|
Chương
Một - Phật Bảo
Tiết VI
Các
Tinh Thần Giáo Dục của Thế Tôn và
sự Liên Hệ giữa Ngài với các hàng Ðệ Tử, Chư Thiên,
Ác Ma và Ngoại Ðạo.
(tiếp theo)
-
Thế Tôn và Tôn Giả A-Nan (Ananda)
Tôn giả A-nan là người
hoàng tộc, xuất gia khi Thế Tôn về thăm vua Tịnh Phạn và
hoàng tộc.
Tôn giả là một trong
mười vị đại đệ tử của Thế Tôn. Trong hai mươi năm
đầu, Thế Tôn không có thị giả riêng. Năm năm mươi sáu
tuổi, Thế Tôn ngỏ ý cần thị giả, Thánh chúng đề cử
Tôn giả A-nan. Tôn giả hoan hỷ làm thị giả Thế Tôn với
điều kiện Thế Tôn từ chối bốn việc và chấp nhận
bốn việc:
- Từ chối, không cho
Tôn giả y, đồ ăn, phòng ở riêng và mời ăn
- Nếu Tôn giả được
mời thọ trai, Thế Tôn cho phép đi; nếu có người từ xa
đến xin yết kiến Thế Tôn, Thế Tôn bằng lòng cho gặp
khi A-nan giới thiệu; Thế Tôn cho A-nan yết kiến khi A-nan
gặp điều khó xử; Thế Tôn giảng lại những giáo lý Ngài
dạy những khi A-nan vắng mặt.
Thế Tôn chấp nhận
lời yêu cầu của Tôn giả (Trưởng Lão Tăng Kệ).
Công việc thị giả
của Tôn giả A-nan gồm: đem nước, đem tăm xỉa răng, rửa
chân, quét phòng, đi theo Thế Tôn; ban ngày ở cạnh Thế Tôn
để bạch Thế Tôn những điều cần làm; ban đêm, cầm đèn
và gậy đi quanh phòng Thế Tôn; sẵn sàng khi Thế Tôn gọi.
Tại Jetavana, Thế Tôn xác nhận Tôn giả là vị Tỷ-kheo đệ
nhất về năm phương diện: đa văn, cảnh giác, sức khoẻ
đi bộ, kiên trì và hầu hạ chu đáo. Tôn giả chỉ đắc
A-la-hán sau khi Thế Tôn nhập diệt vào đêm trước ngày
kiết tập đầu tiên (Trưởng Lão Tăng Kệ).
Tôn giả A-nan được
đề cập đến trong rất nhiều kinh Nikàya và A-hàm, là
bậc khéo nói, có cử chỉ rất tốt đẹp trong xã giao, là
thị giả rất trung thành, rất tận tụy, học rộng bậc
nhất và có trí nhớ bậc nhất. Kinh Ðại-Bát-Niết-Bàn đã
ghi lại rằng Tôn giả rất đau xót mỗi lần Thế Tôn bị
mệt hay bị bệnh. Tôn giả đã khóc vật vã khi Thế Tôn
nhập diệt.
Trước khi thị tịch,
Thế Tôn đã hết lời ca ngợi, tán thán và khích lệ Tôn
giả. Thế Tôn nhấn mạnh, Tôn giả A-nan thắng hơn thị
giả của chư Phật quá khứ ở một điểm là: A-nan biết
ý Thế Tôn muốn gì để đáp ứng trước khi Thế Tôn
dạy, còn thị giả của chư Phật quá khứ thì chỉ biết
ý khi chư Phật đã dạy mà thôi.
-
Thế Tôn và Các Tôn Giả A-Nậu-Lâu-Ðà, Ca-Chiên-Diên, Phú-Lâu-Na
v.v...
Các Tôn giả đại đệ
tử này đều được đề cập đến trong nhiều kinh và đều
được Thế Tôn tán thán về hạnh tối thắng và đại
tuệ. Các Tôn giả đều hết lòng tôn kính và hầu hạ
Thế Tôn trong các Phật sự của Giáo hội: truyền bá Chánh
pháp và hướng dẫn các vị tân Tỷ-kheo.
Thỉnh thoảng Thế Tôn
một mình ghé lại chỗ tu hành của các Tôn giả để hỏi
thăm sức khoẻ. Một lần đến thăm Tôn giả A-nậu-lâu-đà
(Anuruddha), Tôn giả Nan-đề (Nandida), Tôn giả Kim-tỳ-la
(Kimpila), Ngài dung dị đến độ người giữ vườn không
biết Ngài là Thế Tôn, ngăn cản Ngài đi vào vườn, cho đến
khi các Tôn giả biết, ra cung thỉnh Thế Tôn. Lời thăm
hỏi của Thế Tôn mở đầu là: "Này các Tỷ-kheo, các Ông
có được an lành không? Sống được yên vui không? Ði
khất thực có mệt không?" (17)
Khi biết tin các Tôn
giả đau ốm, Thế Tôn đến viếng thăm khích lệ và
thuyết pháp để các Tôn giả sinh khởi hỷ lạc mà thoát cơn
bệnh nặng (18).
Tôn giả A-nậu-lâu-đà
là vị chủ trì lo việc hỏa táng, thiêu Xá lợi lúc Thế Tôn
nhập diệt.
-
Thế Tôn và Các Tân Tỷ Kheo
Một số các tân
Tỷ-kheo do Thế Tôn thu nhận, một số do các vị đại đệ
tử thu nhận. Hầu hết các tân Tỷ-kheo về sau đều do hai
Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên trực tiếp hướng
dẫn. Bên cạnh các đại đệ tử, các tân Ty- kheo vẫn thường
được nghe Thế Tôn thuyết pháp và khích lệ. Thế Tôn
rất quan tâm đến việc giảng dạy và khích lệ các tân
Tỷ-kheo, dù đã có các đại đệ tử của Ngài hướng
dẫn.
Kinh Tương Ưng IV,
phẩm Bệnh ghi rằng: Khi Thế Tôn nghe bạch có Tỷ-kheo mới
tu bị bệnh nặng, Thế Tôn liền đi đến thăm. Khi thấy
Thế Tôn đến, Tỷ-kheo bị bệnh nặng gượng dậy trên giường
nhưng Thế Tôn liền nói: "Thôi chớ có gượng dậy, Thế Tôn
đã có chỗ ngồi ở đây rồi". Rồi Thế Tôn thăm hỏi
bệnh tình, an ủi và nói pháp khích lệ. Vị tân Tỷ-kheo này
liền đắc Tu-đà-hoàn ngay trên giường bệnh.
Thế Tôn đến thăm
nhiều tân Tỷ-kheo bị bệnh như thế.
-
Thế Tôn đối với Nữ Tôn Giả Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Ðề.
Nữ Tôn giả Ma-ha Ba-xà-ba-đề
vốn là mẹ nuôi của Thế Tôn, về sau, nữ Tôn giả cùng
với năm trăm Thích-ca nữ xin xuất gia. Thế Tôn xét theo
sự khẩn cầu của Tôn giả A-nan, chấp thuận cho xuất gia
với điều kiện chấp nhận Bát Kỉnh Pháp.
Ðức Phật thuyết pháp
cho nữ Tôn giả nghe. Sau một thời gian tinh cần tu tập,
nữ Tôn giả đắc A-la-hán. Năm trăm Tỷ-kheo-ni thì đắc sáu
Thánh trí, sau khi nghe Tôn giả Nandaka giáo giới (do Thế Tôn
cử). Thế Tôn đã tuyên bố Tôn giả là người có kinh
nghiệm đệ nhất của Ni chúng, sống được hạnh phúc
giải thoát, Niết-bàn.
Trong lời tuyên bố
chứng ngộ của tự thân, nữ Tôn giả đã hết lòng cung kính
và tán thán hạnh đức của Thế Tôn (Trưởng Lão Ni Kệ).
-
Thế Tôn đối với Các Nữ Tôn Giả Khác
Thế Tôn đã tuyên bố
và tán dương hạnh bậc nhất của một số nữ Tôn giả
(như đã trình bày ở phần trước). Một số nữ xuất gia,
Thế Tôn thu nhận, hoặc các đại đệ tử của Thế Tôn
giới thiệu và chuyển qua Ni chúng, dưới sự hướng dẫn
của Tôn giả Ma-ha Ba-xà-ba-đề. Một số lớn do chính các
nữ Tôn giả tế độ.
Các nữ Tôn giả có
hạnh bậc nhất đều là các vị có đại tuệ, đã đắc
quả A-la-hán.
- Trường hợp Vimalà và
Ambapàli là hai kỹ nữ về sau đắc A-la-hán (Trưởng Lão Ni
Kệ).
- Trường hợp Kisàgotamì
là một cô gái nhà nghèo, có gia đình và bị khinh thường,
sức khỏe kém. Khi nàng có con thì được gia đình chồng kính
trọng. Ðứa con vừa biết chạy thì chết. Nàng đau khổ ôm
xác con đến tịnh xá Thế Tôn xin thuốc cải tử hoàn sinh.
Thế Tôn thấy căn cơ nàng đã đến thời điểm nhập đạo
liền dạy: "Hãy đi đến nhà nào không có người chết (chưa
từng có người chết) xin về đây một hột cải, Thế Tôn
sẽ giúp cho nàng". Sau đó, nàng tỉnh ngộ, biết là Thế Tôn
dạy khéo nàng, nên nàng đem con vào nghĩa địa, rồi xin
Thế Tôn xuất gia. Thế Tôn dạy:
Tâm ai bị đắm say,
Con cái và súc vật,
Tử thần bắt người ấy,
Như lụt trôi làng ngủ. -- (Dhp 287).
Nàng liền đắc Pháp
nhãn ngay tại chỗ (Trưởng Lão Ni Kệ).
- Nữ Tôn giả Khemà,
thuộc hoàng tộc ở Ma-kiệt-đà, có nhan sắc tuyệt trần,
là hoàng hậu của vua Tần-bà-sa-la. Khi Thế Tôn ở tại Trúc
Lâm, nàng cùng các người hầu cận đến hầu Thế Tôn.
Thế Tôn hóa hiện một tiên nữ đẹp hơn cả nàng, đứng
hầu quạt Thế Tôn. Trước mắt nàng, tiên nữ bỗng trở nên
già sụm rồi ngã xuống đất, khiến nàng thức tỉnh, tiêu
tan tất cả kiêu mạn về nhan sắc của mình. Bấy giờ
Thế Tôn dạy:
"Người đắm say các
dục,
Như nhện sa lưới dệt,
Bỏ mọi khổ không màng,
Tự lao mình xuống dòng,
Người trí cắt trừ nó". -- (Dhp. 347).
Nàng chứng đắc A-la-hán
ngay tại chỗ rồi mới xuất gia.
- Nữ Tôn giả
Dhammadinnà là vợ của một người có địa vị trong xã
hội, ông Visàkhà. Khi Visàkhà nghe Thế Tôn dạy, liền đắc
A-na-hàm và xuất gia. Nàng cũng xin xuất gia nhập thất, không
bao lâu liền đắc A-la-hán, quả vị cao hơn cả Visàkhà (người
chồng cũ). Nữ Tôn giả là vị Ni thuyết pháp giỏi nhất
(Trưởng Lão Ni Kệ, và Trung Bộ I).
- Nữ Tôn giả Patàcàrà
vốn con nhà giàu, về sau lập gia đình với chàng trai giúp
việc và trốn nhà ra đi. Ðến lúc sinh được hai con (trong
một điều kiện rất khổ) thì chồng bị rắn cắn chết,
một đứa con bị diều tha, một đứa con bị nước cuốn
trôi, cha mẹ và các em bị chết trong cùng một đêm bão
tố. Quá đau khổ, nàng bị điên. Trên đường điên loạn,
nàng gặp Thế Tôn và hồi tỉnh. Thế Tôn thuyết pháp tế
độ nàng. Về sau nàng đắc A-la-hán quả và thuyết pháp độ
được năm trăm vị Ni khác cũng đắc quả (Trưởng Lão Ni
Kệ).
Trên đây chỉ là một
số trường hợp điển hình. Thế Tôn cho phép thành lập đoàn
thể nữ giới đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Xác
nhận nữ giới đồng đẳng với nam giới về mặt chứng
đắc giải thoát, có khả năng đắc A-la-hán quả, đoạn
tận vô minh. Ðây là tiếng nói của nhân bản, dân chủ, bình
đẳng nhất và sớm nhất trần gian, giải phóng nữ giới
ra khỏi vòng ràng buộc và tối tăm của cuộc sống, bị đè
nặng bởi các văn hóa chậm tiến.
-
Thế Tôn đối với Các Nữ Cư Sĩ và Nam Cư Sĩ
Hàng đệ tử của
Thế Tôn gồm có bốn chúng: Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ
và nữ cư sĩ.
Thế Tôn bằng tinh
thần khế cơ, bằng thiện xảo phương tiện, đã giáo hóa
rất nhiều nam và nữ cư sĩ đủ các giai cấp, các thành
phần xã hội và các lứa tuổi. Hàng đệ tử tại gia có
đủ các hạnh. Thế Tôn đã tán thán các hạnh bậc nhất
của các cư sĩ (như đã trình bày ở phần trước). Ở đây,
chỉ giới thiệu một số trường hợp điển hình và một
số giáo lý điển hình dành cho các cư sĩ tại gia.
1. Trường hợp Singàla
(Thiện Sinh) (Trường Bộ Kinh, 31), Thế Tôn dạy chàng thanh
niên đảnh lễ sáu phương trong luật của bậc Thánh (Phật
giáo) là đảnh lễ sáu mối tương quan của con người: cha
mẹ - con cái; thầy trò; vợ - chồng; chủ - thợ; cá nhân -
bè bạn, bà con, láng giềng; và tu sĩ - cư sĩ.
Ðối tượng của đảnh
lễ phải là đối tượng thiêng liêng nên sáu mối tương
hệ trên được Thế Tôn dạy là sáu mối tương hệ thiêng
liêng, cao quý của con người. Ðối tượng đảnh lễ này
vừa rất thiết thực, vừa rất nhân bản, bởi vì nội
dung của đảnh lễ chính là thể hiện những gì mà con người
phải làm để thiết lập tương giao tốt, có ý nghĩa, đem
lại an vui, hạnh phúc cho mình và cho người:
* Bổn phận của cha
mẹ đối với con cái là giáo dục tốt con cái, hướng
dẫn con cái vào đường thiện, giúp con cái đi đến hôn
nhân tốt.
* Bổn phận của con
cái đối với cha mẹ là săn sóc cha mẹ lúc tuổi già,
giữ danh dự và truyền thống gia đình, giúp các việc khi
cha mẹ cần, giữ gìn tài sản của cha mẹ.
* Bổn phận của
thầy giáo là dạy giỏi, hướng dẫn học sinh chọn bạn
và chọn nghề, dạy nghề để học trò có việc làm khi
học xong. Ðây chính là trách nhiệm của học đường ngày
nay, với tinh thần dạy chuyên môn và dạy nghề là tinh
thần giáo dục hiện đại nhất và thiết thực nhất.
* Bổn phận học trò
thì kính trọng, vâng lời thầy, học hỏi và giúp đỡ
khi thầy cần.
* Liên hệ vợ
chồng: Vợ chồng phải thương yêu và kính trọng nhau; người
vợ phải vừa là vợ, vừa là người yêu, vừa là bạn,
và có khi là chị hay em (hoặc mẹ); người chồng phải
vừa là chồng, vừa là người yêu, vừa là bạn, và có
khi là anh, em (hoặc là cha), người chồng thường săn sóc
các nhu cầu, hay sắm quà tặng cho vợ; người vợ phải
quán xuyến các việc trong nhà, cả hai phải trung thành
với nhau.
Thật là lạ lùng! Cách
đây hơn hai ngàn năm trăm năm mà Thế Tôn lại quan niệm
về hôn nhân và tình yêu của tuổi trẻ rất là đặc
biệt, tiên tiến. Ngày nay con người vẫn còn bối rối
giữa ý nghĩa của hôn nhân và tình yêu. Có người quan
niệm hôn nhân khác hẳn với tình yêu, người vợ khác
hẳn với người tình. Tách rời hôn nhân khỏi tình yêu là
quan niệm thiếu thực tế, chỉ làm cho tuổi trẻ thêm bối
rối. Thế Tôn đã giáo dục tình cảm một cách thiện
xảo: Tương quan giữa vợ chồng chính là tương quan của tình
yêu, vừa là tình bạn, vừa là vợ chồng, và có khi cả
hai người còn đòi hỏi thứ tình cảm được săn sóc, nuông
chiều nữa, đó là thứ tình cảm mà người vợ phải giữ
vai trò của người chị, người mẹ hoặc người em gái
của chồng, và người chồng phải giữ vai trò người anh
trai, em trai hay người cha của vợ. Tương hệ nầy đầy tình
người, hạnh phúc và rất là xây dựng, thiết thực!
Rõ ràng đây là một
chỉ hướng giáo dục "lý tưởng" về tình cảm, tâm lý,
hôn nhân và tình yêu!
Trong Tăng Chi IV, Tương
Ưng I, và Trường Bộ Kinh II (như đã được trích dẫn ở
phần đầu của giáo dục cá nhân của Phật giáo, chương
I, tiết VI), Thế Tôn dạy rõ cách sống như thế nào để có
hạnh phúc của đời sống gia đình trong hiện tại. Trong đó,
Thế Tôn dạy đến đời sống kinh tế của gia đình trong
hiện tại, đời sống quân bình sức khỏe, tình cảm, suy tư,
tâm lý. Quả là một tinh thần hướng dẫn giáo dục đầy
thực tế!
2. Có một lần, Thế Tôn
giáo dục nàng Sujàtà, dâu của cư sĩ Cấp Cô Ðộc (Anàthapindika),
người không vâng lời cha mẹ chồng, hay to tiếng, lớn
tiếng trong gia đình. Thế Tôn kể cho nàng nghe có bảy
hạng người vợ: Vợ như người sát nhân, vợ như người
ăn trộm, vợ như người chủ nhân, vợ như người mẹ,
vợ như người chị, vợ như người bạn, và vợ như người
nữ tỳ. Sau khi nói rõ nội dung, thái độ sống của mỗi
hạng người vợ, Thế Tôn kết luận: Vợ như bạn, như
mẹ, như chị, như nữ tỳ thì có đức hạnh và sau khi
chết sẽ được sanh Thiên; còn ba hạng vợ kia thì sau khi
chết sẽ sanh vào địa ngục. Tiếp theo Thế Tôn hỏi Sujàtà,
"Trong bảy hạng người vợ ấy, con thuộc hạng người nào?"
Sujàtà tỉnh ngộ và bạch: "Bạch Thế Tôn, kể từ hôm
nay, đối với chồng con, con sẽ là người vợ nữ tỳ".
Ðấy là thái độ giáo
hóa của Thế Tôn, quan tâm đến an lạc hạnh phúc người
đời. Ðây lại là tinh thần giáo dục rất nhân bản và tiên
tiến: Thế Tôn chỉ trình bày bảy hạng người vợ, rồi
để cho nàng Sujàtà tự suy xét và chọn lựa (Tăng Chi IV,
chương Bảy Pháp).
3. Ở nơi khác, cư sĩ
Uggaha thỉnh Thế Tôn thọ trai. Sau khi Thế Tôn độ trai
xong, cư sĩ bạch xin Thế Tôn dạy cho người con gái của ông
ta sắp về nhà chồng, nàng phải làm gì để sống tốt đẹp,
hạnh phúc (Tăng Chi IIA, tr. 262-263, 1981).
4. Về quan niệm giai
cấp xã hội, Thế Tôn dạy cho các cư sĩ về bình đẳng
giai cấp. Về hạnh phúc tương lai, Thế Tôn dạy cho cư sĩ
về tín, thí, giới và tuệ. Về các cư sĩ có thực tu,
thực học, có thể lãnh đạo chúng cư sĩ, như cư sĩ
Hatthaka, Thế Tôn dạy thêm về "Bốn nhiếp pháp" (Bố thí
nhiếp, ái ngữ nhiếp, lợi hành nhiếp và đồng sự
nhiếp).
5. Về hai cư sĩ hộ Tăng
đắc lực là Cấp Cô Ðộc và nàng Visàkhà, Thế Tôn đã
dạy đạo giải thoát. Sinh thời, hai cư sĩ này đã chứng
"Pháp nhãn" (Thánh quả Nhập lưu).
Thế Tôn với Các Vua
Chúa
* Vua Tần-bà-sa-la
(Bimbisàra) là vị vua đầu tiên yết kiến Thế Tôn tại Ưu-lâu-tần-loa
(Uruvela) - khi Giáo hội vừa mới có một ngàn vị đệ tử
- nghe pháp, hiểu pháp, dâng cúng Thế Tôn tịnh xá Trúc Lâm
(Veluvana), và cung thỉnh Thế Tôn cùng chư Tỷ-kheo thọ trai.
Nhà vua có hoàng hậu
nhan sắc tuyệt trần, đã xuất gia do thấy rõ vô thường,
và đã trở thành một A-la-hán; ấy là nữ Tôn giả Khemà,
là vị trí tuệ bậc nhất của Ni chúng.
* Vua Ba-tư-nặc
(Pasenadi) nước Kiều-tất-la (Kosala) được Thế Tôn xác
nhận là thiện hữu, thiện giao du (Tương Ưng I, phẩm thứ
hai, Tương Ưng Kosala).
Một hôm, vua Ba-tư-nặc
đến hầu thăm Thế Tôn và đặt một số câu hỏi: "Tôn
giả Gotama có tự cho mình đã chứng Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác không?"
- Thưa Ðại Vương: "Tôi
đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".
- Thưa Tôn giả Gotama,
có những vị Sa-môn, Bà-la-môn là các vị hội chủ, giáo
trưởng có danh vọng, khai mở các giáo phái, được quần
chúng tôn sùng, như: ngài Purana Kassapa, Makkhali Gosàla,
Nigantha Nàtaputta, Sanjaya Belatthiputta, Kukudha Kaccàyana, Ajita
Kosakambala (đây là Lục sư ngoại đạo). Khi con hỏi các
vị ấy: "Có tự xem là đã chứng Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác không?" thì các vị ấy đã trả lời: "Không".
Vậy làm sao Tôn giả Gotama, trẻ tuổi, sanh sau đẻ muộn, và
chỉ mới xuất gia, lại tự cho mình như vậy?"
- "Thưa Ðại vương, có
bốn loại không nên khinh thường, hay không nên miệt thị vì
chúng là trẻ. Thưa Ðại vương, Sát-đế-lợi trẻ.., con
rắn trẻ.., ngọn lửa trẻ..., và Tỷ-kheo trẻ.. " (Tương
Ưng I, Tương Ưng Kosala).
Bấy giờ vua Ba-tư-nặc
tán thán Thế Tôn và xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng,
xin trọn đời quy ngưỡng.
* Vua A-xà-thế (Ajàtasattu)
là vị vua đã giết cha để chiếm ngôi, đã cùng với Ðề-bà-đạt-đa
(Devadatta) chia rẽ giáo hội của Thế Tôn, tách rời năm trăm
vị Tỷ-kheo để thành lập Giáo hội riêng. Sau đó, Tôn
giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đã giáo hóa được năm
trăm vị Tỷ-kheo ấy quy hướng Thế Tôn. Vua A-xà-thế
biết lỗi mình và cũng quy y với Thế Tôn. Tại một thời
thuyết pháp, Thế Tôn đã dạy một số Tỷ-kheo rằng: "Nếu
không phạm tội giết cha, thì ngay tại đây A-xà-thế đã
đắc Tu-đà-hoàn quả". (Kinh Sa-môn Quả, Trường Bộ I).
Theo Kinh Sa-môn Quả (Sàmanna
- Phalasuttam), vua A-xà-thế đã phát biểu nhận xét của nhà
vua về Giáo hội của các Giáo phái đương thời, và đã
hết lòng tán dương Giáo hội của Thế Tôn với kết quả
rất thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn.
Trước hiện tượng xã
hội, có nhiều áp bức, bất công của một số lãnh thổ
thuộc Ấn Ðộ đương thời, Thế Tôn đã dạy mười điều
mà một nhà vua và triều thần cần thực hiện để đem
lại hạnh phúc cho nhân dân:
1. Vua độ lượng, bác
ái, bố thí, không khát ái, không tham lam tiền của, tài
sản.
2. Giữ giới: không sát
sinh, không bóc lột, không trộm cắp, không tà dâm, không
nói dối, không say sưa.
3. Hy sinh tất cả cho
lợi ích dân chúng. Vị ấy (vua) sẵn sàng từ bỏ mọi
tiện nghi cá nhân, danh tiếng và ngay cả sự sống.
4. Thành thật và liêm
khiết.
5. Hiền từ và hòa
ái.
6. Khắc khổ trong
nếp sống.
7. Không được sân
hận, không được tư thù.
8. Nhẫn nhục trước
mọi khó khăn, chỉ trích, mà không để mất bình tĩnh.
9. Bất hại: không
hại người, đề cao hòa bình, ngăn chặn chiến tranh và
những bạo động phá hoại sự sống.
10. Không chống lại
ý muốn của nhân dân, thuận ý dân (Kinh Dhammapadatthaka và
Bổn Sinh - Jàkata).
Tăng Chi Bộ Kinh (IV-A,
tr. 13, Bản dịch của HT. Thích Minh Châu) ghi bảy điều
dạy của Thế Tôn làm cho một xã hội cường thịnh:
1. Hoà hợp trong dân
chúng.
2. Dân chúng đoàn
kết.
3. Pháp luật công
minh và có truyền thống dân tộc.
4. Dân chúng sống đạo
đức và biết kính trọng người lớn tuổi.
5. Xã hội an ninh, không
có các hiện tượng hà hiếp bắt cóc, cưỡng ép các
thiếu nữ, phụ nữ.
6. Có tín ngưỡng và
tôn trọng truyền thống tín ngưỡng.
7. Kính trọng và
ủng hộ chư Tăng.
Trong Kinh "Chuyển Luân
Thánh Vương Sư Tử Hống" (Trường Bộ Kinh III, số 26),
Thế Tôn xác nhận nguyên nhân của các hiện tượng tội ác
trong xã hội như trộm cắp, vô luân, nói dối, bạo động,
thù hằn hung ác là do nghèo đói.
Kinh Kùtadanta (Trường
Bộ Kinh III), Thế Tôn giải thích các hình phạt không hữu
hiệu, không lợi ích và không thành công bằng sự cải
thiện kinh tế. Ðể cải thiện kinh tế, Thế Tôn dạy:
1. Cung cấp các thứ
hạt giống và phương tiện canh tác cho các nhà nông.
2. Cung cấp vốn cho
những người kinh doanh đầu tư, trả lương thích đáng
cho công nhân.
3. Ðại bố thí cho
nhân dân thay thế các lễ tế đàn.
Khi mà dân chúng thu
hoạch đủ lợi tức, sẽ vừa lòng, sẽ không sợ hãi hay
lo lắng, và kết quả sẽ là xứ sở được thanh bình, ra
khỏi tội ác.
Thế Tôn cũng đã gián
tiếp trả lời một số câu hỏi mà sứ thần của vua A-xà-thế
đặt ra để thăm dò ý kiến Thế Tôn về việc có nên
tiến quân đánh nước Vajji (Bạt-kỳ) hay không. Kết quả là
lời dạy của Thế Tôn đã ngăn chặn được cuộc chiến
tranh ấy (vua A-xà-thế thuộc dòng Câu-lợi-Kobiyas, còn Vajji
thì thuộc dòng Thích-ca-Sàkyas).
Các quan đại thần
của các nước lân cận xứ Vajji vẫn thường đến viếng
thăm Thế Tôn, hỏi đạo và quy y. Một số con trai và con gái
của các quan đại thần đã trở nên các đệ tử xuất gia
của Thế Tôn và đã chứng Thánh quả (xem Trưởng Lão Tăng
và Ni Kệ).
Thế Tôn với Các
Ngoại Ðạo Bà-La-Môn
Ðức Phật giác ngộ
như một vầng thái dương sáng chói làm lu mờ hết thảy
những vùng trăng sao của ngoại đạo. Vì thế, một số giáo
chủ ngoại đạo và các tín đồ ngoại đạo thì quy ý
Thế Tôn, một số thì trở nên thù hận.
Chúng ta sẽ dần đi vào
hai mối tương hệ đó giữa ngoại đạo và Thế Tôn.
Về mặt chống đối,
đại để ngoại đạo đã thực hiện nhiều hình thức: vu
khống, tuyên truyền xuyên tạc để làm giảm ảnh hưởng
của Thế Tôn và đoàn thể Tăng-già, thách đố thi thố
thần thông, tranh luận và vấn nạn, cho người nằm vùng
trong tổ chức của Giáo hội để tìm hiểu sự thật của
Thế Tôn, v.v...
1. Tiểu Bộ Kinh, Kinh
Phật Tự Thuyết (Udàna) 43, chép rằng: "Bấy giờ Thế Tôn
trú ở Xá-vệ (Sàvatthì), tại Tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavana),
khu vườn của ông Cấp Cô Ðộc, được nhiều người cung
kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường.. Các du sĩ ngoại
đạo ganh ghét bèn bày mưu độc cho nữ du sĩ Sundari thường
lui tới Kỳ Hoàn, rồi cho người giết Sundari và chôn vào
một cái mương tại Jetavana (Kỳ Hoàn). Sau đó đến báo cáo
với vua Ba-ta-nặc (Pasenadi) rằng: "Nữ du sĩ Sundari bị
mất tích sau nhiều lần lui tới Kỳ Hoàn". Nhà vua cho phép
các du sĩ tới tìm kiếm ở Kỳ Hoàn. Thế là họ đào xác
Sundari lên, đặt trên một cái giường, rồi đi khắp các
ngã ba, ngã tư đường phố Xá-vệ (Savatthì) cho công chúng
xem và tuyên truyền rằng: "Các ngươi hãy xem công việc làm
của các Thích tử vô liêm sĩ, ác pháp, ác giới ...".
2. Bổn sanh (Jàtàka),
lại kể chuyện một ngoại đạo bày mưu cho một nữ tín
đồ lui tới nghe Thế Tôn giảng. Sau mỗi buổi giảng, nàng
cứ lảng vảng gần tịnh xá của Thế Tôn giữa khi mọi người
ra về. Sau đó độn bụng giả có thai và đòi Thế Tôn
giải quyết cái thai ấy. Thế Tôn yên lặng. Vua trời Ðế
Thích hiện thần thông làm đổ bể sự man trá ấy trước
công chúng. Nàng hổ thẹn bưng mặt chạy. Vừa chạy ra
khỏi đạo tràng thì đất tự nhiên nứt ra và chôn sống nàng
(tr. 337, bản dịch của HT. Thích Minh Châu).
Những âm mưu xấu xa
lộ liễu như thế của ngoại đạo khiến trí thức đương
thời chán ngán, càng hướng về Thế Tôn nhiều hơn; việc
truyền đạo của Thế Tôn càng kết quả nhanh chóng hơn.
3. Tiểu Bộ Kinh, Kinh
"Phật Tự Thuyết" số 61, chép: "Khi Thế Tôn đi bộ
giữa dân chúng Kiều-tất-la (Kosala) với đại chúng
Tỷ-kheo thì một nhóm thanh niên Bà-la-môn đến gần Thế Tôn
và vô cớ lăng mạ Ngài. Thế Tôn yên lặng, và ngay tại
chỗ ấy Ngài chỉ nói lên lời cảm hứng:
"Lời nói của kẻ
trí,
Khi bối rối luống cuống,
Cái gì dẫn dắt họ,
Họ đâu có biết rõ". -- (Tr. 358).
4. Ở Kinh "Thanh Tịnh"
(Trường Bộ IV), ngoại đạo chỉ trích Thế Tôn đã đưa các
đệ tử vào đam mê và các hỷ lạc thấp hèn (ly tham,
tịch tĩnh).
5. Ngoại đạo chỉ trích
rằng: "Thế Tôn chỉ có trí tuệ siêu việt về quá khứ,
mà không có trí tuệ siêu việt về tương lai". Thế Tôn đã
giải thích: "Về quá khứ, Như Lai nhớ xa như ý muốn, về
vị lai, Như Lai do trí tuệ sanh, biết rằng đây là đời
sống cuối cùng, không còn đời sống nào khác nữa".
6. Một số ngoại đạo
lại chỉ trích rằng: "Các Thích tử sống không giữ lập
trường". Thế Tôn giải thích: "Các đệ tử của Ngài luôn
luôn hướng đến một mục tiêu tối hậu là giải thoát,
Niết-bàn".
7. Kinh "Ma-kiến-đà"
(Trung Bộ II), du sĩ ngoại đạo Màgandiya (Ma-kiến-đà) cho
rằng: "Thế Tôn là một người phá hoại sự sống". Thế
Tôn đã hỏi Ma-kiến-đà: "Có phải vì Thế Tôn đã dạy
nhiếp phục mắt, mũi, tai lưỡi, thân và ý mà Ma-kiến-đà
cho rằng Thế Tôn phá hoại sự sống không?" Ma-kiến-đà
đáp: "Phải". Rồi Thế Tôn đánh tan ngộ nhận đó.
8. Lại nữa, một hôm
ngoại đạo Bà-la-môn Bhaddiya đến bạch Thế Tôn rằng: "Tôi
nghe dư luận cho rằng Thế Tôn là một nhà huyễn thuật lôi
cuốn các đệ tử ngoại đạo. Không biết sự thật có
huyễn thuật như thế nào?" (19). Thế Tôn dạy Bhaddiya: "Chớ
có tin vì nghe theo báo cáo, chớ có tin vì theo truyền
thống, chớ có tin vì nghe theo tin đồn, chớ có tin vì
rằng kinh Tạng truyền tụng, chớ có tin vì nhân lý luận,
chớ có tin vì nhân định lý,... chớ có tin vì Sa-môn là
bậc Ðạo sư của mình. Nhưng này Bhaddiya, khi nào Ông tự mình
biết rõ như sau: Các pháp này là bất thiện v.v..." Sau khi
Thế Tôn giải thích rộng rãi câu nói trên, Bhaddiya sinh lòng
ngưỡng mộ Thế Tôn và xin làm đệ tử của Thế Tôn.
Thế Tôn bèn hỏi Bhaddiya có phải Thế Tôn dùng huyễn
thuật quyến rũ Bhaddiya không? Bhaddiya bạch: "Thưa không,
bạch Thế Tôn, nhưng nếu gọi đó là huyễn thuật, thì
thật là hiền thiện huyễn thuật ấy. Con mong rằng các bà
con huyết thống của con gặp được "huyễn thuật" dụ
dỗ này. Như vậy; các bà con huyết thống của con sẽ được
an lạc, hạnh phúc lâu dài....".
9. Lại nữa, một hôm
nữ Bà-la-môn Bhannanjàni tán thán Thế Tôn, Bà-la-môn Bhàradvàja,
một học giả ngoại đạo, tức tối mắng: "Con mụ ti
tiện kia lại buông lời tán thán lão Sa-môn trọc đầu
ấy. Ta sẽ luận phá Ðạo sư của người".
Bhàradvàja đi đến
Thế Tôn, bực tức hỏi:
"Giết vật gì được
lạc?
Giết vật gì không sầu?
Có chăng một pháp gì,
Ngài tán đồng giết hại,
Tôn giả Gotama?"
Thế Tôn hoan hỷ đáp:
"Giết phẫn nộ được
lạc,
Giết phẫn nộ không sầu:
Pháp ấy bậc Hiền Thánh
tán đồng sự giết hại,
giết pháp ấy không sầu,
Này Bà-la-môn kia". -- (Tương Ưng Bộ Kinh I, tr. 179).
Bhàradvàja khởi lòng
ngưỡng mộ, xin xuất gia với Thế Tôn, sau đó không lâu đắc
A-la-hán.
Bấy giờ Bà-la-môn
Akkosaka nghe tin Bhàradvàja xuất gia với Thế Tôn, lòng phẫn
nộ, đi đến Thế Tôn và mắng nhiếc Ngài. Thế Tôn ôn
tồn hỏi: "Này Akkosaka, nếu có người đem quà biếu Bà-la-môn
mà Bà-la-môn không nhận thì người ấy làm thế nào nhỉ?"
"- Người ấy đem về ạ" "- Cũng vậy, này Akkosaka,
những gì mà Ông đem đến cho Ta". Akkosaka xin xuất gia với
Thế Tôn, nỗ lực tu tập và chứng đắc A-la-hán sau một
thời gian.
10. Lại nữa, Kàsi-Bhàradvàja,
một nông dân theo Bà-la-môn ngoại đạo hỏi Thế Tôn: "Này
Sa-môn, sao Sa-môn không cày ruộng mà sống?".
Thế Tôn nói: "Ta có cày:
Lòng tin là giống; đầu-đà là mưa, trí tuệ là cái cày, tàm
quý là cán cày, tinh tấn là sức mạnh để cày, đưa Ta đến
nơi an ổn khỏi ách nạn" (20).
Rồi Bà-la-môn Kàsibhàradvàja
dâng Thế Tôn một bát cháo sữa và thưa: "Thưa Tôn giả
Gotama, hãy dùng cháo sữa, Tôn giả là người đi cày! Tôn
giả Gotama đi cày quả bất tử!" Sau đó Kàsibhàradvàja xin
xuất gia với Thế Tôn, về sau cũng đắc A-la-hán quả.
11. Một trường hợp
khác, Bà-la-môn Pokkharasàti, rất danh tiếng ở Ukattha, sai
Ambattha, một đệ tử bậc nhất, rất thông minh, tinh thông
ba tập Vệ-đà, được xem ngang hàng với bậc thầy, đến
yết kiến Thế Tôn để xem hư thực thế nào về danh
tiếng được đồn đãi của Ngài. Thái độ tiếp xúc với
Thế Tôn của Ambattha rất ngạo nghễ. Ambattha thì chủ trương
phân biệc giai cấp, Thế Tôn thì quan niệm bình đẳng
giữa các giai cấp. Sau lần gặp gỡ này, Ambattha tuyên bố:
"Thế Tôn quả thực là bậc Như Lai, ứng Cúng.... đúng như
tin đồn rằng, Thế Tôn có đủ ba mươi hai tướng tốt
của một Ðại nhân". (Trường Bộ Kinh I, Kinh A-ma-trú).
12. Một Bà-la-môn khác,
Sonadanda, người dòng dõi Bà-la-môn rất giàu có, rất thông
thái, đẹp trai, khả ái, có tướng tốt của một Ðại nhân,
được vua Tần-bà-sa-la và quần chúng kính trọng, ngưỡng
mộ v.v... Ông này ngõ ý tới yết kiến Thế Tôn, nhưng các
đệ tử của Sonadanda cho rằng: "Thế Tôn yết kiến
Sonadanda mới phải". Sonadanda là người có tài luận
thuyết lại ăn nói trang nhã cao thượng, đã chứng minh cho
các đệ tử biết các đức tướng và đức tính của Thế
Tôn vượt xa Sonadanda, thật là xứng đáng để Sonadanda
yết kiến Thế Tôn.
Sonadanda đã kể đến
hai mươi mốt ưu điểm của Thế Tôn. Tưởng chúng ta cũng
cần biết qua người ngoại đạo lừng danh thời bấy giờ
đã hình dung như thế nào về Thế Tôn trước khi diện
kiến Ngài. Hai mươi mốt ưu điểm của Thế Tôn, theo
Sonadanda là:
1/- Ðức Gotama từ
bỏ hoàng tộc và ngai vàng xuất gia.
2/- Từ bỏ rất nhiều vàng bạc, châu báu.
3/- Ngài quyết tâm ra đi giữa tiếng khóc than và đầy nước
mắt của song thân (Phụ vương và Hoàng hậu).
4/- Ðức Gotama đẹp trai, khả ái, trang nhã, tuấn tú, cao
thượng, làm đẹp lòng người.
5/- Ðầy đủ giới đức, thiện đức.
6/- Xứng đáng là bậc Tôn sư của hàng Tôn sư.
7/- Ðã đoạn tuyệt tham ái và xao động của tâm.
8/- Xuất gia từ chủng tộc cao quý: Sát-đế-lợi.
9/- Ðức Gotama chủ trương về Nghiệp.
10/- Vô số dân chúng đã vượt suối băng ngàn đến học
đạo với Sa-môn Gotama.
11/- Hàng ngàn Thiên, Nhân quy y Thế Tôn.
12/- Là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác,
v.v...
13/- Có đủ ba mươi hai tướng quý của một bậc Ðại nhân.
14/- Lời chào đón của Thế Tôn thân thiện, tao nhã, trang
trọng, chân thực, lời nói có dẫn chứng.
15/- Ðược bốn chúng tôn sùng, ngưỡng vọng.
16/- Tại nơi nào Thế Tôn ở thì các loài Phi nhân không làm
hại loài Người.
17/- Là Giáo tổ được tôn là tối thượng trong các Giáo
tổ.
18/- Danh tiếng của các Bà-la-môn thì dựa trên những căn
cứ không đâu, còn danh tiếng của Thế Tôn dựa trên trí
tuệ vô thượng của Ngài.
19/- Vua Tần-bà-sa-la cùng cả Hoàng tộc và truyền thần
đều quy y và trọng vọng Thế Tôn.
20/- Vua Ba-tư-nặc cùng Hoàng tộc và triều thần đều quy
y và ngưỡng vọng Thế Tôn.
21/- Bà-la-môn Pokkharasàdi là một Giáo chủ, ngoại đạo
thời danh, đã cùng với gia đình, vợ con, thị giả, thân
cận quy y, kính nể và ngưỡng vọng Thế Tôn.
Rồi Sonadanda cùng đại
chúng Bà-la-môn đến yết kiến Thế Tôn. Sau khi được
Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ Sonadanda tán thán Thế Tôn:
"Thật là kỳ diệu! Thế Tôn như người đã dựng đứng
những gì bị quăng ngã xuống... Con xin trọn đời quy ngưỡng
Thế Tôn" (21).
13. Loã thể Kassapa
một lần hỏi Thế Tôn: "Có phải Ngài chỉ trích khổ
hạnh, tuyệt đối phỉ báng, mạt sát khổ hạnh?" Thế Tôn
đáp: "Lời nói đó không đúng với lời của Thế Tôn"
Thế Tôn cắt nghĩa rằng có những khổ hạnh đi xuống địa
ngục, ác thú; có những khổ hạnh đi lên các cõi Trời,
thiện thú. Nhưng chắc chắn không có khổ hạnh nào bằng
con đường tu Giới, Ðịnh, Tuệ của Thế Tôn và các đệ
tử của Ngài. Bấy giờ Thế Tôn đề nghị với Kassapa: "Này
Kassapa, có một số Bà-la-môn, Sa-môn bác học, biện tài....
Ta đến các vị ấy và nói: "Hãy để yên những quan điểm
bất đồng. Các vị có trí hãy đàm luận trao đổi các điểm
đồng ý...." Này Kassapa, sự tình này xảy ra: một phần
lớn các vị tán thán chúng ta rằng: "Các Tôn giả, Sư trưởng
kia chỉ xả ly một phần các pháp ô nhiễm, không xứng đáng
bậc Thánh, còn Tôn giả Gotama thì xả ly hoàn toàn...".
Thế Tôn giới thiệu
con đường Giới, Ðịnh, Tuệ cho Kassapa. Lõa thể Kassapa đã
xúc động tán thán: "Bạch Ðại đức Gotama, ai có thể sau
khi nghe Thế Tôn thuyết giảng lại không hoan lạc với
niềm hoan hỷ lớn nhất ... Bạch Thế Tôn, con xin xuất gia
với Thế Tôn". (Sđđ, tr. 176 - 177).
14. Ngoại đạo sư
Ni-kiền Tử (Niganthaputta Saccaka) (Trung Bộ Kinh I, Kinh Saccaka,
tr. 229) là người ưa luận chiến, có tài biện luận thiện
xảo, được số đông kính trọng, thường tự đắc, tuyên
bố khoác lác trước Hội chúng của ông ta ở Tỳ-xá-li
(Vesàli) rằng: "Ta không thấy có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào,
dù là Giáo chủ, là A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... khi đối
thoại với ta lại không run sợ, không khiếp sợ, không toát
mồ hôi nách. Dù là cột trụ vô tình, khi đối thoại với
ta cũng run sợ...." Ông tiếp: "Sa-môn Gotama nếu đối
thoại với ta, thì sẽ như một lực sĩ nắm chặt lông dài
của con cừu, kéo tới, kéo lui, vần quanh; cũng thế, ta dùng
lời nói kéo tới, kéo lui, vần quanh Sa-môn Gotama".
Rồi một hôm Saccaka
Niganthaputta đi cùng với năm trăm người Licchavi trí thức
để mong đánh bại Thế Tôn tại Trùng Các giảng đường.
Câu hỏi đầu tiên của Saccaka là: "Tôn giả Gotama huấn
luyện đệ tử như thế nào? Những bộ môn nào Sa-môn
Gotama giảng dạy cho đệ tử?". Thế Tôn trình bày năm
uẩn là vô ngã... còn Saccaka chủ trương Năm uẩn là có
tự ngã, thuộc tự ngã của ta. Khi Thế Tôn chứng minh lập
luận của Saccaka là không hợp lý, không có căn cứ, thì
Saccaka hoảng sợ, toát mồ hôi, nhưng giữ im lặng, không
trả lời các câu hỏi hợp lý của Thế Tôn. Thế Tôn bèn
nhắc cho Saccaka biết rằng, theo truyền thống, khi Thế Tôn
hỏi một câu hỏi hợp lý đến lần thứ ba mà người đối
thoại không chịu trả lời thì thần Dạ-xoa (Yakka) sẽ đánh
một chùy Kim cang làm đầu vỡ thành bảy mảnh; rồi Thế Tôn
đặt lại câu hỏi đến lần thứ hai. Bấy giờ chỉ có
một mình Saccaka thấy Thần Dạ-xoa đã nghiêm nghị với
chầy Kim cang đứng ở trước mặt, Saccaka run sợ, hoảng
sợ, chỉ biết nương tựa vào sự che chở của Thế Tôn,
liền bạch: "Thế Tôn hãy hỏi, tôi sẽ trả lời".
Kiêu khí của Saccaka trước
năm trăm người Licchavi tan thành mây khói, đã phải thốt lên
lời xưng tán Thế Tôn, tuy tính kiêu ngạo của ông ta đang
muốn dìm sâu trong lòng sự khâm phục của ông ta đối
với Thế Tôn: "Ôi! Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi thật là
lỗ mãng, chúng tôi thật là khinh xuất, đã dám dùng lời
luận chiến với Thế Tôn. Rất có thể có sự an toàn cho
một người chiến đấu với con voi điên, nhưng không thể
có sự an toàn cho một người chiến đấu chống Tôn giả
Gotama. Rất có thể có sự an toàn cho một người chiến đấu
chống đám lửa hừng... chống con rắn độc hung hãn, nhưng
không thể có sự an toàn cho một người chiến đấu chống
Tôn giả Gotama".
15. Bà-la-môn ngoại đạo
Brahmayù (Trung Bộ Kinh II, Kinh Ma-kiến-đề) là người bấy
giờ sống thọ một trăm hai mươi tuổi thông suốt Vệ-đà,
thông suốt chú thuật, thông thái ngôn ngữ cùng Thuận thế
luận và Ðại nhân tướng, đã phái thanh niên Uttara, một
đệ tử xuất chúng, cũng tinh thông ba tập Vệ-đà, gia
nhập Giáo hội của Thế Tôn, sống gần Thế Tôn suốt
bảy tháng để xem Thế Tôn có thật sự như lời đồn tán
thán về Ngài.
Sau bảy tháng không
rời khỏi Thế Tôn (bám sát Thế Tôn), Uttara đã báo cáo
cho Brahmayù biết rằng: "Thế Tôn chẳng những tốt đẹp
như tiếng đồn tốt đẹp về Ngài, mà Ngài còn nhiều đức
tánh hơn thế nữa".
Brahmayù đã cùng với
Hội chúng của ông ta đi đến yết kiến Thế Tôn. Thấy rõ
đúng sự thật về Ngài, Brahmayù đắp y, đầu mặt sát đất
đảnh lễ Thế Tôn, ưu ái cung kính lấy tay xoa lên bàn chân
Thế Tôn và tự xưng tên mình: "Bạch Tôn giả Gotama, con là
Bà-la-môn Brahmayù". Hội chúng của Brahmayù rất kinh dị
thốt: "Ôi thật là vi diệu, thật là kỳ diệu! Ðại
thần lực của Sa-môn Gotama đã khiến cho Bà-la-môn Brahamayù
với đầy danh vọng, đầy tiếng tăm, hạ mình tối đa như
vậy!".
Brahmayù tiếp tục được
nghe Thế Tôn thuyết pháp về bốn Thánh đế và sự xuất
ly các pháp. Bảy ngày sau đó, Brahmayù đắc A-na-hàm và
mệnh chung.
16. Bà-la-môn Cankì Bhàradvàja
(Trung Bộ Kinh II, Kinh Cankì) là Bà-la-môn nổi tiếng bậc
nhất tại nước Kiều-tát-la (Kosala) bấy giờ, đã cùng
với năm trăm Bà-la-môn danh tiếng khác hội họp bàn cách
đánh bại chủ trương bình đẳng giai cấp của Thế Tôn và
nêu cao chủ trương phân biệt có bốn giai cấp của họ.
Tất cả năm trăm người
của họ cùng Cankì đi đến yết kiết Thế Tôn. Họ đặt
rất nhiều câu hỏi trong đó có các vấn đề: hộ trì chân
lý, hành trì chân lý, chứng ngộ chân lý (Thanh niên Bhàradvàja
là người được Cankì ái mộ) đứng ra đặt các câu
hỏi. Thế Tôn cắt nghĩa: "Này Bhàradvàja, nếu có người
chấp nhận một quan điểm và nói: "Ðây là sự chấp
nhận quan điểm của tôi. Nhưng người ấy không chủ trương
chỉ đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm. Như thế này là
ý nghĩa hộ trì chân lý". Sau khi giám sát một vị Tỷ-kheo
thuyết pháp thâm sâu, tịch tịnh... vượt ngoài luận lý suông....
và biết rõ vị ấy thuyết pháp không do tham ái, không do sân
hận, không do si mê. Sau khi quan sát đi đến thân cận giao
thiệp, rồi lắng nghe... rồi thọ trì... rồi tìm hiểu...
rồi hoan hỷ chấp nhận... rồi sinh ước muốn tinh cần
thực hiện. Nhờ tinh cần, vị ấy chứng ngộ chân lý cao
cả nhất, cho đến mức độ này, này Cankì, là ý nghĩa giác
ngộ chân lý... nhưng chưa phải là chứng đạt chân lý. Này
Bharadvàja, nhờ tu tập, luyện tập nhiều lần chân lý mới
được chứng đạt. Như thế này là ý nghĩa chứng đạt chân
lý". (Trung Bộ II, tr. 174 A-B. Bản dịch của HT. Thích Minh
Châu).
Nghe xong, Bhàradvàja
thay đổi quan điểm và nói lên lời ca ngợi Thế Tôn: "...Thật
sự Tôn giả Gotama đã làm cho con khởi lên lòng kính
trọng, ái kính các Sa-môn (đệ tử của Thế Tôn). Thật là
vi diệu! Mong Tôn giả nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ đây
cho đến mệnh chung, con trọn đời quy ngưỡng". (Sđd, tr.
171).
Thế là mọi chiến
dịch chống Thế Tôn của các Giáo phái ngoại đạo đều
thất bại, chỉ làm tăng uy tín của Giáo hội Phật giáo,
khiến các giới trí thức chán nản ngoại đạo và quy hướng
Thế Tôn.
Qua các hình thức
chống đối ấy, ta có thể hình dung ra các khó khăn trên
đường hoàng đạo của Thế Tôn. Sự kiện các phái ngoại
đạo hoảng hốt tìm chỗ đứng về ảnh hưởng cho chính mình
bằng việc tìm mọi cách để hại uy tín của đức Phật
đã nói lên giá trị cao cả của giáo lý giải thoát.
Sự kiện các ngoại đạo
quy hướng Thế Tôn nói lên sự trống rỗng, mất nền
tảng của giáo lý của họ, và đồng thời nói lên giá
trị ưu việt về thái độ giảng dạy và nội dung giảng
dạy của Thế Tôn.
(xem
tiếp đoạn kế)
-oOo-
Ðoạn
trước | Mục lục | Ðoạn
kế |