THIÊN
THỨ MƯỜI BA (f)
NHỮNG
CHUYỆN LẠ XẢY RA TRONG BỐN MƯƠI LĂM NĂM
TRUYỀN ÐẠO CỦA ÐỨC PHẬT TỔ CỒ ÐÀM (tt)
-ooOoo-
CHUYỆN
ASADISADÀNA (Bố thí không bố thí nào sánh bằng)
Lúc nọ, đức Thế Tôn
ngự tại Kỳ Viên tịnh xá, đức vua Ba Tư Nặc vào hầu Phật
và thỉnh Phật vào thành thọ thực. Luôn tiện đức vua muốn
khoe sự bố thí của mình, nên cho mời dân chúng đến dự
cuộc lễ bố thí của Ngài.
Dân chúng thấy sự
cúng dường của đức vua thật là trọng thể, nên họ mới
hội nhau lại để làm lễ cúng dường Phật bảo, khi ấy
nhân dân đồng lòng thỉnh Ðức Phật và chư Tăng đến cúng
dường và cũng không quên mời đức vua đến dự cuộc lễ.
Ðức vua thấy dân chúng cúng dường còn có phần hơn mình,
nên Ngài liền thỉnh đức Phật và chư Tăng vào cúng dường
nơi thành nội và cũng mời dân chúng đi đến dự. Dân
chúng thấy đức vua làm hơn mình nên đồng lòng hùn nhau
làm cho hơn vua. Ðức vua và dân chúng thi nhau cúng dường
như thế đến sáu lần không phân biệt được bên nào hơn
bên nào cả. Lần thứ sáu dân chúng góp hết lực lượng của
mình ra làm những vật gì trên thế gian nầy có, dân chúng
đều đem ra dâng cúng hay chưng bày làm nhà vua kinh hoàng về
sự bố thí của dân chúng. Nhưng phàm một vị Ðế vương
không bao giờ chịu thua hàng dân giả. Nên khi Ngài về cung
nằm suy nghĩ buồn cho mình là vị Ðế vương mà không thắng
được dân.
Khi ấy bà Hoàng hậu
Malikà là người rất thông minh hơn ai hết và là một người
rất mạnh về đức tin. Khi thấy đức vua buồn nên bà hỏi:
Tâu Ðại vương tại sao Ngài buồn bực nằm trằn trọc
không yên giấc như vậy?
- Hậu không hay biết
gì sao?
- Tâu Ðại vương, thần
thiếp có biết chuyện gì đâu!
Ðức vua liền thuật lại
những việc làm trong khi bố thí cho bà nghe.
Hoàng hậu liền tâu:
Xin Hoàng thượng an lòng, đã là đấng chí tôn như Ðại vương,
giàu sang, quyền hành mà lại đi thua dân chúng sao? Bệ hạ
có từng nghe từ cổ chí kim vua có thua dân bao giờ đâu?
Thiếp thần xin lo việc nầy cho Hoàng thượng.
Bà liền nghĩ đến việc
bố thí thế nào mà dân chúng không sao làm nổi. Sự bố
thí của bà nghĩ ấy là ASADISADÀNA có nghĩa là sự bố thí
không có sự bố thí nào so sánh bằng.
Bà liền tâu rằng:
Tâu Ðại vương, xin cho lập một cái trại bằng cây tươi,
lợp bằng lụa. Cái trại ấy có thể ngồi chung quanh được
năm trăm vị Ðại Ðức. Chư Ðại Ðức ngồi quanh cái rạp
ấy. Lịnh Hoàng thượng truyền người làm năm trăm cây lọng
bằng lụa cho đẹp, và chọn năm trăm con tượng trận để
đứng sau lưng chư Ðại Ðức ôm lọng che cho chư Ðại Ðức.
Rồi xuất vàng kho ra làm tám hay mười chiếc thuyền to bằng
vàng để trong rạp lụa ấy. Phải chọn cho thật nhiều vị
Công chúa, Quận chúa, và các vị ái nữ của hoàng thân quốc
thích thật đẹp, chia ra làm nhiều nhóm, nhóm thì đâm giã
những vật thơm, như trầm hay hoa thơm để lấy chất thơm,
kẻ thì đem những chất thơm ấy để vào thuyền to đã
làm bằng vàng trong rạp ấy, người thì múc nước lọc để
vào thuyền vàng, người thì dùng chèo bằng trầm hương khuấy
chất thơm nhóm thì đứng quạt hầu chư Ðại Ðức, người
thì rải nước thơm ở thuyền vàng cho thơm cùng nơi trai
Tăng ấy. Nếu nước và chất thơm ấy đã hết thì có người
đem thêm để vào. Khi Ðại vương làm như vậy tất nhiên
phải thắng vì nhân dân làm gì có tượng đến năm trăm thớt
trong một ngày một buổi được, hơn nữa dân chúng làm sao
có người đẹp như trong hoàng tộc để lo trong việc cúng
dường, còn phải làm thuyền vàng v.v...
Ðức vua lấy làm vui mừng
và khen: Hay lắm, hay lắm! Hậu giúp ta được việc, Hậu là
người cứu tinh của ta. Rồi Ngài lập tức ra lịnh thi
hành ngày cho kịp sự cúng dường ngày mai. Mọi việc đã
xong trước sáng, nhưng chỉ còn thiếu một con tượng đứng
ôm lọng thôi. Ðức vua lấy làm lo nên nói với Hoàng hậu
rằng: Trẫm rất lo là thiếu một con tượng đứng ôm lọng
cho một vị Ðại Ðức.
Bà Hoàng hậu hỏi:
Tâu Ðại vương, vậy trong xứ này thiếu tượng sao?
- Tượng binh của trẫm
nhiều lắm, nhưng chỉ chọn bốn trăm chín mươi chín con
thuần thục có thể phục tùng ngồi ôm lọng được còn
ngoài ra thì còn rất nhiều nhưng toàn là tượng hung hăng bất
phục tùng khi phải ngồi lâu như vậy. Lại còn e nó trông
thấy các vị Ðại Ðức nó giết liền.
- Tâu Ðại vương, thiếp
thần có chỗ để cho tượng dữ ấy đứng hợp với tính
tình của nó.
- Vậy trẫm phải xếp
cho tượng ấy đứng sau vị Ðại Ðức nào?
- Thiếp thần nghĩ nên
để đứng hầu Ngài Ðại Ðức Vô Não.
Ðức vua truyền y theo
lời của Hoàng hậu mà thi hành. Lạ thay khi dẫn tượng đến
ngồi ôm lọng sau đức Vô Não thì tượng ấy trở nên hiền
hơn các tượng khác; tỏ vẻ rất dễ dạy và thuần hơn
bao giờ hết. Dân chúng ai cũng biết tượng ấy là tượng
hung dữ nhứt, khi đứng hầu Ngài Vô Não trở nên hiền
làm mới nghĩ rằng: Tượng hung dữ nầy biết kinh sợ Ngài
Ðại Ðức Vô Não.
Ðức vua cúng dường
những vật thực thật là quí. Sau khi trai Tăng xong, đức
vua mới bạch với đức Thế Tôn rằng: Bạch đức Thế Tôn,
trẫm xin cúng dường tất cả mọi vật đã có trong cuộc lễ
nầy đến Ngài, trừ ra vật nào không hợp pháp. (Ðây đức
vua ngụ ý nói đến những vị Công chúa và thú như tượng,
thì không hợp pháp).
Trong cuộc lễ ấy đức
vua tiêu hết mười bốn kinh đồng vàng. Những vật vô giá
là lọng, bảo tọa của Phật như làm bằng vàng nạm ngọc,
của chư Tăng làm bằng vàng, ghế kê chân để bước lên bảo
tọa cũng bằng vàng chạm trổ tinh vi, những món ấy đều
dâng đến đức Thế Tôn.
Thật ra trong một đời
của một vị Chánh đẳng Chánh giác chỉ có một lần bố
thí như vậy thôi, vì sự cúng dường nầy không ai làm được
lần thứ nhì. Nên có tên là Asadisadàna có nghĩa là sự bố
thí không có sự bố thí nào sánh bằng.
Trong cuộc bố thí ấy
có hai vị đại thần một vị tên là Kala và một tên là
Junha có hai ý nghĩ khác nhau. Ông Kalà nghĩ: Hoàng gia sẽ đi
tới chỗ bần cùng, một ngày xài hết mười bốn kinh đồng
vàng như thế nầy làm sao chịu nổi, cho các Tỳ khưu nầy
ăn no xong về chùa ngủ, chỉ hại là ngân khố hoàng gia bị
khánh kiệt.
Còn ông Junha nghĩ: Thật
ra, đức vua là người nên tán thưởng ca tụng, vì tất cả
các vị Ðế vương không có vị nào có thể cúng dường trọng
thể như Ngài được. Ðức vua không hồi hướng phước báu
cho chúng sanh, nhưng ta nguyện xin chia phần phước báu ấy.
Sau khi cúng dường
xong; đức vua liền lãnh lấy bát của đức Thế Tôn tỏ ý
đợi lời cầu chúc của đức Phật.
Ðức Thế Tôn nghĩ: Ðức
vua bố thí rất là trọng thể, ví như người khai thông một
thác nước vĩ đại. Vậy trong hàng đại chúng có trong sạch
với cuộc lễ nầy chăng? Ðức Thế Tôn mới thấy hai ý
nghĩa của hai vị đại thần, Ngài nghĩ tiếp: Nếu ta chúc
tụng cuộc lễ nầy thật xứng đáng thì ông Kàla lại tức
giận vì ghen hờn mà chết, còn Junha sẽ đắc Tu-đà-hườn
quả. Vì lòng thương hại ông đại thần Kàla nên Ngài chỉ
cầu chúc sơ một câu kệ rồi ra về.
Khi về chùa tất cả
các vị Tỳ khưu còn phàm hỏi Ðại Ðức Vô Não rằng: Nầy
ông Vô Não, khi ông trông thấy tượng hung dữ đứng sau
lưng ôm cây lọng ông không sợ sao?
- Không!
Các thầy Tỳ khưu ấy
mới vào hầu Phật và bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn,
ông Vô Não tỏ ra khoe mình là bực cao nhơn.
Ðức Thế Tôn dạy; Nầy
các thầy Tỳ khưu, sự thật Vô Não không hề khiếp sợ bởi
vì Tỳ khưu là con của Như Lai như bò chúa ở giữa đàn
bò, nghĩa là vị Thánh nhơn không bao giờ kinh sợ gì cả.
Ðức Thế Tôn liền thuyết câu kệ: Người can đảm cao quí
đã tìm thấy được đặc ân cao thượng rồi, không rung động
đã giác ngộ, Như Lai gọi là Sa môn.
Nói về đức vua sau
khi đức Thế Tôn ra về lấy làm bực tức vì Ngài nghĩ: Ðức
Thế Tôn không cầu chúc cho xứng đáng với sự cúng dường
của ta giữa hàng đại chúng, Ngài chỉ nói một câu kệ.
Ta sẽ không cúng dường cao quí đến Ngài nữa.
Mặc dầu tức giận nhưng
đức vua cũng vào chùa để hỏi Phật; khi vào đến nơi bạch
hỏi Phật: Bạch đức Thế Tôn trẫm đã cúng dường xứng
đáng và hợp pháp hay không?
Ðức Thế Tôn hiểu tại
sao đức vua hỏi vậy nên hỏi lại: Ðại vương có chuyện
chi chăng?
Ðức vua không đáp
câu hỏi lại nói: Ðức Thế Tôn không cầu chúc cuộc lễ
của trẫm giữa hàng đại chúng một cách long trọng.
- Ðại vương cúng dường
thật là tuyệt đối long trọng, sự bố thí của Ðại vương
có tên là asadisadàna, sự bố thí nầy một đời của một
đức Chánh đẳng Chánh giác chỉ có được một lần mà
thôi, sự bố thí như thế chỉ có một người làm được
mà thôi.
- Bạch đức Thế Tôn,
nếu vậy vì nguyên nhân nào đức Thế Tôn không cầu chúc
cho long trọng cho xứng với lòng kính thành và lễ vật
cúng dường của trẫm?
- Như Lai xem lại thấy
bộ thuộc của Ðại vương không trong sạch.
- Bạch đức Thế Tôn
sự không trong sạch ấy như thế nào?
Ðức Thế Tôn liền
thuật lại tâm của vị Ðại thần tên Kàla cho đức vua
nghe. Rồi Ngài tỏ cho đức vua biết vì lòng Từ bi nên
Ngài không muốn làm hại nhân mạng của một chúng sanh,
thà là để đức vua bất bình đến vấn nạn Ngài.
Ðức vua nghe vậy cả
giận mới gọi ông Ðại thần tên Kàla đến hỏi: Nầy Kàla
ngươi có suy nghĩ như thế không?
- Tâu Ðại vương có
như vậy.
- Trong khi trẫm cùng
Hoàng hậu, Hoàng tử, Công chúa và cả quyến thuộc của trẫm
không hề lấy của khanh ra bố thí, nghĩa là trẫm không hề
bắt buộc khanh phải làm theo trẫm. Vậy nay, vật nào trẫm
đã ban thưởng cho khanh, khanh được quyền mang những vật
ấy ra đi khỏi x? của trẫm ngay bây giờ.
Ðức vua hạ chỉ đuổi
ông Kàla ra khỏi xứ rồi Ngài liền dạy gọi ông Junha đến
hỏi: Khanh có nghĩ như vậy chăng?
- Tâu Ðại vương có
như vậy thật.
Ðức vua liền dạy:
Lành thay, thiện thay, trẫm lấy làm trong sạch với khanh, trẫm
thưởng khanh được quyền thay trẫm trị dân trong bảy
ngày, được quyền xuất công khố hoàng gia ra làm việc thiện
mà khanh muốn làm.
Rồi đức vua bạch Phật:
Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài hãy nhìn coi việc làm của kẻ
tối mê. Trẫm làm phước như thế nầy mà dám chỉ trích
trẫm.
Ðức Thế Tôn dạy:
Ðúng vậy Ðại vương, lẽ cố nhiên người ngu dốt không
hoan nghênh thỏa thích sự bố thí của kẻ khác, người ấy
chỉ có một con đường đi là vào ác đạo ngày vị lai.
Còn bực trí thức thì hằng hưởng ứng thoả thích với sự
bố thí và tất cả các việc thiện mà người khác làm, người
ấy chắc chắn được sanh về thiên đàng.
Ðức Thế Tôn liền dạy
câu kệ:
NA VE KADA RIYA DEVALOKAM
DANAM
BALAHAVE NAPPA SSANTI DANAM
DHIRO CADANAM ANUMODAMANO.
TENEVA SO HOTI SUKHI PA RATTHA
Nghĩa là: Người bỏn
xẻn không thể đến thiên đàng được, kẻ ngu dốt không
thể ca tụng sự bố thí, chỉ có bực trí thức thỏa
thích hưởng ứng sự bố thí, vì vậy các vị ấy có sự
an vui trong ngày vị lai.
Sau khi dứt thời pháp
ông Ðại thần Junha đắc Tu-đà-huờn quả và thời pháp cũng
đem lại rất nhiều hữu ích cho hàng đại chúng. Ông Ðại
thần Junha được làm vua bảy ngày vì quả của sự thoả
thích trong sự bố thí của người khác.
CHUYỆN
ÔNG GARAHADINNA
Tại thành Thất La Phiệt
có hai người bạn rất thân nhau là ông Sirigutta và
Garahadinna. Hai người theo hai tôn giáo khác nhau, ông Sirigutta
là người thiện nam trong Phật giáo. Còn ông Garahadinna là
tín đồ của ngoại đạo gọi là Nigraítha .
Bọn Nigraítha bảo đệ
tử là ông Garahadinna rằng: Người nên bảo bạn của người
là Sirigutta rằng: Bạn hằng đến hầu ông Sa môn Cồ đàm
làm gì, bạn có được lợi ích gì nơi ông ta chăng? Ngươi
hãy cố gắng làm sao cho Sirigutta vào với bọn chúng ta,
cúng dường cho chúng ta.
Ông Garahadinna nghe lời
bọn ngoại đạo, nên thường khuyên bạn là ông Sirigutta
hãy vào hầu và dâng cúng bọn ngoại đạo mãi, bất luận
gặp nơi nào, đứng ngồi nơi đâu cũng nói bấy nhiêu ấy
thôi. Ông thường nói: Bạn Sirigutta ơi, bạn hằng vào hầu
ông Sa môn Cồ đàm, vậy bạn hãy thử vào hầu thầy chúng
tôi một phen coi, bạn cúng dường cho Ngài bạn sẽ được
phước báu cao thượng có phải là quí hơn không?
Phàm một người thiện
nam đứng đắn thật không thể nào tin tưởng ngoại đạo
được và cũng chẳng thích nghe lời ca tụng của ngoại đạo
nhưng vì tình bạn buộc lòng phải nghe lời ấy mãi mãi cũng
đâm ra chán tai, ông nghĩ rất nhiều về vấn đề bạn hằng
kêu gọi, ngày nọ ông không còn chịu nổi nữa nên nói: Bạn
Garahadinna ơi, hằng ngày bạn gặp tôi không nói gì hơn chỉ
có bấy nhiêu đây hoài. Vậy xin bạn cho tôi biết: Quí vị
Ðại Ðức thầy của bạn thông hiểu những gì?
- Ô trời ơi! Bạn đừng
nói vậy chớ, những gì mà thầy tôi không biết thật là
không có. Thầy tôi thông thấu quá khứ, hiện tại và vị
lai, hiểu rõ sự hành động của thân, khẩu, ý, biết chuyện
nên làm hay không nên làm, hoặc chuyện sẽ xảy đến hay không?
- Bạn ơi! Nếu thật vậy
tại sao bạn không bảo cho tôi biết từ trước thật bạn
quấy lắm. Vậy tôi sẽ biết tuệ giác của thầy bạn
trong ngày mai. Vậy xin bạn thỉnh thầy bạn đến thọ thực
nơi tư gia của tôi ngày mai nầy.
Ông Garahadinna lật đật
đến chùa Nigraítha làm lễ xong mới nói, bạn tôi là
Sirigutta xin kính thỉnh quí Ngài đến thọ thực nơi nhà bạn
tôi sáng mai.
Bọn Nigraítha lấy làm
vui mừng hỏi: Có thật Sirigutta nói với người như vậy không?
- Thưa quí Ngài, thật
đúng như vậy.
Phận sự của ngươi
đã kết quả mỹ mãn, kể từ khi mà Sirigutta trong sạch với
chúng ta thì gọi là chúng ta được tài lợi vĩ đại rồi.
Ông Sirigutta là Trưởng
giả nên nhà rất to rộng. Khi ông về nhà dạy người đào
một con đường giữa nhà móc đất ra làm một cái hầm to,
mới đem sình non trộn phân đổ vào hầm ấy, dưới hầm có
đóng nọc cột dây, trên nọc ấy lót ván trải nệm gấm
thật sang, chưng dọn đủ các vật thật xứng đáng một cuộc
lễ long trọng. Không ai có thể biết dưới ấy là một hầm
phẩn vĩ đại. Trên miệng hầm leo lên lót lá chuối thật
trơn, ông bảo người nhà rằng: Khi nào bọn ngoại đạo ngồi,
ông ra dấu lập tức kéo dây cho những cây nọc ấy ngã xuống
những tấm ván ấy rớt ra, bọn ngoại đạo bị mất thăng
bằng phải bị rớt xuống hầm phẩn thay vì ngồi trên đệm
gấm.
Khi chuẩn bị chu đáo
thì cũng vừa lúc ông Garahadinna đến hỏi ông Sirigutta rằng:
Bạn đã chuẩn bị xong chưa?
Ông Sirigutta nói: Ðây
bạn hãy xem tôi đã chuẩn bị như vầy đã xong rồi đây.
- Vậy vật cúng dường đâu không thấy?
Ông Sirigutta liền chỉ
những vật đựng đồ cúng dường thật nhiều vật thực
ngon ngọt chẳng thiếu chi. Ông Garahadinna thấy vậy lấy
làm vừa lòng, trở về đưa năm trăm người ngoại đạo đến
thọ thực.
Ông Sirigutta ra tận
ngõ tiếp đón, đảnh lễ thật là cung kính xong ông phát
nguyện trong tâm rằng: Tôi được nghe bạn tôi bảo rằng:
Quý vị là đấng hiểu thông mọi việc trong tam giới cả
quá khứ ,hiện tại và vị lai? Nếu quý Ngài hiểu rõ những
gì trong nhà tôi thì xin đừng vào. Khi quý vị vào thì
không có vật thực chi hết. Nếu quý vị không hiểu thông
mà vào thì tôi sẽ làm cho quý vị rơi vào hầm phẩn. Phát
nguyện xong, ông liền đứng dậy tránh đường cho những
ông ngoại đạo vào, đồng thời ông cũng ra dấu cho người
nhà biết để giựt dây. Khi đến nơi trải đệm gấm bọn
ngoại đạo biết đây là chỗ của mình liền ngồi xuống.
Người nhà ông
Sirigutta nói: Xin quý Ngài khoan ngồi.
- Tại sao?
- Thưa quí Ngài đợi
chư vị vào hết đồng ngồi xuống một lượt đây là
phong tục của nhà nầy như thế.
- Ngươi nói phải.
Khi đã vào đủ mặt
người nhà ông Sirigutta nói: Xin quí vị đồng an tọa. Khi các
người ấy an tọa xong người nhà ông Sirigutta liền kéo
dây làm cho những cây nọc đỡ ván ngã; những tấm ván rơi
ra, các ông ấy mất thăng bằng không thể gượng được nên
té vọng đầu xuống hầm phẩn to. Ông Sirigutta liền lại
đống các cửa hết, và người nhà cầm roi đứng nơi miệng
hầm chỗ các ông ấy leo lên quất cho thật đau. Ðã bị rơi
trong hầm phẩn, khi leo lên bị lá chuối trơn mà còn bị người
cầm roi đợi đánh thật là một chuyện chưa hề có bao giờ,
các vị ấy lấy làm hổ thẹn. Khi ông Sirigutta thấy đánh
nhiều rồi ông cho mở cửa các ông ấy lật đật chạy về
chùa.
Khi xong việc bọn ngoại
đạo đến nhà ông Garahadinna than trách ông rằng: Ông đã
làm một chuyện thật khổ cho chúng tôi. Xong bọn chúng mới
thuật lại những gì đã xảy ra.
Ông Garahadinna lấy làm
tức giận vì nghĩ rằng: Sirigutta làm cho ta xấu hổ vô
cùng để người nhà đánh chư Ðại Ðức của ta, các Ngài
là phước điền của ta mà làm vậy thật đáng giận.
Ông liền đội cáo trạng
vào tận nhà vua kêu oan vì việc làm tai hại của ông
Sirigutta , yêu cầu đức vua phải trừng phạt Sirigutta cho xứng
tội. Ðức vua liền cho đòi Sirigutta vào chầu hỏi cho rõ
nguyên nhân vì sao làm như vậy.
Ông Sirigutta vào chầu
và tâu rằng: Tâu Ðại vương khi Ngài chưa rõ câu chuyện
không nên phạt tôi.
- Không, ta phải xét
rõ mới định tội.
- Tâu Ðại vương, vậy
xin Ðại vương cứ hỏi.
- Vậy ngươi hãy khai
những gì người đã làm và tại sao người hành động như
vậy?
- Tâu Ðại vương, bạn
tôi là Garahadinna, hằng bảo tôi rằng: Bạn ơi, v.v... (ông
thuật lại những gì mà ông Garahadinna đã nói). Khi ông thuật
xong liền tâu rằng: Tâu Ðại vương, nếu Ðại vương thấy
tôi quấy thì tùy Ngài phạt, tôi không dám trái lịnh.
Ðức vua liền hỏi
tiên cáo là ông Garahadinnna rằng: Theo lời khai của Sirigutta
có đúng vậy không?
Garahadinna tâu: Tâu Ðại
vương, sự thật là vậy.
Ðức vua liền phán: Ngươi
sùng bái Nigraítha là người không thông hiểu như lời người
nói, lại đi dối gạt người là đệ tử của đức Chánh
đẳng Chánh giác rằng: Thầy của ngươi lão thông mọi sự
việc. Ðây vì lời nói của ngươi làm hại ngươi chỉ có
người là người đáng bị phạt thôi, còn Sirigutta vô tội.
Ông Garahadinna càng tức
giận hơn, nên từ ấy đi hai người không hề gần nhau nữa.
Chừng một tháng sau Garahadinna mới nghĩ: Nếu ta giận
Sirigutta như vậy hoài thì có ích lợi chi cho ta, ta phải trả
thù làm hại những thầy Tỳ khưu hằng đến thọ thực tại
nhà Sirigutta. Nghĩ vậy nên Garahadinna mới đến nhà bạn giả
lả và nói rằng: Lẽ cố nhiên, sự cãi vã nhau, gây gổ
nhau giữa bạn bè và quyến thuộc là sự thường. Tại sao
bạn lại không chuyện trò với tôi?
- Bạn ơi, sở dĩ tôi
không trò chuyện với bạn, vì bạn không chơi với tôi. Vậy
việc gì đã qua ta nên để nó qua đi. Chúng ta không nên để
mất tình bạn.
Kể từ ngày ấy đi,
hai người chơi thân với nhau như xưa. Ngày nọ Sirigutta bảo
Garahadinna rằng: Bạn gần với bọn Nigrantha ấy đem lợi
ích gì lại cho bạn? Bạn vào hầu đức Thế Tôn, hoặc
cúng dường đến Ngài không lợi ích hơn hay sao?
Ðược nghe lời ấy
dường như gãi đúng vào chỗ ngứa, nên Garahadinna hỏi: Vậy
Thế Tôn của bạn hiểu những gì?
- Bạn chẳng nên hỏi
câu ấy, không có gì trong tam giới mà đức Thế Tôn của
tôi không thông hiểu. Ngài thông hiểu tất cả những nhân
của quả khác nhau, hiểu rõ tâm của chúng sanh có bao nhiêu
nhịp.
- Vậy mà tôi không hề
hay biết chi hết, tại sao từ trước đến nay bạn không bảo
cho tôi biết. Vậy xin thỉnh đức Thế Tôn đến thọ thực
tại nhà tôi ngày mai nầy.
Ôg Sirigutta vào hầu Phật
và bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, Garahadinna là bạn
của đệ tử, yêu cầu đệ tử thỉnh cầu đức Thế Tôn
và chư Ðại Ðức đến thọ thực ở nhà y ngày mai nầy.
Nhưng trước đây đệ tử có xử tệ với bọn ngoại đạo
Nigraítha (xong ông thuật lại những gì ông đã làm). Ðệ tử
không biết rằng: Garahadinna có trả cái hận mà đệ tử đã
làm rồi chăng? Nếu Garahadinna cúng dường đến đức Thế
Tôn bằng lòng trong sạch hay không, tùy theo đức Thế Tôn
thông hiểu và nhận lời hay không?
Ðức Thế Tôn dùng tuệ
giác quan sát thấy rằng: Garahadinna đào hầm sâu giữa nhà,
trong đốt tám chục xe gỗ to thành than, đợi khi nào đức
Thế Tôn và chư Tăng đứng trên sàn sẽ giựt dây cho sàn sập.
Ðức Phật và chư Tăng rớt ngay vào hầm than đỏ. Ngài mới
nghĩ thêm rằng: Khi ta đến nơi ấy ta sẽ đứng trên ngọn
lửa hồng đang cháy dữ, những tấm ván ấy sẽ biến mất
và hoa sen trong lửa đỏ hiện ra đỡ dưới chân Như Lai và
các vị Tỳ khưu theo hầu Như Lai cũng đồng một thể, khi
ấy Như Lai và chư Tăng cùng ngồi trên hoa sen nơi mà
Garahadinna định là chỗ Như Lai ngự. Ðức Thế Tôn nhứt
định làm như vậy nên Ngài nhận lời.
Sirigutta về cho bạn
hay rằng: Ðức Thế Tôn đã nhận lời. Ông Garahadinna cũng
làm in như ông Sirigutta thay vì để sình và phẩn ông lại
cho đốt tám chục xe củi to. Ông ta tự nhủ: Ta sẽ cho
Sirigutta thấy quả của việc làm của y.
Sáng sớm ông Sirigutta
đến nhà bạn và hỏi: Bạn đã chuẩn bị xong hết chưa?
- Ô, hoàn toàn lắm bạn
ơi.
Rồi ông dẫn ông
Sirigutta đi coi chỗ dọn đồ ăn đủ thứ, nhưng trong những
đồ vật ấy không có đồ ăn gì hết.
Sirigutta thấy sự chuẩn
bị của bạn thật là chu đáo, ông rất hài lòng nên nói:
Lành thay, thiện thay.
Thường khi, người
trong thời ấy nghe đức Thế Tôn ngự đến nơi nào thuộc
phạm vi của ngoại đạo thì cả dân chúng không phải tín
đồ cũng đến nơi ấy, vì họ muốn thấy sự thắng bại
của hai bên. Còn tín đồ đến nơi ấy vì muốn thấy đức
Thế Tôn giáo hóa ngoại đạo và nghe pháp luôn.
Sáng ngày, đức Thế Tôn
cùng năm trăm vị Ðại Ðức ngự đến nhà của Garahadinna.
Ông Garahadinna ra tận nơi cổng đón tiếp đức Thế Tôn và
đảnh lễ, rồi cũng phát nguyện y như ông Sirigutta đã
làm.
Ðức Thế Tôn biết
rõ, nhưng Ngài vẫn ngự vào như thường. Ông Garahadinna
nói: Xin thỉnh Ngài đi vào ngã nầy. Bạch đức Thế Tôn,
khi Ngài vào nhà tôi xin Ngài nên biết thể lệ theo gia đình
tôi.
Ðức Thế Tôn hỏi: Vậy
Như Lai phải làm sao?
- Phải đợi tất cả
các vị ấy đồng vào một lượt. Thâm tâm của Garahadinna
sợ vào từng vị một thì sẽ biết cơ mưu và chỉ rớt
vào hầm một ít vị thôi.
- Thiện thay, thiện
thay.
Rồi đức Thế Tôn
cùng chư Tăng ngự vào. Khi vừa đến hầm lửa thì ông
Garahadinna lại trở ra và nói: Xin Ngài tự tiện ngự vào nơi
ấy.
Khi đức Thế Tôn để
chân lên hầm lửa thì tấm ván ấy tiêu mất và trong hầm
lửa đang cháy rực rỡ ấy mọc lên một cái hoa sen thật
to đỡ chân đức Thế Tôn, Ngài ngự đi trên hoa sen đến
nơi Ngài ngự. Năm trăm vị Ðại Ðức cũng đồng một thể
như Phật.
Khi ấy ông Garahadinna
thấy vậy kinh sợ vô cùng, ông cảm thấy chính ông đang bị
lửa thiêu đốt nóng nảy vô cùng. Ông liền chạy đến nhà
của ông Sirigutta nói: Bạn ơi, xin Ngài làm phước cứu tôi
với (vì kinh sợ quá kêu bạn là Ngài).
Ông Sirigutta hỏi: Có
chuyện chi vậy bạn?
- Trong nhà tôi không
có món vật thực chi để cúng dường đến Phật bảo và Tăng
bảo hết. Bây giờ làm sao đây?
- Vậy hôm qua nay bạn
làm những gì?
- Tôi bảo người đào
hầm đốt tám chục xe củi để đốt đức Phật và chư
Tăng. Hoa sen thật to trong lửa hồng mọc lên đỡ chân các
Ngài vào ngồi nơi trai Tăng. Giờ tôi phải làm sao đây?
- Hồi sáng bạn có chỉ
cho tôi thấy nầy là vật thực cúng dường đã có đủ hết
rồi không phải sao?
- Ðó toàn là đồ để
gạt bạn thôi.
- Thôi vậy cũng chẳng
sao, bạn hãy về xem lại trong những đồ mà bạn chỉ tôi
ban sáng nói: Ðây là nồi cháo, nọ nồi cơm v.v... thì bạn
sẽ thấy những gì bạn cho tôi biết buổi mai giờ có đủ
hết.
Ông Garahadinna lật đật
về giỡ nấp nồi và chén v.v... mà ông chưng để gạt ông
Sirigutta ban sáng thì thấy có đầy những vật thực.
Ông Garahadinna thấy
chuyện phi thường như vậy lấy làm lạ và sự trông sạch
với Phật bảo và Tăng bảo phát sanh rất mạnh; làm cho
ông nhẹ cả người hình như sắp bay bổng lên không trung.
Ông liền lo việc cúng
dường đến đức Thế Tôn và chư Tăng với tất cả tấm
lòng trong sạch và kính thành chưa bao giờ có trong tâm ông.
Sau khi thọ thực xong
đức Thế Tôn thuyết chúng sanh nào không rõ được công đức
của đệ tử của Như Lai và ân đức Phật pháp, vì thiếu
tuệ nhãn, người mà thiếu tuệ nhãn gọi là kẻ mù. Người
có trí tuệ gọi là người sáng mắt.
Ðức Thế Tôn thuyết
câu kệ:
YATHÀ SANKARADHANASMIN
UJJHITASMIN MAHAPATHE
PADUMAN TATTHE JÀYETHA
SUCIGANDHAN MANORAMAM
EVAM SANKÀRA BHƯTESU.
ANDHABHƯTE PATHUJJANO
ATIROCATI PANNÀYA
SAMMÀSAMBUDDHA SÀVAKO.
Nghĩa: Hoa sen có mùi thơm
sanh trong đống rác dơ ở bên vệ đường. Những hoa sen ấy,
vẫn được người yêu chuộng. Cũng như những phạm nhơn là
đống bùn nhơ, đệ tử Như Lai huy hoàng giữa đám phàm nhơn
là người thiếu trí tuệ.
CHÚ GIẢI: Ðại ý câu
kệ nầy đức Thế Tôn dạy: Hoa sen sanh trong bùn nhưng chẳng
hôi tanh mùi bùn. Cũng như chư Thinh Văn đệ tử Phật cũng
là con người có tấm thân bẩn thỉu cấu hợp bởi đất,
nước, gió, lửa, ba mươi hai thể trược, nhưng các Ngài đã
giải thoát vì nhờ có tuệ nhãn, nên không hề làm điều tội
lỗi và vật nhơ của tinh thần, mặc dầu sống trong đời
đầy sự ô trược là tội lỗi nhưng tâm rất là trong sạch
không bợn nhơ phiền não.
Sau khi dứt thời pháp
hai ông Sirigutta và Garahadinna đều đắc Tu-đà-hườn quả và
cũng có rất nhiều người được đắc quả Thánh.
VIDUDABHA
TRU DIỆT DÒNG THÍCH CA
Ngày nọ, đức vua Ba
Tư Nặc ngự trên lầu trong hoàng cung ngó ra đường trông
thấy chư Tỳ khưu đi đến nhà của ông Trưởng giả Cấp
Cô Ðộc, nhà bà Visàkhà , nhà bà Suppavàsà để thọ thực.
Ngài hỏi quan hầu rằng: Chư Ðại Ðức đi đâu nhiều như
vậy?
Quan hầu tâu: Tâu Ðại
vương, mỗi ngày ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc có thỉnh
hai ngàn vị Tỳ khưu về nhà cúng dường, năm trăm vị về
nhà ông Cula Anàthapindika , năm trăm vị về nhà bà Visàkhà
, còn năm trăm vị về nhà bà Suppavàsà. Những nhà ấy trai
Tăng như vậy hằng ngày.
Ðức vua nghe vậy phát
tâm trong sạch với sự cúng dường của các nhà ấy, nên
Ngài liền vào Kỳ Viên tịnh xá hầu Phật và xin thỉnh đức
Thế Tôn và một ngàn vị Tỳ khưu đến hoàng cung đ? tự
tay Ngài cúng dường trót bảy ngày. Ðến ngày thứ bảy, đức
vua bạch với đức Thế Tôn rằng: Trẫm cầu xin đức Thế
Tôn và năm trăm vị Ðại Ðức đến thọ thực nơi hoàng
cung của trẫm hằng ngày.
Ðức Phật dạy: Tâu
Ðại vương, vì theo lệ thường của một đấng Chánh đ?ng
Chánh giác không bao giờ lãnh thọ thực vật cúng dường một
nơi nào mãi mãi được. Vì rất có nhiều người mong ước
đức Phật ngự đến nhà.
- Nếu vậy, xin đức
Thế Tôn giao phận sự ấy cho một vị Ðại Ðức nào đến
đây thọ thực cũng được.
Ðức Thế Tôn giao phận
sự ấy lại cho Ðại đức Ananda. Vì vô ý nên đức vua không
truyền cho người trong hoàng cung phải lo vật thực, trải
chỗ ngồi để tiếp rước chư Tăng. Vì lẽ ấy nên đến
ngày thứ tám là sự tiếp rước chư Tăng đã trở nên bê
trễ, vì người trong hoàng cung không ai chịu khó thi hành
nhiệm vụ khi không có lịnh vua, nói tóm lại phần lớn
toàn là những bọn lười biếng vô trách nhiệm.
Vì lẽ ấy nên chư
Tăng đến thọ thực nơi hoàng cung càng ngày càng giảm xuống,
vì các Ngài không muốn vì miếng ăn mà phải bị trễ nải
tu hành của mình. Các Ngài liền lần lần đi nơi khác khất
thực. Ðến khi đức vua nhớ lại sự trai Tăng của Ngài,
Ngài liền trở lại chỗ ấy thì chỉ còn vỏn vẹn có một
mình Ðại Ðức Ananda thôi. Sở dĩ mà Ðại Ðức Ananda còn
đến là vì Ngài là bực có đào tạo rất nhiều Ba la mật
nên Ngài còn rán để giữ đức tin của thí chủ thôi.
Ngài không nản chí ngã lòng mặc dầu Ngài không được
người nơi ấy đối đãi nhã nhặn. Ngài phải đứng chờ
thật lâu mới có một chỗ ngồi và đợi rất lâu mới có
vật thực cúng dường. Khi đức vua nhớ đến và đến nơi
ấy thì chỉ còn có một mình Ðại đức Ananda ngồi nơi
ấy thôi.
Khi đức vua thấy có một
mình Ðại Ðức liền tức giận hỏi: Chư Ðại đức không
đến sao?
Có người đáp: Tâu Ðại
vương, chỉ có một mình Ðại Ðức Ananda đến mà thôi.
Ngài lấy làm buồn phiền
vì nghĩ rằng: Các vị Tỳ khưu bỏ không đến thọ thực
như vậy thật là bất phải. Ngài liền đi thẳng vào Kỳ
Viên tịnh xá bạch hỏi Phật: "Bạch đức Thế Tôn, trẫm
có chuẩn bị vật thực đúng năm trăm khẩu phần để dâng
cúng cho chư Tỳ khưu, nhưng chỉ có một mình Ðại Ðức
Ananda đến thọ thực thôi. Năm trăm vị Tỳ khưu mà trẫm
thỉnh ấy không đến thọ thực theo lời thỉnh cầu của
trẫm. Vậy không biết vì lẽ gì?
Ðức Thế Tôn không
nói gì đến cái quấy của chư Tăng mà cũng chẳng nói gì
về việc bê trễ của người trong hoàng cung, Ngài chỉ dạy:
Vì lẽ đệ tử của Như Lai không được thân thiện với
Ðại vương nhiều, nên không đến. Khi ấy đức Thế Tôn dạy
nhân của chư Tăng không đến. Rồi đức Thế Tôn nhóm chư
Tỳ khưu lại dạy rằng:
- Nầy các thầy Tỳ khưu,
gia đình nào có chín điều các thầy Tỳ khưu chưa đến không
nên đến. Nếu vị nào đã thường đến với gia đình ấy
không nên ngồi gần. (Ý nói không nên đến thường hay chẳng
nên đến).
Chín điều ấy là:
1/ Người chủ nhà
không đứng dậy tiếp rước niềm nỡ.
2/ Không lễ bái bằng cách cung kính.
3/ Không cho chỗ ngồi bằng cách vui vẻ.
4/ Che giấu những vật đã có.
5/ Khi có nhiều nhưng cho rất ít.
6/ Có đồ ngon cho đồ dở.
7/ Cho bằng cách không cung kính.
8/ Không đến gần để nghe pháp.
9/ Khi đang thuyết pháp giảng đạo tỏ vẻ không hài
lòng.
Nầy các thầy Tỳ khưu
gia đình nào có chín điều kể trên. Vị Tỳ khưu nào chưa
đến gần đừng nên đến gần. Nếu đã đến gần rồi chẳng
nên ngồi gần.
Nầy các thầy Tỳ khưu
gia đình nào có chín điều các thầy Tỳ khưu chưa đến gần
nên đến gần, nếu đã thân cận rồi nên thân cận hơn,
chín điều ấy là chi? Chín điều ấy là: (Xin miễn kể ra
đây xin quý vị hiểu trái với chín điều kể trên).
Tâu Ðại vương, đệ
tử của Như Lai không thân cận với hoàng cung vì vậy nên
không đến.
Ðức vua liền nghĩ: Vậy
ta phải làm sao để ra người thân với các thầy Tỳ khưu?
Chỉ có phương pháp là cưới con gái dòng Thích Ca về phong
làm Hoàng hậu. Như vậy thì các thầy Tỳ khưu trẻ tuổi và
Sa di sẽ là người thân của ta. Vì nghĩ muốn làm quyến
thuộc với Phật nên Ngài đưa sứ thần đến xin cầu hôn
với dòng Thích Ca. Ngài còn dặn sứ thần rằng: Phải hỏi
kỹ coi có phải là công chúa không và là con của ai?
Khi sứ thần xứ Thất
La Phiệt đến xin cầu hôn. Dòng Thích Ca liền họp lại
bàn rằng: Nếu ta không bằng lòng thì chỉ chuốc lấy tai hại
cho ta, nhưng trong vũ trụ nầy không ai có dòng trong sạch
và cao quí như dòng Thích Ca của chúng ta. Vậy chúng ta phải
làm sao đây?
Ông Mahànama có ý kiến:
Tôi có một người con gái con của một phi tần tên là
Vàsabhàkhattiyà, con gái ấy đẹp tuyệt đối, nết hạnh lại
rất đoan trang. Chúng ta sẽ gả nàng cho vua Ba Tư Nặc.
Dòng Thích Ca đều tán
thành ý kiến ấy.
Vị sứ thần hỏi: Vị
công chúa ấy con của vị nào trong dòng Thích Ca?
- Vị Công chúa ấy là
cháu nội của chú đức Thế Tôn tên là nàng
Vàsabhàkhattiyà .
Vị sứ thần liền về
trình những gì đã biết cho đức vua Ba Tư Nặc nghe.
Ðức vua dạy: Ðược
vậy càng hay, nhưng xin quý vị nên quan tâm vì dòng Thích Ca
có tiếng là khôn ngoan có thể trao con của một tỳ nữ cho
ta cũng nên. Vậy nên coi cô ta có từng ẩm thực cùng mâm với
cha cô không?
Các vị sứ thần trở
lại rước dâu, nhưng trước khi rước dâu tâu với đức
vua Mahànàma rằng: Hoàng thượng chúng tôi muốn được chứng
kiến trong khi Hoàng thượng và Công chúa cùng ẩm thực.
Ðức vua Mahànàma đáp:
Ðược chớ có sao. Rồi truyền trang điểm cho Công chúa thật
đẹp và truyền đòi đến cùng ẩm thực với Ngài.
Các vị sứ thần xứ
Savatthi thấy vậy nên tin chắc là con của đức vua Mahànàma
, nên làm lễ rước lịnh bà về rất là long trọng. Khi đức
vua trông thấy mặt công chúa Thích Ca lấy làm đẹp dạ, nên
liền truyền làm lễ phong chức Chánh cung vô cùng trọng thể.
Không lâu lịnh bà hạ sanh được một vị Hoàng nam. Ðến
ngày đặt tên đức vua cho một vị Ðại thần vào tâu với
Hoàng thái hậu rằng: Ðức vua đã có được một vị Hoàng
tử. Vậy lịnh bà Hoàng thái hậu và quyến thuộc muốn đặt
tên chi?
Vị Ðại thần vào
tâu hỏi chuyện ấy lại là một vị quan già và hơi nặng
tai. Khi Hoàng thái hậu được biết tin ấy bà liền phán rằng:
Nàng Vàsabhàkhattiyà , khi chưa có con là một vị Hoàng phi
được vua sủng ái hơn hết, phương chi hôm nay lại hạ
sanh được một vị Hoàng Nam thì càng làm cho đức vua quý
mến hơn lên không biết sao kể xiết.
Ðã lãng tai mà lại
không dám hỏi lại cho kỹ khi mà nghe không rõ. Vì lẽ kính
nể Hoàng thái hậu, ông nghe tiếng Vàsabhàkhattiyà ấy
thành ra Vidudabha. Nên vào tâu rằng: Hoàng thái hậu đặt tên
Thái tử là Vidudabha .
Ðức vua lấy làm lạ
nhưng cũng chẳng hỏi lại vì Ngài nghĩ: Chắc đây là họ
xưa của gia đình ta. Nên Ngài làm lễ đặt tên là
Vidudabha. Ðức vua rất cưng yêu Thái tử, nên khi còn là trẻ
con mà phong cho chức Soái. Vì Ngài nghĩ rằng: Làm như vậy
chắc đức Thế Tôn rất hài lòng.
Ðến bảy tuổi Thái tử
thấy các vị Hoàng tử hay các con vị hoàng thân khác có đồ
chơi nào là hình tượng, ngựa v.v... ở bên nội hay bên ngoại
gởi đến cho ,còn chính ông thì không thấy bên ngoại gởi
gì đến cho. Nên mới hỏi mẹ rằng: Mẫu hậu, tại sao những
trẻ con khác không phải con vua như con mà được người ta
gởi đồ biếu còn con thì ngoại con không gởi gì cho con hết
vậy?
Hoàng hậu đáp: Ngoại
con là dòng Thích Ca cao sang vô cùng mà cũng ở rất xa, nên
không gởi gì đến con.
Ðến mười sáu tuổi
Thái tử Vidudabha nói với mẹ nữa rằng: Mẫu hậu con muốn
về quê ngoại. Bà thường khuyên con không nên đi. Nhưng Thái
tử nằn nằn đòi đi, bà không thể nào ngăn được. Nên
phải cho đi, nhưng trước khi đi bà đã viết thư về cho dòng
Thích Ca hay trước.
Sau khi xin phép Phụ vương
được, ông liền dẫn theo nhiều quan quân ra đi thật là
oai nghiêm và rất là long trọng.
Nói về dòng Thích Ca
khi được thơ của bà Vàsabhàkhàttiya liền hội nhau lại
bàn rằng: Trong dòng Hoàng tộc không ai đi lạy Thái tử
Vidudabha được. Vậy phải cho các vị Hoàng tử và Công
chúa nào nhỏ tuổi hơn Thái tử Vidudabha đi ở nơi khác để
lánh mặt không chịu làm lễ con người phi tần.
Khi Thái tử Vidudabha đến
,thành Ca Tỳ La Vệ hội lại nơi nhà tiếp tân tiếp đón
Thái tử rất nồng hậu. Khi ấy có một vị Trưởng lão đứng
ra giới thiệu cho Vidudabha biết rằng đây là ông, bà, bác,
chú, anh chị v.v... Khi người có vai lớn hơn thì Thái tử
phải hành lễ nghiêm trang. Sau khi chào hỏi đủ mọi người
Thái tử lấy làm lạ tại sao không có một người nào làm
lễ mình? Liền hỏi: Không có ai làm lễ tôi sao?
- Con ơi, những em con có
đứa thì phải đi học nơi xa xôi, có đứa phải đi công
tác nơi biên cương, có đứa đi săn bắn chưa về.
Thái tử Vidudabha không
biết nên tin bằng lời; và ở lại chơi tại thành Ca Tỳ
La Vệ một lúc lại ra về. Khi ấy có một cung nhơn dùng sữa
tươi rửa chỗ nằm ngồi của Thái tử Vidudabha và cằn nhằn
rằng: Chỗ nầy là chỗ ngồi của con của phi tần là
Vidudabha mà cũng mất công ta rửa.
Rất rủi là trong khi
ấy có một vị quan hầu của Thái tử bỏ quên cây gươm
nơi ấy nên trở lại mang đi. Vừa khi nghe câu nói ấy, ông
mới hỏi và được biết sự thật do người cung nữ ấy nói.
Ông liền đem chuyện ấy về nói với quan quân theo hầu
nghe. Chuyện ấy trở nên chuyện rất quan trọng. Thái tử
Vidudabha nghe lời ấy lấy làm tức giận nên nói rằng: Ta sẽ
lấy máu nơi cổ của dòng Thích Ca rửa chỗ của họ ngồi
hay đứng; sau khi ta được tức vị thay phụ vương trị dân.
Sau lại đức vua Ba Tư
Nặc nghe được chuyện ấy lấy làm tức giận giáng bà
Vàsabhà từ Chánh hậu xuống hàng tôi đòi. Giáng Thái tử
Vidudabha từ Soái xuống hàng quân nhân mà bị cầm tù.
Ðôi ba ngày sau khi
giáng cấp Hoàng hậu và Thái tử Ðức vua mới vào hầu đức
Thế Tôn và bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, quyến
thuộc của Ngài gả con gái của phi tần cho trẫm. Vì vậy
trẫm giáng nàng và con xuống hạng tôi đòi.
Ðức Thế Tôn không
nói chi về việc giáng hay thưởng. Ngài nói: Tâu Ðại vương,
dòng Thích Ca làm chuyện ấy thật quấy. Nếu đã nhận lời
gả cho Ðại vương thì phải gả một vị Công chúa thật mới
xứng đáng. Ðại vương, Như Lai xin bảo cho Ðại vương hiểu
rõ điều nầy rằng: Nàng Vàsabhàkhattiya là con gái của đức
vua Mahànàma và đã chánh thức làm lễ sính hôn với Ðại
vương trước công chúng. Thái tử Vidùdabha có là do nơi dòng
máu của Ðại vương. Sự thật họ mẹ không quan trọng mà
chỗ quan trọng là do nơi họ cha. Vì vậy nên khi xưa các vị
minh quân phong Chánh hậu cho một cô gái nghèo đi hái củi về
bán và về sau con của cô ấy lại làm vua tại xứ
Bàrànasì có danh là Katthavàhana .
Ðức vua nghe chuyện
ấy hết tức giận, vì nghĩ rằng: Họ mẹ không quan trọng
bằng họ cha. Ngài liền hạ chiếu tha cho hai mẹ con và được
phục lại chức vụ cũ.
Ðức vua Ba Tư Nặc có
một vị Tướng quốc cũng là bạn đồng môn tên là
Bandula. Ông là người tài ba lỗi lạc có phần hơn cả nhà
vua. Hơn nữa ông là người thanh liêm chánh trực. Vì vậy bọn
gian thần ghét ông vì không thể ăn khoét của dân chúng hay
gian lận của công khố. Dân chúng yêu thương ông như một
ông cha hiền.
Vì ông là người có
nhiều uy tín và dân chúng yêu thương nên bọn tham quan ô lại
oán ghét ông. Nên mới kiếm chuyện tâu với đức vua Ba Tư
Nặc rằng: Ông Tướng quốc ngoài thì lo lấy lòng dân trong
thì lo họp với các quan tính đoạt ngai vàng. Lời ấy lâu
ngày làm cho đức vua tin, vì vậy Ngài định giết Tướng
quốc và các con của Ngài. Ðức vua không dám ra lịnh giết
người vô tội, nên hạ chiếu sai Tướng quốc đem binh dẹp
loạn biên cương, còn một mặt Ngài cho phục binh giữa đường
chờ khi đêm tối xông vào bắt Tướng quốc và các con giết
sạch. Chuyện ấy đã thành công, nhà vua nào biết vì vô
tình đã giết bạn hiền mà cũng là một đại thần tài
danh hơn người. Sau vì biết đã giết lầm người bạn lành
nên đức vua lấy làm ân hận. Truyền trả quan chức lại
và phong thưởng cho vợ Tướng quốc, nhưng bà từ chức và
xin trở về quê vì bà là Công chúa dòng Licchavì xứ
Vesàlì. Ðức vua thấy bà không nhận lời liền giao quyền
ấy cho cháu ông Bandula là Dighakarayana lên làm Tướng quốc.
Mặc dầu được làm Tướng
quốc thế cho bác nhưng lòng vẫn oán thù đức vua và cố
tìm thế hại đức vua cho kỳ được.
Nói về đức vua Ba Tư
Nặc từ khi biết mình giết lầm một đấng công thần và
là bạn cùng thầy thì Ngài lấy làm ân hận không sao kể
xiết, Ngài quên ăn mất ngủ, cả ngày chỉ nhớ bạn xưa;
sức khỏe càng ngày càng kém.
Khi đức Thế Tôn ngự
tại Medalupa tại xứ Saka. Ðức vua Ba Tư Nặc muốn đến yết
kiến đức Thế Tôn, Ngài liền ngự đi bằng cách đại giá
và Ngài đem cả gươm lịnh theo. Khi đến nơi Phật ngự, Ngài
truyền đóng quân lại nơi xa chùa vì Ngài không muốn làm
kinh động đức Thế Tôn và Tăng chúng. Ngài liền cởi đồ
triều phục và gươm cùng ấn lịnh giao cho Tướng quốc còn
Ngài thì vận thường phục vào hầu Phật.
Dịp may hiếm có, Tướng
quốc nhân cơ hội ấy liền trao gươm và ấn lại cho Thái
tử Vidudabha và kéo đại đội quân mã ra về chỉ để lại
con ngựa và một nàng hầu cho nhà vua thôi. Sau khi hầu Phật
ra, đức vua không còn thấy quân đội của mình chỉ còn
có một con ngựa và một nàng hầu. Hỏi nàng hầu mới biết
cớ sự. Ðức vua nghĩ: Thôi ta cũng có phương pháp trị
chúng, ta phải nhờ cháu ta (là đức vua A Xà Thế) bắt
Vidudabha. (Ðức vua A Xà Thế là một nhà vua giỏi về chiến
trận nhứt trong thời ấy, đến đổi đức vua Ba Tư Nặc mấy
lần đem binh vấn tội vẫn phải bị thua). Ðức vua cùng
nàng hầu ra đi về thành Vương Xá, vì đi đường cực khổ
thiếu thốn đủ mọi việc, nắng gió, khi đến cửa thành
Vương Xá thì là cửa thành cũng vừa đóng, nên nhà vua phải
nghỉ ở một cái nhà bên vệ đường thường gọi là Quá
Nhai Ðình. Nhà vua vì mệt nhọc nên lâm bệnh, thăng hà
trong đêm ấy. Sáng ngày nghe tiếng nàng hầu khóc kể: Ðại
vương ơi, Ngài là đấng tối cao giàu sang quyền uy cao cả
mà hôm nay thăng hà nơi cái chòi nhỏ như vầy.
Ðức vua A Xà Thế nghe
tin ấy lật đật đến nơi thỉnh xác vào thành làm lễ hỏa
táng thật là long trọng theo thể lệ của một vị Ðại vương.
Sau khi Thái tử
Vidudabha về thành tức vị xong. Ðiều thứ nhứt mà nhớ đến
là trả mối thù của dòng Thích Ca khinh khi là con người tỳ
nữ. Liền truyền điểm đại đội hùng binh kéo đi đánh sứ
Sakka. Trong tâm định phải tru diệt cho hết sạch dòng
Thích Ca.
Ðồng thời, vua
Vidudabha đem binh đi đánh dòng Thích Ca. Ðức Thế Tôn cũng
biết. Ngài thấy tai nạn vĩ đại phải đến với dòng
Thích Ca. Ngài nghĩ: Ta phải tìm phương cứu vãn tình thế
này, không thì cả đôi bên đều bị tiêu diệt hết.
Sáng ngày hôm ấy đức
Thế Tôn khất thực và thọ thực xong, Ngài dùng thần
thông bay đi, ngự nơi cội cây không có nhánh lá chi hết nơi
ranh giới của hai nước, Ngài ngự bên ranh giới xứ Sakka ,
bên biên giới bên kia cũng có một cây tàng lá sum suê.
Ðức vua Vidudabha ngự
đến biên giới trông thấy đức Thế Tôn nên đến gần đảnh
lễ xong bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn, tại sao Ngài lại
ngự dưới cội cây không có bóng mát trong khi trời nóng oi
ả như thế nầy. Xin thỉnh Ngài ngự dưới cội cây dừng
mé bên kia đường có bóng rất mát.
- Như Lai ngự nơi đây
được rồi. Không có bóng nào mát bằng bóng mát là quyến
thuộc.
Ðức vua Vidudabha nghe vậy
biết ý nói của đức Thế Tôn, liền nghĩ rằng: Sở dĩ mà
đức Thế Tôn ngự đến đây ngồi dưới cội cây không
nhánh lá chi hết là Ngài muốn bảo vệ quyến thuộc. Ðức
vua truyền lịnh thâu quân về thành.
Ðức Thế Tôn cũng ngự
về Kỳ Viên tịnh xá. Ít lâu sau, đức vua Vidudabha lại nhớ
đến chuyện cũ, liền truyền lịnh xuất chinh nữa. Nhưng lần
nầy cũng như lần trước, nên Ngài lại thâu quân về. Lần
thứ ba cũng thâu quân về vì gặp Phật. Nhưng đến lần thứ
tư, đức Thế Tôn trông thấy không nên ngăn đón lại, vì
nghiệp ấy rất là nặng, dòng Thích Ca phải chịu vậy. Vì
dòng Thích Ca đã tạo từ quá khứ là dùng thuốc để thuốc
cả một đầm cá, vì nghiệp ấy nên không thể cản ngăn
được. Vì vậy nên đức Thế Tôn không đến nơi ấy nữa.
Ðức vua Vidudabha liền xua binh đánh vào xứ Sakka và đánh
đến thành Ca Tỳ La Vệ.
Dòng Thích Ca là dòng
có tiếng giỏi về chiến trận và nhiều mưu trí, nhứt là
bắn tên thì không ai bằng, vì bắn đã chuẩn mà tên đi thật
mạnh. Nhưng từ khi đức Thế Tôn thành đạo về giáo hoá
dòng Thích Ca, nên từ khi được thấm nhuần lẽ đạo, tất
cả dòng Thích Ca ai ai cũng thọ trì tam qui và ngũ giới, nên
những người ấy nhứt định không sát sanh mặc dầu người
khác có giết cũng đành chịu vậy. Vì thế nên khi đức
vua Vidudabha đem binh đến vây thành, dòng Thích Ca bắn rát
quá không dám đến gần, vì tên ấy bay ngang qua tai qua mặt
v.v...; chính vua Vidudabha cũng kinh sợ và nói với quan hầu rằng
bọn Thích Ca hằng nói rằng: Ta không sát sanh, nhưng sao họ
bắn rát quá, chúng ta chết mất đi thôi.
Vị quan ấy tâu: Tâu
Ðại vương, Ngài hãy coi quan quân của ta có chết người nào
không?
Ðức vua coi lại thì
quan quân của mình không hao hớt một người nào, Ngài yên
lòng liền ra lịnh tấn công và bảo chỉ được phép giết
những người nào dòng Thích Ca, còn ngoài ra không nên giết
người nào khác. Nhưng chỉ chừa ngoại tổ của Ngài là đức
vua Mahànàma thôi.
Dòng Thích Ca thấy
quân thù càng đến gần không còn bắn được nữa nên đành
đứng xuôi tay cho người giết thôi. Có người lanh trí khi
bị người hỏi ngươi là chi? Lấy cọng cỏ ngậm nói là cỏ,
là rơm v.v... nhờ vậy mà khỏi chết. Nên dòng Thích Ca còn
đến ngày hôm nay.
Vua Vidudabha truyền bắt
ngoại tổ Ngài là đức Mahànàma đến để đem về thành
Savatthi. Khi đem nhà vua đến ông ra lịnh đức vua Mahànàma
phải cùng ăn cơm chung với Ngài. Lẽ cố nhiên, một vị Ðế
vương thà là chết chớ không bao giờ chịu nhục, nên đức
vua Mahànàma không chịu ăn chung với Vidudabha. Nên Ngài nói:
Mình ta rất dơ bẩn vậy để ta đi tắm ở hồ kia xong lại
dùng cơm.
- Ðược, ngoại tổ cứ
tự tiện.
Ðức vua Mahànàma nghĩ:
Nếu ta không ăn chung với đứa bé nầy thì chắc chắn nó
sẽ giết ta; thà ta chết đi còn hơn. Nghĩ xong, Ngài liền
xõa tóc ra dùng tóc cột vào hai ngón chân cái xong nhào xuống
hồ tự tử. Ngài là người có nhiều công tu hành từ vô số
kiếp và duyên lành của Ngài sẽ đắc A-la-hán quả kiếp nầy,
nên Long vương hiện lên tiếp Ngài đem về cõi Long vương.
Mười hai năm sau, Ngài trở lại trần thế và tu đắc
A-la-hán quả, là một trong tám mươi vị đại đệ tử Phật.
Ðức vua Vidudabha đợi
lâu không thấy ngoại tổ trở lại, truyền quan quân đốt
đuốc tìm Ngài nhưng tìm không gặp. Ðức vua Vidudabha nghĩ:
Chắc ngoại tổ ta đã trở về thành nội, Ngài liền truyền
nhổ trại ra đi.
Khi đến sông
Acìravatì thì trời vừa tối. Ngài truyền an dinh hạ trại,
vì nghiệp tru diệt dòng Thích Ca quá nặng, bởi phần đông
dòng Thích Ca là Thánh nhơn, đắc từ Tu-đà-hườn hay Tu đà
hàm, nên những người háo sát giết càng nhiều tội càng nặng.
Nên nghiệp khiến cho những người ấy nóng nảy xuống ngủ
gần mé sông, còn những người ít sát hại lại lên ngủ
ở triền núi. Ðến khuya nước thủy triều dâng lên mạnh,
những người ngủ mê ở mé sông bị nước cuốn trôi đi và
chết hết, trong những người ấy có cả đức vua Vidudabha
.
Khi hàng đại chúng hay
chuyện dòng Thích Ca bị tru diệt hội nhau lại bàn rằng:
Thật là chuyện không hợp pháp dòng Thích Ca là dòng tu
hành giữ giới sát thật thanh cao mà bị tai nạn vô cùng
kinh khủng thật đáng nghi ngờ.
Ðức Thế Tôn nghe vậy
mới dạy rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, sự bị tru diệt của
dòng Thích Ca thật không thích đáng trong kiếp nầy, nhưng sự
thật thì cái chết ấy là thích đáng với việc làm của
những người ấy trong kiếp quá khứ. Vì những người ấy
kiếp xưa làm nghề hạ bạc đem thuốc độc để vào ao hồ
giết không biết bao nhiêu tôm cá.
Ngày khác, các vị Tỳ
khưu hội lại nói đức vua Vidudabha tiêu diệt hết dòng
Thích Ca khi đem binh về không tới thành mà đưa quân đi đến
nơi tử địa là bụng cá và đại dương.
Ðức Thế Tôn ngự đến
hỏi các thầy đang bàn về những gì đây?
Chư Tỳ khưu bạch lại
những gì đang bàn đến.
Ðức Thế Tôn dạy rằng:
Nầy các thầy Tỳ khưu, khi tâm con người chưa đến nơi cùng
tột, thì tử thần lại đến sát hại ví như nước lũ tràn
ngập hết nhà cửa vậy.
Rồi đức Thế Tôn thuyết câu kệ:
PUPPHÀNI HEVA PACINANTAM.
BYÀSATTAMANASSAN NARAM
SUTTAM GÀMAM MAHOGHOVA
MACCU ADAYA GACCHATI.
Nghĩa: Tử thần bắt
người có tâm hằng phóng túng theo đề mục đang bẻ hoa,
cũng như nước lũ trôi những ngôi nhà (mà chủ nhân) đang
ngủ mê vậy.
CHÚ GIẢI: Ý nói con người
tầm thường mê sa theo trần cảnh, tâm ấy hằng chạy theo
đề mục (là các sự việc bên ngoài). Khi tử thần đến bắt
đi cũng chẳng hay biết chi hết. Ví như người ngủ trong nhà
mà không hay biết rằng nước lũ đã tràn đến và trôi đi
mà cũng chẳng hay chi hết.
Sau khi dứt câu kệ có
rất nhiều người đắc Tu-đà-hườn quả.
-ooOoo-
Trang
trước | Ðầu trang | Mục
lục | Trang kế |