|    | 
      
         Chương 
        Một - Phật Bảo 
        Tiết VI 
        Các 
        Tinh Thần Giáo Dục của Thế Tôn và 
        sự Liên Hệ giữa Ngài với các hàng Ðệ Tử, Chư Thiên, 
        Ác Ma và Ngoại Ðạo.
        (tiếp theo) 
         
        
        - 
        Thế Tôn và Tôn Giả A-Nan (Ananda)
        Tôn giả A-nan là người 
        hoàng tộc, xuất gia khi Thế Tôn về thăm vua Tịnh Phạn và 
        hoàng tộc. 
        Tôn giả là một trong 
        mười vị đại đệ tử của Thế Tôn. Trong hai mươi năm 
        đầu, Thế Tôn không có thị giả riêng. Năm năm mươi sáu 
        tuổi, Thế Tôn ngỏ ý cần thị giả, Thánh chúng đề cử 
        Tôn giả A-nan. Tôn giả hoan hỷ làm thị giả Thế Tôn với 
        điều kiện Thế Tôn từ chối bốn việc và chấp nhận 
        bốn việc: 
        
          - Từ chối, không cho 
          Tôn giả y, đồ ăn, phòng ở riêng và mời ăn 
          - Nếu Tôn giả được 
          mời thọ trai, Thế Tôn cho phép đi; nếu có người từ xa 
          đến xin yết kiến Thế Tôn, Thế Tôn bằng lòng cho gặp 
          khi A-nan giới thiệu; Thế Tôn cho A-nan yết kiến khi A-nan 
          gặp điều khó xử; Thế Tôn giảng lại những giáo lý Ngài 
          dạy những khi A-nan vắng mặt. 
         
        Thế Tôn chấp nhận 
        lời yêu cầu của Tôn giả (Trưởng Lão Tăng Kệ). 
        Công việc thị giả 
        của Tôn giả A-nan gồm: đem nước, đem tăm xỉa răng, rửa 
        chân, quét phòng, đi theo Thế Tôn; ban ngày ở cạnh Thế Tôn 
        để bạch Thế Tôn những điều cần làm; ban đêm, cầm đèn 
        và gậy đi quanh phòng Thế Tôn; sẵn sàng khi Thế Tôn gọi. 
        Tại Jetavana, Thế Tôn xác nhận Tôn giả là vị Tỷ-kheo đệ 
        nhất về năm phương diện: đa văn, cảnh giác, sức khoẻ 
        đi bộ, kiên trì và hầu hạ chu đáo. Tôn giả chỉ đắc 
        A-la-hán sau khi Thế Tôn nhập diệt vào đêm trước ngày 
        kiết tập đầu tiên (Trưởng Lão Tăng Kệ). 
        Tôn giả A-nan được 
        đề cập đến trong rất nhiều kinh Nikàya và A-hàm, là 
        bậc khéo nói, có cử chỉ rất tốt đẹp trong xã giao, là 
        thị giả rất trung thành, rất tận tụy, học rộng bậc 
        nhất và có trí nhớ bậc nhất. Kinh Ðại-Bát-Niết-Bàn đã 
        ghi lại rằng Tôn giả rất đau xót mỗi lần Thế Tôn bị 
        mệt hay bị bệnh. Tôn giả đã khóc vật vã khi Thế Tôn 
        nhập diệt. 
        Trước khi thị tịch, 
        Thế Tôn đã hết lời ca ngợi, tán thán và khích lệ Tôn 
        giả. Thế Tôn nhấn mạnh, Tôn giả A-nan thắng hơn thị 
        giả của chư Phật quá khứ ở một điểm là: A-nan biết 
        ý Thế Tôn muốn gì để đáp ứng trước khi Thế Tôn 
        dạy, còn thị giả của chư Phật quá khứ thì chỉ biết 
        ý khi chư Phật đã dạy mà thôi. 
        
        - 
        Thế Tôn và Các Tôn Giả A-Nậu-Lâu-Ðà, Ca-Chiên-Diên, Phú-Lâu-Na 
        v.v...
        Các Tôn giả đại đệ 
        tử này đều được đề cập đến trong nhiều kinh và đều 
        được Thế Tôn tán thán về hạnh tối thắng và đại 
        tuệ. Các Tôn giả đều hết lòng tôn kính và hầu hạ 
        Thế Tôn trong các Phật sự của Giáo hội: truyền bá Chánh 
        pháp và hướng dẫn các vị tân Tỷ-kheo. 
        Thỉnh thoảng Thế Tôn 
        một mình ghé lại chỗ tu hành của các Tôn giả để hỏi 
        thăm sức khoẻ. Một lần đến thăm Tôn giả A-nậu-lâu-đà 
        (Anuruddha), Tôn giả Nan-đề (Nandida), Tôn giả Kim-tỳ-la 
        (Kimpila), Ngài dung dị đến độ người giữ vườn không 
        biết Ngài là Thế Tôn, ngăn cản Ngài đi vào vườn, cho đến 
        khi các Tôn giả biết, ra cung thỉnh Thế Tôn. Lời thăm 
        hỏi của Thế Tôn mở đầu là: "Này các Tỷ-kheo, các Ông 
        có được an lành không? Sống được yên vui không? Ði 
        khất thực có mệt không?" (17) 
        Khi biết tin các Tôn 
        giả đau ốm, Thế Tôn đến viếng thăm khích lệ và 
        thuyết pháp để các Tôn giả sinh khởi hỷ lạc mà thoát cơn 
        bệnh nặng (18). 
        Tôn giả A-nậu-lâu-đà 
        là vị chủ trì lo việc hỏa táng, thiêu Xá lợi lúc Thế Tôn 
        nhập diệt. 
        
        - 
        Thế Tôn và Các Tân Tỷ Kheo
        Một số các tân 
        Tỷ-kheo do Thế Tôn thu nhận, một số do các vị đại đệ 
        tử thu nhận. Hầu hết các tân Tỷ-kheo về sau đều do hai 
        Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên trực tiếp hướng 
        dẫn. Bên cạnh các đại đệ tử, các tân Ty- kheo vẫn thường 
        được nghe Thế Tôn thuyết pháp và khích lệ. Thế Tôn 
        rất quan tâm đến việc giảng dạy và khích lệ các tân 
        Tỷ-kheo, dù đã có các đại đệ tử của Ngài hướng 
        dẫn. 
        Kinh Tương Ưng IV, 
        phẩm Bệnh ghi rằng: Khi Thế Tôn nghe bạch có Tỷ-kheo mới 
        tu bị bệnh nặng, Thế Tôn liền đi đến thăm. Khi thấy 
        Thế Tôn đến, Tỷ-kheo bị bệnh nặng gượng dậy trên giường 
        nhưng Thế Tôn liền nói: "Thôi chớ có gượng dậy, Thế Tôn 
        đã có chỗ ngồi ở đây rồi". Rồi Thế Tôn thăm hỏi 
        bệnh tình, an ủi và nói pháp khích lệ. Vị tân Tỷ-kheo này 
        liền đắc Tu-đà-hoàn ngay trên giường bệnh. 
        Thế Tôn đến thăm 
        nhiều tân Tỷ-kheo bị bệnh như thế. 
        
        - 
        Thế Tôn đối với Nữ Tôn Giả Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Ðề.
        Nữ Tôn giả Ma-ha Ba-xà-ba-đề 
        vốn là mẹ nuôi của Thế Tôn, về sau, nữ Tôn giả cùng 
        với năm trăm Thích-ca nữ xin xuất gia. Thế Tôn xét theo 
        sự khẩn cầu của Tôn giả A-nan, chấp thuận cho xuất gia 
        với điều kiện chấp nhận Bát Kỉnh Pháp. 
        Ðức Phật thuyết pháp 
        cho nữ Tôn giả nghe. Sau một thời gian tinh cần tu tập, 
        nữ Tôn giả đắc A-la-hán. Năm trăm Tỷ-kheo-ni thì đắc sáu 
        Thánh trí, sau khi nghe Tôn giả Nandaka giáo giới (do Thế Tôn 
        cử). Thế Tôn đã tuyên bố Tôn giả là người có kinh 
        nghiệm đệ nhất của Ni chúng, sống được hạnh phúc 
        giải thoát, Niết-bàn. 
        Trong lời tuyên bố 
        chứng ngộ của tự thân, nữ Tôn giả đã hết lòng cung kính 
        và tán thán hạnh đức của Thế Tôn (Trưởng Lão Ni Kệ). 
        
        - 
        Thế Tôn đối với Các Nữ Tôn Giả Khác
        Thế Tôn đã tuyên bố 
        và tán dương hạnh bậc nhất của một số nữ Tôn giả 
        (như đã trình bày ở phần trước). Một số nữ xuất gia, 
        Thế Tôn thu nhận, hoặc các đại đệ tử của Thế Tôn 
        giới thiệu và chuyển qua Ni chúng, dưới sự hướng dẫn 
        của Tôn giả Ma-ha Ba-xà-ba-đề. Một số lớn do chính các 
        nữ Tôn giả tế độ. 
        Các nữ Tôn giả có 
        hạnh bậc nhất đều là các vị có đại tuệ, đã đắc 
        quả A-la-hán. 
        - Trường hợp Vimalà và 
        Ambapàli là hai kỹ nữ về sau đắc A-la-hán (Trưởng Lão Ni 
        Kệ). 
        - Trường hợp Kisàgotamì 
        là một cô gái nhà nghèo, có gia đình và bị khinh thường, 
        sức khỏe kém. Khi nàng có con thì được gia đình chồng kính 
        trọng. Ðứa con vừa biết chạy thì chết. Nàng đau khổ ôm 
        xác con đến tịnh xá Thế Tôn xin thuốc cải tử hoàn sinh. 
        Thế Tôn thấy căn cơ nàng đã đến thời điểm nhập đạo 
        liền dạy: "Hãy đi đến nhà nào không có người chết (chưa 
        từng có người chết) xin về đây một hột cải, Thế Tôn 
        sẽ giúp cho nàng". Sau đó, nàng tỉnh ngộ, biết là Thế Tôn 
        dạy khéo nàng, nên nàng đem con vào nghĩa địa, rồi xin 
        Thế Tôn xuất gia. Thế Tôn dạy: 
        
          
          Tâm ai bị đắm say, 
          Con cái và súc vật, 
          Tử thần bắt người ấy, 
          Như lụt trôi làng ngủ. -- (Dhp 287). 
         
        Nàng liền đắc Pháp 
        nhãn ngay tại chỗ (Trưởng Lão Ni Kệ). 
        - Nữ Tôn giả Khemà, 
        thuộc hoàng tộc ở Ma-kiệt-đà, có nhan sắc tuyệt trần, 
        là hoàng hậu của vua Tần-bà-sa-la. Khi Thế Tôn ở tại Trúc 
        Lâm, nàng cùng các người hầu cận đến hầu Thế Tôn. 
        Thế Tôn hóa hiện một tiên nữ đẹp hơn cả nàng, đứng 
        hầu quạt Thế Tôn. Trước mắt nàng, tiên nữ bỗng trở nên 
        già sụm rồi ngã xuống đất, khiến nàng thức tỉnh, tiêu 
        tan tất cả kiêu mạn về nhan sắc của mình. Bấy giờ 
        Thế Tôn dạy: 
        
          
          "Người đắm say các 
          dục, 
          Như nhện sa lưới dệt, 
          Bỏ mọi khổ không màng, 
          Tự lao mình xuống dòng, 
          Người trí cắt trừ nó". -- (Dhp. 347). 
         
        Nàng chứng đắc A-la-hán 
        ngay tại chỗ rồi mới xuất gia. 
        - Nữ Tôn giả 
        Dhammadinnà là vợ của một người có địa vị trong xã 
        hội, ông Visàkhà. Khi Visàkhà nghe Thế Tôn dạy, liền đắc 
        A-na-hàm và xuất gia. Nàng cũng xin xuất gia nhập thất, không 
        bao lâu liền đắc A-la-hán, quả vị cao hơn cả Visàkhà (người 
        chồng cũ). Nữ Tôn giả là vị Ni thuyết pháp giỏi nhất 
        (Trưởng Lão Ni Kệ, và Trung Bộ I). 
        - Nữ Tôn giả Patàcàrà 
        vốn con nhà giàu, về sau lập gia đình với chàng trai giúp 
        việc và trốn nhà ra đi. Ðến lúc sinh được hai con (trong 
        một điều kiện rất khổ) thì chồng bị rắn cắn chết, 
        một đứa con bị diều tha, một đứa con bị nước cuốn 
        trôi, cha mẹ và các em bị chết trong cùng một đêm bão 
        tố. Quá đau khổ, nàng bị điên. Trên đường điên loạn, 
        nàng gặp Thế Tôn và hồi tỉnh. Thế Tôn thuyết pháp tế 
        độ nàng. Về sau nàng đắc A-la-hán quả và thuyết pháp độ 
        được năm trăm vị Ni khác cũng đắc quả (Trưởng Lão Ni 
        Kệ). 
        Trên đây chỉ là một 
        số trường hợp điển hình. Thế Tôn cho phép thành lập đoàn 
        thể nữ giới đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Xác 
        nhận nữ giới đồng đẳng với nam giới về mặt chứng 
        đắc giải thoát, có khả năng đắc A-la-hán quả, đoạn 
        tận vô minh. Ðây là tiếng nói của nhân bản, dân chủ, bình 
        đẳng nhất và sớm nhất trần gian, giải phóng nữ giới 
        ra khỏi vòng ràng buộc và tối tăm của cuộc sống, bị đè 
        nặng bởi các văn hóa chậm tiến. 
        
        - 
        Thế Tôn đối với Các Nữ Cư Sĩ và Nam Cư Sĩ
        Hàng đệ tử của 
        Thế Tôn gồm có bốn chúng: Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ 
        và nữ cư sĩ. 
        Thế Tôn bằng tinh 
        thần khế cơ, bằng thiện xảo phương tiện, đã giáo hóa 
        rất nhiều nam và nữ cư sĩ đủ các giai cấp, các thành 
        phần xã hội và các lứa tuổi. Hàng đệ tử tại gia có 
        đủ các hạnh. Thế Tôn đã tán thán các hạnh bậc nhất 
        của các cư sĩ (như đã trình bày ở phần trước). Ở đây, 
        chỉ giới thiệu một số trường hợp điển hình và một 
        số giáo lý điển hình dành cho các cư sĩ tại gia. 
        1. Trường hợp Singàla 
        (Thiện Sinh) (Trường Bộ Kinh, 31), Thế Tôn dạy chàng thanh 
        niên đảnh lễ sáu phương trong luật của bậc Thánh (Phật 
        giáo) là đảnh lễ sáu mối tương quan của con người: cha 
        mẹ - con cái; thầy trò; vợ - chồng; chủ - thợ; cá nhân - 
        bè bạn, bà con, láng giềng; và tu sĩ - cư sĩ. 
        Ðối tượng của đảnh 
        lễ phải là đối tượng thiêng liêng nên sáu mối tương 
        hệ trên được Thế Tôn dạy là sáu mối tương hệ thiêng 
        liêng, cao quý của con người. Ðối tượng đảnh lễ này 
        vừa rất thiết thực, vừa rất nhân bản, bởi vì nội 
        dung của đảnh lễ chính là thể hiện những gì mà con người 
        phải làm để thiết lập tương giao tốt, có ý nghĩa, đem 
        lại an vui, hạnh phúc cho mình và cho người: 
        
          * Bổn phận của cha 
          mẹ đối với con cái là giáo dục tốt con cái, hướng 
          dẫn con cái vào đường thiện, giúp con cái đi đến hôn 
          nhân tốt. 
          * Bổn phận của con 
          cái đối với cha mẹ là săn sóc cha mẹ lúc tuổi già, 
          giữ danh dự và truyền thống gia đình, giúp các việc khi 
          cha mẹ cần, giữ gìn tài sản của cha mẹ. 
          * Bổn phận của 
          thầy giáo là dạy giỏi, hướng dẫn học sinh chọn bạn 
          và chọn nghề, dạy nghề để học trò có việc làm khi 
          học xong. Ðây chính là trách nhiệm của học đường ngày 
          nay, với tinh thần dạy chuyên môn và dạy nghề là tinh 
          thần giáo dục hiện đại nhất và thiết thực nhất. 
          * Bổn phận học trò 
          thì kính trọng, vâng lời thầy, học hỏi và giúp đỡ 
          khi thầy cần. 
          * Liên hệ vợ 
          chồng: Vợ chồng phải thương yêu và kính trọng nhau; người 
          vợ phải vừa là vợ, vừa là người yêu, vừa là bạn, 
          và có khi là chị hay em (hoặc mẹ); người chồng phải 
          vừa là chồng, vừa là người yêu, vừa là bạn, và có 
          khi là anh, em (hoặc là cha), người chồng thường săn sóc 
          các nhu cầu, hay sắm quà tặng cho vợ; người vợ phải 
          quán xuyến các việc trong nhà, cả hai phải trung thành 
          với nhau. 
         
        Thật là lạ lùng! Cách 
        đây hơn hai ngàn năm trăm năm mà Thế Tôn lại quan niệm 
        về hôn nhân và tình yêu của tuổi trẻ rất là đặc 
        biệt, tiên tiến. Ngày nay con người vẫn còn bối rối 
        giữa ý nghĩa của hôn nhân và tình yêu. Có người quan 
        niệm hôn nhân khác hẳn với tình yêu, người vợ khác 
        hẳn với người tình. Tách rời hôn nhân khỏi tình yêu là 
        quan niệm thiếu thực tế, chỉ làm cho tuổi trẻ thêm bối 
        rối. Thế Tôn đã giáo dục tình cảm một cách thiện 
        xảo: Tương quan giữa vợ chồng chính là tương quan của tình 
        yêu, vừa là tình bạn, vừa là vợ chồng, và có khi cả 
        hai người còn đòi hỏi thứ tình cảm được săn sóc, nuông 
        chiều nữa, đó là thứ tình cảm mà người vợ phải giữ 
        vai trò của người chị, người mẹ hoặc người em gái 
        của chồng, và người chồng phải giữ vai trò người anh 
        trai, em trai hay người cha của vợ. Tương hệ nầy đầy tình 
        người, hạnh phúc và rất là xây dựng, thiết thực! 
        Rõ ràng đây là một 
        chỉ hướng giáo dục "lý tưởng" về tình cảm, tâm lý, 
        hôn nhân và tình yêu! 
        Trong Tăng Chi IV, Tương 
        Ưng I, và Trường Bộ Kinh II (như đã được trích dẫn ở 
        phần đầu của giáo dục cá nhân của Phật giáo, chương 
        I, tiết VI), Thế Tôn dạy rõ cách sống như thế nào để có 
        hạnh phúc của đời sống gia đình trong hiện tại. Trong đó, 
        Thế Tôn dạy đến đời sống kinh tế của gia đình trong 
        hiện tại, đời sống quân bình sức khỏe, tình cảm, suy tư, 
        tâm lý. Quả là một tinh thần hướng dẫn giáo dục đầy 
        thực tế! 
        2. Có một lần, Thế Tôn 
        giáo dục nàng Sujàtà, dâu của cư sĩ Cấp Cô Ðộc (Anàthapindika), 
        người không vâng lời cha mẹ chồng, hay to tiếng, lớn 
        tiếng trong gia đình. Thế Tôn kể cho nàng nghe có bảy 
        hạng người vợ: Vợ như người sát nhân, vợ như người 
        ăn trộm, vợ như người chủ nhân, vợ như người mẹ, 
        vợ như người chị, vợ như người bạn, và vợ như người 
        nữ tỳ. Sau khi nói rõ nội dung, thái độ sống của mỗi 
        hạng người vợ, Thế Tôn kết luận: Vợ như bạn, như 
        mẹ, như chị, như nữ tỳ thì có đức hạnh và sau khi 
        chết sẽ được sanh Thiên; còn ba hạng vợ kia thì sau khi 
        chết sẽ sanh vào địa ngục. Tiếp theo Thế Tôn hỏi Sujàtà, 
        "Trong bảy hạng người vợ ấy, con thuộc hạng người nào?" 
        Sujàtà tỉnh ngộ và bạch: "Bạch Thế Tôn, kể từ hôm 
        nay, đối với chồng con, con sẽ là người vợ nữ tỳ". 
        Ðấy là thái độ giáo 
        hóa của Thế Tôn, quan tâm đến an lạc hạnh phúc người 
        đời. Ðây lại là tinh thần giáo dục rất nhân bản và tiên 
        tiến: Thế Tôn chỉ trình bày bảy hạng người vợ, rồi 
        để cho nàng Sujàtà tự suy xét và chọn lựa (Tăng Chi IV, 
        chương Bảy Pháp). 
        3. Ở nơi khác, cư sĩ 
        Uggaha thỉnh Thế Tôn thọ trai. Sau khi Thế Tôn độ trai 
        xong, cư sĩ bạch xin Thế Tôn dạy cho người con gái của ông 
        ta sắp về nhà chồng, nàng phải làm gì để sống tốt đẹp, 
        hạnh phúc (Tăng Chi IIA, tr. 262-263, 1981). 
        4. Về quan niệm giai 
        cấp xã hội, Thế Tôn dạy cho các cư sĩ về bình đẳng 
        giai cấp. Về hạnh phúc tương lai, Thế Tôn dạy cho cư sĩ 
        về tín, thí, giới và tuệ. Về các cư sĩ có thực tu, 
        thực học, có thể lãnh đạo chúng cư sĩ, như cư sĩ 
        Hatthaka, Thế Tôn dạy thêm về "Bốn nhiếp pháp" (Bố thí 
        nhiếp, ái ngữ nhiếp, lợi hành nhiếp và đồng sự 
        nhiếp). 
        5. Về hai cư sĩ hộ Tăng 
        đắc lực là Cấp Cô Ðộc và nàng Visàkhà, Thế Tôn đã 
        dạy đạo giải thoát. Sinh thời, hai cư sĩ này đã chứng 
        "Pháp nhãn" (Thánh quả Nhập lưu). 
          
        
        Thế Tôn với Các Vua 
        Chúa 
        * Vua Tần-bà-sa-la 
        (Bimbisàra) là vị vua đầu tiên yết kiến Thế Tôn tại Ưu-lâu-tần-loa 
        (Uruvela) - khi Giáo hội vừa mới có một ngàn vị đệ tử 
        - nghe pháp, hiểu pháp, dâng cúng Thế Tôn tịnh xá Trúc Lâm 
        (Veluvana), và cung thỉnh Thế Tôn cùng chư Tỷ-kheo thọ trai. 
        Nhà vua có hoàng hậu 
        nhan sắc tuyệt trần, đã xuất gia do thấy rõ vô thường, 
        và đã trở thành một A-la-hán; ấy là nữ Tôn giả Khemà, 
        là vị trí tuệ bậc nhất của Ni chúng. 
        * Vua Ba-tư-nặc 
        (Pasenadi) nước Kiều-tất-la (Kosala) được Thế Tôn xác 
        nhận là thiện hữu, thiện giao du (Tương Ưng I, phẩm thứ 
        hai, Tương Ưng Kosala). 
        Một hôm, vua Ba-tư-nặc 
        đến hầu thăm Thế Tôn và đặt một số câu hỏi: "Tôn 
        giả Gotama có tự cho mình đã chứng Vô thượng Chánh đẳng 
        Chánh giác không?" 
        - Thưa Ðại Vương: "Tôi 
        đã chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác". 
        - Thưa Tôn giả Gotama, 
        có những vị Sa-môn, Bà-la-môn là các vị hội chủ, giáo 
        trưởng có danh vọng, khai mở các giáo phái, được quần 
        chúng tôn sùng, như: ngài Purana Kassapa, Makkhali Gosàla, 
        Nigantha Nàtaputta, Sanjaya Belatthiputta, Kukudha Kaccàyana, Ajita 
        Kosakambala (đây là Lục sư ngoại đạo). Khi con hỏi các 
        vị ấy: "Có tự xem là đã chứng Vô thượng Chánh đẳng 
        Chánh giác không?" thì các vị ấy đã trả lời: "Không". 
        Vậy làm sao Tôn giả Gotama, trẻ tuổi, sanh sau đẻ muộn, và 
        chỉ mới xuất gia, lại tự cho mình như vậy?" 
        - "Thưa Ðại vương, có 
        bốn loại không nên khinh thường, hay không nên miệt thị vì 
        chúng là trẻ. Thưa Ðại vương, Sát-đế-lợi trẻ.., con 
        rắn trẻ.., ngọn lửa trẻ..., và Tỷ-kheo trẻ.. " (Tương 
        Ưng I, Tương Ưng Kosala). 
        Bấy giờ vua Ba-tư-nặc 
        tán thán Thế Tôn và xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng, 
        xin trọn đời quy ngưỡng. 
        * Vua A-xà-thế (Ajàtasattu) 
        là vị vua đã giết cha để chiếm ngôi, đã cùng với Ðề-bà-đạt-đa 
        (Devadatta) chia rẽ giáo hội của Thế Tôn, tách rời năm trăm 
        vị Tỷ-kheo để thành lập Giáo hội riêng. Sau đó, Tôn 
        giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên đã giáo hóa được năm 
        trăm vị Tỷ-kheo ấy quy hướng Thế Tôn. Vua A-xà-thế 
        biết lỗi mình và cũng quy y với Thế Tôn. Tại một thời 
        thuyết pháp, Thế Tôn đã dạy một số Tỷ-kheo rằng: "Nếu 
        không phạm tội giết cha, thì ngay tại đây A-xà-thế đã 
        đắc Tu-đà-hoàn quả". (Kinh Sa-môn Quả, Trường Bộ I). 
        Theo Kinh Sa-môn Quả (Sàmanna 
        - Phalasuttam), vua A-xà-thế đã phát biểu nhận xét của nhà 
        vua về Giáo hội của các Giáo phái đương thời, và đã 
        hết lòng tán dương Giáo hội của Thế Tôn với kết quả 
        rất thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn. 
        Trước hiện tượng xã 
        hội, có nhiều áp bức, bất công của một số lãnh thổ 
        thuộc Ấn Ðộ đương thời, Thế Tôn đã dạy mười điều 
        mà một nhà vua và triều thần cần thực hiện để đem 
        lại hạnh phúc cho nhân dân: 
        
          1. Vua độ lượng, bác 
          ái, bố thí, không khát ái, không tham lam tiền của, tài 
          sản. 
          2. Giữ giới: không sát 
          sinh, không bóc lột, không trộm cắp, không tà dâm, không 
          nói dối, không say sưa. 
          3. Hy sinh tất cả cho 
          lợi ích dân chúng. Vị ấy (vua) sẵn sàng từ bỏ mọi 
          tiện nghi cá nhân, danh tiếng và ngay cả sự sống. 
          4. Thành thật và liêm 
          khiết. 
          5. Hiền từ và hòa 
          ái. 
          6. Khắc khổ trong 
          nếp sống. 
          7. Không được sân 
          hận, không được tư thù. 
          8. Nhẫn nhục trước 
          mọi khó khăn, chỉ trích, mà không để mất bình tĩnh. 
          9. Bất hại: không 
          hại người, đề cao hòa bình, ngăn chặn chiến tranh và 
          những bạo động phá hoại sự sống. 
          10. Không chống lại 
          ý muốn của nhân dân, thuận ý dân (Kinh Dhammapadatthaka và 
          Bổn Sinh - Jàkata). 
         
        Tăng Chi Bộ Kinh (IV-A, 
        tr. 13, Bản dịch của HT. Thích Minh Châu) ghi bảy điều 
        dạy của Thế Tôn làm cho một xã hội cường thịnh: 
        
          1. Hoà hợp trong dân 
          chúng. 
          2. Dân chúng đoàn 
          kết. 
          3. Pháp luật công 
          minh và có truyền thống dân tộc. 
          4. Dân chúng sống đạo 
          đức và biết kính trọng người lớn tuổi. 
          5. Xã hội an ninh, không 
          có các hiện tượng hà hiếp bắt cóc, cưỡng ép các 
          thiếu nữ, phụ nữ. 
          6. Có tín ngưỡng và 
          tôn trọng truyền thống tín ngưỡng. 
          7. Kính trọng và 
          ủng hộ chư Tăng. 
         
        Trong Kinh "Chuyển Luân 
        Thánh Vương Sư Tử Hống" (Trường Bộ Kinh III, số 26), 
        Thế Tôn xác nhận nguyên nhân của các hiện tượng tội ác 
        trong xã hội như trộm cắp, vô luân, nói dối, bạo động, 
        thù hằn hung ác là do nghèo đói. 
        Kinh Kùtadanta (Trường 
        Bộ Kinh III), Thế Tôn giải thích các hình phạt không hữu 
        hiệu, không lợi ích và không thành công bằng sự cải 
        thiện kinh tế. Ðể cải thiện kinh tế, Thế Tôn dạy: 
        
          1. Cung cấp các thứ 
          hạt giống và phương tiện canh tác cho các nhà nông. 
          2. Cung cấp vốn cho 
          những người kinh doanh đầu tư, trả lương thích đáng 
          cho công nhân. 
          3. Ðại bố thí cho 
          nhân dân thay thế các lễ tế đàn. 
         
        Khi mà dân chúng thu 
        hoạch đủ lợi tức, sẽ vừa lòng, sẽ không sợ hãi hay 
        lo lắng, và kết quả sẽ là xứ sở được thanh bình, ra 
        khỏi tội ác. 
        Thế Tôn cũng đã gián 
        tiếp trả lời một số câu hỏi mà sứ thần của vua A-xà-thế 
        đặt ra để thăm dò ý kiến Thế Tôn về việc có nên 
        tiến quân đánh nước Vajji (Bạt-kỳ) hay không. Kết quả là 
        lời dạy của Thế Tôn đã ngăn chặn được cuộc chiến 
        tranh ấy (vua A-xà-thế thuộc dòng Câu-lợi-Kobiyas, còn Vajji 
        thì thuộc dòng Thích-ca-Sàkyas). 
        Các quan đại thần 
        của các nước lân cận xứ Vajji vẫn thường đến viếng 
        thăm Thế Tôn, hỏi đạo và quy y. Một số con trai và con gái 
        của các quan đại thần đã trở nên các đệ tử xuất gia 
        của Thế Tôn và đã chứng Thánh quả (xem Trưởng Lão Tăng 
        và Ni Kệ). 
          
        Thế Tôn với Các 
        Ngoại Ðạo Bà-La-Môn 
        Ðức Phật giác ngộ 
        như một vầng thái dương sáng chói làm lu mờ hết thảy 
        những vùng trăng sao của ngoại đạo. Vì thế, một số giáo 
        chủ ngoại đạo và các tín đồ ngoại đạo thì quy ý 
        Thế Tôn, một số thì trở nên thù hận. 
        Chúng ta sẽ dần đi vào 
        hai mối tương hệ đó giữa ngoại đạo và Thế Tôn. 
        Về mặt chống đối, 
        đại để ngoại đạo đã thực hiện nhiều hình thức: vu 
        khống, tuyên truyền xuyên tạc để làm giảm ảnh hưởng 
        của Thế Tôn và đoàn thể Tăng-già, thách đố thi thố 
        thần thông, tranh luận và vấn nạn, cho người nằm vùng 
        trong tổ chức của Giáo hội để tìm hiểu sự thật của 
        Thế Tôn, v.v... 
        1. Tiểu Bộ Kinh, Kinh 
        Phật Tự Thuyết (Udàna) 43, chép rằng: "Bấy giờ Thế Tôn 
        trú ở Xá-vệ (Sàvatthì), tại Tịnh xá Kỳ Hoàn (Jetavana), 
        khu vườn của ông Cấp Cô Ðộc, được nhiều người cung 
        kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường.. Các du sĩ ngoại 
        đạo ganh ghét bèn bày mưu độc cho nữ du sĩ Sundari thường 
        lui tới Kỳ Hoàn, rồi cho người giết Sundari và chôn vào 
        một cái mương tại Jetavana (Kỳ Hoàn). Sau đó đến báo cáo 
        với vua Ba-ta-nặc (Pasenadi) rằng: "Nữ du sĩ Sundari bị 
        mất tích sau nhiều lần lui tới Kỳ Hoàn". Nhà vua cho phép 
        các du sĩ tới tìm kiếm ở Kỳ Hoàn. Thế là họ đào xác 
        Sundari lên, đặt trên một cái giường, rồi đi khắp các 
        ngã ba, ngã tư đường phố Xá-vệ (Savatthì) cho công chúng 
        xem và tuyên truyền rằng: "Các ngươi hãy xem công việc làm 
        của các Thích tử vô liêm sĩ, ác pháp, ác giới ...". 
        2. Bổn sanh (Jàtàka), 
        lại kể chuyện một ngoại đạo bày mưu cho một nữ tín 
        đồ lui tới nghe Thế Tôn giảng. Sau mỗi buổi giảng, nàng 
        cứ lảng vảng gần tịnh xá của Thế Tôn giữa khi mọi người 
        ra về. Sau đó độn bụng giả có thai và đòi Thế Tôn 
        giải quyết cái thai ấy. Thế Tôn yên lặng. Vua trời Ðế 
        Thích hiện thần thông làm đổ bể sự man trá ấy trước 
        công chúng. Nàng hổ thẹn bưng mặt chạy. Vừa chạy ra 
        khỏi đạo tràng thì đất tự nhiên nứt ra và chôn sống nàng 
        (tr. 337, bản dịch của HT. Thích Minh Châu). 
        Những âm mưu xấu xa 
        lộ liễu như thế của ngoại đạo khiến trí thức đương 
        thời chán ngán, càng hướng về Thế Tôn nhiều hơn; việc 
        truyền đạo của Thế Tôn càng kết quả nhanh chóng hơn. 
        3. Tiểu Bộ Kinh, Kinh 
        "Phật Tự Thuyết" số 61, chép: "Khi Thế Tôn đi bộ 
        giữa dân chúng Kiều-tất-la (Kosala) với đại chúng 
        Tỷ-kheo thì một nhóm thanh niên Bà-la-môn đến gần Thế Tôn 
        và vô cớ lăng mạ Ngài. Thế Tôn yên lặng, và ngay tại 
        chỗ ấy Ngài chỉ nói lên lời cảm hứng: 
        
          
          "Lời nói của kẻ 
          trí, 
          Khi bối rối luống cuống, 
          Cái gì dẫn dắt họ, 
          Họ đâu có biết rõ". -- (Tr. 358). 
         
        4. Ở Kinh "Thanh Tịnh" 
        (Trường Bộ IV), ngoại đạo chỉ trích Thế Tôn đã đưa các 
        đệ tử vào đam mê và các hỷ lạc thấp hèn (ly tham, 
        tịch tĩnh). 
        5. Ngoại đạo chỉ trích 
        rằng: "Thế Tôn chỉ có trí tuệ siêu việt về quá khứ, 
        mà không có trí tuệ siêu việt về tương lai". Thế Tôn đã 
        giải thích: "Về quá khứ, Như Lai nhớ xa như ý muốn, về 
        vị lai, Như Lai do trí tuệ sanh, biết rằng đây là đời 
        sống cuối cùng, không còn đời sống nào khác nữa". 
        6. Một số ngoại đạo 
        lại chỉ trích rằng: "Các Thích tử sống không giữ lập 
        trường". Thế Tôn giải thích: "Các đệ tử của Ngài luôn 
        luôn hướng đến một mục tiêu tối hậu là giải thoát, 
        Niết-bàn". 
        7. Kinh "Ma-kiến-đà" 
        (Trung Bộ II), du sĩ ngoại đạo Màgandiya (Ma-kiến-đà) cho 
        rằng: "Thế Tôn là một người phá hoại sự sống". Thế 
        Tôn đã hỏi Ma-kiến-đà: "Có phải vì Thế Tôn đã dạy 
        nhiếp phục mắt, mũi, tai lưỡi, thân và ý mà Ma-kiến-đà 
        cho rằng Thế Tôn phá hoại sự sống không?" Ma-kiến-đà 
        đáp: "Phải". Rồi Thế Tôn đánh tan ngộ nhận đó. 
        8. Lại nữa, một hôm 
        ngoại đạo Bà-la-môn Bhaddiya đến bạch Thế Tôn rằng: "Tôi 
        nghe dư luận cho rằng Thế Tôn là một nhà huyễn thuật lôi 
        cuốn các đệ tử ngoại đạo. Không biết sự thật có 
        huyễn thuật như thế nào?" (19). Thế Tôn dạy Bhaddiya: "Chớ 
        có tin vì nghe theo báo cáo, chớ có tin vì theo truyền 
        thống, chớ có tin vì nghe theo tin đồn, chớ có tin vì 
        rằng kinh Tạng truyền tụng, chớ có tin vì nhân lý luận, 
        chớ có tin vì nhân định lý,... chớ có tin vì Sa-môn là 
        bậc Ðạo sư của mình. Nhưng này Bhaddiya, khi nào Ông tự mình 
        biết rõ như sau: Các pháp này là bất thiện v.v..." Sau khi 
        Thế Tôn giải thích rộng rãi câu nói trên, Bhaddiya sinh lòng 
        ngưỡng mộ Thế Tôn và xin làm đệ tử của Thế Tôn. 
        Thế Tôn bèn hỏi Bhaddiya có phải Thế Tôn dùng huyễn 
        thuật quyến rũ Bhaddiya không? Bhaddiya bạch: "Thưa không, 
        bạch Thế Tôn, nhưng nếu gọi đó là huyễn thuật, thì 
        thật là hiền thiện huyễn thuật ấy. Con mong rằng các bà 
        con huyết thống của con gặp được "huyễn thuật" dụ 
        dỗ này. Như vậy; các bà con huyết thống của con sẽ được 
        an lạc, hạnh phúc lâu dài....". 
        9. Lại nữa, một hôm 
        nữ Bà-la-môn Bhannanjàni tán thán Thế Tôn, Bà-la-môn Bhàradvàja, 
        một học giả ngoại đạo, tức tối mắng: "Con mụ ti 
        tiện kia lại buông lời tán thán lão Sa-môn trọc đầu 
        ấy. Ta sẽ luận phá Ðạo sư của người". 
        Bhàradvàja đi đến 
        Thế Tôn, bực tức hỏi: 
        
          
          "Giết vật gì được 
          lạc? 
          Giết vật gì không sầu? 
          Có chăng một pháp gì, 
          Ngài tán đồng giết hại, 
          Tôn giả Gotama?" 
         
        Thế Tôn hoan hỷ đáp: 
        
          
          "Giết phẫn nộ được 
          lạc, 
          Giết phẫn nộ không sầu: 
          Pháp ấy bậc Hiền Thánh 
          tán đồng sự giết hại, 
          giết pháp ấy không sầu, 
          Này Bà-la-môn kia". -- (Tương Ưng Bộ Kinh I, tr. 179). 
         
        Bhàradvàja khởi lòng 
        ngưỡng mộ, xin xuất gia với Thế Tôn, sau đó không lâu đắc 
        A-la-hán. 
        Bấy giờ Bà-la-môn 
        Akkosaka nghe tin Bhàradvàja xuất gia với Thế Tôn, lòng phẫn 
        nộ, đi đến Thế Tôn và mắng nhiếc Ngài. Thế Tôn ôn 
        tồn hỏi: "Này Akkosaka, nếu có người đem quà biếu Bà-la-môn 
        mà Bà-la-môn không nhận thì người ấy làm thế nào nhỉ?" 
        "- Người ấy đem về ạ" "- Cũng vậy, này Akkosaka, 
        những gì mà Ông đem đến cho Ta". Akkosaka xin xuất gia với 
        Thế Tôn, nỗ lực tu tập và chứng đắc A-la-hán sau một 
        thời gian. 
        10. Lại nữa, Kàsi-Bhàradvàja, 
        một nông dân theo Bà-la-môn ngoại đạo hỏi Thế Tôn: "Này 
        Sa-môn, sao Sa-môn không cày ruộng mà sống?". 
        Thế Tôn nói: "Ta có cày: 
        Lòng tin là giống; đầu-đà là mưa, trí tuệ là cái cày, tàm 
        quý là cán cày, tinh tấn là sức mạnh để cày, đưa Ta đến 
        nơi an ổn khỏi ách nạn" (20). 
        Rồi Bà-la-môn Kàsibhàradvàja 
        dâng Thế Tôn một bát cháo sữa và thưa: "Thưa Tôn giả 
        Gotama, hãy dùng cháo sữa, Tôn giả là người đi cày! Tôn 
        giả Gotama đi cày quả bất tử!" Sau đó Kàsibhàradvàja xin 
        xuất gia với Thế Tôn, về sau cũng đắc A-la-hán quả. 
        11. Một trường hợp 
        khác, Bà-la-môn Pokkharasàti, rất danh tiếng ở Ukattha, sai 
        Ambattha, một đệ tử bậc nhất, rất thông minh, tinh thông 
        ba tập Vệ-đà, được xem ngang hàng với bậc thầy, đến 
        yết kiến Thế Tôn để xem hư thực thế nào về danh 
        tiếng được đồn đãi của Ngài. Thái độ tiếp xúc với 
        Thế Tôn của Ambattha rất ngạo nghễ. Ambattha thì chủ trương 
        phân biệc giai cấp, Thế Tôn thì quan niệm bình đẳng 
        giữa các giai cấp. Sau lần gặp gỡ này, Ambattha tuyên bố: 
        "Thế Tôn quả thực là bậc Như Lai, ứng Cúng.... đúng như 
        tin đồn rằng, Thế Tôn có đủ ba mươi hai tướng tốt 
        của một Ðại nhân". (Trường Bộ Kinh I, Kinh A-ma-trú). 
        12. Một Bà-la-môn khác, 
        Sonadanda, người dòng dõi Bà-la-môn rất giàu có, rất thông 
        thái, đẹp trai, khả ái, có tướng tốt của một Ðại nhân, 
        được vua Tần-bà-sa-la và quần chúng kính trọng, ngưỡng 
        mộ v.v... Ông này ngõ ý tới yết kiến Thế Tôn, nhưng các 
        đệ tử của Sonadanda cho rằng: "Thế Tôn yết kiến 
        Sonadanda mới phải". Sonadanda là người có tài luận 
        thuyết lại ăn nói trang nhã cao thượng, đã chứng minh cho 
        các đệ tử biết các đức tướng và đức tính của Thế 
        Tôn vượt xa Sonadanda, thật là xứng đáng để Sonadanda 
        yết kiến Thế Tôn. 
        Sonadanda đã kể đến 
        hai mươi mốt ưu điểm của Thế Tôn. Tưởng chúng ta cũng 
        cần biết qua người ngoại đạo lừng danh thời bấy giờ 
        đã hình dung như thế nào về Thế Tôn trước khi diện 
        kiến Ngài. Hai mươi mốt ưu điểm của Thế Tôn, theo 
        Sonadanda là: 
        
          1/- Ðức Gotama từ 
          bỏ hoàng tộc và ngai vàng xuất gia. 
          2/- Từ bỏ rất nhiều vàng bạc, châu báu. 
          3/- Ngài quyết tâm ra đi giữa tiếng khóc than và đầy nước 
          mắt của song thân (Phụ vương và Hoàng hậu). 
          4/- Ðức Gotama đẹp trai, khả ái, trang nhã, tuấn tú, cao 
          thượng, làm đẹp lòng người. 
          5/- Ðầy đủ giới đức, thiện đức. 
          6/- Xứng đáng là bậc Tôn sư của hàng Tôn sư. 
          7/- Ðã đoạn tuyệt tham ái và xao động của tâm. 
          8/- Xuất gia từ chủng tộc cao quý: Sát-đế-lợi. 
          9/- Ðức Gotama chủ trương về Nghiệp. 
          10/- Vô số dân chúng đã vượt suối băng ngàn đến học 
          đạo với Sa-môn Gotama. 
          11/- Hàng ngàn Thiên, Nhân quy y Thế Tôn. 
          12/- Là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh đẳng Chánh giác, 
          v.v... 
          13/- Có đủ ba mươi hai tướng quý của một bậc Ðại nhân. 
          14/- Lời chào đón của Thế Tôn thân thiện, tao nhã, trang 
          trọng, chân thực, lời nói có dẫn chứng. 
          15/- Ðược bốn chúng tôn sùng, ngưỡng vọng. 
          16/- Tại nơi nào Thế Tôn ở thì các loài Phi nhân không làm 
          hại loài Người. 
          17/- Là Giáo tổ được tôn là tối thượng trong các Giáo 
          tổ. 
          18/- Danh tiếng của các Bà-la-môn thì dựa trên những căn 
          cứ không đâu, còn danh tiếng của Thế Tôn dựa trên trí 
          tuệ vô thượng của Ngài. 
          19/- Vua Tần-bà-sa-la cùng cả Hoàng tộc và truyền thần 
          đều quy y và trọng vọng Thế Tôn. 
          20/- Vua Ba-tư-nặc cùng Hoàng tộc và triều thần đều quy 
          y và ngưỡng vọng Thế Tôn. 
          21/- Bà-la-môn Pokkharasàdi là một Giáo chủ, ngoại đạo 
          thời danh, đã cùng với gia đình, vợ con, thị giả, thân 
          cận quy y, kính nể và ngưỡng vọng Thế Tôn. 
         
        Rồi Sonadanda cùng đại 
        chúng Bà-la-môn đến yết kiến Thế Tôn. Sau khi được 
        Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ Sonadanda tán thán Thế Tôn: 
        "Thật là kỳ diệu! Thế Tôn như người đã dựng đứng 
        những gì bị quăng ngã xuống... Con xin trọn đời quy ngưỡng 
        Thế Tôn" (21). 
        13. Loã thể Kassapa 
        một lần hỏi Thế Tôn: "Có phải Ngài chỉ trích khổ 
        hạnh, tuyệt đối phỉ báng, mạt sát khổ hạnh?" Thế Tôn 
        đáp: "Lời nói đó không đúng với lời của Thế Tôn" 
        Thế Tôn cắt nghĩa rằng có những khổ hạnh đi xuống địa 
        ngục, ác thú; có những khổ hạnh đi lên các cõi Trời, 
        thiện thú. Nhưng chắc chắn không có khổ hạnh nào bằng 
        con đường tu Giới, Ðịnh, Tuệ của Thế Tôn và các đệ 
        tử của Ngài. Bấy giờ Thế Tôn đề nghị với Kassapa: "Này 
        Kassapa, có một số Bà-la-môn, Sa-môn bác học, biện tài.... 
        Ta đến các vị ấy và nói: "Hãy để yên những quan điểm 
        bất đồng. Các vị có trí hãy đàm luận trao đổi các điểm 
        đồng ý...." Này Kassapa, sự tình này xảy ra: một phần 
        lớn các vị tán thán chúng ta rằng: "Các Tôn giả, Sư trưởng 
        kia chỉ xả ly một phần các pháp ô nhiễm, không xứng đáng 
        bậc Thánh, còn Tôn giả Gotama thì xả ly hoàn toàn...". 
        Thế Tôn giới thiệu 
        con đường Giới, Ðịnh, Tuệ cho Kassapa. Lõa thể Kassapa đã 
        xúc động tán thán: "Bạch Ðại đức Gotama, ai có thể sau 
        khi nghe Thế Tôn thuyết giảng lại không hoan lạc với 
        niềm hoan hỷ lớn nhất ... Bạch Thế Tôn, con xin xuất gia 
        với Thế Tôn". (Sđđ, tr. 176 - 177). 
        14. Ngoại đạo sư 
        Ni-kiền Tử (Niganthaputta Saccaka) (Trung Bộ Kinh I, Kinh Saccaka, 
        tr. 229) là người ưa luận chiến, có tài biện luận thiện 
        xảo, được số đông kính trọng, thường tự đắc, tuyên 
        bố khoác lác trước Hội chúng của ông ta ở Tỳ-xá-li 
        (Vesàli) rằng: "Ta không thấy có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào, 
        dù là Giáo chủ, là A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác... khi đối 
        thoại với ta lại không run sợ, không khiếp sợ, không toát 
        mồ hôi nách. Dù là cột trụ vô tình, khi đối thoại với 
        ta cũng run sợ...." Ông tiếp: "Sa-môn Gotama nếu đối 
        thoại với ta, thì sẽ như một lực sĩ nắm chặt lông dài 
        của con cừu, kéo tới, kéo lui, vần quanh; cũng thế, ta dùng 
        lời nói kéo tới, kéo lui, vần quanh Sa-môn Gotama". 
        Rồi một hôm Saccaka 
        Niganthaputta đi cùng với năm trăm người Licchavi trí thức 
        để mong đánh bại Thế Tôn tại Trùng Các giảng đường. 
        Câu hỏi đầu tiên của Saccaka là: "Tôn giả Gotama huấn 
        luyện đệ tử như thế nào? Những bộ môn nào Sa-môn 
        Gotama giảng dạy cho đệ tử?". Thế Tôn trình bày năm 
        uẩn là vô ngã... còn Saccaka chủ trương Năm uẩn là có 
        tự ngã, thuộc tự ngã của ta. Khi Thế Tôn chứng minh lập 
        luận của Saccaka là không hợp lý, không có căn cứ, thì 
        Saccaka hoảng sợ, toát mồ hôi, nhưng giữ im lặng, không 
        trả lời các câu hỏi hợp lý của Thế Tôn. Thế Tôn bèn 
        nhắc cho Saccaka biết rằng, theo truyền thống, khi Thế Tôn 
        hỏi một câu hỏi hợp lý đến lần thứ ba mà người đối 
        thoại không chịu trả lời thì thần Dạ-xoa (Yakka) sẽ đánh 
        một chùy Kim cang làm đầu vỡ thành bảy mảnh; rồi Thế Tôn 
        đặt lại câu hỏi đến lần thứ hai. Bấy giờ chỉ có 
        một mình Saccaka thấy Thần Dạ-xoa đã nghiêm nghị với 
        chầy Kim cang đứng ở trước mặt, Saccaka run sợ, hoảng 
        sợ, chỉ biết nương tựa vào sự che chở của Thế Tôn, 
        liền bạch: "Thế Tôn hãy hỏi, tôi sẽ trả lời". 
        Kiêu khí của Saccaka trước 
        năm trăm người Licchavi tan thành mây khói, đã phải thốt lên 
        lời xưng tán Thế Tôn, tuy tính kiêu ngạo của ông ta đang 
        muốn dìm sâu trong lòng sự khâm phục của ông ta đối 
        với Thế Tôn: "Ôi! Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi thật là 
        lỗ mãng, chúng tôi thật là khinh xuất, đã dám dùng lời 
        luận chiến với Thế Tôn. Rất có thể có sự an toàn cho 
        một người chiến đấu với con voi điên, nhưng không thể 
        có sự an toàn cho một người chiến đấu chống Tôn giả 
        Gotama. Rất có thể có sự an toàn cho một người chiến đấu 
        chống đám lửa hừng... chống con rắn độc hung hãn, nhưng 
        không thể có sự an toàn cho một người chiến đấu chống 
        Tôn giả Gotama". 
        15. Bà-la-môn ngoại đạo 
        Brahmayù (Trung Bộ Kinh II, Kinh Ma-kiến-đề) là người bấy 
        giờ sống thọ một trăm hai mươi tuổi thông suốt Vệ-đà, 
        thông suốt chú thuật, thông thái ngôn ngữ cùng Thuận thế 
        luận và Ðại nhân tướng, đã phái thanh niên Uttara, một 
        đệ tử xuất chúng, cũng tinh thông ba tập Vệ-đà, gia 
        nhập Giáo hội của Thế Tôn, sống gần Thế Tôn suốt 
        bảy tháng để xem Thế Tôn có thật sự như lời đồn tán 
        thán về Ngài. 
        Sau bảy tháng không 
        rời khỏi Thế Tôn (bám sát Thế Tôn), Uttara đã báo cáo 
        cho Brahmayù biết rằng: "Thế Tôn chẳng những tốt đẹp 
        như tiếng đồn tốt đẹp về Ngài, mà Ngài còn nhiều đức 
        tánh hơn thế nữa". 
        Brahmayù đã cùng với 
        Hội chúng của ông ta đi đến yết kiến Thế Tôn. Thấy rõ 
        đúng sự thật về Ngài, Brahmayù đắp y, đầu mặt sát đất 
        đảnh lễ Thế Tôn, ưu ái cung kính lấy tay xoa lên bàn chân 
        Thế Tôn và tự xưng tên mình: "Bạch Tôn giả Gotama, con là 
        Bà-la-môn Brahmayù". Hội chúng của Brahmayù rất kinh dị 
        thốt: "Ôi thật là vi diệu, thật là kỳ diệu! Ðại 
        thần lực của Sa-môn Gotama đã khiến cho Bà-la-môn Brahamayù 
        với đầy danh vọng, đầy tiếng tăm, hạ mình tối đa như 
        vậy!". 
        Brahmayù tiếp tục được 
        nghe Thế Tôn thuyết pháp về bốn Thánh đế và sự xuất 
        ly các pháp. Bảy ngày sau đó, Brahmayù đắc A-na-hàm và 
        mệnh chung. 
        16. Bà-la-môn Cankì Bhàradvàja 
        (Trung Bộ Kinh II, Kinh Cankì) là Bà-la-môn nổi tiếng bậc 
        nhất tại nước Kiều-tát-la (Kosala) bấy giờ, đã cùng 
        với năm trăm Bà-la-môn danh tiếng khác hội họp bàn cách 
        đánh bại chủ trương bình đẳng giai cấp của Thế Tôn và 
        nêu cao chủ trương phân biệt có bốn giai cấp của họ. 
        Tất cả năm trăm người 
        của họ cùng Cankì đi đến yết kiết Thế Tôn. Họ đặt 
        rất nhiều câu hỏi trong đó có các vấn đề: hộ trì chân 
        lý, hành trì chân lý, chứng ngộ chân lý (Thanh niên Bhàradvàja 
        là người được Cankì ái mộ) đứng ra đặt các câu 
        hỏi. Thế Tôn cắt nghĩa: "Này Bhàradvàja, nếu có người 
        chấp nhận một quan điểm và nói: "Ðây là sự chấp 
        nhận quan điểm của tôi. Nhưng người ấy không chủ trương 
        chỉ đây là sự thật, ngoài ra là sai lầm. Như thế này là 
        ý nghĩa hộ trì chân lý". Sau khi giám sát một vị Tỷ-kheo 
        thuyết pháp thâm sâu, tịch tịnh... vượt ngoài luận lý suông.... 
        và biết rõ vị ấy thuyết pháp không do tham ái, không do sân 
        hận, không do si mê. Sau khi quan sát đi đến thân cận giao 
        thiệp, rồi lắng nghe... rồi thọ trì... rồi tìm hiểu... 
        rồi hoan hỷ chấp nhận... rồi sinh ước muốn tinh cần 
        thực hiện. Nhờ tinh cần, vị ấy chứng ngộ chân lý cao 
        cả nhất, cho đến mức độ này, này Cankì, là ý nghĩa giác 
        ngộ chân lý... nhưng chưa phải là chứng đạt chân lý. Này 
        Bharadvàja, nhờ tu tập, luyện tập nhiều lần chân lý mới 
        được chứng đạt. Như thế này là ý nghĩa chứng đạt chân 
        lý". (Trung Bộ II, tr. 174 A-B. Bản dịch của HT. Thích Minh 
        Châu). 
        Nghe xong, Bhàradvàja 
        thay đổi quan điểm và nói lên lời ca ngợi Thế Tôn: "...Thật 
        sự Tôn giả Gotama đã làm cho con khởi lên lòng kính 
        trọng, ái kính các Sa-môn (đệ tử của Thế Tôn). Thật là 
        vi diệu! Mong Tôn giả nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ đây 
        cho đến mệnh chung, con trọn đời quy ngưỡng". (Sđd, tr. 
        171). 
        Thế là mọi chiến 
        dịch chống Thế Tôn của các Giáo phái ngoại đạo đều 
        thất bại, chỉ làm tăng uy tín của Giáo hội Phật giáo, 
        khiến các giới trí thức chán nản ngoại đạo và quy hướng 
        Thế Tôn. 
        Qua các hình thức 
        chống đối ấy, ta có thể hình dung ra các khó khăn trên 
        đường hoàng đạo của Thế Tôn. Sự kiện các phái ngoại 
        đạo hoảng hốt tìm chỗ đứng về ảnh hưởng cho chính mình 
        bằng việc tìm mọi cách để hại uy tín của đức Phật 
        đã nói lên giá trị cao cả của giáo lý giải thoát. 
        Sự kiện các ngoại đạo 
        quy hướng Thế Tôn nói lên sự trống rỗng, mất nền 
        tảng của giáo lý của họ, và đồng thời nói lên giá 
        trị ưu việt về thái độ giảng dạy và nội dung giảng 
        dạy của Thế Tôn. 
         (xem 
        tiếp đoạn kế) 
        -oOo- 
        Ðoạn 
        trước | Mục lục | Ðoạn 
        kế  |