "Ái ngữ", thích nghe những lời nó
dịu dàng, hòa ái dễ nghe, thành thực, khôn khéo... thì
Hatthaka dùng "Ái ngữ" để cảm hóa, nhiếp phục họ. Thông
thường, mọi người đều thích ái ngữ và khó chịu
với những lời lẽ nặng nề, thiếu tế nhị v.v... Người
lãnh đạo muốn thành công phải biết vận dụng "Ái
ngữ".
-- Với những ai cần
"Lợi hành", cần khích lệ, cần giúp đỡ trong công
việc, thì Hatthaka đáp ứng họ. Do lợi hành đưa đến
cảm mến và chịu sự lãnh đạo.
-- Với những tâm lý
nào cần phải cùng làm việc, cùng ăn, cùng ở v.v.. cần
có thời gian gần gũi, thì Hatthaka áp dụng nguyên tắc "Ðồng
sự". Có giống với người, có cùng làm, cùng lo chung
công việc mới có điều kiện để chia xẻ, cảm thông.
Từ đây, tình cảm tốt, tương giao tốt nảy sinh. Có đồng
sự thì dễ nghe nhau nói và dễ nói cho nhau nghe. Do đó, người
lãnh đạo mới gây được lãnh đạo của mình.
- Với những ai cần
phối hợp các nguyên tắc trên để nhiếp hóa, thì người
lãnh đạo tùy duyên mà vận dụng.
Nhà tâm lý giáo dục
hiện đại trong nghệ thuật vận dụng tâm lý để đạt
mục tiêu giáo dục cũng không làm gì khác hơn bốn nguyên
tắc ấy.
Tinh Thần Giáo Dục,
Giảng Dạy Nêu Thí Dụ Cụ Thể
Nhà giáo giỏi là nhà
giáo khéo giảng, khéo làm cho học trò chóng hiểu được
những gì mình dạy. Một nội dung giảng dạy tốt nếu không
được truyền đạt bằng một kỹ thuật truyền đạt tốt
thì chưa thật tốt.
Lối truyền đạt tư tưởng
tốt là lối truyền đạt sáng sủa, rõ ràng và cụ thể
cho dù nội dung truyền đạt trừu tượng.
Thế Tôn, trong phương
pháp giảng dạy của Ngài, vừa ứng dụng nguyên tắc "Khế
cơ", "Khế lý", "Khế thời", vừa "Khích lệ"... lại
vừa vận dụng các thí dụ với các hình ảnh cụ thể,
quen thuộc với người nghe, để soi sáng cho người nghe để
hiểu điều Ngài muốn nói.
Thật là phong phú với
rất nhiều hình ảnh ví dụ trong kinh điển Nam tạng và
Bắc tạng Phật giáo.
Hình ảnh ví dụ thời
danh, hầu như quen thuộc với hầu hết các người học
Phật, là hình ảnh Thế Tôn ví dụ giáo lý Phật giáo như
chiếc bè (Kim Cương, A-hàm và Nikàya) để qua sông mà không
phải để mang trên vai. Hoặc là ví dụ giáo lý như ngón
tay chỉ mặt trăng, hay giáo lý như bản đồ chỉ đường.
Nói đến hương vị,
sắc thái đặc biệt của nội dung giáo lý Phật giáo, Thế
Tôn dạy: "Như biển chỉ có một vị: Vị mặn của muối;
cũng thế, giáo lý của Ta chỉ có một vị: vị giải thoát".
Các tên Kinh của Nam và
Bắc tạng cũng nổi bật lên hình ảnh ví dụ. Như Kinh
Phạm Võng (ví dụ như cái lưới), Kinh Bánh Mật (chiếc bánh
mật), Kinh Xà Dụ (ví dụ như con rắn), Kinh Gò Mối (ví
dụ gò mối), Kinh Khúc Gỗ (ví dụ như khúc gỗ trôi sông
về biển)... Kinh Kim Cương (ví dụ so sánh với kim cương),
Kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Ðịa Tạng v.v...
Thế Tôn đã sử dụng
phương pháp giảng dạy rất sống động, cụ thể, dễ
hiểu, hấp dẫn, thu hút sự chú ý của người khác và có
tác dụng đánh mạnh vào tâm thức của người nghe. Kèm
theo với phương pháp này, Thế Tôn còn giảng những đề tài
có duyên sự và bối cảnh sống động của nó (tương tự
như lối giảng dạy ngày nay theo sự sắp xếp của chương
trình, thời khóa biểu, nên người ta thường hay dựng lên
bối cảnh tác dụng giảng dạy càng hữu hiệu hơn nữa).
Ta hãy lấy một ví
dụ điển hình:
Ở Kosambi, bên bờ sông
Gangà (Hằng Hà), khi thấy một khúc gỗ lềnh bềnh trên
mặt nước, Thế Tôn liền gọi các Tỷ-kheo lại, chỉ khúc
gỗ và giảng dạy về con đường giải thoát. Ngài dạy: "Nếu
khúc gỗ không hư nát trong ruột, không tấp vào hai bên
bờ, không bị vướng vào nước xoáy, không bị loài người
hay các loài khác nhặt, thì nhất định khúc gỗ ấy trôi
thẳng về biển. Cũng thế, người tu sĩ nếu không như khúc
gỗ hư ruột (chỉ tà kiến của người tu, hay chỉ các
ngoại đạo), nếu không tấp vào hai bờ (có nghĩa là không
vướng mắc vào các căn, các trần), nếu không mắc vào nước
xoáy (nếu không ngã mạn), nếu không bị người ta nhặt
(nếu không bị ràng buộc nhiều với người đời, cư sĩ),
nếu không bị phi nhơn, chư Thiên nhặt (chỉ người tu cầu
sanh Thiên để hưởng các phước lạc), thì nhất định người
tu sĩ ấy sẽ như khúc gỗ, trôi thẳng về biển, sẽ vào
biển Thánh, thành tựu Phạm hạnh, chứng ngộ giải thoát
Niết-bàn". Trong khi Thế Tôn giảng như thế, một người
chăn bò tên là Nanda đứng cạnh đấy nghe lén. Nanda hiểu rõ
ngay con đường tu tập, liền xin Thế Tôn xuất gia và
bạch: "Con nguyện sẽ là người tu hành như khúc gỗ không
mục nát trôi xuôi về biển. Xin Thế Tôn cho con thọ Ðại
giới". Thế Tôn hoan hỷ nhận lời. Quả thực, chỉ sau có
một thời gian ngắn, Nanda liền chứng đắc A-la-hán (Kinh Tương
ng Bộ IV, Phẩm Rắn Ðộc, ví dụ về khúc gỗ).
Trong các Kinh, những đoạn
mở đầu bằng chữ "Ví dụ" và bắt đầu phần kết thúc
cuả đoạn bằng chữ "Cũng thế" là những đoạn Thế Tôn
so sánh, ví dụ.
Ở đây, chỉ trưng
dẫn một số ví dụ trong Kinh Pháp Cú và Kinh Pháp Hoa làm
điển hình:
Như mái nhà vụng
lợp,
Mưa có thể thấm vào;
Cũng vậy, tâm không tu,
Tham dục dễ xâm nhập -- (Pháp Cú câu 13).
Như mái nhà khéo
lợp,
Mưa không thể thấm vào;
Cũng vậy, tâm khéo tu,
Tham dục không xâm nhập. -- (Pháp Cú câu 14)
Có khi hình ảnh ví
dụ vừa cụ thể lại vừa thi vị, không đơn điệu, không
gây cảm giác chán nản ở người nghe.
Ai sống ở đời này,
Ái dục được hàng phục,
Sầu rơi khỏi người ấy,
Như nước rơi lá sen. -- (Pháp Cú câu 336).
Những lời dạy của
Thế Tôn có khi rất cụ thể, rất ngắn gọn, rất giản
dị, nhưng vẫn nói lên ý nghĩa thâm sâu và chứa đựng
cả nội dung giáo lý Phật giáo:
Cỏ làm hại ruộng vườn,
Tham làm hại người đời,
Bố thí, người lìa tham,
Do vậy được quả lớn -- (Pháp Cú câu 356).
Có những khi Thế Tôn
dạy vừa cụ thể, rõ ràng, thi vị, lại vừa rất triết lý.
Biển của người đời là một trong vùng nước rộng, còn
biển trong giáo lý của Ngài thì:
"Này các Tỷ-kheo,
mắt là biển của người... Tai, mũi, lưỡi, thân và ý là
biển của người... Ai vượt qua được các biển ấy với
nước xoáy, với sóng lớn, với cá mập, La-sát... thì đến
bờ biển (Niết-bàn)" (Tương Ưng Bộ Kinh IV, phẩm Biển).
Khi muốn làm nổi bật
cái nguy hiểm của sinh tử, Thế Tôn dạy: "Tất cả, này các
Tỷ-kheo, đều bị bốc cháy. Mắt bị bốc cháy; mũi, tai, lưỡi,
thân và ý đều bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì?
Bởi lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa sanh, già, bệnh,
chết, sầu, bi, khổ, ưu, não". (Tương Ưng Bộ Kinh IV,
phẩm Bốc cháy).
Giữa khi các đệ tử
bị ràng buộc bởi cái "có" của mình vào cuộc đời thì
lời dạy của Thế Tôn xuất hiện như một tiếng sấm
khiến tâm thức vùng dậy trong cơn bàng hoàng của chấp
thủ:
"Này A-nan, tất cả các
thế giới này là trống không. Sắc, thọ, tưởng, hành,
thức là trống không (vì chúng vô ngã)" (Tương Ưng IV,
phẩm Channa, mục Trống Không, và các Kinh khác).
Kinh Pháp Hoa thì nêu lên
những hình ảnh đầy biểu tượng, đầy ý vị những rất
cụ thể và nói lên được diệu pháp của Thế Tôn:
- Phẩm Thí Dụ, tam
giới như ngôi nhà lửa đang bốc cháy nói lên lối giảng
dạy phương tiện, quyền biến của Thế Tôn, đồng thời
giới thiệu giáo lý Nhất thừa.
- Hình ảnh "Cùng
tử" thật là sống động, làm nổi bật thân phận của
người nghe, người tu, khiến họ nhận ra căn cơ thấp kém
của mình và thức tỉnh để đi vào Diệu Pháp.
- Phẩm Dược Thảo
Dụ, ví đức Thế Tôn nói pháp như cơn mưa, cây lớn
thấm nước nhiều, cây nhỏ hút nước ít, nhưng tất cả
đều thấm nhuần nước.
Các hình ảnh sống động
trên đây tuy khác nhau, nhưng tất cả đều phục vụ nội
dung nói lên diệu lý của Kinh.
Phương pháp giảng
dạy bằng nhiều thí dụ của Thế Tôn là một phương pháp
rất khoa học và rất tâm lý, khiến cho việc giảng dạy đem
lại nhiều kết quả tốt, có thể là phương pháp mẫu
mực, chỉ đạo cho học đường mới. Thế Tôn đã xuất
hiện như một nhà giáo dục rất nhân bản và lý tưởng
qua các tinh thần và phương thức giáo dục được trình bày
ở trên.
Còn nhiều bài học
về giáo dục khác nữa của Thế Tôn mà chúng ta sẽ đề
cập thêm ở phần tiếp theo: Liên hệ giữa Thế Tôn và các
hàng đệ tử, ngoại đạo, ác ma và chư Thiên.
Liên Hệ Giữa Thế Tôn
và Các Hàng Ðệ Tử Của Ngài
- Hình
ảnh tổng quát của Thế Tôn từ khi Thành đạo.
Ngay sau khi Thành đạo,
Thế Tôn có đủ mười Như Lai lực và bốn Vô sở uý
(Trung Bộ I Tr. 71-B), tuy nhiên, Thế Tôn đã suy nghĩ một cách
đầy khiêm tốn rằng: "Thật là khó khăn sống không cung kính,
không vâng lời. Vậy ta hãy cung kính, đảnh lễ và sống y
chỉ vào một Sa-môn hay một Bà-la-môn... Nhưng Ta không
thấy một nơi nào trong thế giới chư Thiên và loài Người
có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào có giới, định, tuệ,
giải thoát và tri kiến giải thoát đầy đủ hơn Ta mà Ta có
thể cung kính, đảnh lễ, và sống y chỉ... rồi Ta suy nghĩ,
với Pháp mà Ta y chỉ vào Pháp ấy" (9).
Trên đường Thế Tôn
đi đến Lộc Uyển để chuyển bánh xe pháp, du sĩ ngoại đạo
Upaka đã hỏi về bậc Ðạo sư của Ngài và Ngài đã trả
lời:
"Ta không có Ðạo sư!
Bậc như Ta không có.
Giữa thế giới Nhân, Thiên
Không có ai bằng Ta..." (10)
Upaka nghi ngờ về cao
mạn của lời nói Thế Tôn nên bỏ đi. Ðây không phải là
lời tự đề cao hay tự hãnh diện về mình (Vì Thế Tôn đã
đoạn tận mười kiết sử) mà là lời tuyên bố sự thật
về địa vị tối thượng của Thế Tôn.
Suốt bốn mươi lăm năm
giáo hóa, Thế Tôn đi chân không với một bình bát và ba y
như các Tỷ-kheo đệ tử của Ngài. Hằng ngày Thế Tôn đi
khất thực, ngồi Thiền và thuyết pháp; buổi sáng sớm thường
thuyết pháp cho các vị Thiên, buổi chiều tối thường
thuyết pháp cho các hàng đệ tử. Ngài thường đi hoằng hóa
một mình, hoặc có chúng Tỷ-kheo đi theo. Khi nghỉ ngơi
tại một gốc cây, Thế Tôn tự đi nhặt lá khô lót thảo
tọa (một tấm cỏ đan) để ngồi, hoặc có một đệ tử
nhặt hộ; cho đến khi trọng tuổi Ngài mới có thị giả.
Thế Tôn thọ trai với
chúng Tỷ-kheo bất cứ nơi nào có thí chủ thỉnh mời. Sau
mỗi lần thọ trai, Thế Tôn nói lên một bài pháp ngắn để
tuỳ hỷ hay chúc lành.
Trong các mùa an cư,
Thế Tôn cùng chúng Tỷ-kheo (có giới hạn) nghỉ ở các
Tịnh xá do cư sĩ Cấp Cô Ðộc, nữ cư sĩ Visàkà hay vua
Tần-bà-sa-la xây cất cúng dường. Tại đây, đã có các
Phật tử cúng dường suốt mùa kiết hạ (mùa mưa ở Ấn
Ðộ)
Thế Tôn hằng ngày
ngồi Thiền và giảng dạy Phật pháp. Thế Tôn nói pháp cho
những ai muốn nghe và muốn đặt vấn đề. Có lần, một
du sĩ ngoại đạo đã đi theo Ngài trên đường vào làng
khất thực và cầu mong Ngài trả lời một số câu hỏi.
Sau ba lần thỉnh cầu, Thế Tôn đã dừng lại thuyết
giảng cho du sĩ ngoại đạo ấy. Ngài thuyết pháp không phân
biệt giai cấp, giới tính, tuổi tác... Ngài đã từng nhận
lời thọ trai cùng chúng Tỷ-kheo ở tư thất của một kỹ
nữ.
Một lần khác, Ngài đã
dạy các Tỷ-kheo hãy để cho nàng Patacarà, một người
loạn trí vì đau khổ, không có một mảnh vải che thân, đến
gặp Ngài. Bấy giờ các Tỷ-kheo ngăn nàng lại. Khi vừa
thấy Thế Tôn, nàng liền tỉnh táo và lấy một mảnh y do
các Tỷ-kheo ném đến để che thân và sụp lạy, khóc dưới
chân Thế Tôn, cho đến khi nhận được những lời dạy vàng
ngọc (11).
Ngài tiếp chuyện và
giảng dạy cho các vua chúa, đại thần và nhận lời thỉnh
mời thọ trai của họ.
Ngài mặc nhiên vấn đáp
với các ác ma và ngoại đạo. Có nhiều trường hợp vì
lợi ích độ sanh, Thế Tôn kín đáo sử dụng thần thông
xuất hiện trước các hội chúng Sát-đế-lợi, Sa-môn, Bà-la-môn,
chư Thiên v.v... trong hình ảnh, cung cách và ngôn ngữ giống
họ; nói chuyện và khích lệ họ, khiến họ được an
lạc, lợi ích. Khi Ngài rời họ ra đi (biến mất) thì các
hội chúng ấy không biết Ngài là ai, từ đâu lại. (Tiểu
Bộ Kinh: "Phật thuyết Như Vậy").
Có lần Ngài lâm bệnh
nặng như một số đệ tử của Ngài. Lúc trọng tuổi, Ngài
thỉnh thoảng bị rêm mình, đau lưng, đôi khi phải ngưng
ngay giữa thời thuyết pháp và nhờ Tôn giả Xá-lợi-phất
nói tiếp. Lúc già, Ngài như mọi người, lưng hơi còng, da
nhăn, các căn đều bị biến đổi. Trước khi thị tịch,
trong bữa cơm cuối cùng do người thợ sắt Thuần-đà dâng
cúng, Ngài dùng phải một loại nấm rừng kịch độc, bị
đi chảy. Ngài phải dùng định lưĩc của Như Lai để
nhiếp phục cơn bịnh. Ðang cơn khát, Thế Tôn dạy Tôn
giả A-nan lấy nước lã từ dòng sông bên cạnh cho Thế Tôn
dùng (Kinh Niết-bàn).
Thế Tôn vì lợi ích
của chư Thiên và loài Người, dạy đủ các căn cơ, trình
độ; với một số đối tượng, Ngài dạy tu phước đức
để sanh Thiên; với một số, Ngài dạy hạnh phúc thiết
thực ở đời: như hạnh phúc của đời sống gia đình,
với vợ con và trang điểm, như những điều cần thiết
của một số cô dâu về nhà chồng, như thế nào là người
vợ tốt, người chồng tốt, như thế nào là một nhà lãnh
đạo tốt, người thợ tốt, người học trò tốt, người
láng giềng tốt, v.v...
Ngài dạy con người
tự mình tu tập mà không phải cầu nguyện hay tế lễ.
Thế Tôn là ai mà Ngài
có kinh nghiệm thiết thực để giáo hóa đủ các hội chúùng:
Chư Thiên, Càn-thát-bà, loài Người v.v... ? Tăng Chi Bộ Kinh
IIA, tr. 51 (Bản dịch của HT. Thích Minh Châu, 1980) ghi lại
lời xác nhận của Thế Tôn về Ngài rằng: "Ðối với
những người chưa đoạn tận lậu hoặc, Ta có thể là chư
Thiên với các lậu hoặc đã đoạn tận..., Ta có thể là Càn-thát-bà
với các lậu hoặc đã đoạn tận..., Ta có thể là Dạ-xoa
với các lậu hoặc đã đoạn tận..., Ta có thể là người
với các lậu hoặc đã đoạn tận... Ví như bông sen xanh, bông
sen hồng hay bông sen trắng sanh ra trong nước, lớn lên trong
nước, vươn ra khỏi nước, đứng thẳng, không bị nước
thấm ướt. Cũng vậy, sanh ra trong đời, lớn lên trong đời,
Ta sống chinh phục đời, không bị đời thấm ướt, này Bà-la-môn,
Ta là Phật, hãy ghi nhớ như vậy".
Có một điểm biểu
hiện bên ngoài nữa của Thế Tôn khác biệt với người đời
là: Ngài được sanh khi bà mẹ đứng, được sanh ra dưới
gốc cây, tu tập dưới gốc cây, thành đạo dưới gốc cây,
chuyển bánh xe pháp dưới gốc cây, và nhập Niết-bàn cũng
dưới gốc cây. Thiên nhiên như gắn liền với Ngài qua các
mốc điểm lịch sử của đời Ngài.
Ðã có cái nhìn rõ hơn
về Ngài qua những sinh hoạt trong cuộc sống, giờ đây chúng
ta đi vào tìm hiểu mối tương hệ giữa Thế Tôn với các
đệ tử của Ngài và các đối tượng nghe Pháp.
-
Thế Tôn và Tôn Giả Xá-Lợi-Phất
Sau khi được Thế Tôn
độ, Tôn giả Xá-lợi-phất đắc A-la-hán quả bốn tuần
lễ sau, khi cùng trú với Thế Tôn ở độg Sukarakhata ở Vương
Xá (Ràjagaha) (Trưởng Lão Tăng Kệ).
Tôn giả Xá-lợi-phất
đã được Thế Tôn xác nhận trước Tăng chúng là vị đệ
tử trí tuệ đệ nhất của Ngài (12).
Một lần Thế Tôn
dạy: "Tỷ kheo nếu hy cầu một cách chơn chánh, sẽ hy
cầu như sau: 'Mong rằng ta sẽ như Xá-lợi-phất và
Mục-kiền-liên'. Ðây là cán cân, này các Tỷ kheo, đây là
đồ đo lường đối với các đệ tử Tỷ-kheo của Ta,
tức là Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên" (Tăng Chi I, tr.
102).
Tôn giả Xá-lợi-phất
thường có mặt bên cạnh Thế Tôn trong nhiều thời pháp
của Thế Tôn, Tôn giả thường cùng với Tôn giả
Mục-kiền-liên giảng dạy, hướng dẫn trực tiếp chúng
Tỷ-kheo, tân Tỷ-kheo, thay mặt Thế Tôn.
Ðây là một lời khen
điển hình của Thế Tôn dành cho Tôn giả: "Ai là người
không ngu si, không ác tâm, không si ám, không loạn tâm lại
có thể không hoan hỷ đối với Xá-lợi-phất? Này A-nan, Xá-lợi-phất
là bậc hiền triết, là bậc đại tuệ, là bậc quảng
tuệ, là bậc hỷ tuệ, là bậc tiệp tuệ, là bậc lợi
tuệ, là bậc quyết trạch tuệ. Này A-nan, Xá-lợi-phất là
bậc tri túc, là bậc thiểu dục, là bậc viễn ly, là bậc
bất cộng trí. Này A-nan, Xá-lợi-phất là bậc hiện tại,
nghe lời trung ngôn, cáo tội trung thực, chỉ trích ác pháp"
(13).
Một hôm Tôn giả Xá-lợi-phất
đến hầu Thế Tôn và hỏi Thế Tôn về ý nghĩa Ðại nhân.
Thế Tôn dạy: "Với tâm giải thoát, này Xá-lợi-phất, Ta
gọi là Ðại nhân. Không có tâm giải thoát, Ta không gọi là
Ðại nhân". Có những lúc tương tự, Tôn giả có vấn đề
trong việc giáo hóa, thường đến xin lời dạy của Thế Tôn;
có khi có vấn đề cần giảng dạy, Thế Tôn lại gọi Tôn
giả đến. Trước Thế Tôn, Tôn giả luôn luôn là một đệ
tử rất khiêm tốn. Một lần ở Nàlanda, Tôn giả đã tán
thán Thế Tôn với tất cả trí tuệ và lòng tôn kính: "Như
vậy là lòng tịnh tín của con đối với Thế Tôn. Không
thể đã có, không thể sẽ có, không thể hiện có một
Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có thể vĩ đại hơn, thắng trí
hơn Thế Tôn về Chánh giác" (Tương Ưng V, phẩm Nàlanda
Thứ Hai). Sau khi Tôn giả nhập Niết bàn không lâu, Thế Tôn
nhìn chung quanh chúng Tỷ-kheo im lặng và nói lên lời cảm
thán này: "Này các Tỷ-kheo, chúng này của Ta được xem như
trống không. Nay Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đã mệnh
chung, này các Tỷ-kheo, chúng của Ta thành trống không. Phương
hướng nào Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên trú, phương hướng
đó không còn ước vọng gì."(Tương Ưng V, phẩm Nàlanda
Thứ Hai).
-
Thế Tôn và Tôn Giả Mục-Kiền-Liên
Bảy ngày sau khi xuất
gia, tại Magakka, sau khi nhờ Thế Tôn khích lệ, Tôn giả
Mục-kiền-liên nhiếp phục được hôn trầm thụy miên.
Liền đó, khi nghe Thế Tôn dạy về Giới, Tôn giả đắc
A-la-hán, Tôn giả được Thế Tôn tuyên bố là bậc có
thần thông đệ nhất và được chọn làm đệ tử lớn
thứ hai của Thế Tôn.
Tại thành Vương Xá,
khi Tôn giả lâm bệnh nặng, đau đớn kịch liệt, Thế Tôn
đến thăm, nói pháp Thất giác chi. Nghe xong, Tôn giả thoát
khỏi bệwnh. Ảnh hưởng của Tôn giả Mục-kiền-liên trong
Giáo hội tương tự như ảnh hưởng của Tôn giả Xá-lợi-phất,
thường được Thế Tôn ca ngợi. Sự mệnh chung của Tôn
giả đã để lại một chỗ trống lớn trong Giáo hội, theo
ghi nhận của Thế Tôn.
-
Thế Tôn và Tôn Giả Ðại Ca-Diếp (Maha-Kassapa)
Tôn giả Ca-diếp là người
được Thế Tôn nhiếp hóa trước Tôn giả Xá-lợi-phất và
Tôn giả Mục-kiền-liên, được Thế Tôn tuyên bố trước
Thánh chúng là "Ðầu-đà đệ nhất". Sau khi xuất gia, Tôn
giả hành đầu-đà, chỉ tám ngày sau liền đắc quả A-la-hán
(14).
Lúc Tôn giả bị đau
nặng kịch liệt ở hang động Pipphali, Thế Tôn, vào một
buổi chiều, sau khi xuất Thiền, đến thăm Tôn giả và đã
nói về Thất giác chi. Nghe xong, Tôn giả liền khỏi bệnh
(15).
Lúc Tôn giả về già,
một hôm đến hầu Thế Tôn, Thế Tôn dạy: "Này Kassapa, Ông
nay đã già rồi, y phấn tảo, vải thô của Ông đã cũ nát,
đáng được quăng bỏ. Vậy này Kassapa, hãy mang những áo
do các gia chủ cúng, thọ dụng các món ăn được mời và hãy
ở gần bên ta" (16).
Tôn giã đã bạch: Ðấy
là hạnh sống ở rừng, hạnh mang ba y, hạnh thiều dục tri
túc, hạnh tinh tấn, viễn ly của Tôn giả, vì lợi ích
của tự thân và vì lòng từ mẫn làm gương cho chúng sanh
sắp đến. Thế Tôn tùy hỷ.
Tôn giả Ca-diếp là
vị ít khi thuyết pháp, giáo giới cho chư Tỷ-kheo. Các vị
Tỷ kheo, Tăng và Ni trẻ không nhận ra chân giá trị của Tôn
giả nên một lần Thế Tôn đã tán thán Tôn giả giữa đại
chúng Tỷ-kheo rằng: "Tùy theo ý muốn, Thế Tôn ra vào các
cảnh Thiền, chứng các thần thông và các minh. Cũng thế, tùy
theo ý muốn, Tôn giả Ca-diếp vào ra các cảnh Thiền,
chứng các thần thông và các minh" (Tương Ưng II, phẩm
Kassapa).
Một hôm, Tôn giả
thuật cho Tôn giả A-nan nghe về liên hệ thầy trò mật
thiết giữa Thế Tôn và Tôn giả: Khi Thế Tôn ngồi nghỉ
ở một gốc cây, Tôn giả dâng cúng Thế Tôn một y Tăng già-lê
do tự tay Tôn giả cắt may (bấy giờ là ngày xuất gia thứ
tám) liền sau khi Tôn giả được hạnh phúc và an lạc lâu
dài, Thế Tôn đã từ mẫn đón nhận và trao tấm y cũ
bằng vải thô phấn tảo đáng được quăng bỏ của Thế Tôn
cho Tôn giả. Tôn giả tiếp: "Nếu có ai nói về Ta một cách
chơn chánh, thì ta là con ruột Thế Tôn, sanh ra từ miệng,
do Pháp sanh, do Pháp hóa sanh, thừa tự Chánh pháp, và đã
nhận được tấm y phấn tảo làm bằng vải gai thô đáng
được quăng bỏ từ Thế Tôn" (Tương Ưng II, phẩm
Kassapa).
-
Thế Tôn và Tôn Giả Upàli
(Trưởng Lão Tăng
Kệ và Tăng Chi IIIB, phẩm Upàli).
Tôn giả Upàli (Ưu-bà-ly)
vốn là người thợ hớt tóc cho các hoàng thân của dòng
họ Thích Ca. Noi gương xuất giả của các Tôn giả A-nậu-lâu-đà...
Tôn giả xuất gia và xin Thế Tôn được tu ở rừng. Thế Tôn
dạy: "Nếu Ông sống trong rừng, ông chỉ phát triển được
một vấn đề. Nhưng nếu ông sống với chúng ta, Ông sẽ
trở thành thuần thục cả kinh học và Thiền quán". Ngài vâng
theo lời dạy của Thế Tôn, tu Thiền quán, và sau một
thời gian ngắn chứng quả A-la-hán.
Thế Tôn giảng dạy
cho Tôn giả về Luật. Về sau, Tôn giả được Thế Tôn tuyên
bố là vị đệ nhất trì luật của Giáo hội. Tôn giả
được Thế Tôn giao việc xử lý và tuyên luật.
(xem tiếp đoạn
kế)
-oOo-
Ðoạn
trước | Mục lục | Ðoạn
kế |