| 
         THIÊN 
        THỨ MƯỜI BA (f) 
        NHỮNG 
        CHUYỆN LẠ XẢY RA TRONG BỐN MƯƠI LĂM NĂM 
        TRUYỀN ÐẠO CỦA ÐỨC PHẬT TỔ CỒ ÐÀM (tt)
        -ooOoo- 
        
        CHUYỆN 
        ASADISADÀNA (Bố thí không bố thí nào sánh bằng) 
        
        Lúc nọ, đức Thế Tôn 
        ngự tại Kỳ Viên tịnh xá, đức vua Ba Tư Nặc vào hầu Phật 
        và thỉnh Phật vào thành thọ thực. Luôn tiện đức vua muốn 
        khoe sự bố thí của mình, nên cho mời dân chúng đến dự 
        cuộc lễ bố thí của Ngài. 
        Dân chúng thấy sự 
        cúng dường của đức vua thật là trọng thể, nên họ mới 
        hội nhau lại để làm lễ cúng dường Phật bảo, khi ấy 
        nhân dân đồng lòng thỉnh Ðức Phật và chư Tăng đến cúng 
        dường và cũng không quên mời đức vua đến dự cuộc lễ. 
        Ðức vua thấy dân chúng cúng dường còn có phần hơn mình, 
        nên Ngài liền thỉnh đức Phật và chư Tăng vào cúng dường 
        nơi thành nội và cũng mời dân chúng đi đến dự. Dân 
        chúng thấy đức vua làm hơn mình nên đồng lòng hùn nhau 
        làm cho hơn vua. Ðức vua và dân chúng thi nhau cúng dường 
        như thế đến sáu lần không phân biệt được bên nào hơn 
        bên nào cả. Lần thứ sáu dân chúng góp hết lực lượng của 
        mình ra làm những vật gì trên thế gian nầy có, dân chúng 
        đều đem ra dâng cúng hay chưng bày làm nhà vua kinh hoàng về 
        sự bố thí của dân chúng. Nhưng phàm một vị Ðế vương 
        không bao giờ chịu thua hàng dân giả. Nên khi Ngài về cung 
        nằm suy nghĩ buồn cho mình là vị Ðế vương mà không thắng 
        được dân. 
        Khi ấy bà Hoàng hậu 
        Malikà là người rất thông minh hơn ai hết và là một người 
        rất mạnh về đức tin. Khi thấy đức vua buồn nên bà hỏi: 
        Tâu Ðại vương tại sao Ngài buồn bực nằm trằn trọc 
        không yên giấc như vậy? 
        - Hậu không hay biết 
        gì sao? 
        - Tâu Ðại vương, thần 
        thiếp có biết chuyện gì đâu! 
        Ðức vua liền thuật lại 
        những việc làm trong khi bố thí cho bà nghe. 
        Hoàng hậu liền tâu: 
        Xin Hoàng thượng an lòng, đã là đấng chí tôn như Ðại vương, 
        giàu sang, quyền hành mà lại đi thua dân chúng sao? Bệ hạ 
        có từng nghe từ cổ chí kim vua có thua dân bao giờ đâu? 
        Thiếp thần xin lo việc nầy cho Hoàng thượng. 
        Bà liền nghĩ đến việc 
        bố thí thế nào mà dân chúng không sao làm nổi. Sự bố 
        thí của bà nghĩ ấy là ASADISADÀNA có nghĩa là sự bố thí 
        không có sự bố thí nào so sánh bằng. 
        Bà liền tâu rằng: 
        Tâu Ðại vương, xin cho lập một cái trại bằng cây tươi, 
        lợp bằng lụa. Cái trại ấy có thể ngồi chung quanh được 
        năm trăm vị Ðại Ðức. Chư Ðại Ðức ngồi quanh cái rạp 
        ấy. Lịnh Hoàng thượng truyền người làm năm trăm cây lọng 
        bằng lụa cho đẹp, và chọn năm trăm con tượng trận để 
        đứng sau lưng chư Ðại Ðức ôm lọng che cho chư Ðại Ðức. 
        Rồi xuất vàng kho ra làm tám hay mười chiếc thuyền to bằng 
        vàng để trong rạp lụa ấy. Phải chọn cho thật nhiều vị 
        Công chúa, Quận chúa, và các vị ái nữ của hoàng thân quốc 
        thích thật đẹp, chia ra làm nhiều nhóm, nhóm thì đâm giã 
        những vật thơm, như trầm hay hoa thơm để lấy chất thơm, 
        kẻ thì đem những chất thơm ấy để vào thuyền to đã 
        làm bằng vàng trong rạp ấy, người thì múc nước lọc để 
        vào thuyền vàng, người thì dùng chèo bằng trầm hương khuấy 
        chất thơm nhóm thì đứng quạt hầu chư Ðại Ðức, người 
        thì rải nước thơm ở thuyền vàng cho thơm cùng nơi trai 
        Tăng ấy. Nếu nước và chất thơm ấy đã hết thì có người 
        đem thêm để vào. Khi Ðại vương làm như vậy tất nhiên 
        phải thắng vì nhân dân làm gì có tượng đến năm trăm thớt 
        trong một ngày một buổi được, hơn nữa dân chúng làm sao 
        có người đẹp như trong hoàng tộc để lo trong việc cúng 
        dường, còn phải làm thuyền vàng v.v... 
        Ðức vua lấy làm vui mừng 
        và khen: Hay lắm, hay lắm! Hậu giúp ta được việc, Hậu là 
        người cứu tinh của ta. Rồi Ngài lập tức ra lịnh thi 
        hành ngày cho kịp sự cúng dường ngày mai. Mọi việc đã 
        xong trước sáng, nhưng chỉ còn thiếu một con tượng đứng 
        ôm lọng thôi. Ðức vua lấy làm lo nên nói với Hoàng hậu 
        rằng: Trẫm rất lo là thiếu một con tượng đứng ôm lọng 
        cho một vị Ðại Ðức. 
        Bà Hoàng hậu hỏi: 
        Tâu Ðại vương, vậy trong xứ này thiếu tượng sao? 
        - Tượng binh của trẫm 
        nhiều lắm, nhưng chỉ chọn bốn trăm chín mươi chín con 
        thuần thục có thể phục tùng ngồi ôm lọng được còn 
        ngoài ra thì còn rất nhiều nhưng toàn là tượng hung hăng bất 
        phục tùng khi phải ngồi lâu như vậy. Lại còn e nó trông 
        thấy các vị Ðại Ðức nó giết liền. 
        - Tâu Ðại vương, thiếp 
        thần có chỗ để cho tượng dữ ấy đứng hợp với tính 
        tình của nó. 
        - Vậy trẫm phải xếp 
        cho tượng ấy đứng sau vị Ðại Ðức nào? 
        - Thiếp thần nghĩ nên 
        để đứng hầu Ngài Ðại Ðức Vô Não. 
        Ðức vua truyền y theo 
        lời của Hoàng hậu mà thi hành. Lạ thay khi dẫn tượng đến 
        ngồi ôm lọng sau đức Vô Não thì tượng ấy trở nên hiền 
        hơn các tượng khác; tỏ vẻ rất dễ dạy và thuần hơn 
        bao giờ hết. Dân chúng ai cũng biết tượng ấy là tượng 
        hung dữ nhứt, khi đứng hầu Ngài Vô Não trở nên hiền 
        làm mới nghĩ rằng: Tượng hung dữ nầy biết kinh sợ Ngài 
        Ðại Ðức Vô Não. 
        Ðức vua cúng dường 
        những vật thực thật là quí. Sau khi trai Tăng xong, đức 
        vua mới bạch với đức Thế Tôn rằng: Bạch đức Thế Tôn, 
        trẫm xin cúng dường tất cả mọi vật đã có trong cuộc lễ 
        nầy đến Ngài, trừ ra vật nào không hợp pháp. (Ðây đức 
        vua ngụ ý nói đến những vị Công chúa và thú như tượng, 
        thì không hợp pháp). 
        Trong cuộc lễ ấy đức 
        vua tiêu hết mười bốn kinh đồng vàng. Những vật vô giá 
        là lọng, bảo tọa của Phật như làm bằng vàng nạm ngọc, 
        của chư Tăng làm bằng vàng, ghế kê chân để bước lên bảo 
        tọa cũng bằng vàng chạm trổ tinh vi, những món ấy đều 
        dâng đến đức Thế Tôn. 
        Thật ra trong một đời 
        của một vị Chánh đẳng Chánh giác chỉ có một lần bố 
        thí như vậy thôi, vì sự cúng dường nầy không ai làm được 
        lần thứ nhì. Nên có tên là Asadisadàna có nghĩa là sự bố 
        thí không có sự bố thí nào sánh bằng. 
        Trong cuộc bố thí ấy 
        có hai vị đại thần một vị tên là Kala và một tên là 
        Junha có hai ý nghĩ khác nhau. Ông Kalà nghĩ: Hoàng gia sẽ đi 
        tới chỗ bần cùng, một ngày xài hết mười bốn kinh đồng 
        vàng như thế nầy làm sao chịu nổi, cho các Tỳ khưu nầy 
        ăn no xong về chùa ngủ, chỉ hại là ngân khố hoàng gia bị 
        khánh kiệt. 
        Còn ông Junha nghĩ: Thật 
        ra, đức vua là người nên tán thưởng ca tụng, vì tất cả 
        các vị Ðế vương không có vị nào có thể cúng dường trọng 
        thể như Ngài được. Ðức vua không hồi hướng phước báu 
        cho chúng sanh, nhưng ta nguyện xin chia phần phước báu ấy. 
        Sau khi cúng dường 
        xong; đức vua liền lãnh lấy bát của đức Thế Tôn tỏ ý 
        đợi lời cầu chúc của đức Phật. 
        Ðức Thế Tôn nghĩ: Ðức 
        vua bố thí rất là trọng thể, ví như người khai thông một 
        thác nước vĩ đại. Vậy trong hàng đại chúng có trong sạch 
        với cuộc lễ nầy chăng? Ðức Thế Tôn mới thấy hai ý 
        nghĩa của hai vị đại thần, Ngài nghĩ tiếp: Nếu ta chúc 
        tụng cuộc lễ nầy thật xứng đáng thì ông Kàla lại tức 
        giận vì ghen hờn mà chết, còn Junha sẽ đắc Tu-đà-hườn 
        quả. Vì lòng thương hại ông đại thần Kàla nên Ngài chỉ 
        cầu chúc sơ một câu kệ rồi ra về. 
        Khi về chùa tất cả 
        các vị Tỳ khưu còn phàm hỏi Ðại Ðức Vô Não rằng: Nầy 
        ông Vô Não, khi ông trông thấy tượng hung dữ đứng sau 
        lưng ôm cây lọng ông không sợ sao? 
        - Không! 
        Các thầy Tỳ khưu ấy 
        mới vào hầu Phật và bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, 
        ông Vô Não tỏ ra khoe mình là bực cao nhơn. 
        Ðức Thế Tôn dạy; Nầy 
        các thầy Tỳ khưu, sự thật Vô Não không hề khiếp sợ bởi 
        vì Tỳ khưu là con của Như Lai như bò chúa ở giữa đàn 
        bò, nghĩa là vị Thánh nhơn không bao giờ kinh sợ gì cả. 
        Ðức Thế Tôn liền thuyết câu kệ: Người can đảm cao quí 
        đã tìm thấy được đặc ân cao thượng rồi, không rung động 
        đã giác ngộ, Như Lai gọi là Sa môn. 
        Nói về đức vua sau 
        khi đức Thế Tôn ra về lấy làm bực tức vì Ngài nghĩ: Ðức 
        Thế Tôn không cầu chúc cho xứng đáng với sự cúng dường 
        của ta giữa hàng đại chúng, Ngài chỉ nói một câu kệ. 
        Ta sẽ không cúng dường cao quí đến Ngài nữa. 
        Mặc dầu tức giận nhưng 
        đức vua cũng vào chùa để hỏi Phật; khi vào đến nơi bạch 
        hỏi Phật: Bạch đức Thế Tôn trẫm đã cúng dường xứng 
        đáng và hợp pháp hay không? 
        Ðức Thế Tôn hiểu tại 
        sao đức vua hỏi vậy nên hỏi lại: Ðại vương có chuyện 
        chi chăng? 
        Ðức vua không đáp 
        câu hỏi lại nói: Ðức Thế Tôn không cầu chúc cuộc lễ 
        của trẫm giữa hàng đại chúng một cách long trọng. 
        - Ðại vương cúng dường 
        thật là tuyệt đối long trọng, sự bố thí của Ðại vương 
        có tên là asadisadàna, sự bố thí nầy một đời của một 
        đức Chánh đẳng Chánh giác chỉ có được một lần mà 
        thôi, sự bố thí như thế chỉ có một người làm được 
        mà thôi. 
        - Bạch đức Thế Tôn, 
        nếu vậy vì nguyên nhân nào đức Thế Tôn không cầu chúc 
        cho long trọng cho xứng với lòng kính thành và lễ vật 
        cúng dường của trẫm? 
        - Như Lai xem lại thấy 
        bộ thuộc của Ðại vương không trong sạch. 
        - Bạch đức Thế Tôn 
        sự không trong sạch ấy như thế nào? 
        Ðức Thế Tôn liền 
        thuật lại tâm của vị Ðại thần tên Kàla cho đức vua 
        nghe. Rồi Ngài tỏ cho đức vua biết vì lòng Từ bi nên 
        Ngài không muốn làm hại nhân mạng của một chúng sanh, 
        thà là để đức vua bất bình đến vấn nạn Ngài. 
        Ðức vua nghe vậy cả 
        giận mới gọi ông Ðại thần tên Kàla đến hỏi: Nầy Kàla 
        ngươi có suy nghĩ như thế không? 
        - Tâu Ðại vương có 
        như vậy. 
        - Trong khi trẫm cùng 
        Hoàng hậu, Hoàng tử, Công chúa và cả quyến thuộc của trẫm 
        không hề lấy của khanh ra bố thí, nghĩa là trẫm không hề 
        bắt buộc khanh phải làm theo trẫm. Vậy nay, vật nào trẫm 
        đã ban thưởng cho khanh, khanh được quyền mang những vật 
        ấy ra đi khỏi x? của trẫm ngay bây giờ. 
        Ðức vua hạ chỉ đuổi 
        ông Kàla ra khỏi xứ rồi Ngài liền dạy gọi ông Junha đến 
        hỏi: Khanh có nghĩ như vậy chăng? 
        - Tâu Ðại vương có 
        như vậy thật. 
        Ðức vua liền dạy: 
        Lành thay, thiện thay, trẫm lấy làm trong sạch với khanh, trẫm 
        thưởng khanh được quyền thay trẫm trị dân trong bảy 
        ngày, được quyền xuất công khố hoàng gia ra làm việc thiện 
        mà khanh muốn làm. 
        Rồi đức vua bạch Phật: 
        Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài hãy nhìn coi việc làm của kẻ 
        tối mê. Trẫm làm phước như thế nầy mà dám chỉ trích 
        trẫm. 
        Ðức Thế Tôn dạy: 
        Ðúng vậy Ðại vương, lẽ cố nhiên người ngu dốt không 
        hoan nghênh thỏa thích sự bố thí của kẻ khác, người ấy 
        chỉ có một con đường đi là vào ác đạo ngày vị lai. 
        Còn bực trí thức thì hằng hưởng ứng thoả thích với sự 
        bố thí và tất cả các việc thiện mà người khác làm, người 
        ấy chắc chắn được sanh về thiên đàng. 
        Ðức Thế Tôn liền dạy 
        câu kệ: 
        NA VE KADA RIYA DEVALOKAM 
        DANAM 
        BALAHAVE NAPPA SSANTI DANAM 
        DHIRO CADANAM ANUMODAMANO. 
        TENEVA SO HOTI SUKHI PA RATTHA 
        Nghĩa là: Người bỏn 
        xẻn không thể đến thiên đàng được, kẻ ngu dốt không 
        thể ca tụng sự bố thí, chỉ có bực trí thức thỏa 
        thích hưởng ứng sự bố thí, vì vậy các vị ấy có sự 
        an vui trong ngày vị lai. 
        Sau khi dứt thời pháp 
        ông Ðại thần Junha đắc Tu-đà-huờn quả và thời pháp cũng 
        đem lại rất nhiều hữu ích cho hàng đại chúng. Ông Ðại 
        thần Junha được làm vua bảy ngày vì quả của sự thoả 
        thích trong sự bố thí của người khác. 
        
        CHUYỆN 
        ÔNG GARAHADINNA 
        
        Tại thành Thất La Phiệt 
        có hai người bạn rất thân nhau là ông Sirigutta và 
        Garahadinna. Hai người theo hai tôn giáo khác nhau, ông Sirigutta 
        là người thiện nam trong Phật giáo. Còn ông Garahadinna là 
        tín đồ của ngoại đạo gọi là Nigraítha . 
        Bọn Nigraítha bảo đệ 
        tử là ông Garahadinna rằng: Người nên bảo bạn của người 
        là Sirigutta rằng: Bạn hằng đến hầu ông Sa môn Cồ đàm 
        làm gì, bạn có được lợi ích gì nơi ông ta chăng? Ngươi 
        hãy cố gắng làm sao cho Sirigutta vào với bọn chúng ta, 
        cúng dường cho chúng ta. 
        Ông Garahadinna nghe lời 
        bọn ngoại đạo, nên thường khuyên bạn là ông Sirigutta 
        hãy vào hầu và dâng cúng bọn ngoại đạo mãi, bất luận 
        gặp nơi nào, đứng ngồi nơi đâu cũng nói bấy nhiêu ấy 
        thôi. Ông thường nói: Bạn Sirigutta ơi, bạn hằng vào hầu 
        ông Sa môn Cồ đàm, vậy bạn hãy thử vào hầu thầy chúng 
        tôi một phen coi, bạn cúng dường cho Ngài bạn sẽ được 
        phước báu cao thượng có phải là quí hơn không? 
        Phàm một người thiện 
        nam đứng đắn thật không thể nào tin tưởng ngoại đạo 
        được và cũng chẳng thích nghe lời ca tụng của ngoại đạo 
        nhưng vì tình bạn buộc lòng phải nghe lời ấy mãi mãi cũng 
        đâm ra chán tai, ông nghĩ rất nhiều về vấn đề bạn hằng 
        kêu gọi, ngày nọ ông không còn chịu nổi nữa nên nói: Bạn 
        Garahadinna ơi, hằng ngày bạn gặp tôi không nói gì hơn chỉ 
        có bấy nhiêu đây hoài. Vậy xin bạn cho tôi biết: Quí vị 
        Ðại Ðức thầy của bạn thông hiểu những gì? 
        - Ô trời ơi! Bạn đừng 
        nói vậy chớ, những gì mà thầy tôi không biết thật là 
        không có. Thầy tôi thông thấu quá khứ, hiện tại và vị 
        lai, hiểu rõ sự hành động của thân, khẩu, ý, biết chuyện 
        nên làm hay không nên làm, hoặc chuyện sẽ xảy đến hay không? 
        - Bạn ơi! Nếu thật vậy 
        tại sao bạn không bảo cho tôi biết từ trước thật bạn 
        quấy lắm. Vậy tôi sẽ biết tuệ giác của thầy bạn 
        trong ngày mai. Vậy xin bạn thỉnh thầy bạn đến thọ thực 
        nơi tư gia của tôi ngày mai nầy. 
        Ông Garahadinna lật đật 
        đến chùa Nigraítha làm lễ xong mới nói, bạn tôi là 
        Sirigutta xin kính thỉnh quí Ngài đến thọ thực nơi nhà bạn 
        tôi sáng mai. 
        Bọn Nigraítha lấy làm 
        vui mừng hỏi: Có thật Sirigutta nói với người như vậy không? 
        - Thưa quí Ngài, thật 
        đúng như vậy. 
        Phận sự của ngươi 
        đã kết quả mỹ mãn, kể từ khi mà Sirigutta trong sạch với 
        chúng ta thì gọi là chúng ta được tài lợi vĩ đại rồi. 
        Ông Sirigutta là Trưởng 
        giả nên nhà rất to rộng. Khi ông về nhà dạy người đào 
        một con đường giữa nhà móc đất ra làm một cái hầm to, 
        mới đem sình non trộn phân đổ vào hầm ấy, dưới hầm có 
        đóng nọc cột dây, trên nọc ấy lót ván trải nệm gấm 
        thật sang, chưng dọn đủ các vật thật xứng đáng một cuộc 
        lễ long trọng. Không ai có thể biết dưới ấy là một hầm 
        phẩn vĩ đại. Trên miệng hầm leo lên lót lá chuối thật 
        trơn, ông bảo người nhà rằng: Khi nào bọn ngoại đạo ngồi, 
        ông ra dấu lập tức kéo dây cho những cây nọc ấy ngã xuống 
        những tấm ván ấy rớt ra, bọn ngoại đạo bị mất thăng 
        bằng phải bị rớt xuống hầm phẩn thay vì ngồi trên đệm 
        gấm. 
        Khi chuẩn bị chu đáo 
        thì cũng vừa lúc ông Garahadinna đến hỏi ông Sirigutta rằng: 
        Bạn đã chuẩn bị xong chưa? 
        Ông Sirigutta nói: Ðây 
        bạn hãy xem tôi đã chuẩn bị như vầy đã xong rồi đây. 
        
        - Vậy vật cúng dường đâu không thấy? 
        
        Ông Sirigutta liền chỉ 
        những vật đựng đồ cúng dường thật nhiều vật thực 
        ngon ngọt chẳng thiếu chi. Ông Garahadinna thấy vậy lấy 
        làm vừa lòng, trở về đưa năm trăm người ngoại đạo đến 
        thọ thực. 
        Ông Sirigutta ra tận 
        ngõ tiếp đón, đảnh lễ thật là cung kính xong ông phát 
        nguyện trong tâm rằng: Tôi được nghe bạn tôi bảo rằng: 
        Quý vị là đấng hiểu thông mọi việc trong tam giới cả 
        quá khứ ,hiện tại và vị lai? Nếu quý Ngài hiểu rõ những 
        gì trong nhà tôi thì xin đừng vào. Khi quý vị vào thì 
        không có vật thực chi hết. Nếu quý vị không hiểu thông 
        mà vào thì tôi sẽ làm cho quý vị rơi vào hầm phẩn. Phát 
        nguyện xong, ông liền đứng dậy tránh đường cho những 
        ông ngoại đạo vào, đồng thời ông cũng ra dấu cho người 
        nhà biết để giựt dây. Khi đến nơi trải đệm gấm bọn 
        ngoại đạo biết đây là chỗ của mình liền ngồi xuống. 
        Người nhà ông 
        Sirigutta nói: Xin quý Ngài khoan ngồi. 
        - Tại sao? 
        - Thưa quí Ngài đợi 
        chư vị vào hết đồng ngồi xuống một lượt đây là 
        phong tục của nhà nầy như thế. 
        - Ngươi nói phải. 
        Khi đã vào đủ mặt 
        người nhà ông Sirigutta nói: Xin quí vị đồng an tọa. Khi các 
        người ấy an tọa xong người nhà ông Sirigutta liền kéo 
        dây làm cho những cây nọc đỡ ván ngã; những tấm ván rơi 
        ra, các ông ấy mất thăng bằng không thể gượng được nên 
        té vọng đầu xuống hầm phẩn to. Ông Sirigutta liền lại 
        đống các cửa hết, và người nhà cầm roi đứng nơi miệng 
        hầm chỗ các ông ấy leo lên quất cho thật đau. Ðã bị rơi 
        trong hầm phẩn, khi leo lên bị lá chuối trơn mà còn bị người 
        cầm roi đợi đánh thật là một chuyện chưa hề có bao giờ, 
        các vị ấy lấy làm hổ thẹn. Khi ông Sirigutta thấy đánh 
        nhiều rồi ông cho mở cửa các ông ấy lật đật chạy về 
        chùa. 
        Khi xong việc bọn ngoại 
        đạo đến nhà ông Garahadinna than trách ông rằng: Ông đã 
        làm một chuyện thật khổ cho chúng tôi. Xong bọn chúng mới 
        thuật lại những gì đã xảy ra. 
        Ông Garahadinna lấy làm 
        tức giận vì nghĩ rằng: Sirigutta làm cho ta xấu hổ vô 
        cùng để người nhà đánh chư Ðại Ðức của ta, các Ngài 
        là phước điền của ta mà làm vậy thật đáng giận. 
        Ông liền đội cáo trạng 
        vào tận nhà vua kêu oan vì việc làm tai hại của ông 
        Sirigutta , yêu cầu đức vua phải trừng phạt Sirigutta cho xứng 
        tội. Ðức vua liền cho đòi Sirigutta vào chầu hỏi cho rõ 
        nguyên nhân vì sao làm như vậy. 
        Ông Sirigutta vào chầu 
        và tâu rằng: Tâu Ðại vương khi Ngài chưa rõ câu chuyện 
        không nên phạt tôi. 
        - Không, ta phải xét 
        rõ mới định tội. 
        - Tâu Ðại vương, vậy 
        xin Ðại vương cứ hỏi. 
        - Vậy ngươi hãy khai 
        những gì người đã làm và tại sao người hành động như 
        vậy? 
        - Tâu Ðại vương, bạn 
        tôi là Garahadinna, hằng bảo tôi rằng: Bạn ơi, v.v... (ông 
        thuật lại những gì mà ông Garahadinna đã nói). Khi ông thuật 
        xong liền tâu rằng: Tâu Ðại vương, nếu Ðại vương thấy 
        tôi quấy thì tùy Ngài phạt, tôi không dám trái lịnh. 
        Ðức vua liền hỏi 
        tiên cáo là ông Garahadinnna rằng: Theo lời khai của Sirigutta 
        có đúng vậy không? 
        Garahadinna tâu: Tâu Ðại 
        vương, sự thật là vậy. 
        Ðức vua liền phán: Ngươi 
        sùng bái Nigraítha là người không thông hiểu như lời người 
        nói, lại đi dối gạt người là đệ tử của đức Chánh 
        đẳng Chánh giác rằng: Thầy của ngươi lão thông mọi sự 
        việc. Ðây vì lời nói của ngươi làm hại ngươi chỉ có 
        người là người đáng bị phạt thôi, còn Sirigutta vô tội. 
        Ông Garahadinna càng tức 
        giận hơn, nên từ ấy đi hai người không hề gần nhau nữa. 
        Chừng một tháng sau Garahadinna mới nghĩ: Nếu ta giận 
        Sirigutta như vậy hoài thì có ích lợi chi cho ta, ta phải trả 
        thù làm hại những thầy Tỳ khưu hằng đến thọ thực tại 
        nhà Sirigutta. Nghĩ vậy nên Garahadinna mới đến nhà bạn giả 
        lả và nói rằng: Lẽ cố nhiên, sự cãi vã nhau, gây gổ 
        nhau giữa bạn bè và quyến thuộc là sự thường. Tại sao 
        bạn lại không chuyện trò với tôi? 
        - Bạn ơi, sở dĩ tôi 
        không trò chuyện với bạn, vì bạn không chơi với tôi. Vậy 
        việc gì đã qua ta nên để nó qua đi. Chúng ta không nên để 
        mất tình bạn. 
        Kể từ ngày ấy đi, 
        hai người chơi thân với nhau như xưa. Ngày nọ Sirigutta bảo 
        Garahadinna rằng: Bạn gần với bọn Nigrantha ấy đem lợi 
        ích gì lại cho bạn? Bạn vào hầu đức Thế Tôn, hoặc 
        cúng dường đến Ngài không lợi ích hơn hay sao? 
        Ðược nghe lời ấy 
        dường như gãi đúng vào chỗ ngứa, nên Garahadinna hỏi: Vậy 
        Thế Tôn của bạn hiểu những gì? 
        - Bạn chẳng nên hỏi 
        câu ấy, không có gì trong tam giới mà đức Thế Tôn của 
        tôi không thông hiểu. Ngài thông hiểu tất cả những nhân 
        của quả khác nhau, hiểu rõ tâm của chúng sanh có bao nhiêu 
        nhịp. 
        - Vậy mà tôi không hề 
        hay biết chi hết, tại sao từ trước đến nay bạn không bảo 
        cho tôi biết. Vậy xin thỉnh đức Thế Tôn đến thọ thực 
        tại nhà tôi ngày mai nầy. 
        Ôg Sirigutta vào hầu Phật 
        và bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, Garahadinna là bạn 
        của đệ tử, yêu cầu đệ tử thỉnh cầu đức Thế Tôn 
        và chư Ðại Ðức đến thọ thực ở nhà y ngày mai nầy. 
        Nhưng trước đây đệ tử có xử tệ với bọn ngoại đạo 
        Nigraítha (xong ông thuật lại những gì ông đã làm). Ðệ tử 
        không biết rằng: Garahadinna có trả cái hận mà đệ tử đã 
        làm rồi chăng? Nếu Garahadinna cúng dường đến đức Thế 
        Tôn bằng lòng trong sạch hay không, tùy theo đức Thế Tôn 
        thông hiểu và nhận lời hay không? 
        Ðức Thế Tôn dùng tuệ 
        giác quan sát thấy rằng: Garahadinna đào hầm sâu giữa nhà, 
        trong đốt tám chục xe gỗ to thành than, đợi khi nào đức 
        Thế Tôn và chư Tăng đứng trên sàn sẽ giựt dây cho sàn sập. 
        Ðức Phật và chư Tăng rớt ngay vào hầm than đỏ. Ngài mới 
        nghĩ thêm rằng: Khi ta đến nơi ấy ta sẽ đứng trên ngọn 
        lửa hồng đang cháy dữ, những tấm ván ấy sẽ biến mất 
        và hoa sen trong lửa đỏ hiện ra đỡ dưới chân Như Lai và 
        các vị Tỳ khưu theo hầu Như Lai cũng đồng một thể, khi 
        ấy Như Lai và chư Tăng cùng ngồi trên hoa sen nơi mà 
        Garahadinna định là chỗ Như Lai ngự. Ðức Thế Tôn nhứt 
        định làm như vậy nên Ngài nhận lời. 
        Sirigutta về cho bạn 
        hay rằng: Ðức Thế Tôn đã nhận lời. Ông Garahadinna cũng 
        làm in như ông Sirigutta thay vì để sình và phẩn ông lại 
        cho đốt tám chục xe củi to. Ông ta tự nhủ: Ta sẽ cho 
        Sirigutta thấy quả của việc làm của y. 
        Sáng sớm ông Sirigutta 
        đến nhà bạn và hỏi: Bạn đã chuẩn bị xong hết chưa? 
        - Ô, hoàn toàn lắm bạn 
        ơi. 
        Rồi ông dẫn ông 
        Sirigutta đi coi chỗ dọn đồ ăn đủ thứ, nhưng trong những 
        đồ vật ấy không có đồ ăn gì hết. 
        Sirigutta thấy sự chuẩn 
        bị của bạn thật là chu đáo, ông rất hài lòng nên nói: 
        Lành thay, thiện thay. 
        Thường khi, người 
        trong thời ấy nghe đức Thế Tôn ngự đến nơi nào thuộc 
        phạm vi của ngoại đạo thì cả dân chúng không phải tín 
        đồ cũng đến nơi ấy, vì họ muốn thấy sự thắng bại 
        của hai bên. Còn tín đồ đến nơi ấy vì muốn thấy đức 
        Thế Tôn giáo hóa ngoại đạo và nghe pháp luôn. 
        Sáng ngày, đức Thế Tôn 
        cùng năm trăm vị Ðại Ðức ngự đến nhà của Garahadinna. 
        Ông Garahadinna ra tận nơi cổng đón tiếp đức Thế Tôn và 
        đảnh lễ, rồi cũng phát nguyện y như ông Sirigutta đã 
        làm. 
        Ðức Thế Tôn biết 
        rõ, nhưng Ngài vẫn ngự vào như thường. Ông Garahadinna 
        nói: Xin thỉnh Ngài đi vào ngã nầy. Bạch đức Thế Tôn, 
        khi Ngài vào nhà tôi xin Ngài nên biết thể lệ theo gia đình 
        tôi. 
        Ðức Thế Tôn hỏi: Vậy 
        Như Lai phải làm sao? 
        - Phải đợi tất cả 
        các vị ấy đồng vào một lượt. Thâm tâm của Garahadinna 
        sợ vào từng vị một thì sẽ biết cơ mưu và chỉ rớt 
        vào hầm một ít vị thôi. 
        - Thiện thay, thiện 
        thay. 
        Rồi đức Thế Tôn 
        cùng chư Tăng ngự vào. Khi vừa đến hầm lửa thì ông 
        Garahadinna lại trở ra và nói: Xin Ngài tự tiện ngự vào nơi 
        ấy. 
        Khi đức Thế Tôn để 
        chân lên hầm lửa thì tấm ván ấy tiêu mất và trong hầm 
        lửa đang cháy rực rỡ ấy mọc lên một cái hoa sen thật 
        to đỡ chân đức Thế Tôn, Ngài ngự đi trên hoa sen đến 
        nơi Ngài ngự. Năm trăm vị Ðại Ðức cũng đồng một thể 
        như Phật. 
        Khi ấy ông Garahadinna 
        thấy vậy kinh sợ vô cùng, ông cảm thấy chính ông đang bị 
        lửa thiêu đốt nóng nảy vô cùng. Ông liền chạy đến nhà 
        của ông Sirigutta nói: Bạn ơi, xin Ngài làm phước cứu tôi 
        với (vì kinh sợ quá kêu bạn là Ngài). 
        Ông Sirigutta hỏi: Có 
        chuyện chi vậy bạn? 
        - Trong nhà tôi không 
        có món vật thực chi để cúng dường đến Phật bảo và Tăng 
        bảo hết. Bây giờ làm sao đây? 
        - Vậy hôm qua nay bạn 
        làm những gì? 
        - Tôi bảo người đào 
        hầm đốt tám chục xe củi để đốt đức Phật và chư 
        Tăng. Hoa sen thật to trong lửa hồng mọc lên đỡ chân các 
        Ngài vào ngồi nơi trai Tăng. Giờ tôi phải làm sao đây? 
        - Hồi sáng bạn có chỉ 
        cho tôi thấy nầy là vật thực cúng dường đã có đủ hết 
        rồi không phải sao? 
        - Ðó toàn là đồ để 
        gạt bạn thôi. 
        - Thôi vậy cũng chẳng 
        sao, bạn hãy về xem lại trong những đồ mà bạn chỉ tôi 
        ban sáng nói: Ðây là nồi cháo, nọ nồi cơm v.v... thì bạn 
        sẽ thấy những gì bạn cho tôi biết buổi mai giờ có đủ 
        hết. 
        Ông Garahadinna lật đật 
        về giỡ nấp nồi và chén v.v... mà ông chưng để gạt ông 
        Sirigutta ban sáng thì thấy có đầy những vật thực. 
        Ông Garahadinna thấy 
        chuyện phi thường như vậy lấy làm lạ và sự trông sạch 
        với Phật bảo và Tăng bảo phát sanh rất mạnh; làm cho 
        ông nhẹ cả người hình như sắp bay bổng lên không trung. 
        Ông liền lo việc cúng 
        dường đến đức Thế Tôn và chư Tăng với tất cả tấm 
        lòng trong sạch và kính thành chưa bao giờ có trong tâm ông. 
        Sau khi thọ thực xong 
        đức Thế Tôn thuyết chúng sanh nào không rõ được công đức 
        của đệ tử của Như Lai và ân đức Phật pháp, vì thiếu 
        tuệ nhãn, người mà thiếu tuệ nhãn gọi là kẻ mù. Người 
        có trí tuệ gọi là người sáng mắt. 
        Ðức Thế Tôn thuyết 
        câu kệ: 
        YATHÀ SANKARADHANASMIN 
        UJJHITASMIN MAHAPATHE 
        PADUMAN TATTHE JÀYETHA 
        SUCIGANDHAN MANORAMAM 
        EVAM SANKÀRA BHƯTESU. 
        ANDHABHƯTE PATHUJJANO 
        ATIROCATI PANNÀYA 
        SAMMÀSAMBUDDHA SÀVAKO. 
        Nghĩa: Hoa sen có mùi thơm 
        sanh trong đống rác dơ ở bên vệ đường. Những hoa sen ấy, 
        vẫn được người yêu chuộng. Cũng như những phạm nhơn là 
        đống bùn nhơ, đệ tử Như Lai huy hoàng giữa đám phàm nhơn 
        là người thiếu trí tuệ. 
        CHÚ GIẢI: Ðại ý câu 
        kệ nầy đức Thế Tôn dạy: Hoa sen sanh trong bùn nhưng chẳng 
        hôi tanh mùi bùn. Cũng như chư Thinh Văn đệ tử Phật cũng 
        là con người có tấm thân bẩn thỉu cấu hợp bởi đất, 
        nước, gió, lửa, ba mươi hai thể trược, nhưng các Ngài đã 
        giải thoát vì nhờ có tuệ nhãn, nên không hề làm điều tội 
        lỗi và vật nhơ của tinh thần, mặc dầu sống trong đời 
        đầy sự ô trược là tội lỗi nhưng tâm rất là trong sạch 
        không bợn nhơ phiền não. 
        Sau khi dứt thời pháp 
        hai ông Sirigutta và Garahadinna đều đắc Tu-đà-hườn quả và 
        cũng có rất nhiều người được đắc quả Thánh. 
        
        VIDUDABHA 
        TRU DIỆT DÒNG THÍCH CA 
        
        Ngày nọ, đức vua Ba 
        Tư Nặc ngự trên lầu trong hoàng cung ngó ra đường trông 
        thấy chư Tỳ khưu đi đến nhà của ông Trưởng giả Cấp 
        Cô Ðộc, nhà bà Visàkhà , nhà bà Suppavàsà để thọ thực. 
        Ngài hỏi quan hầu rằng: Chư Ðại Ðức đi đâu nhiều như 
        vậy? 
        Quan hầu tâu: Tâu Ðại 
        vương, mỗi ngày ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc có thỉnh 
        hai ngàn vị Tỳ khưu về nhà cúng dường, năm trăm vị về 
        nhà ông Cula Anàthapindika , năm trăm vị về nhà bà Visàkhà 
        , còn năm trăm vị về nhà bà Suppavàsà. Những nhà ấy trai 
        Tăng như vậy hằng ngày. 
        Ðức vua nghe vậy phát 
        tâm trong sạch với sự cúng dường của các nhà ấy, nên 
        Ngài liền vào Kỳ Viên tịnh xá hầu Phật và xin thỉnh đức 
        Thế Tôn và một ngàn vị Tỳ khưu đến hoàng cung đ? tự 
        tay Ngài cúng dường trót bảy ngày. Ðến ngày thứ bảy, đức 
        vua bạch với đức Thế Tôn rằng: Trẫm cầu xin đức Thế 
        Tôn và năm trăm vị Ðại Ðức đến thọ thực nơi hoàng 
        cung của trẫm hằng ngày. 
        Ðức Phật dạy: Tâu 
        Ðại vương, vì theo lệ thường của một đấng Chánh đ?ng 
        Chánh giác không bao giờ lãnh thọ thực vật cúng dường một 
        nơi nào mãi mãi được. Vì rất có nhiều người mong ước 
        đức Phật ngự đến nhà. 
        - Nếu vậy, xin đức 
        Thế Tôn giao phận sự ấy cho một vị Ðại Ðức nào đến 
        đây thọ thực cũng được. 
        Ðức Thế Tôn giao phận 
        sự ấy lại cho Ðại đức Ananda. Vì vô ý nên đức vua không 
        truyền cho người trong hoàng cung phải lo vật thực, trải 
        chỗ ngồi để tiếp rước chư Tăng. Vì lẽ ấy nên đến 
        ngày thứ tám là sự tiếp rước chư Tăng đã trở nên bê 
        trễ, vì người trong hoàng cung không ai chịu khó thi hành 
        nhiệm vụ khi không có lịnh vua, nói tóm lại phần lớn 
        toàn là những bọn lười biếng vô trách nhiệm. 
        Vì lẽ ấy nên chư 
        Tăng đến thọ thực nơi hoàng cung càng ngày càng giảm xuống, 
        vì các Ngài không muốn vì miếng ăn mà phải bị trễ nải 
        tu hành của mình. Các Ngài liền lần lần đi nơi khác khất 
        thực. Ðến khi đức vua nhớ lại sự trai Tăng của Ngài, 
        Ngài liền trở lại chỗ ấy thì chỉ còn vỏn vẹn có một 
        mình Ðại Ðức Ananda thôi. Sở dĩ mà Ðại Ðức Ananda còn 
        đến là vì Ngài là bực có đào tạo rất nhiều Ba la mật 
        nên Ngài còn rán để giữ đức tin của thí chủ thôi. 
        Ngài không nản chí ngã lòng mặc dầu Ngài không được 
        người nơi ấy đối đãi nhã nhặn. Ngài phải đứng chờ 
        thật lâu mới có một chỗ ngồi và đợi rất lâu mới có 
        vật thực cúng dường. Khi đức vua nhớ đến và đến nơi 
        ấy thì chỉ còn có một mình Ðại đức Ananda ngồi nơi 
        ấy thôi. 
        Khi đức vua thấy có một 
        mình Ðại Ðức liền tức giận hỏi: Chư Ðại đức không 
        đến sao? 
        Có người đáp: Tâu Ðại 
        vương, chỉ có một mình Ðại Ðức Ananda đến mà thôi. 
        Ngài lấy làm buồn phiền 
        vì nghĩ rằng: Các vị Tỳ khưu bỏ không đến thọ thực 
        như vậy thật là bất phải. Ngài liền đi thẳng vào Kỳ 
        Viên tịnh xá bạch hỏi Phật: "Bạch đức Thế Tôn, trẫm 
        có chuẩn bị vật thực đúng năm trăm khẩu phần để dâng 
        cúng cho chư Tỳ khưu, nhưng chỉ có một mình Ðại Ðức 
        Ananda đến thọ thực thôi. Năm trăm vị Tỳ khưu mà trẫm 
        thỉnh ấy không đến thọ thực theo lời thỉnh cầu của 
        trẫm. Vậy không biết vì lẽ gì? 
        Ðức Thế Tôn không 
        nói gì đến cái quấy của chư Tăng mà cũng chẳng nói gì 
        về việc bê trễ của người trong hoàng cung, Ngài chỉ dạy: 
        Vì lẽ đệ tử của Như Lai không được thân thiện với 
        Ðại vương nhiều, nên không đến. Khi ấy đức Thế Tôn dạy 
        nhân của chư Tăng không đến. Rồi đức Thế Tôn nhóm chư 
        Tỳ khưu lại dạy rằng: 
        - Nầy các thầy Tỳ khưu, 
        gia đình nào có chín điều các thầy Tỳ khưu chưa đến không 
        nên đến. Nếu vị nào đã thường đến với gia đình ấy 
        không nên ngồi gần. (Ý nói không nên đến thường hay chẳng 
        nên đến). 
        Chín điều ấy là: 
        
          1/ Người chủ nhà 
          không đứng dậy tiếp rước niềm nỡ. 
          2/ Không lễ bái bằng cách cung kính. 
          3/ Không cho chỗ ngồi bằng cách vui vẻ. 
          4/ Che giấu những vật đã có. 
          5/ Khi có nhiều nhưng cho rất ít. 
          6/ Có đồ ngon cho đồ dở. 
          7/ Cho bằng cách không cung kính. 
          8/ Không đến gần để nghe pháp. 
          9/ Khi đang thuyết pháp giảng đạo tỏ vẻ không hài 
          lòng. 
         
        Nầy các thầy Tỳ khưu 
        gia đình nào có chín điều kể trên. Vị Tỳ khưu nào chưa 
        đến gần đừng nên đến gần. Nếu đã đến gần rồi chẳng 
        nên ngồi gần. 
        Nầy các thầy Tỳ khưu 
        gia đình nào có chín điều các thầy Tỳ khưu chưa đến gần 
        nên đến gần, nếu đã thân cận rồi nên thân cận hơn, 
        chín điều ấy là chi? Chín điều ấy là: (Xin miễn kể ra 
        đây xin quý vị hiểu trái với chín điều kể trên). 
        Tâu Ðại vương, đệ 
        tử của Như Lai không thân cận với hoàng cung vì vậy nên 
        không đến. 
        Ðức vua liền nghĩ: Vậy 
        ta phải làm sao để ra người thân với các thầy Tỳ khưu? 
        Chỉ có phương pháp là cưới con gái dòng Thích Ca về phong 
        làm Hoàng hậu. Như vậy thì các thầy Tỳ khưu trẻ tuổi và 
        Sa di sẽ là người thân của ta. Vì nghĩ muốn làm quyến 
        thuộc với Phật nên Ngài đưa sứ thần đến xin cầu hôn 
        với dòng Thích Ca. Ngài còn dặn sứ thần rằng: Phải hỏi 
        kỹ coi có phải là công chúa không và là con của ai? 
        Khi sứ thần xứ Thất 
        La Phiệt đến xin cầu hôn. Dòng Thích Ca liền họp lại 
        bàn rằng: Nếu ta không bằng lòng thì chỉ chuốc lấy tai hại 
        cho ta, nhưng trong vũ trụ nầy không ai có dòng trong sạch 
        và cao quí như dòng Thích Ca của chúng ta. Vậy chúng ta phải 
        làm sao đây? 
        Ông Mahànama có ý kiến: 
        Tôi có một người con gái con của một phi tần tên là 
        Vàsabhàkhattiyà, con gái ấy đẹp tuyệt đối, nết hạnh lại 
        rất đoan trang. Chúng ta sẽ gả nàng cho vua Ba Tư Nặc. 
        Dòng Thích Ca đều tán 
        thành ý kiến ấy. 
        Vị sứ thần hỏi: Vị 
        công chúa ấy con của vị nào trong dòng Thích Ca? 
        - Vị Công chúa ấy là 
        cháu nội của chú đức Thế Tôn tên là nàng 
        Vàsabhàkhattiyà . 
        Vị sứ thần liền về 
        trình những gì đã biết cho đức vua Ba Tư Nặc nghe. 
        Ðức vua dạy: Ðược 
        vậy càng hay, nhưng xin quý vị nên quan tâm vì dòng Thích Ca 
        có tiếng là khôn ngoan có thể trao con của một tỳ nữ cho 
        ta cũng nên. Vậy nên coi cô ta có từng ẩm thực cùng mâm với 
        cha cô không? 
        Các vị sứ thần trở 
        lại rước dâu, nhưng trước khi rước dâu tâu với đức 
        vua Mahànàma rằng: Hoàng thượng chúng tôi muốn được chứng 
        kiến trong khi Hoàng thượng và Công chúa cùng ẩm thực. 
        Ðức vua Mahànàma đáp: 
        Ðược chớ có sao. Rồi truyền trang điểm cho Công chúa thật 
        đẹp và truyền đòi đến cùng ẩm thực với Ngài. 
        Các vị sứ thần xứ 
        Savatthi thấy vậy nên tin chắc là con của đức vua Mahànàma 
        , nên làm lễ rước lịnh bà về rất là long trọng. Khi đức 
        vua trông thấy mặt công chúa Thích Ca lấy làm đẹp dạ, nên 
        liền truyền làm lễ phong chức Chánh cung vô cùng trọng thể. 
        Không lâu lịnh bà hạ sanh được một vị Hoàng nam. Ðến 
        ngày đặt tên đức vua cho một vị Ðại thần vào tâu với 
        Hoàng thái hậu rằng: Ðức vua đã có được một vị Hoàng 
        tử. Vậy lịnh bà Hoàng thái hậu và quyến thuộc muốn đặt 
        tên chi? 
        Vị Ðại thần vào 
        tâu hỏi chuyện ấy lại là một vị quan già và hơi nặng 
        tai. Khi Hoàng thái hậu được biết tin ấy bà liền phán rằng: 
        Nàng Vàsabhàkhattiyà , khi chưa có con là một vị Hoàng phi 
        được vua sủng ái hơn hết, phương chi hôm nay lại hạ 
        sanh được một vị Hoàng Nam thì càng làm cho đức vua quý 
        mến hơn lên không biết sao kể xiết. 
        Ðã lãng tai mà lại 
        không dám hỏi lại cho kỹ khi mà nghe không rõ. Vì lẽ kính 
        nể Hoàng thái hậu, ông nghe tiếng Vàsabhàkhattiyà ấy 
        thành ra Vidudabha. Nên vào tâu rằng: Hoàng thái hậu đặt tên 
        Thái tử là Vidudabha . 
        Ðức vua lấy làm lạ 
        nhưng cũng chẳng hỏi lại vì Ngài nghĩ: Chắc đây là họ 
        xưa của gia đình ta. Nên Ngài làm lễ đặt tên là 
        Vidudabha. Ðức vua rất cưng yêu Thái tử, nên khi còn là trẻ 
        con mà phong cho chức Soái. Vì Ngài nghĩ rằng: Làm như vậy 
        chắc đức Thế Tôn rất hài lòng. 
        Ðến bảy tuổi Thái tử 
        thấy các vị Hoàng tử hay các con vị hoàng thân khác có đồ 
        chơi nào là hình tượng, ngựa v.v... ở bên nội hay bên ngoại 
        gởi đến cho ,còn chính ông thì không thấy bên ngoại gởi 
        gì đến cho. Nên mới hỏi mẹ rằng: Mẫu hậu, tại sao những 
        trẻ con khác không phải con vua như con mà được người ta 
        gởi đồ biếu còn con thì ngoại con không gởi gì cho con hết 
        vậy? 
        Hoàng hậu đáp: Ngoại 
        con là dòng Thích Ca cao sang vô cùng mà cũng ở rất xa, nên 
        không gởi gì đến con. 
        Ðến mười sáu tuổi 
        Thái tử Vidudabha nói với mẹ nữa rằng: Mẫu hậu con muốn 
        về quê ngoại. Bà thường khuyên con không nên đi. Nhưng Thái 
        tử nằn nằn đòi đi, bà không thể nào ngăn được. Nên 
        phải cho đi, nhưng trước khi đi bà đã viết thư về cho dòng 
        Thích Ca hay trước. 
        Sau khi xin phép Phụ vương 
        được, ông liền dẫn theo nhiều quan quân ra đi thật là 
        oai nghiêm và rất là long trọng. 
        Nói về dòng Thích Ca 
        khi được thơ của bà Vàsabhàkhàttiya liền hội nhau lại 
        bàn rằng: Trong dòng Hoàng tộc không ai đi lạy Thái tử 
        Vidudabha được. Vậy phải cho các vị Hoàng tử và Công 
        chúa nào nhỏ tuổi hơn Thái tử Vidudabha đi ở nơi khác để 
        lánh mặt không chịu làm lễ con người phi tần. 
        Khi Thái tử Vidudabha đến 
        ,thành Ca Tỳ La Vệ hội lại nơi nhà tiếp tân tiếp đón 
        Thái tử rất nồng hậu. Khi ấy có một vị Trưởng lão đứng 
        ra giới thiệu cho Vidudabha biết rằng đây là ông, bà, bác, 
        chú, anh chị v.v... Khi người có vai lớn hơn thì Thái tử 
        phải hành lễ nghiêm trang. Sau khi chào hỏi đủ mọi người 
        Thái tử lấy làm lạ tại sao không có một người nào làm 
        lễ mình? Liền hỏi: Không có ai làm lễ tôi sao? 
        - Con ơi, những em con có 
        đứa thì phải đi học nơi xa xôi, có đứa phải đi công 
        tác nơi biên cương, có đứa đi săn bắn chưa về. 
        Thái tử Vidudabha không 
        biết nên tin bằng lời; và ở lại chơi tại thành Ca Tỳ 
        La Vệ một lúc lại ra về. Khi ấy có một cung nhơn dùng sữa 
        tươi rửa chỗ nằm ngồi của Thái tử Vidudabha và cằn nhằn 
        rằng: Chỗ nầy là chỗ ngồi của con của phi tần là 
        Vidudabha mà cũng mất công ta rửa. 
        Rất rủi là trong khi 
        ấy có một vị quan hầu của Thái tử bỏ quên cây gươm 
        nơi ấy nên trở lại mang đi. Vừa khi nghe câu nói ấy, ông 
        mới hỏi và được biết sự thật do người cung nữ ấy nói. 
        Ông liền đem chuyện ấy về nói với quan quân theo hầu 
        nghe. Chuyện ấy trở nên chuyện rất quan trọng. Thái tử 
        Vidudabha nghe lời ấy lấy làm tức giận nên nói rằng: Ta sẽ 
        lấy máu nơi cổ của dòng Thích Ca rửa chỗ của họ ngồi 
        hay đứng; sau khi ta được tức vị thay phụ vương trị dân. 
        Sau lại đức vua Ba Tư 
        Nặc nghe được chuyện ấy lấy làm tức giận giáng bà 
        Vàsabhà từ Chánh hậu xuống hàng tôi đòi. Giáng Thái tử 
        Vidudabha từ Soái xuống hàng quân nhân mà bị cầm tù. 
        Ðôi ba ngày sau khi 
        giáng cấp Hoàng hậu và Thái tử Ðức vua mới vào hầu đức 
        Thế Tôn và bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, quyến 
        thuộc của Ngài gả con gái của phi tần cho trẫm. Vì vậy 
        trẫm giáng nàng và con xuống hạng tôi đòi. 
        Ðức Thế Tôn không 
        nói chi về việc giáng hay thưởng. Ngài nói: Tâu Ðại vương, 
        dòng Thích Ca làm chuyện ấy thật quấy. Nếu đã nhận lời 
        gả cho Ðại vương thì phải gả một vị Công chúa thật mới 
        xứng đáng. Ðại vương, Như Lai xin bảo cho Ðại vương hiểu 
        rõ điều nầy rằng: Nàng Vàsabhàkhattiya là con gái của đức 
        vua Mahànàma và đã chánh thức làm lễ sính hôn với Ðại 
        vương trước công chúng. Thái tử Vidùdabha có là do nơi dòng 
        máu của Ðại vương. Sự thật họ mẹ không quan trọng mà 
        chỗ quan trọng là do nơi họ cha. Vì vậy nên khi xưa các vị 
        minh quân phong Chánh hậu cho một cô gái nghèo đi hái củi về 
        bán và về sau con của cô ấy lại làm vua tại xứ 
        Bàrànasì có danh là Katthavàhana . 
        Ðức vua nghe chuyện 
        ấy hết tức giận, vì nghĩ rằng: Họ mẹ không quan trọng 
        bằng họ cha. Ngài liền hạ chiếu tha cho hai mẹ con và được 
        phục lại chức vụ cũ. 
        Ðức vua Ba Tư Nặc có 
        một vị Tướng quốc cũng là bạn đồng môn tên là 
        Bandula. Ông là người tài ba lỗi lạc có phần hơn cả nhà 
        vua. Hơn nữa ông là người thanh liêm chánh trực. Vì vậy bọn 
        gian thần ghét ông vì không thể ăn khoét của dân chúng hay 
        gian lận của công khố. Dân chúng yêu thương ông như một 
        ông cha hiền. 
        Vì ông là người có 
        nhiều uy tín và dân chúng yêu thương nên bọn tham quan ô lại 
        oán ghét ông. Nên mới kiếm chuyện tâu với đức vua Ba Tư 
        Nặc rằng: Ông Tướng quốc ngoài thì lo lấy lòng dân trong 
        thì lo họp với các quan tính đoạt ngai vàng. Lời ấy lâu 
        ngày làm cho đức vua tin, vì vậy Ngài định giết Tướng 
        quốc và các con của Ngài. Ðức vua không dám ra lịnh giết 
        người vô tội, nên hạ chiếu sai Tướng quốc đem binh dẹp 
        loạn biên cương, còn một mặt Ngài cho phục binh giữa đường 
        chờ khi đêm tối xông vào bắt Tướng quốc và các con giết 
        sạch. Chuyện ấy đã thành công, nhà vua nào biết vì vô 
        tình đã giết bạn hiền mà cũng là một đại thần tài 
        danh hơn người. Sau vì biết đã giết lầm người bạn lành 
        nên đức vua lấy làm ân hận. Truyền trả quan chức lại 
        và phong thưởng cho vợ Tướng quốc, nhưng bà từ chức và 
        xin trở về quê vì bà là Công chúa dòng Licchavì xứ 
        Vesàlì. Ðức vua thấy bà không nhận lời liền giao quyền 
        ấy cho cháu ông Bandula là Dighakarayana lên làm Tướng quốc. 
        Mặc dầu được làm Tướng 
        quốc thế cho bác nhưng lòng vẫn oán thù đức vua và cố 
        tìm thế hại đức vua cho kỳ được. 
        Nói về đức vua Ba Tư 
        Nặc từ khi biết mình giết lầm một đấng công thần và 
        là bạn cùng thầy thì Ngài lấy làm ân hận không sao kể 
        xiết, Ngài quên ăn mất ngủ, cả ngày chỉ nhớ bạn xưa; 
        sức khỏe càng ngày càng kém. 
        Khi đức Thế Tôn ngự 
        tại Medalupa tại xứ Saka. Ðức vua Ba Tư Nặc muốn đến yết 
        kiến đức Thế Tôn, Ngài liền ngự đi bằng cách đại giá 
        và Ngài đem cả gươm lịnh theo. Khi đến nơi Phật ngự, Ngài 
        truyền đóng quân lại nơi xa chùa vì Ngài không muốn làm 
        kinh động đức Thế Tôn và Tăng chúng. Ngài liền cởi đồ 
        triều phục và gươm cùng ấn lịnh giao cho Tướng quốc còn 
        Ngài thì vận thường phục vào hầu Phật. 
        Dịp may hiếm có, Tướng 
        quốc nhân cơ hội ấy liền trao gươm và ấn lại cho Thái 
        tử Vidudabha và kéo đại đội quân mã ra về chỉ để lại 
        con ngựa và một nàng hầu cho nhà vua thôi. Sau khi hầu Phật 
        ra, đức vua không còn thấy quân đội của mình chỉ còn 
        có một con ngựa và một nàng hầu. Hỏi nàng hầu mới biết 
        cớ sự. Ðức vua nghĩ: Thôi ta cũng có phương pháp trị 
        chúng, ta phải nhờ cháu ta (là đức vua A Xà Thế) bắt 
        Vidudabha. (Ðức vua A Xà Thế là một nhà vua giỏi về chiến 
        trận nhứt trong thời ấy, đến đổi đức vua Ba Tư Nặc mấy 
        lần đem binh vấn tội vẫn phải bị thua). Ðức vua cùng 
        nàng hầu ra đi về thành Vương Xá, vì đi đường cực khổ 
        thiếu thốn đủ mọi việc, nắng gió, khi đến cửa thành 
        Vương Xá thì là cửa thành cũng vừa đóng, nên nhà vua phải 
        nghỉ ở một cái nhà bên vệ đường thường gọi là Quá 
        Nhai Ðình. Nhà vua vì mệt nhọc nên lâm bệnh, thăng hà 
        trong đêm ấy. Sáng ngày nghe tiếng nàng hầu khóc kể: Ðại 
        vương ơi, Ngài là đấng tối cao giàu sang quyền uy cao cả 
        mà hôm nay thăng hà nơi cái chòi nhỏ như vầy. 
        Ðức vua A Xà Thế nghe 
        tin ấy lật đật đến nơi thỉnh xác vào thành làm lễ hỏa 
        táng thật là long trọng theo thể lệ của một vị Ðại vương. 
        Sau khi Thái tử 
        Vidudabha về thành tức vị xong. Ðiều thứ nhứt mà nhớ đến 
        là trả mối thù của dòng Thích Ca khinh khi là con người tỳ 
        nữ. Liền truyền điểm đại đội hùng binh kéo đi đánh sứ 
        Sakka. Trong tâm định phải tru diệt cho hết sạch dòng 
        Thích Ca. 
        Ðồng thời, vua 
        Vidudabha đem binh đi đánh dòng Thích Ca. Ðức Thế Tôn cũng 
        biết. Ngài thấy tai nạn vĩ đại phải đến với dòng 
        Thích Ca. Ngài nghĩ: Ta phải tìm phương cứu vãn tình thế 
        này, không thì cả đôi bên đều bị tiêu diệt hết. 
        Sáng ngày hôm ấy đức 
        Thế Tôn khất thực và thọ thực xong, Ngài dùng thần 
        thông bay đi, ngự nơi cội cây không có nhánh lá chi hết nơi 
        ranh giới của hai nước, Ngài ngự bên ranh giới xứ Sakka , 
        bên biên giới bên kia cũng có một cây tàng lá sum suê. 
        Ðức vua Vidudabha ngự 
        đến biên giới trông thấy đức Thế Tôn nên đến gần đảnh 
        lễ xong bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn, tại sao Ngài lại 
        ngự dưới cội cây không có bóng mát trong khi trời nóng oi 
        ả như thế nầy. Xin thỉnh Ngài ngự dưới cội cây dừng 
        mé bên kia đường có bóng rất mát. 
        - Như Lai ngự nơi đây 
        được rồi. Không có bóng nào mát bằng bóng mát là quyến 
        thuộc. 
        Ðức vua Vidudabha nghe vậy 
        biết ý nói của đức Thế Tôn, liền nghĩ rằng: Sở dĩ mà 
        đức Thế Tôn ngự đến đây ngồi dưới cội cây không 
        nhánh lá chi hết là Ngài muốn bảo vệ quyến thuộc. Ðức 
        vua truyền lịnh thâu quân về thành. 
        Ðức Thế Tôn cũng ngự 
        về Kỳ Viên tịnh xá. Ít lâu sau, đức vua Vidudabha lại nhớ 
        đến chuyện cũ, liền truyền lịnh xuất chinh nữa. Nhưng lần 
        nầy cũng như lần trước, nên Ngài lại thâu quân về. Lần 
        thứ ba cũng thâu quân về vì gặp Phật. Nhưng đến lần thứ 
        tư, đức Thế Tôn trông thấy không nên ngăn đón lại, vì 
        nghiệp ấy rất là nặng, dòng Thích Ca phải chịu vậy. Vì 
        dòng Thích Ca đã tạo từ quá khứ là dùng thuốc để thuốc 
        cả một đầm cá, vì nghiệp ấy nên không thể cản ngăn 
        được. Vì vậy nên đức Thế Tôn không đến nơi ấy nữa. 
        Ðức vua Vidudabha liền xua binh đánh vào xứ Sakka và đánh 
        đến thành Ca Tỳ La Vệ. 
        Dòng Thích Ca là dòng 
        có tiếng giỏi về chiến trận và nhiều mưu trí, nhứt là 
        bắn tên thì không ai bằng, vì bắn đã chuẩn mà tên đi thật 
        mạnh. Nhưng từ khi đức Thế Tôn thành đạo về giáo hoá 
        dòng Thích Ca, nên từ khi được thấm nhuần lẽ đạo, tất 
        cả dòng Thích Ca ai ai cũng thọ trì tam qui và ngũ giới, nên 
        những người ấy nhứt định không sát sanh mặc dầu người 
        khác có giết cũng đành chịu vậy. Vì thế nên khi đức 
        vua Vidudabha đem binh đến vây thành, dòng Thích Ca bắn rát 
        quá không dám đến gần, vì tên ấy bay ngang qua tai qua mặt 
        v.v...; chính vua Vidudabha cũng kinh sợ và nói với quan hầu rằng 
        bọn Thích Ca hằng nói rằng: Ta không sát sanh, nhưng sao họ 
        bắn rát quá, chúng ta chết mất đi thôi. 
        Vị quan ấy tâu: Tâu 
        Ðại vương, Ngài hãy coi quan quân của ta có chết người nào 
        không? 
        Ðức vua coi lại thì 
        quan quân của mình không hao hớt một người nào, Ngài yên 
        lòng liền ra lịnh tấn công và bảo chỉ được phép giết 
        những người nào dòng Thích Ca, còn ngoài ra không nên giết 
        người nào khác. Nhưng chỉ chừa ngoại tổ của Ngài là đức 
        vua Mahànàma thôi. 
        Dòng Thích Ca thấy 
        quân thù càng đến gần không còn bắn được nữa nên đành 
        đứng xuôi tay cho người giết thôi. Có người lanh trí khi 
        bị người hỏi ngươi là chi? Lấy cọng cỏ ngậm nói là cỏ, 
        là rơm v.v... nhờ vậy mà khỏi chết. Nên dòng Thích Ca còn 
        đến ngày hôm nay. 
        Vua Vidudabha truyền bắt 
        ngoại tổ Ngài là đức Mahànàma đến để đem về thành 
        Savatthi. Khi đem nhà vua đến ông ra lịnh đức vua Mahànàma 
        phải cùng ăn cơm chung với Ngài. Lẽ cố nhiên, một vị Ðế 
        vương thà là chết chớ không bao giờ chịu nhục, nên đức 
        vua Mahànàma không chịu ăn chung với Vidudabha. Nên Ngài nói: 
        Mình ta rất dơ bẩn vậy để ta đi tắm ở hồ kia xong lại 
        dùng cơm. 
        - Ðược, ngoại tổ cứ 
        tự tiện. 
        Ðức vua Mahànàma nghĩ: 
        Nếu ta không ăn chung với đứa bé nầy thì chắc chắn nó 
        sẽ giết ta; thà ta chết đi còn hơn. Nghĩ xong, Ngài liền 
        xõa tóc ra dùng tóc cột vào hai ngón chân cái xong nhào xuống 
        hồ tự tử. Ngài là người có nhiều công tu hành từ vô số 
        kiếp và duyên lành của Ngài sẽ đắc A-la-hán quả kiếp nầy, 
        nên Long vương hiện lên tiếp Ngài đem về cõi Long vương. 
        Mười hai năm sau, Ngài trở lại trần thế và tu đắc 
        A-la-hán quả, là một trong tám mươi vị đại đệ tử Phật. 
        Ðức vua Vidudabha đợi 
        lâu không thấy ngoại tổ trở lại, truyền quan quân đốt 
        đuốc tìm Ngài nhưng tìm không gặp. Ðức vua Vidudabha nghĩ: 
        Chắc ngoại tổ ta đã trở về thành nội, Ngài liền truyền 
        nhổ trại ra đi. 
        Khi đến sông 
        Acìravatì thì trời vừa tối. Ngài truyền an dinh hạ trại, 
        vì nghiệp tru diệt dòng Thích Ca quá nặng, bởi phần đông 
        dòng Thích Ca là Thánh nhơn, đắc từ Tu-đà-hườn hay Tu đà 
        hàm, nên những người háo sát giết càng nhiều tội càng nặng. 
        Nên nghiệp khiến cho những người ấy nóng nảy xuống ngủ 
        gần mé sông, còn những người ít sát hại lại lên ngủ 
        ở triền núi. Ðến khuya nước thủy triều dâng lên mạnh, 
        những người ngủ mê ở mé sông bị nước cuốn trôi đi và 
        chết hết, trong những người ấy có cả đức vua Vidudabha 
        . 
        Khi hàng đại chúng hay 
        chuyện dòng Thích Ca bị tru diệt hội nhau lại bàn rằng: 
        Thật là chuyện không hợp pháp dòng Thích Ca là dòng tu 
        hành giữ giới sát thật thanh cao mà bị tai nạn vô cùng 
        kinh khủng thật đáng nghi ngờ. 
        Ðức Thế Tôn nghe vậy 
        mới dạy rằng: Nầy các thầy Tỳ khưu, sự bị tru diệt của 
        dòng Thích Ca thật không thích đáng trong kiếp nầy, nhưng sự 
        thật thì cái chết ấy là thích đáng với việc làm của 
        những người ấy trong kiếp quá khứ. Vì những người ấy 
        kiếp xưa làm nghề hạ bạc đem thuốc độc để vào ao hồ 
        giết không biết bao nhiêu tôm cá. 
        Ngày khác, các vị Tỳ 
        khưu hội lại nói đức vua Vidudabha tiêu diệt hết dòng 
        Thích Ca khi đem binh về không tới thành mà đưa quân đi đến 
        nơi tử địa là bụng cá và đại dương. 
        Ðức Thế Tôn ngự đến 
        hỏi các thầy đang bàn về những gì đây? 
        Chư Tỳ khưu bạch lại 
        những gì đang bàn đến. 
        Ðức Thế Tôn dạy rằng: 
        Nầy các thầy Tỳ khưu, khi tâm con người chưa đến nơi cùng 
        tột, thì tử thần lại đến sát hại ví như nước lũ tràn 
        ngập hết nhà cửa vậy. 
        
        Rồi đức Thế Tôn thuyết câu kệ: 
        
        PUPPHÀNI HEVA PACINANTAM. 
        BYÀSATTAMANASSAN NARAM 
        SUTTAM GÀMAM MAHOGHOVA 
        MACCU ADAYA GACCHATI. 
        Nghĩa: Tử thần bắt 
        người có tâm hằng phóng túng theo đề mục đang bẻ hoa, 
        cũng như nước lũ trôi những ngôi nhà (mà chủ nhân) đang 
        ngủ mê vậy. 
        CHÚ GIẢI: Ý nói con người 
        tầm thường mê sa theo trần cảnh, tâm ấy hằng chạy theo 
        đề mục (là các sự việc bên ngoài). Khi tử thần đến bắt 
        đi cũng chẳng hay biết chi hết. Ví như người ngủ trong nhà 
        mà không hay biết rằng nước lũ đã tràn đến và trôi đi 
        mà cũng chẳng hay chi hết. 
        Sau khi dứt câu kệ có 
        rất nhiều người đắc Tu-đà-hườn quả. 
        -ooOoo- 
        Trang 
        trước | Ðầu trang | Mục 
        lục | Trang kế  |