| 
         THIÊN THỨ 
        CHÍN 
        ÐỘ ÐỨC 
        TỊNH PHẠN VƯƠNG ÐẮC A-LA-HÁN QUẢ  
        VÀ NGÀI NHẬP DIỆT
        -ooOoo- 
        Khi 
        đức Thế Tôn ngự tại Vương Xá thành tại Trúc Lâm tịnh 
        xá hạ thứ tư. Khi sắp nhập hạ thứ năm Ngài cùng năm ngàn 
        vị Tỳ khưu ngự về xứ Vesàlì nhập hạ ở tư thất gọi 
        là KUTÀGÀRASÀLA ở rừng gần thành Vesàlì . 
        Trong năm đó đức Tịnh 
        Phạn Vương lâm trọng bịnh, tất cả lương y trong xứ được 
        triệu đến chữa bịnh cho Ngài, tất cả hoàng thân nhứt 
        là lịnh bà Gotami hết lòng lo chăm nom săn sóc nhưng bịnh 
        không hề thuyên giảm, thân hình càng ngày càng tiều tụy, 
        Ngài không nằm yên được vì chứng bịnh hành hạ. Ngài 
        than rằng: Ta thọ khổ rất nhiều. Bỗng dưng trong khi ấy 
        Ngài lại nhớ đến người con yêu quí duy nhứt của Ngài 
        là đức Thế Tôn, Ngài mới nghĩ rằng: Phải chi có đức 
        Thế Tôn nơi đây, Ngài sờ vào đầu ta, còn đức Ananda rờ 
        vào hai bên thân trái và phải của ta, còn Ra Hầu La cháu nội 
        ta rờ vào hai chân ta, thì sự khổ sở của bịnh tình hành 
        hạ ta chắc chắn sẽ thuyên giảm. 
        Ðồng thời khi ấy nhằm 
        lúc gần sáng đức Thế Tôn xuất thiền dùng tâm từ bi rải 
        khắp tam giới nguyện cho chúng sanh được an vui hạnh phúc 
        không gây oan trái với nhau, không giết hại nhau. Rồi Ngài 
        mới dùng tuệ nhãn xem coi chúng sanh nào có duyên lành để 
        Ngài độ trong ngày ấy. 
        Phàm một vị Chánh đẳng 
        Chánh giác hằng hành theo năm điều trong ngày, năm điều 
        ấy gọi là Sở dụng thời giờ của Phật. 
        Phạn ngữ gọi là PANCAVILOKANATHA 
        là: 
        1) PUBBANHE PINDAPÀTANCA. 
        Buổi sáng Ngài ngự đi khất thực. 
        2) SÀYANHE DHAMMADESANAM. 
        Buổi chiều lại Ngài thuyết pháp độ chúng sanh. 
        3) PADOSA BHIKKHU OVÀDAM. 
        Buổi tối Ngài dạy đạo cho chư Tăng. 
        4) ADDHARATTE DEVAPANHANAM. 
        Khuya lại Ngài đáp những câu hỏi của chư Thiên thắc mắc. 
        5) PACCÙSEVA GATE KÀLE 
        BHABBÀBHABBE VILOKANAM. Lúc rạng đông Ngài dùng trí tuệ xem 
        coi chúng sanh nào hữu duyên cùng Ngài trong ngày ấy, Ngài ngự 
        đi giáo hóa. 
        Lúc bấy giờ ấy đức 
        Thế Tôn xem thấy phụ vương Ngài đang lâm trọng bịnh, 
        đang bị bịnh tình hành hạ nằm không yên và rất nhớ đến 
        Ngài cùng Nanda, Ananda và Ra Hầu La cháu đích tôn của Ngài. 
        Ðức Thế Tôn mới nghĩ rằng: Ta nên trở về thăm viếng 
        săn sóc bịnh tình cho phụ vương. 
        Ðức Thế Tôn liền gọi 
        đức Ananda đến và dạy rằng: Ananda nầy, chúng ta nên về 
        thăm đức vua Tịnh Phạn. Chúng ta chỉ còn được gặp mặt 
        Ngài lần nầy là lần chót. Hơn nữa đức vua đang có tâm 
        hướng về chúng ta, Ngài mong ước được gặp chúng ta; đây 
        là cơ hội đặc biệt chúng ta gặp lại Ngài. Chư Thánh Tăng 
        ở nơi nào ngươi hãy đến nơi ấy cho các vị ấy hay rằng: 
        Như Lai về thành Ca Tỳ La Vệ thăm phụ vương. 
        Ðại Ðức Ananda đáp: 
        Xin vâng! 
        Rồi Ngài lật đật ra 
        đi truyền lời dạy của đức Thế Tôn cho chư Thánh Tăng 
        hay. 
        Tất cả chư Thánh Tăng 
        kể cả hai vị đại đệ tử và tám mươi vị đại đệ tử 
        khác cùng chư Thánh Tăng ngoài ra khi nghe tin ấy đến hội hợp 
        nhau đợi cùng đi với Phật vì quí Ngài có thông tuệ biết 
        rõ tất cả mọi việc. 
        Ðức Ananda về bạch lại 
        mọi việc cho Phật hay và cho Phật biết rằng: Chư Thánh Tăng 
        đã hội lại đủ mặt. 
        Ðức Thế Tôn liền đến 
        nơi hội và phán với chư Thánh Tăng rằng: Quí vị đây đều 
        là người muốn đến viếng phụ vương của Như Lai lần chót 
        chăng? 
        Sau đó đức Thế Tôn 
        dùng thần thông bay đi chư Thánh Tăng cũng theo Ngài tùy theo 
        hạ cao thấp đi một hàng trông thật đẹp mắt. Khi đến 
        thành Ca Tỳ La Vệ, đức Phật cùng chư Thánh Tăng ngự ngay 
        vào cung vua đang ngự. Ðức Phật ngự nơi đầu long sàng vừa 
        tầm mắt đức vua trông thấy. Ðức Thế Tôn trông thấy Phụ 
        hoàng thân hình tiều tụy lấy làm thương hại, Ngài liền 
        phán hỏi căn bịnh và đang đau nhức nơi nào. Ðức vua nghe 
        những lời han hỏi của đức Thế Tôn lấy làm cảm động 
        rưng rưng đôi hàng lệ và bạch rằng: 
        - Bạch đức Thế Tôn; 
        sự đau khổ của cơn bịnh không biết kể sao cho hết, trẫm 
        không còn sống thêm được nữa rồi. 
        Ðức Thế Tôn dạy: 
        Tâu Ðại vương, xin Ðại vương đừng nghĩ như vậy. Ðức 
        Thế Tôn liền đưa tay mặt ra đồng thời phát nguyện rằng: 
        - Nếu Như Lai đã có 
        hành ba mươi pháp Ba la mật quí báu cao thượng trong bốn 
        A-tăng-kỳ và trăm ngàn kiếp vì cố ý đem sự lợi ích đến 
        cho chúng sanh, xin do nơi oai lực của phước báu ?y, khi Như 
        Lai dùng tay phải rờ vào đầu của Phụ vương, xin cho sự 
        đau khổ ấy tiêu diệt. Ðức Thế Tôn phát nguyện xong rờ 
        vào đầu của đức Tịnh Phạn Vương, sự đau đớn vì cơn 
        bệnh thuyên giảm ngay. 
        Khi ấy đức Ananda đảnh 
        lễ đức Thế Tôn xong đến gần long sàng của đức vua, rồi 
        phát nguyện rằng: 
        - Tôi là người hằng 
        theo hầu Phật như bóng với hình, đây là lời thành thật 
        của tôi, xin cho khi tôi dùng tay rờ vào mình của bá phụ, 
        tôi xin cho Ngài được giảm sự đau khổ vì cơn bịnh hành 
        hạ. Ðức Ananda liền rờ vào mình đức vua thì căn bịnh 
        thuyên giảm ngay lập tức. 
        Ðức Nanda liền đến 
        đảnh lễ Phật và cũng đến nơi long sàng rồi phát nguyện 
        rằng: 
        - Nếu tôi là người hành 
        đúng theo lời giáo huấn của đức Ðại Giác. Tôi xin nguyện 
        rằng: Do nhờ oai lực hành theo Thánh pháp ấy khi tôi rờ 
        vào mình của phụ vương tôi xin cho căn bịnh được tiêu 
        tan. Khi ngài rờ vào đức vua cảm thấy được mạnh khỏe 
        như xưa. 
        Ðức Ra Hầu La cũng đến 
        gần Phật đảnh lễ xong đến bên long sàng và phát nguyện 
        rằng: 
        - Khi đức Thế Tôn 
        còn là vị đại Bồ Tát trong kiếp Vesantara , Ngài hành hạnh 
        đại thí, Ngài có bố thí tôi cho ông Bà la môn tên Jùjaka. 
        Tôi vâng lời Ngài theo ông Bà la môn ấy không hề dám cãi 
        và buồn phiền Ngài trong thâm tâm. Nếu điều ấy đúng 
        theo sự thật mà tôi đã hành thì do nhờ oai lực công đức 
        ấy xin cho khi tôi rờ vào chân của nội tổ tôi thì căn bịnh 
        của Ngài tiêu tan đi lập tức. Ngài liền rờ vào chân đức 
        vua. Khi ấy đức vua cảm thấy hết bịnh. 
        Khi Ngài cảm thấy 
        trong thân thể được thơ thới an vui như đã thoát khỏi cơn 
        bịnh hiểm nghèo. Ngài liền ngồi dậy tỏ tâm hoan hỉ 
        đưa tay lên khỏi đầu đảnh lễ đức Phật và chư Tăng. 
        Ðức Thế Tôn biết rằng: 
        Ðức vua đã hết bịnh. Ngài liền dùng trí tuệ quan sát 
        coi phụ vương còn thọ được bao lâu nữa. Ngài biết rằng: 
        Ðức vua chỉ còn thọ được bảy ngày nữa thôi, và Ngài 
        hiểu rằng: Ðức vua còn có duyên lành đắc quả A-la-hán 
        trong kiếp nầy do nơi Ngài tiếp độ. Ngài liền bắt đầu 
        thuyết pháp cho đức vua nghe bảy ngày đêm liền không ngừng 
        nghỉ. 
        Ðức vua yêu cầu đức 
        Thế Tôn rằng: 
        - Bạch đức Thế Tôn, 
        Ngài là đấng Ðại Từ bi chịu cực khổ thuyết pháp cho 
        trẫm nghe cả bảy ngày đêm hầu đem sự lợi ích cho trẫm. 
        Ðức Thế Tôn liền 
        thuyết bài pháp tên là ANICCÀ (nghĩa là Pháp vô thường). 
        Ðại cương như vầy: Tâu Ðại vương, tất cả sanh mạng của 
        chúng sanh rất là bé nhỏ, không trường tồn được, đời 
        sống con người mau lẹ như làn chớp chưa trông thấy thì 
        đã mất rồi, mỗi ngày qua là càng chồng chất thêm tuổi 
        già, ngoài ra còn có bịnh vào tàn phá làm cho đau khổ, đời 
        sống của người có cái chết là sự thật của nó, những 
        của cải mà người ta đã có trong đời nầy sẽ bị mất, 
        trước khi chết hay là khi chết không đem gì được về ngày 
        vị lai, đó là định luật tự nhiên chúng sanh phải gánh 
        chịu. 
        Khi nghe xong thời pháp 
        thì đức vua cũng vừa đắc A-la-hán quả. Vì trong khi nghe 
        Ngài quán tưởng theo Minh sát tuệ, Ngài trông thấy thật 
        rõ từng chi tiết của pháp Tứ Ðế, Ngài diệt trừ tận gốc 
        của vô minh và si mê nên không còn luân hồi nữa. 
        Ðức vua đắc A-la-hán 
        quả với thần thông nên Ngài dùng trí tuệ quan sát biết 
        rõ nhân duyên của mình, nên Ngài bạch Phật rằng: 
        - Bạch đức Thế Tôn 
        hôm nay trẫm đã giải thoát khỏi lưới của luân hồi, 
        trong thấu rõ Niết bàn bằng Tuệ. Tuổi thọ của trẫm 
        còn rất ít trẫm xin đảnh lễ đức Ðại Giác, trẫm phải 
        nhập diệt ngày hôm nay. 
        - Tâu Ðại vương, xin 
        Ðại vương hãy tùy tiện, liệu lấy thời giờ (ý đức Thế 
        Tôn dạy hãy coi giờ nào đúng vào lúc hết tuổi thọ). 
        Tất cả hoàng tộc và 
        các phi tần nhứt là bà Gotamì nghe vậy lấy làm buồn khổ 
        thương yêu Ngài nên đều than khóc náo động cả hoàng 
        cung. 
        Ðức Tịnh Phạn Vương 
        thấy vậy mới dạy rằng: 
        - Hỡi nầy các người, 
        xin các người đừng than van khóc lóc buồn thương, vì đời 
        người sanh ra trong vòng luân hồi phải có ngày chia ly với 
        tất cả những nhân vật thương yêu quí mến, và thường 
        hay rung động vì các pháp thế gian nhứt là kinh sợ tử thần. 
        Sau khi ta chết thì lần lượt đến các người kẻ trước 
        người sau, đó là con đường cuối cùng của đời người, 
        danh vọng tiền tài không đem lợi ích gì đến ta. Vậy các 
        người nên rán lo tu hành để tìm nơi bền vững lâu dài 
        không tiêu diệt, bất di bất dịch. 
        An ủi quyến thuộc 
        xong Ngài liền cúi đầu đảnh lễ đức Thế Tôn và bạch 
        rằng: 
        - Bạch đức Thế Tôn, 
        những tội lỗi nào mà trẫm đã dễ duôi do thân, khẩu, ý 
        phạm với đức Thế Tôn, xin đức Thế Tôn mở lượng Từ 
        Bi tha tội lỗi cho trẫm. Trẫm xin từ giã đức Thế Tôn nhập 
        Niết bàn. Dứt lời Ngài nằm lại long sàng nhập đại định 
        rồi tịch diệt luôn. 
        Khi đức Thế Tôn biết 
        đức vua đã tịch diệt, Ngài liền thuyết cho chư Tăng nghe 
        câu kệ: 
        - Các vị nên trông lấy 
        sự tịch diệt của phụ vương Như Lai làm đề mục, đã gọi 
        là Tử thần thì không bao giờ biết tha thứ cho nhân vật 
        nào. Nó có phận sự là giết tất cả nhân vật là cố hữu 
        của nó vậy. 
        Khi ấy lịnh bà Gotamì 
        và hoàng tộc khóc lóc than van, làm náo nhiệt cả hoàng 
        cung. Ðức Thế Tôn mới thuyết pháp về Vô thường, Khổ não, 
        Vô ngã, thì các vị ấy hiểu rõ lý của pháp bớt bi lụy. 
        Ðức Thế Tôn liền gọi 
        Ðại Ðức Ca Diếp đến dạy rằng: Như Lai phải làm chủ 
        tọa trong cuộc lễ hỏa táng nầy. Vậy Như Lai phiền ông 
        hãy đi tìm coi địa thế nơi nào thích đáng để làm nơi hỏa 
        táng phụ vương của Như Lai. (ý nói đức Thế Tôn muốn 
        tìm nơi không xa lắm không gần lắm và rộng rãi để cho 
        chư Tăng và dân chúng hội lại làm lễ). 
        Ðức Ca Diếp đáp: Xin 
        vâng! 
        Ðại Ðức liền hợp 
        với các vị bô lão trong hoàng tộc đi chọn nơi thuận tiện 
        cho cuộc lễ. 
        Chư Thiên trong cõi Sa 
        bà thế giới đều hội đến, nhứt là đức Ðế Thích 
        đem đồ thực phẩm và các vật trên cõi trời đến cúng dường; 
        đặc biệt là Ngài có đem đến một cái DIBYAKUTAG ARA. (nghĩa 
        là nóc của hỏa đài) có hình năm trăm nóc nhà chồng lên 
        nhau từ từng (quí vị hãy coi như đền vua Cao Mên, Lào, 
        Thái, hay nóc chánh điện của chùa) có cẩn nhiều châu ngọc 
        trông thật là huy hoàng tráng lệ. 
        Khi hỏa đài đã xong, 
        Ðại Ðức Ca Diếp mới vào bạch cho đức Thế Tôn rõ. Ðức 
        Thế Tôn dạy người đem nước hoa đến, tự tay Ngài đỡ 
        đầu đức vua và tắm cho Ngài. Ðức Xá Lợi Phất là người 
        múc nước xối, còn đức Phật là người kỳ rửa long thể 
        của đức Tịnh Phạn Vương. 
        Ðức Thế Tôn mới 
        phán với Ðại Ðức Xá Lợi Phất rằng: Nầy Xá Lợi Phất, 
        kẻ nào là người hành theo thiện pháp, có tâm nguyện đắc 
        quả Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, nên cố lo phụng dưỡng 
        mẹ cha, người ấy sẽ đoạt thành sở nguyện. 
        Khi tắm xong chính tay 
        đức Thế Tôn lo tẩn liệm, và Ngài khiêng linh cửu để 
        nơi quàng trong hoàng cung. Khi đến làm hỏa táng chính tay 
        Ngài khiêng linh cửu ra nơi hỏa đài và an tọa trên hỏa đài, 
        Thiên Vương Ðế Thích xuống làm lễ linh cửu xong đi quanh 
        ba vòng. Ngài liền lấy ra một viên ngọc gọi là JOTIVANSÌ 
        (viên ngọc nầy có thể làm cháy được mọi vật) chuẩn bị 
        để làm lễ hỏa táng. 
        Ðức Thế Tôn mới 
        phán rằng: Nầy Thiên Vương Ðế Thích, người hãy đình chỉ 
        lại, chuyện nầy phải chính tay Như Lai làm lễ hỏa táng 
        cho phụ vương mới phải lẽ. 
        Ðức Ðế Thích mới 
        dâng viên ngọc ấy đến tay đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn 
        đem viên ngọc để vào chân hỏa đài lửa phát cháy. Sau đó 
        chư Thiên và các vị Hoàng thân mới đem vật thơm như trầm, 
        hoa v.v... để vào hỏa đài. Trong cuộc lễ hỏa táng còn 
        có nhiều người thương tiếc khóc than, nhân tiện ấy đức 
        Thế Tôn mới thuyết pháp Vô thường để độ chúng sanh. 
        Quyến thuộc sáu nước 
        là: 1. Ca Tỳ La Vệ; 2. Devadaha; 3. Koliya; 4. Sakka; 5. Supavàsa; 
        6. Vera cùng hội đến dự cuộc lễ hỏa táng để tang thật 
        là long trọng. 
        Sau khi hỏa táng xong 
        quyến thuộc sáu nước mới hội nhau làm cuộc lễ cúng dường 
        cho chư Thánh Tăng có đức Thế Tôn làm tọa chủ. Lễ cúng 
        dường thật là long trọng. Sau khi cuộc lễ đức Thế Tôn 
        có dạy rằng: 
        - RÀJÀCO KHATTIYÀ 
        MÀTÀ. Hãy xem đức vua Tịnh Phạn Vương thăng hà mà làm gương, 
        mọi người còn sống sẽ có quyến thuộc là cha mẹ, anh 
        em, thầy tổ sẽ chết, khi người yêu thương chết thì người 
        còn lại đều buồn rầu than tiếc uất ức, vì sợ rằng 
        người quá vãng không nơi nương tựa, người ấy nên làm 
        phước bố thí hay cúng dường đến các bực đáng cúng dường, 
        sự cúng dường hay bố thí cao thượng của người còn tại 
        thế làm và đem ra hồi hướng đến người đã quá vãng. 
        Quả của sự Bố thí hay cúng dường ấy sẽ trả quả cho 
        người quá vãng một sự nghiệp quí giá. Nếu con cháu còn 
        sống mà không làm lễ cúng dường hay bố thí để hồi hướng 
        đến người quá vãng, những con cháu ấy gọi là người bất 
        hiếu, sau khi chết chắc chắn sẽ bị đọa vào ác đạo khó 
        thoát khỏi và phải chịu khổ trong cõi ấy một thời gian 
        khá lâu vậy. Người có hiếu nên biết làm việc lành là bố 
        thí hay cúng dường để hồi hướng phước báu cho quyến 
        thuộc đã quá vãng. Người có hiếu làm như thế sau khi quá 
        vãng được sanh về cõi an vui. Vì vậy bực có trí nên làm 
        việc lành do lòng trong sạch để hồi hướng quả báu đến 
        cho người đã quá vãng. Sự than khóc, uất ức, ăn năn, 
        thương tiếc thật không bổ ích chi đến người quá vãng, 
        những quyến thuộc mà được hưởng an vui là do nhờ sự 
        cúng dường hay bố thí của người còn tại thế hồi hướng 
        đến mà thôi. 
        Ðức Thế Tôn dạy đoạn 
        nầy cốt để nhắc nhở quyến thuộc đừng than khóc buồn 
        rầu nên làm việc lành, sau khi thuyết pháp xong Ngài trở về 
        chùa Nigrodha. (Tàu âm Ni Cư Ðà). 
        Một thời gian sau; lịnh 
        bà Gotamì vào hầu Phật và bạch hỏi rằng: Bạch đức Ðại 
        Giác, người phụ nữ có thể xuất gia theo Phật giáo được 
        chăng? 
        Ðức Thế Tôn không đáp 
        mà Ngài dạy rằng: 
        - Di mẫu Gotamì , Bà 
        không nên mộng ước xuất gia, người phụ nữ không nên xuất 
        gia theo Phật giáo. 
        Bà Gotamì yêu cầu đức 
        Thế Tôn cho bà xuất gia như thế đôi ba lược. Ðức Thế 
        Tôn cũng từ chối không chấp thuận. Lịnh bà lấy làm buồn 
        khổ, than khóc rồi ra về. 
        Ðức Thế Tôn ngự tại 
        thành Ca Tỳ La Vệ một thời gian vừa phải Ngài lại ra về 
        thành Vesàlì , Ngài ngụ tại Kutagàra . 
        Vì lòng hâm mộ Phật 
        pháp, nhứt là bà thấy rõ quả báo của sự giải thoát 
        nên bà rất yêu chuộng sự xuất gia, bà cùng với năm trăm 
        bà hoàng có chí hướng xuất gia đồng thí pháp đắp y mang 
        bát đi chân không từ thành Ca Tỳ La Vệ đến thành Vesalì 
        là nơi đức Thế Tôn đang ngự thuyết pháp độ chúng sanh. 
        Do quí bà là hàng vua chúa không bao giờ đi bộ, phương chi 
        hôm nay quí bà đi bộ mà lại đi chân không và đi một khoảng 
        đường rất xa nên chân của các bà đều phòng và nứt ra, 
        thân người bám đầy bụi đường, trông thật là thảm khổ. 
        Quí bà vào hầu Phật mắt đẩm đầy lệ. 
        Trước khi quí bà hầu 
        Phật thì gặp Ðại Ðức Ananda. Bà Gotamì bảo rằng: Sở dĩ 
        mà bà thí phát, đắp y cà sa trước Phật cho phép, vì bà 
        muốn xuất gia và cũng đã ba phen thỉnh cầu đức Thế Tôn 
        nhưng Ngài không cho phép. 
        Ðại Ðức Ananda nói: 
        Xin lịnh bà đình chỉ lại nơi đây. Tôi sẽ vào hầu Phật 
        và xin cho quí bà xuất gia cho bằng được. Ðức Ananda liền 
        vào hầu Phật. (từ đoạn sau đây đi tôi viết theo Tạng 
        Luật, bộ Culavagga). 
        Sau khi đảnh lễ Phật 
        xong, rồi vào nơi phải lẽ và bạch Phật: Bạch đức Thế 
        Tôn, bà Gotamì , hai chân phồng sưng lên, thân hình bà thật 
        là tiều tụy; mình bám đầy bụi đường, bà rất khổ 
        tâm, nay bà đang đứng khóc bên ngoài vì bà chắc chắn rằng: 
        Ðức Thế Tôn không ưng thuận cho phụ nữ xuất gia theo pháp 
        luật của Phật. Vậy nên đệ tử xin đức Thế Tôn mở lượng 
        từ bi cho phép hàng phụ nữ xuất gia theo pháp luật của đức 
        Thế Tôn đã giáo truyền. 
        - Ananda ơi, ngươi đừng 
        yêu cầu cho hàng phụ nữ xuất gia theo pháp luật của Như 
        Lai đã giáo truyền. 
        Ðại đức Ananda yêu cầu 
        như thế đôi ba lượt, nhưng đức Thế Tôn vẫn đáp như 
        trước. 
        Ðại Ðức Ananda mới 
        nghĩ: Tại sao đức Thế Tôn không bằng lòng cho phép hàng 
        phụ nữ xuất gia theo pháp của Ngài đã truyền, mặc dầu 
        vậy, nhưng ta cũng phải cương quyết yêu cầu xin cho kỳ 
        được. Ngài mới bạch hỏi đức Thế Tôn rằng: Bạch đức 
        Thế Tôn, khi hàng phụ nữ xuất gia theo giáo pháp của 
        Ngài, những phụ nữ ấy có thể đắc từ quả Tu đa huờn 
        đến A-la-hán hay không? 
        - Ananda nầy, nếu hàng 
        phụ nữ xuất gia theo giáo pháp của Như Lai đã giáo truyền 
        thì cũng có thể đắc đạo quả từ Tu-đà-huờn trở lên 
        A-la-hán. 
        - Bạch đức Thế Tôn 
        nếu hàng phụ nữ mà xuất gia theo giáo pháp của đức Thế 
        Tôn đã giáo truyền có thể đắc từ quả Tu-đà-huờn đến 
        A-la-hán, vậy xin đức Thế Tôn mở lòng từ bi cho hàng phụ 
        nữ xuất gia theo pháp luật của Ngài đã giáo truyền. Hơn 
        nữa lịnh bà Gotamì là người có ơn rất lớn đối với 
        Ngài, bà lại là di mẫu của Ngài, là người đã ra công 
        nuôi dưỡng Ngài, cho Ngài bú từ giọt sữa, đút từ vắt 
        cơm sau khi Phật mẫu thăng hà. 
        Theo chú giải của bộ 
        Luật nầy có giải và nêu câu hỏi rằng: Tại sao đức Thế 
        Tôn lại không cho phép hàng phụ nữ xuất gia? Có phải chăng 
        đức Thế Tôn là đấng có lòng từ bi vô lượng vô biên? 
        Ðáp: Phải; đúng vậy. 
        Nhưng đức Thế Tôn định phải có sự yêu cầu khó khăn 
        nhiều lượt như thế, để hàng phụ nữ nhận thức rằng: 
        Sự xuất gia được của chúng ta đây thật là khó. Nhờ vậy 
        nên hàng phụ nữ mới cố gắng thu thúc giới luật hoàn 
        toàn trong sạch. 
        Ðức Thế Tôn liền dạy 
        Ðại Ðức Ananda rằng: Ananda nầy, nếu lịnh bà Gotamì bằng 
        lòng thọ TÁM TRỌNG PHÁP. Và vâng giữ Tám Trọng Pháp ấy 
        là sự xuất gia của bà. 
        TÁM TRỌNG PHÁP ấy 
        là: 
        1) Mặc dầu bà Tỳ khưu 
        ni xuất gia đã được trăm hạ chăng nữa, cũng phải kính 
        trọng và đảnh lễ thầy Tỳ khưu mới xuất gia trong ngày 
        ấy (Ðức Thế Tôn ra điều học nầy để răn các bà bớt 
        lòng ngã mạn khinh người). 
        2) Bà Tỳ khưu ni không 
        thể nhập hạ nơi nào mà không có thầy Tỳ khưu (Ðức Phật 
        ra điều học nầy để chư Tỳ khưu Tăng kiểm soát quí bà 
        Tỳ khưu ni). 
        3) Bà Tỳ khưu ni phải 
        luôn luôn thực hành theo hai điều là: Phải hành lễ Phát lồ. 
        Sau hành lễ xong phải đến nơi chư Tỳ khưu cư ngụ để 
        nghe lời giáo huấn của quí Ngài. (Ðức Thế Tôn ra điều 
        học nầy để quí bà thường trực gần chư Tăng hầu nghe 
        lời giảng dạy của chư Tăng mỗi tháng hai lần). 
        4) Mặc dầu quí bà đã 
        làm lễ nhập hạ xong, đến ngày ra hạ cũng phải hành lễ 
        ra hạ, và rồi, cũng phải đến nơi cư ngụ của chư Tỳ 
        khưu Tăng hành lễ ra hạ một lần nữa. (Ðức Thế Tôn ra 
        điều học nầy để quí bà tự tỏ ra quí bà rất hòa 
        nhau). 
        5) Nếu bà Tỳ khưu ni 
        đã phạm Tăng tàng và làm lễ phạt cấm phòng mỗi ngày 
        và đã xưng tội bên Tỳ khưu ni xong cũng phải đến xưng tội 
        với chư Tỳ khưu Tăng. 
        6) Nếu có giới tử muốn 
        xuất gia Tỳ khưu ni, quí bà đã cho xuất gia xong rồi, nhưng 
        phải đưa đến cho xuất gia lại nơi chỗ có kiết giới của 
        chư Tỳ khưu Tăng. 
        7) Bà Tỳ khưu ni không 
        quyền thóa mạ chư Tỳ khưu. 
        8) Vị Tỳ khưu luôn 
        luôn có quyền giáo huấn chư Tỳ khưu ni, chư Tỳ khưu ni không 
        bao giờ có quyền giáo huấn vị Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu ni 
        không quyền dễ duôi đối với vị Tỳ khưu, và phải hết 
        lòng cung kính. 
        - Ananda nầy, nếu bà 
        Gotamì ưng thuận thọ trì Tám Trọng Pháp mà Như Lai đã dạy 
        trên thì Như Lai chấp thuận cho bà xuất gia bằng cách thọ 
        Tám Trọng Pháp. 
        Ðại đức Ananda học 
        thuộc lòng tám điều ấy xong liền đến nơi của bà 
        Gotamì và bảo bà: Nếu lịnh bà bằng lòng thọ Tám Trọng 
        Pháp đó là phương pháp xuất gia của lịnh bà. Ðại Ðức 
        Ananda liền đọc lại tám điều mà đức Thế Tôn đã khẩu 
        truyền. 
        Khi bà Gotamì nghe xong 
        Tám Trọng Pháp liền nói rằng: Bạch Ðại Ðức lẽ thường 
        thanh niên thanh nữ đều ưa thích tắm rửa trang điểm, đầu 
        giắt hoa sen hay hoa ma lị v.v... Cũng ví như tôi ưa thích 
        Tám Trọng Pháp vâng giữ hành theo trọn đ?i. 
        Ðại Ðức Ananda trở 
        lại hầu Phật đảnh lễ xong bạch rằng: Bạch hóa đức 
        Thế Tôn Di mẫu Ngài là bà Gotamì rất hài lòng thọ lấy 
        Tám Trọng pháp để xuất gia. 
        Ðức Phật dạy: Ananda 
        ơi, nếu không có phụ nữ xuất gia trong giáo pháp của Như 
        Lai đã giáo truyền thì phạm hạnh còn tồn tại trong thế 
        gian nầy lâu dài hơn, chánh pháp còn tồn tại đến một ngàn 
        năm. Nhưng khi có phụ nữ xuất gia trong giáo pháp của Như 
        Lai đã giáo truyền thì phạm hạnh sẽ không còn tồn tại 
        lâu dài. Chánh pháp chỉ tồn tại được năm trăm năm. 
        Ananda nầy, trong gia đình nào có nhiều phụ nữ không có người 
        nam, gia đình ấy sẽ bị kẻ trộm đánh cắp nồi cơm rất 
        dễ, điều nầy cũng như phụ nữ xuất gia trong giáo pháp 
        nào thì phạm hạnh trong giáo pháp ấy càng không thể tồn 
        tại được lâu dài, cũng như loại cào cào châu chấu đã 
        đáp xuống ruộng lúa nào thì ruộng lúa ấy không thể tồn 
        tại lâu được, hoặc cũng như loại đuông đã sanh trong rẫy 
        mía nào thì rẫy mía ấy cũng chẳng tồn tại lâu được, 
        những điều nầy cũng ví như khi phụ nữ xuất gia theo pháp 
        luật nào giáo lý nào, thì phạm hạnh của pháp luật ấy 
        hay giáo lý của phạm hạnh ấy, không tồn tại được lâu 
        dài. Do đó người thường đắp đê để ngăn không cho nước 
        tràn ra khỏi ao hồ được. Cũng như Như Lai ra Tám Trọng 
        Pháp cấm đoán Tỳ khưu ni không cho các vị Tỳ khưu ni dễ 
        duôi trọn đời. 
        Ðây là lời Chú giải 
        của bộ Luật CULLAVAGGA . 
        Lời Phật dạy: Pháp 
        Luật có nghĩa là Giáo lý hay Giáo pháp, hay Tôn giáo. 
        Lời Phật ngôn: Ví như 
        người đắp đê to ngăn cản không cho nước tràn ra khỏi 
        ao hồ. Câu nầy có nghĩa là: Nếu người muốn giữ nước 
        trong ao hồ không cho tràn ra thì phải đấp đê ngăn nước, 
        nước ấy sẽ tồn tại được. Ðiều nầy cũng ví như đức 
        Thế Tôn đã ra Tám Trọng Pháp trước khi sanh ra những điều 
        chẳng lành, Ngài không để các bà Tỳ khưu ni vi phạm. Tám 
        Trọng Pháp nầy cũng ví như là đê để ngăn nước kia vậy. 
        Khi Ngài ra Tám Trọng Pháp ngăn ngừa mà để cho hàng phụ nữ 
        xuất gia thì chánh pháp chỉ tồn tại được năm trăm năm 
        thôi. Một khi đã có Tám Trọng Pháp ngăn ngừa trước thì 
        chánh pháp sẽ còn tồn tại đến một ngàn năm, có nghĩa là 
        nhờ có Tám Trọng Pháp ấy nên thêm được năm trăm năm. Cộng 
        là một ngàn năm. 
        Câu Phật ngôn dạy: 
        Ngàn năm có nghĩa là kể từ ngày đức Thế Tôn Niết bàn 
        đến một ngàn năm sau còn có vị Thánh nhơn đắc đến bực 
        A-LA-HÁN QUẢ. Kế đến là ngàn năm thứ nhì chỉ có chư Thánh 
        nhơn đắc đến quả A NA HÀM. Kế đến ngàn năm thứ ba chỉ 
        có chư Thánh nhơn đắc đến quả TU ÐÀ HÀM. Kế đến ngàn 
        năm thứ tư chỉ có chư Thánh nhơn đắc quả TU-ÐÀ-HƯỜN 
        mà thôi... Ngàn năm thứ năm chỉ còn các vị Tỳ khưu thọ 
        giới Ba La Ðề Mộc Xa. Tức là thọ Cụ Túc giới. 
        Ðây là đoạn Chú giải 
        bộ DIGHANIKAYA (Bộ Trường A Hàm). 
        Trong bộ chú giải của 
        Tạng kinh Trường A Hàm có giải khác hơn là: 
        Ngàn năm đầu còn có 
        bực đắc A-la-hán PATISAMBHIDA , Tàu dịch là TUỆ PHAÂN 
        TÍCH. 
        Ngàn năm thứ nhì còn 
        có vị A-la-hán đắc được CHALA BHINNO , Tàu dịch là LỤC 
        THÔNG. 
        Ngàn năm thứ ba còn 
        có vị A-la-hán đắc TÊVIJJO , Tàu dịch là TAM MINH. 
        Ngàn năm thứ tư còn 
        có vị A-la-hán gọi là SUKKHAVIPASSAKA , Tàu dịch là SẮC 
        BIÊN LẠC. (quán xét các bậc thiền Sắc và Vô Sắc). 
        Ngàn năm thứ năm còn 
        giới Ba La Ðề Mộc Xa tức là Cụ Túc giới. 
        Riêng về chú giải của 
        Tạng kinh bộ ANGUTTARANIKAYA lại giải khác hơn chút là: 
        Chư đệ tử có thể 
        đắc được Tuệ phân tích ở ngàn năm thứ nhứt sau khi Phật 
        Niết bàn. 
        Ðến ngàn năm thứ nhì 
        chư đệ tử chỉ đắc được Lục thông. 
        Ðến ngàn năm thứ ba 
        chư đệ tử chỉ đắc được Tam minh. 
        Ðến ngàn năm thứ tư 
        chư đệ tử chỉ đắc được SẮC BIÊN LẠC thôi, (tức 
        là thiền Hữu sắc và Vô Sắc). 
        Sau đó chỉ còn có chư 
        Thánh nhơn đắc được ba quả dưới là A na hàm, Tư đà 
        hàm và Tu-đà-hườn. Kể ra là đủ năm ngàn năm tuổi của 
        Phật giáo. 
        Theo bộ chú giải nầy 
        chỉ cho ta thấy trong vòng năm ngàn năm còn có Thánh nhơn. 
        (Lời của soạn giả). 
        Theo đây tôi (soạn giả) 
        cũng xin nói rõ thêm là: Khi lịnh bà Gotamì xuất gia theo Phật 
        pháp, tất cả những điều học là hai trăm hai mươi bảy 
        điều răn cấm của chư Tăng chưa có, vì lúc ấy Phật 
        giáo mới truyền bá, hầu hết chư Tăng điều là bực 
        Thánh nhơn; nếu vị nào chưa đắc Thánh quả cũng đều là 
        hạng có giới đức thật trong sạch như bực Thánh nhơn, vì 
        các vị ấy có duyên lành rất dầy nên không vị nào phạm 
        một lỗi lầm mặc dầu thật nhỏ. Ðến hạ thứ sáu trở 
        đi mới bắt đầu có điều răn cấm những điều răn cấm 
        gọi là Ðiều học hay cũng gọi là Luật. 
        Sau khi Ðại Ðức 
        Ananda bạch Phật là bà Gotamì bằng lòng nhận Tám Trọng 
        Pháp để hành theo trọn đời, Ðức Thế Tôn cho bà Gotamì 
        xuất gia với năm trăm bà hoàng bằng cách thọ Tám Trọng 
        Pháp. Kể từ ngày ấy có Tỳ khưu ni và có đủ hàng Tứ 
        chúng. 
        Nói về việc hỏa 
        táng đức Tịnh Phạn Vương xong. Tất cả các vị vua trong 
        sáu nước thuộc dòng Thích Ca và hoàng tộc trong sáu nước 
        ấy lập tức hội lại bàn với nhau rằng: Trong nước không 
        nên không có vua mặc dầu chỉ trong một ngày thôi. Vì vậy 
        các vị hoàng tộc xứ Ca Tỳ La Vệ và năm vị vua kia cùng 
        đồng lòng tôn ông hoàng Mahanàma lên ngôi Hoàng đế tại xứ 
        Sakka kinh đô Ca Tỳ La Vệ; vì dòng của đức Tịnh Phạn 
        Vương không còn ai nối ngôi nữa bởi đức Thế Tôn đã xuất 
        gia và thành đạo, con thứ của đức Tịnh Phạn Vương là 
        đức Ananda cũng xuất gia, cháu nội Ngài là con đức Thế Tôn 
        là ông Ra Hầu La cũng xuất gia. 
        Riêng về bà Gia Du Ðà 
        La được tin đức Thế Tôn đã cho phép hàng phụ nữ xuất 
        gia hành theo phạm hạnh của Ngài. Bà mới nghĩ: Cố nhiên vạn 
        vật trong vũ trụ nhứt là ngai vàng của vị đế vương 
        thường hay thay đổi, không chắc của một vị nào, một 
        dòng nào. Sang, giàu, công danh sự nghiệp, ngôi vị đế 
        vương cũng ví như nghệ. Vì nghệ có dính vào người chăng 
        nữa cũng chẳng bao lâu rồi cũng phai lợt hết đi. Khi mà 
        ta còn tại tiền đây, chồng ta cũng còn hiện nay, ngai vàng 
        nầy phải là của chồng ta, nếu không vậy cũng phải là của 
        con ta, nhưng hôm nay lại thành ra của kẻ khác; đây là bởi 
        chồng ta là người cao quí không tham mùi tục lụy, mùi tục 
        lụy đối với chồng ta như nước bọt khi nhổ ra rồi không 
        bao giờ liếm lại, hoặc cũng có thể ví như người kinh sợ 
        vật thực có chất độc không bao giờ dám ăn. Sở dĩ mà 
        chồng ta bỏ ngai vàng, vợ đẹp con thơ, uy quyền tột đỉnh 
        là ngai vàng cũng vì sợ chất độc hại mình. Như vậy ta còn 
        ham mê gì trong cõi đời đầy chất độc nầy? Cung vàng điện 
        ngọc, nầy sự sung sướng của thân xác nầy, có ích gì 
        cho đời ta? Ðiều mà đáng cho ta nghĩ tới và ham mộ là sự 
        xuất gia và giải thoát khỏi thế gian đầy chất độc nầy. 
        Khi bà nghĩ vậy liền 
        vào hầu tân vương là ông Mahànàma xin Ngài cho phép xuất 
        gia. Ðức vua nhận lời. Bà cùng hai trăm năm mươi vị hoàng 
        tộc và phi tần đã theo hầu bà từ trước cùng nhau đến 
        thành Thất La Phiệt xin xuất gia Tỳ khưu ni. Ðức Thế Tôn 
        cho xuất gia. 
        Sau khi xuất gia xong bà 
        Gia Du Ðà La trì chí hành đạo. Ðức Thế Tôn dạy cách 
        hành Minh sát tuệ hợp theo duyên lành của bà, không bao lâu 
        bà đắc A-la-hán quả. 
        Ðức Thế Tôn ngự tại 
        Kỳ Viên tịnh xá của ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc dâng 
        cúng tịnh xá nầy tốn đến năm mươi bốn triệu tỷ vàng. 
        -ooOoo- 
        Trang 
        trước | Ðầu trang | Mục 
        lục | Trang kế  |