|
Phần
I - Bài 3
Lịch sử Ðức Phật Thích Ca
Mâu Ni
(từ Ðản sanh đến Thành đạo)
Gia Tuệ
A. Dẫn nhập
Một tôn giáo, không luận
là cao siêu hay thâm thúy đến đâu, cũng vẫn là sản phẩm của xã hội.
Là sản phẩm của xã hội, tất nhiên tôn giáo ảnh hưởng đến xã hội và
đồng thời chịu ảnh hưởng ngược lại. Ðó là điều không thể tránh
khỏi.
Ðời sống quốc gia dân tộc với hoàn cảnh
địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu, thiên nhiên, đã tạo dựng cho Ấn
Ðộ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Ðó là sự cố
đặc biệt của xứ Ấn Ðộ xưa và nay, nơi có những rừng núi thâm u,
tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues), đã ảnh hưởng nhiều tới luồng
tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm được xuất
hiện. Thật vậy, bất cứ tôn giáo, học thuyết, chủ nghĩa nào, khi
sinh khởi, đều là phản ảnh (không nhiều thì ít) của hoàn cảnh, khí
hậu, địa dư, xã hội, chủng tộc mà tạo dựng nên cả. Nếu xét nó ngoài
hoàn cảnh thực tại, lẽ dĩ nhiên không thể thấu hiểu nổi. Văn hóa
đạo Phật cũng do nhân duyên hội ngộ như thế mà nảy mầm và thúc đẩy
tiến hóa...
Phật giáo có một lịch sử trên hai ngàn
năm, Ðông-Tây truyền bá, gieo rắc ảnh hưởng khắp cả các châu lục. Trong
quá trình truyền bá ấy, qua mỗi thời đại, Phật giáo lại tùy theo
tình trạng xã hội của mỗi phương sở mà có ít nhiều biến thiên
về bản sắc. Vì thế, muốn nói đến điểm xuất phát của đạo
Phật, không thể không đi sâu vào bối cảnh lịch sử của đất nước Ấn
Ðộ đương thời. Ðây là một đề tài rất rộng lớn, mà khi đi vào, ta
phải trải qua những bước tìm hiểu như về nền chính trị, xã hội
Ấn Ðộ trước khi Ðức Phật ra đời; tư tưởng tôn giáo và triết
học trước thời kỳ Ðức Thế Tôn xuất thế v.v... Từ đây, ta càng
thấy rõ hơn tầm quan trọng và ý nghĩa thiêng liêng cao quý trong
sự Ðản sanh của Ðức Mâu Ni.
Nhưng chương trình học hàm thụ hẳn có
ý nghĩa sắp xếp để đề tài to lớn này được trình bày trong
một dịp thuận lợi hơn về cả không gian lẫn thời gian. Vì lý do đó,
xin được thông qua phần bối cảnh lịch sử chi tiết; chỉ nêu lên ở đây
vài đoạn đóng vai trò chuyển tiếp và đi thẳng vào lược sử của
Ðức Thích Ca Mâu Ni, một bậc thầy vĩ đại muôn thuở của nhân loại.
Trước thời Ðức Thế Tôn ra đời, về
tư tưởng tôn giáo, triết học cũng như về mặt chính trị, kinh
tế và xã hội thật vô cùng phức tạp. Với pháp điển Manoa (Mànu)
hỗn hợp cả chính trị lẫn tôn giáo đã ấn định nhiều sinh hoạt đầy
bất công trong xã hội và góp phần đưa hai giai cấp thống trị Brahmana (tăng
lữ Bà La Môn) cùng Ksatriya (Sát Ðế Lỵ - vua quan) lên ngồi vững chắc
trên hai giai cấp thuộc hàng tiện dân, bị xã hội khinh miệt, không
được luật pháp bảo hộ, không được dự chung phần tín ngưỡng và tán tụng
kinh điển Veda (Phệ Ðà), đó là hai giai cấp Vaisya (Phệ Xá) và
tệ hơn nữa là Sùdra (Thủ Ðà La).
Tư tưởng Ấn Ðộ thời bấy giờ gần
giống như tư tưởng đời Chiến Quốc ở Trung Hoa xưa. Xét về mặt xã
hội thì trước Ðức Phật giáng sinh gần 100 năm, trước Tây lịch độ 7
thế kỷ, đạo Bà La Môn thịnh hành đến cực điểm. Nhưng cũng
do sự độc quyền của tăng lữ mà đạo đức tôn giáo thời đó chỉ có nghi
thức phô trương bề ngoài. Do chế độ giai cấp nên cuộc sống xã hội
không công bằng, nhân dân không được tự do, mà tư tưởng yếm thế
nảy sinh, nạn mê tín hoành hành trong xã hội. Số đông tu theo pháp môn khổ
hạnh với quan niệm cho rằng gần sự khổ mới quen với cái khổ, và sẽ xem
thường và không còn thấy khổ. Có người lại tin tu khổ hạnh sẽ được sanh
lên cõi trời hưởng các điều vui. Ở một phương diện khác, xã
hội đã phát sinh tư tưởng hoài nghi, phủ nhận tất cả những giá trị tôn
giáo, nhân quả và đạo đức. Nương theo quan niệm ấy, họ cổ xúy tư
tưởng phản kháng. Ngoài những giáo phái thuận theo hệ thống Veda, các chủ
nghĩa khác như: Khoái lạc, Ngụy biện, Khổ hạnh, Hoài nghi... tiếp tục
nổi lên.
Giáo lý Veda (Phệ Ðà) diễn biến
trong ba giai đoạn, thường được gọi là ba thời đại: Phệ Ðà Thiên
Thư (Veda 2500-1000 BC), Phạm Thư (Brahmana 1000-800 BC), Áo Nghĩa Thư (Upanishad
800-600 BC), đó là tạm lược chia tình trạng biến đổi về tư tưởng
tôn giáo của dân tộc Ấn Ðộ từ đa thần giáo sang nhất thần, và từ nhất
thần sang lãnh vực triết học theo ba giai đoạn trên. Song song với diễn
biến của 3 tư trào này, đã có những phái chịu ảnh hưởng của hệ
thống Veda, căn cứ vào đó mở mang thêm cho giáo lý của mình có hệ
thống hơn. Cũng có nhiều học giả thoát ly ra ngoài tư tưởng Veda, chủ
trương tự do khảo cứu rồi thành lập phái triết học tự nhiên. Các
phong trào tư tưởng đó, hoặc dung hòa hoặc xung đột lẫn nhau, làm cho
nền học thuyết của Ấn Ðộ lâm vào một tình trạng rất rối ren.
Tuy nhiên, nếu kiểm điểm lại, ta có thể chia các tư trào lúc
bấy giờ thành hai hệ thống: hệ thống Veda và hệ thống phản Veda.
Hệ thống trước tuy nhiều, nhưng đáng kể chỉ có lục đại học
phái. Hệ thống phản lại thì có lục sư ngoại đạo.
Sống dưới một xã hội có thể chế
giai cấp đầy bất công; tư tưởng tôn giáo lại rối ren như thế, con
người không còn biết tin tưởng, bám víu vào đâu. Giữa hoàn cảnh bế
tắc ấy, Ðức Phật xuất hiện như một mặt trời sáng ấm buổi ban mai, làm
tan đi bóng tối của đêm đen dày đặc đã từ lâu che phủ cuộc đời. Ngài
không chỉ là cứu tinh cho xứ Ấn Ðộ thời bấy giờ, mà còn là người vạch
ra hướng đi mới của nhân loại. Ðức Phật là người đầu tiên xướng lên
thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết
hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả
một bài thánh ca trác tuyệt, là một sự biểu hiện của biển lớn
Trí tuệ và Từ bi, là ánh sáng, là con thuyền, là niềm tin cho
mọi người, mọi xã hội, dù ở bất cứ thời gian và không gian nào.
Dù không phải là người Phật tử, cũng cần
tìm hiểu ý nghĩa thâm thúy đời sống của bậc Thánh cao cả ấy để
rọi soi vào cuộc sống của chính mỗi con người. Và ở đây, chúng ta
tìm hiểu về những nét chính về cuộc đời của Ðức Mâu Ni.
B. Nội dung
I- Niên đại và thân
thế
Ðức Phật giáng sinh vào ngày 15 tháng 4 năm
623 BC tại vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni), cách thành Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ)
khoảng 15 cây số, nay là xứ Ruminidhehi, thuộc quản hạt Aouth, phía Tây Nam xứ
Népal và phía Ðông Rapti. Song thân Ngài là Quốc vương Suddhodana (Tịnh Phạn)
và Hoàng hậu Màyà (Ma Da). Thuộc dòng dõi Sakya (Thích Ca), Vua Suddhodana trị
vì một vương quốc nằm ở ven sườn dãy núi cao ngất trời - Himalaya (Hy Mã
Lạp Sơn) - nằm phía Ðông-Bắc Ấn Ðộ, thủ phủ là Kapilavastu, nay là
Népal. Ðịa điểm thủ phủ này nay được nhận ra là Bhulya trong quận Basti,
cách Bengal 3 cây số nằm vào hướng Tây-Bắc nhà ga xe lửa Babuan.
Một hôm, trong thành Kapilavastu có lễ hội
Tinh Tú, vua tôi cùng nhau cúng bái. Hoàng hậu Màyà sau khi dâng hương hoa
trong nội điện và ra khỏi ngọ môn bố thí thức ăn, đồ mặc cho dân
chúng, bà trở về cung an giấc, mộng thấy một tượng vương trắng 6 ngà từ
trên hư không xuống, lấy ngà khai hông bên hữu mà chui vào. Các bốc sư
đều cho rằng Hoàng hậu sẽ hạ sanh một quý tử tài đức song toàn. Nghe
điều này, Vua Suddhodana rất vui mừng, vì từ nay ngôi báu đã có người
truyền nối.
Ðến thời khai hoa nở nhụy, theo tục
lệ thời bấy giờ, Hoàng hậu phải trở về quê cha là trưởng giả Anjana
ở nước Koly (Câu Ly) để an dưỡng, chờ ngày lâm bồn. Trên quãng đường
đi, Hoàng hậu Màyà vào vườn Lumbini thưởng ngoạn mùa hoa đang đua nở. Bên
tàng cây asoka (vô ưu) che rợp mát, sắc màu tươi sáng, hương thoảng nhẹ
bay, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Tin lành Thái tử chào đời nhanh chóng
được loan truyền trong dân chúng. Tất cả thần dân trong vương quốc
đều vui mừng không xiết kể.
Ngày Ðản sanh Thái tử, khắp Kapilavastu cảnh
vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cối xanh tươi, sông
ngòi mương giếng trong đầy, chim chóc reo vang, hào quang tỏa khắp. Ðó là
ngày hội của toàn vương quốc. Dân chúng khắp nơi tổ chức ăn mừng và kéo
về kinh đô Kapilavastu để vui với hoàng gia. Lẫn trong đám đông, có
nhiều đạo sĩ tu hành trên núi cao, cũng đi về dự lễ và xem tướng
cho Thái tử. Ðạo sĩ già tên Asita (A Tư Ðà) (1), ẩn tu trên Himalaya - người
được kính nể nhất vì đạo hạnh - đã chào Thái tử với thái độ rất
mực cung kính, rồi cười và lại khóc. Ðược hỏi, đạo sĩ trả lời: ông
cười mừng là vì Thái tử có 32 tướng tốt, nhất định tương lai sẽ tu chứng
Phật quả, và với lòng từ thương xót chúng sanh mà truyền bá chánh pháp
trên thế gian này.
"... Thái tử này sẽ chứng
Tối thượng quả Bồ đề
Sẽ chuyển bánh xe pháp
Thấy thanh tịnh tối thắng
Vì lòng từ thương xót
Vì hạnh phúc nhiều người
Và đời sống phạm hạnh
Ðược truyền bá rộng rãi..." (Sutta-Nipata, Kinh tập, 101)
Và ông khóc là vì tuổi đã quá cao, không
còn sống được bao lâu nữa để trực tiếp được giáo hóa bởi Ðức
Thế Tôn tương lai này.
"... Thọ mạng ta ở đờ
Còn lại không bao nhiêu
Ðến giữa đời sống Ngài
Ta sẽ bị mệnh chung
Ta không được nghe pháp
Bậc tinh cần vô tỉ
Do vậy ta sầu não
Bất hạnh và khổ đau" (Kinh tập, 103)
Lời tiên đoán làm Vua Suddhodana lặng lẽ
không vui. Trong lễ đặt tên, vua đặt tên con là Siddhattha (Sĩ Ðạt Ða-Tất
Ðạt Ða), họ là Gotama (Cồ Ðàm), với hàm ý là kẻ phải giữ chức vụ
mà mình phảãi giữ; còn có nghĩa là người được toại nguyện, mọi
việc đều thành tựu. Ý nhà vua là muốn gởi gắm tất cả vương
quyền của mình vào đứa con yêu quý này.
Hoàng hậu Màyà qua đời sau 7 ngày hạ sanh
Thái tử; vì thế, sự nuôi dưỡng đều được chăm sóc trực tiếp
bởi dì Maha Pajàpati (Ma Ha Ba Xà Ba Ðề), em ruột của Hoàng hậu Màyà.
II- Ðời sống của Thái tử
trước khi xuất gia
1)- Ðời sống và giáo dục của Thái
tử: Thái tử Siddhattha được nuôi nấng và dạy dỗ một cách toàn
diện cả hai lãnh vực văn chương và võ thuật; những thầy giáo giỏi nhất
trong nước được mời đến hoàng cung để dạy cho Thái tử các môn
học đương đại như Thanh minh (ngôn ngữ, văn học), Công xảo minh
(công kỹ nghệ học), Y phương minh (y học), Nhân minh (luận lý
học) và Nội minh (đạo học); lúc ấy, Ngài vừa tròn 7 tuổi. Về
đạo học, Thái tử đã được học 4 thánh điển Veda. Kinh ghi lại
rằng, chỉ trong khoảng thời gian từ 7 đến 12 tuổi, Thái tử đã học
thông thạo 5 môn học trên. Với một tư chất đặc biệt, Thái tử đã
làm cho hai danh sư nổi tiếng về võ là Ksantidiva (Sằn Ðề Ðề
Bà) và về văn là Visvàmistra (Tỳ Sa Mật Ða La) phải cúi đầu thán phục.
Ngoài sự thông minh dĩnh ngộ, Thái tử được mọi người quý kính
về đức hạnh bao la của Ngài.
Trong một buổi lễ Hạ điền, giữa lúc
mọi người mải mê xem lễ hội, Thái tử lúc ấy tuy còn nhỏ, đã lặng lẽ
đến bên cội cây gioi (rose-apple) xếp bằng tĩnh tọa. Thấy con với
dáng dấp trầm tư, tĩnh lặng, Vua Suddhodana đã phải kinh ngạc thốt lên:
"Ôi, con thân yêu! Ðây là lần thứ hai, cha nghiêng mình trước con!"
(lần trước, khi thấy đạo sĩ Asita cúi đầu trước Thái tử, vua bất giác
cũng nghiêng mình theo).
Càng yêu thương quý trọng con, Vua
Suddhodana lại càng lo sợ Thái tử sẽ không nối nghiệp ngai vàng, mà sẽ
xuất gia tìm đạo như lời tiên đoán của đạo sĩ Asita. Càng lớn lên, Thái
tử càng lộ vẻ trầm tư về cuộc sống. Bởi thế, vua cùng triều thần
sắp đặt nhiều kế hoạch để giữ Thái tử ở lại với ngai vàng. Vua
Suddhodana đã cho xây 3 cung điện nguy nga, tráng lệ cho Thái tử thay
đổi nơi ở hợp với thời tiết quanh năm của Ấn Ðộ. Hàng trăm cung phi
mỹ nữ giỏi đàn ca hát múa được tuyển chọn để túc trực hầu hạ
Thái tử. Ðức Phật đã đề cập đến quãng đời này trong kinh Tăng Chi
I như sau: "... Này các Tỳ kheo, ta được nuôi dưỡng tế nhị, quá
mức tế nhị; các hồ nước được xây lên, một hồ trồng hoa sen xanh, một
hồ sen đỏ và một hồ sen trắng... Ðêm và ngày, lọng trắng được che
trên đầu ta, để tránh xúc chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ, sương. Này các Tỳ
kheo, 3 lâu đài được xây dựng cho ta, một cái cho mùa Ðông, một cái cho
mùa Hạ và một cái cho mùa mưa... Các vũ công đàn hát múa xung quanh
ta...". Nhưng những hạnh phúc trần gian không làm khuây khỏa được ưu
tư của người có ý chí xuất trần.
Muốn ngăn chặn tất cả những hình ảnh của
cuộc sống trầm thống khổ đau mà kiếp người phải đeo mang không lọt
vào mắt, vào tai Thái tử, để đứa con yêu không có thời gian mà nghĩ
đến ngày xích lại với quyết định xuất gia; khi Thái tử vừa tròn 16
tuổi, Vua Suddhodana vội tiến hành lễ thành hôn cho Thái tử với Công chúa
một nước láng giềng - Yosodhara (Da Du Ðà La) - con Vua Suppabuddha (Thiện
Giác), một trang quốc sắc thiên hương, với hy vọng hương ấm tình yêu
thương đôi lứa sẽ buộc chặt đôi chân của Thái tử ở lại với ngai vàng.
2)- Tiếp xúc khổ đau nhân thế:
Nhưng được một thời gian, do năng khiếu suy tư sâu sắc và lòng
thương người vô hạn vô biên, Thái tử lại rơi vào tình trạng trầm tư lo
lắng, luôn cảm thấy lòng mình nặng trĩu bao nỗi băn khoăn thắc mắc.
Ðược phép vua cha, Thái tử lần đầu tiên được ra khỏi cung vàng điện
ngọc và tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Trong phạm vi giới hạn
của cấm thành, Ngài chỉ được thấy những gì tươi đẹp của đời sống; và
phần còn lại, phần nhiều hơn, phần tương phản với những gì Ngài
hiểu biết, giờ đây nó đang sờ sờ trước đôi mắt ngỡ ngàng và xót
xa của Thái tử Siddhattha.
Lần lượt ra bốn cửa thành của hoàng cung,
Ngài chứng kiến những sự thật đen tối và đáng sợ! Một cụ già chân
mỏi, gối dùn; một người bệnh hoạn quằn quại; một thây ma hôi thối và
một đạo sĩ ly dục nghiêm trang, tất cả đã làm cho tâm tư Thái tử dao động
đến cực độ. Ngài càng nhận chân rằng tất cả những lạc thú, hạnh phúc
mà mình đang thọ hưởng đều mang tính giả tạm vô thường. Cộng với
lần tiếp chuyện cùng vị đạo sĩ ung dung, mà thoáng hiện đằng sau
con người này một con đường giải thoát, Thái tử Siddhattha quyết định
thoát khỏi ngục vàng, tìm ra một lối thoát, một cuộc sống chân thật có
ý nghĩa và cao đẹp hơn; một con đường dẫn tới giác ngộ, vĩnh viễn
khắc phục mọi nỗi khổ đau và bất hạnh của đời người và hướng
đến an lạc.
Giữa lúc ấy, một tin đưa đến khiến
Ngài không vui: Công chúa Yosodhara vừa hạ sanh một hoàng nam. Thái tử đã
thốt lên rằng: "Một trở ngại (ràhu) đã được sanh, một ràng buộc đã
xảy ra". Nhân câu nói này mà Quốc vương Suddhodana đã đặt tên cháu là
Ràhula (La Hầu La).
III- Sự từ bỏ vĩ đại
Và rồi, với cõi lòng nặng trĩu vì thương
chúng sanh chìm đắm trong bể khổ; một đêm, sau khi đến trước phòng
nhìn lần chót người vợ và hài nhi yêu dấu đang say nồng trong giấc ngủ,
Ngài cùng nô bộc Channa (Xa Nặc) (2) dắt con tuấn mã Kantaka (Kiền Trắc) (3)
vượt thành ra đi.
Ánh sao khuya dẫn lối đưa đường, làn gió
lạnh đẩy lùi tất cả lại sau lưng. Tình yêu thương phụ hoàng, di mẫu, vợ
đẹp, con ngoan rất nồng nàn, nhưng trong Thái tử, lòng xót thương nhân loại
đang chịu mọi nỗi bất hạnh lại còn da diết vượt trội hơn
nhiều.
Ra đi, Ngài từ bỏ tất cả những người thân
yêu, ngôi báu, vương quyền, cả cuộc sống nhung lụa tràn đầy hạnh phúc.
Ðây không phải là sự hy sinh từ bỏ của một người già, người đau ốm,
người nghèo, người tật bệnh, người bất đắc chí, người ngán ngẩm cuộc
đời, người mang căm hờn oán giận... mà là sự hy sinh từ bỏ của một hoàng
tử đang tuổi thanh xuân, đang sống trong quyền quý giàu sang, chứa chan
hạnh phúc. Quả đó là một sự từ bỏ hy sinh vĩ đại, có một không hai trong
lịch sử loài người. Một sự ra đi không tiền khoáng hậu. Năm ấy, Thái
tử vừa tròn 19 tuổi (theo Nam truyền Phật giáo, Thái tử xuất gia năm 29
tuổi).
IV- Quãng đường tu hành -
tầm đạo
Khi tới bên kia bờ sông Anoma, Thái tử
dưâng lại, cạo bỏ râu tóc, trao y phục và đồ trang sức cho Channa; và bảo
người nô bộc trung thành ra về tạ lỗi cùng phụ hoàng. Còn lại một
mình, Thái tử ra đi với bộ áo màu vàng giản dị của người tu sĩ, sống cuộc
sống không nhà của người xuất gia, ly dục ly trần, không nơi cố định.
Một cây cao bóng mát hoặc một hang đá vắng
vẻ, một cánh rừng u tịch, một làng mạc đìu hiu đều có thể là nơi
che mưa đỡ nắng, nghỉ qua đêm của Ngài. Ði trong nắng cháy, đi trong sương
gió lạnh lùng, xiêm y từ tốn chỉ là những mảnh vụn ráp lại, tài sản duy
nhất chỉ là một bình bát để khất thực độ nhật; Thái tử Siddhattha dành
hết thời gian cho sự tầm cầu thiền định hầu tìm ra sự thật tối hậu.
Lúc bấy giờ, có nhiều trí thức lỗi
lạc xuất gia trở thành những đạo sư tâm linh danh tiếng, quy phục được
nhiều đồ đệ. Thái tử Siddhattha trên đường đi tầm đạo cũng đã
tới thụ giáo với hai vị đạo sư được tôn kính nhất thời ấy là A- la-ra
Ka-la-ma và Uất Ðầu Lam Phất, và chỉ trong một thời gian ngắn, ngộ Vô sở hữu
xứ định mà Alara Kalama đã chứng và đạt định Phi phi tưởng xứ mà Uddaka
Ràmaputta đã đạt. Biết rằng đây vẫn còn trong vòng sanh tử, Ngài lại ra
đi, bỏ lại sau lưng lời yêu cầu ở lại cùng giáo hóa đồ đệ của hai vị
đạo sĩ danh tiếng trên. Và thế là không còn ai để Ngài theo
học đạo nữa.
V- Sáu năm khổ hạnh
Thời ấy, Ấn Ðộ còn có truyền thống
và niềm tin rằng, người nào cầu đạo giải thoát đều phải nỗ lực
và kiên trì tu khổ hạnh; Thái tử liền đi đến Uruvela, một thị trấn
của Senàni và cùng với năm anh em ông Kodanna (Kiều Trần Như) (4) , Bhadhya
(Bạt Ðề) , Vappa (Ðề Bà) , Mahanama (Ma Ha Nam) và Asaji (Ác Bệ) ,
bắt đầu một cuộc tu khổ hạnh kéo dài đến 6 năm và dẫn đến kết
quả là thân thể Ngài gầy đi như một bộ xương khô, đôi mắt sâu hoắm,
không còn đi đứng được nữa.
Ngài đã trải qua những cảm giác nhức nhối,
đau đớn tột cùng của thân thể, và Ngài đã kể lại trong kinh
Majjihima Nikàya (Trung Bộ kinh) với những hình ảnh thật đáng sợ: Ngài như bị
ai khoan vào sọ với lưỡi khoan thật bén; như bị một lực sĩ dùng dây
siết chặt đầu; bị tên đồ tể dùng dao rạch bụng; như bị nắm và
quăng lên giàn hỏa thiêu sống. Nhưng những cảm giác đau đớn ấy không
hề ảnh hưởng và làm tổn thương đến tâm thức của Ngài.
Ở đây, qua thực nghiệm, Ngài thấy
rằng chân lý tối hậu giải thoát an lạc, diệt trừ khổ đau không
thể cầu được ở bên ngoài, ở bất kỳ một bậc đạo sư nào, cũng không
phải qua pháp môn hành xác; mà sự chứng ngộ ấy cần phải được thể
hiện ở chính trong nội tâm của mỗi người và không thể dựa vào
một tha lực nào khác.
Ngài lấy lại sức nhờ uống bát sữa do một
thôn nữ tên là Sujata (Su Dà Ta) dâng cúng, sau đó xuống tắm ở dòng sông
Neranjara (Ni Liên Thuyền). Năm người bạn đồng tu cho rằng Ngài đã thối
chí, quay về cuộc sống dục lạc tiện nghi, họ bèn rời bỏ Ngài và
đi đến Isipatana gần thành phố Benares (Ba La Nại).
VI- Thành đạo
Còn lại một mình, Ngài đến ngồi dưới
gốc cây pippala (tất bát la, sau này gọi là cây bodhi - bồ đề); và
với tâm định tĩnh, chánh niệm, tỉnh giác, ly dục, đi vào sơ thiền
(thời niên thiếu, trong buổi lễ Hạ điền, Ngài cũng đã một lần vào
thiền này), nhị thiền, tam thiền và lần lượt nhập lên tứ
thiền, sau đó hướng tâm đến tam minh.
Với trực giác, Ngài thấy rõ nguyên nhân
của khổ đau. Chính sự tập khởi của 12 nhân duyên là tập khởi của toàn bộ
khổ uẩn. Ở canh một, Ngài chứng Túc mệnh minh, thấy rõ vô lượng
kiếp quá khứ của mình. Sang canh hai, Ngài chứng Thiên nhãn minh, thấy rõ
vô lượng kiếp quá khứ của chúng sanh với các nghiệp nhân và
nghiệp quả, thấy rõ con đường thọ nghiệp của chúng sanh. Qua canh
ba, Ngài như thật quán chiếu thấy khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, sự
đoạn tận của khổ đau, và con đường đưa đến đoạn tận khổ đau, và
đã chứng Lậu tận minh. Sau cùng, Ngài chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác, là vị Phật đầu tiên trong hiện kiếp, lúc ấy sao Mai
vừa mọc; và danh hiệu Ðức Phật Gotama, Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni
được thế gian tôn xưng từ đấy.
C. Kết luận
Nhìn qua lịch sử xưa nay, những anh hùng cái
thế lập nhiều chiến công hiển hách trên những đấu trường,
thắng ngàn quân, trăm trận nhiều vô số kể, nhưng thử hỏi có ai thắng
được dục vọng của chính mình ? Thắng người đã là một việc khó,
thắng được chính mình lại là một việc làm khó hơn. Ðức Phật đã
thắng cả ngoại ma lẫn nội ma, vượt qua tất cả dục vọng thấp hèn, Ngài
thật xứng với danh xưng Ðại Hùng, Ðại Lực.
Ngài không vì quyền lợi riêng mà
chiến đấu, cũng không vì tình thương yêu hạn hẹp ở cha mẹ, vợ con, bè
bạn, quốc gia, lãnh thổ; mà vì lòng từ vô lượng đối với tất cả chúng sanh
mà đi tìm con đường giải thoát cho mọi loài. Ngài xứng với danh hiệu
Ðại Từ, Ðại Bi.
Vì tình thương yêu rộng lớn, không bỉ
thử, không thân sơ, nhân ngã ấy, Ngài từ bỏ cung vàng điện ngọc, vợ
đẹp con ngoan, uy quyền, lạc thú trần gian, cam chịu một cuộc đời sống
trong kham khổ, đạm bạc thiếu thốn, giáo hóa đó đây, Ngài xứng với danh
xưng Ðại Hỷ, Ðại Xả.
Ðọc vài trang sử tóm gọn về
cuộc đời của một đạo sư, một bậc thầy cao cả đáng tôn đáng kính của
nhân loại, để hiểu về Ngài có khác nào con muỗi hút nước ở
đại dương. Nhưng từ những nét đại cương, khái lược về cuộc đời của
Ðức Phật cũng đủ làm cho chúng ta suy gẫm ý nghĩa sâu sắc và đúng
đắn mà nhân loại đã tôn xưng Ngài là bậc Ðại Hùng, Ðại Lực, Ðại
Từ, Ðại Bi, Ðại Hỷ, Ðại Xả.
Sự xuất hiện của Ðức Thích Ca Mâu Ni
trong trần thế là cả một vinh hiển lớn cho con người và xã hội. Ngài
là kết tinh của muôn ngàn hương hoa Bi, Trí, Dũng; là hiện thân của
chân lý giải thoát, là điềm lành cho hết thảy chúng sanh trong tam
thiên đại thiên thế giới. Nếu cuộc đời không đau khổ tối tăm, Ðức
Phật đã không xuất hiện ở đời. Ngài ra đời vì một mục đích trọng
đại là chỉ bày cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến của chính mình. Hay
nói khác hơn, "vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh,
vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và
loài người" mà Ðức Thế Tôn xuất hiện ở thế gian.
Cuộc đời của Ðức Phật là cả một bài
thuyết pháp hùng hồn trác tuyệt, dù cho có dùng hàng vạn ngôn từ mỹ
dụ cũng không thể nào diễn đạt cho hết ý nghĩa thiêng liêng.
Ðời sống của Ngài là một biểu hiện sống động cho giáo lý của
Ngài. Ngài nói và thực hành với kết quả mỹ mãn, tương ứng với những
gì Ngài thuyết giảng. Ðời sống Ðức Ðiều Ngự là cả một bằng chứng
hiển nhiên cho giáo pháp khả thi, khả hành, khả chứng, vượt thời gian,
không gian, hiện tại lạc trú của Ngài. Ðó không phải là những tín
điều mặc khải, càng không phải là những lời dạy suông, những ý
niệm hoang tưởng, những lý thuyết xây dựng trên mây, trên khói.
Lịch sử của Ðức Phật là lịch sử của một
con người, nhờ tu tập bản thân, đã trở thành một con người hoàn thiện,
một bậc thánh giữa thế gian. "Con người vĩ đại nhất sinh ra ở
đời này", như lời Tagore đã nói.
Bằng cuộc đời của Ngài, bằng những lời
dạy của Ngài được kết tập lại trong ba tạng kinh điển, Ðức Phật
đã khai thị cho loài người biết rằng, bất cứ một người nào, với sự
nỗ lực của bản thân, đều có thể vươn lên đỉnh cao của giác
ngộ và giải thoát. Có thể nói, không một tôn giáo nào, không một hệ
tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như
là đạo Phật. Tính nhân bản tuyệt vời của đạo Phật chính là chỗ
đó.
Tránh mọi điều ác, làm mọi
điều lành, gột rửa nội tâm để trở thành một bậc thánh, một con
người hoàn thiện về đức hạnh và trí tuệ, mỗi con người
chúng ta đều có khả năng và bổn phận thực hành bức thông điệp đó,
bức thông điệp bất hủ mà Ðức Phật đã trao cho loài người, cho mỗi
chúng ta./.
* Chú thích:
(1) Asita (A Tư Ðà): vị đạo sĩ ẩn tu
trên đỉnh Hymalaya, người được kính nể nhất vì đạo hạnh và đức độ
tại Ấn lúc bấy giờ.
(2) Channa (Xa Nặc): người hầu cận tâm
phúc bên cạnh Thái tử.
(3) Kantaka (Kiền Trắc): Theo
truyền thuyết, con ngựa Kantaka rất hung dữ, không ai điều phục
được ngoài Thái tử Siddhatta.
(4) Năm anh em Tôn giả Kodanna: Kondanna,
Bhadhya, Vappa, Mahanama và Asaji.
(5) Bodhi: Tên một loại cây tại Ấn
Ðộ, Hán dịch là cây bồ đề. Bodhi còn có nghĩa là trí tuệ.
* Sách tham khảo
1. Thích ThiệnSiêu, Tỏa ánh từ quang, BTS
tỉnh Thừa Thiên-Huế, Huế, 1992.
2. Thích Thiện Siêu, Phật tử, VNCPHVN,
TP HCM, 1997.
3. H.W.Schumann, Trần Phương Lan dịch, Ðức
Phật lịch sử, Viện NCPHVN, TP HCM, 1997.
-oOo-
Câu hỏi hướng
dẫn ôn tập
1)- Bạn hãy nêu ra những đặc điểm
trong tính cách của Thái tử Tất Ðạt Ða trên quá trình tìm đạo.
2)- Hãy trình bày bối cảnh xã hội và
nguyên nhân Thái tử xuất gia tìm đạo.
3)- Thái tử đã nhận ra điều gì
sau 6 năm khổ hạnh?
4)- Vì sao Ðức Phật được tôn xưng
là đấng Ðại Hùng, Ðại Lực, Ðại Từ Bi, Ðại Hỷ Xả? |
[^]
-oOo-
Bài trước
| Mục lục | Bài kế
|