BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode VU-Times font |
THERAVĀDA NHỰT HÀNH Bhikkhu VAṂSARAKKHITA Ấn bản 2006 (PL. 2550)
|
Phần II LUẬT CƯ SĨ TÓM TẮT PHÉP TU BƯỚC ĐẦU Những người có lòng tin tưởng đến ân đức Tam Bảo và muốn Quy y làm cận sự nam (Upāsaka) hoặc cận sự nữ (Upāsika) là phép tu bước đầu cho đặng chính chắn theo bổn phận người cư sĩ, trước tiên phải tỏ lòng sám hối giữa Tam Bảo, trước một, hai, ba vị Tỳ-khưu hoặc trước mặt Tăng chúng, là từ bốn vị Tỳ-khưu trở lên, mà sám hối cũng được, rồi sau mới thọ Tam Quy mới đúng theo luật tại gia cư sĩ, xong rồi phải xin thọ trì Ngũ Giới cho đến trọn đời. Nếu có lòng tín thành sốt sắng hơn, nên thọ trì Bát Quan Trai Giới theo ngày đã định thì càng quí. Nếu chỉ có một người nam hoặc một người nữ sám hối thì phải đọc như vầy: Accayo maṃ bhante accagamā yathā bālaṃ yathā mūlhaṃ yathā akusalaṃ. Yo (yā) haṃ bhante kāyena vā vācāya vā manasā vā bhagavato buddhassa vā dhammassa vā saṅghassa vā agāravaṃ akāsiṃ tassa (tassā) me bhante Bhagavā (ayyo, ayyā, saṅgho) accayaṃ accayato patiggaṇhātu (patiggaṇhantu) āyatiṃ saṃvarāya. Bạch Đức Thế Tôn (Ngài, các Ngài, Đại Đức Tăng). Bạch Đức Thế Tôn (Ngài, các Ngài, Đại Đức Tăng). Cầu xin Đức Thế Tôn (Ngài, các Ngài. Đại Đức Tăng). Xong rồi, thầy Tỳ-khưu hoặc chư Tăng chứng minh nơi ấy phải nhận bằng tiếng "Sādhu" nghĩa là: "Phải rồi, đúng rồi". Nếu có nhiều Thiện tín, từ hai người trở lên, đồng xin sám hối một lượt thì đọc: (Nghĩa như trước, chỉ khác nhau là đổi "tôi" ra "chúng tôi"). Accayo no bhante accagamā yathā bāle (bālā) yathā mūlhe (mūlhā) yathā akusale (akusalā). Ye (yā) mayaṃ bhante kāyena vā vācāya vā manasā vā Bhagavato Buddhassa vā dhammassa vā saṅghassa vā agāravaṃ akarimhā tesaṃ (tāsaṃ) no bhante Bhagavā (ayyo, ayyā, saṅgho) accayaṃ accayato patiggaṇhātu (patiggaṇhantu) āyatiṃ saṃvarāya. Khi đã sám hối giữa Tam Bảo rồi, nên xin thọ trì Tam Quy (Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng) mới đúng theo phép tu của cận sự nam hoặc cận sự nữ trong Phật Pháp. Phép Quy y trước mặt 1, 2, 3 thầy Tỳ-khưu hoặc giữa Tăng chúng đều được cả. Nếu chỉ có một người nam hoặc một người nữ làm phép Quy y trước mặt thầy Tỳ-khưu hoặc giữa Tăng chúng thì phải đọc như sau: Esāhaṃ bhante suciraparinibbutampi taṃ Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ (upāsikaṃ) maṃ ayyo (ayyā, saṅgho) dhāretu (dhārentu) ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ. Bạch Ngài (Các Ngài, Đại Đức Tăng). Xin Ngài (Các Ngài, Đại Đức Tăng) Xong rồi thầy Tỳ-khưu hoặc Tăng chúng phải nhận bằng tiếng "Sādhu". Nếu có nhiều Thiện tín, từ hai người trở lên, đồng xin thọ phép quy y thì đọc: Ete (etā) mayaṃ bhante sucira-parinibbutampi taṃ bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāma dhammañca bhikhusaṅghañca. Upāsake (upāsikāyo) no ayyo (ayyā, saṅgho) dhāretu (dhārentu) ajjatagge pāṇupete (pāṇupetā) saranaṃ gate (gatā). Nghĩa như trước chỉ khác nhau là đổi "tôi" ra "chúng tôi". Nếu chỉ có một người nam hoặc một người nữ đối trước tượng Phật, hoặc trước tháp thờ Xá-Lợi mà làm phép quy y thì đọc: Esāhaṃ bhante suciraparinibbutampi taṃ Bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ (upāsikaṃ) maṃ Bhagavā dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gataṃ. Nghĩa như trên chỉ khác nhau chỗ gọi: Bạch Ngài, các Ngài Đại Đức Tăng, thì đọc: Bạch Đức Thế Tôn. DỨT PHẦN "PHÉP TU BƯỚC ĐẦU" * THIỆN NAM TÍN NỮ CHÚC NGƯỜI MỚI QUY Y Ngưỡng cầu Đức Phật ban ơn, PHÉP THỌ NGŨ GIỚI Những người đã thọ phép Tam Quy rồi nếu muốn thọ Ngũ giới, phải xin thọ nơi thầy Tỳ-khưu hoặc Sa-di. Trước hết phải đọc "Bài lễ bái Tam Bảo" tưởng đến ân đức Phật, Pháp, Tăng rồi mới nên đối trước mặt thầy Tỳ-khưu hoặc Sa-di mà xin thọ Ngũ giới bằng lời sau nầy: Ukāsa, Ahaṃ (Mayaṃ) bhante visuṃ visuṃ rakkhanatthāya tisaraṇena saha pañca sīlāni yācāmi (ma). Bạch Ngài, Tôi (Chúng tôi) xin thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới, nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích. Dutiyampi Ahaṃ (Mayaṃ) bhante visuṃ visuṃ rakkhanatthāya tisaraṇena saha pañca sīlāni yācāmi (ma). Bạch Ngài, Tôi (Chúng tôi) xin thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới, nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích, lần thứ nhì. Tatiyampi Ahaṃ (Mayaṃ) bhante visuṃ visuṃ rakkhanatthāya tisaraṇena saha pañca sīlāni yācāmi (ma). Bạch Ngài, Tôi (Chúng tôi) xin thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới, nơi Tam Bảo để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích, lần thứ ba. Xong rồi ông Thầy chứng minh nơi ấy phải đọc bài nầy ba lần: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa". Tôi xin hết lòng thành kính làm lễ Đức Bhagavā đó, Ngài là bậc Arahaṃ cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy." Ông thầy đọc tiếp bài Quy y Tam Bảo, người thọ giới cũng phải đọc theo: Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tôi đem hết lòng thành kính xin Quy y Phật. Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tôi đem hết lòng thành kính xin Quy y Pháp. Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tôi đem hết lòng thành kính xin Quy y Tăng. Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tôi đem hết lòng thành kính xin Quy y Phật, lần thứ nhì. Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tôi đem hết lòng thành kính xin Quy y Pháp, lần thứ nhì. Dutiyampi Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tôi đem hết lòng thành kính xin Quy y Tăng, lần thứ nhì. Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tôi đem hết lòng thành kính xin Quy y Phật, lần thứ ba. Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tôi đem hết lòng thành kính xin Quy y Pháp, lần thứ ba. Tatiyampi Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tôi đem hết lòng thành kính xin Quy y Tăng, lần thứ ba. Ông Thầy đọc: "Tisaraṇaggahanaṃ paripuṇṇam": "Phép Quy y Tam Bảo tròn đủ chỉ có bấy nhiêu". Người thọ Tam Quy đọc lời sau nầy: "Āma bhante". "Dạ, vâng" Ông thầy đọc: (Người thọ trì Ngũ giới phải đọc theo). 1. Pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. 1- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ SÁT SANH. 2. Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. 2- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ TRỘM CẮP. 3. Kāmesu micchācārā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. 3- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ TÀ DÂM. 4. Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. 4- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ NÓI DỐI. 5. Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. 5- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ DỄ DUÔI UỐNG RƯỢU VÀ CÁC CHẤT SAY. Ông thầy đọc: "Imāni pañca sikkhāpadāni sādhukaṃ katvā appamādena niccakālaṃ sammārakkhitabbaṃ". "Thiện tín (hoặc chư Thiện tín) nên thọ trì Ngũ Giới nầy cho được trong sạch, phải vâng giữ hành theo cho đến trọn đời, chẳng nên dễ duôi". Người thọ giới đọc: "Āma bhante - Dạ, xin vâng". Ông thầy giải về quả báo trong việc trì giới. Sīlena sugatiṃ yanti, Các chúng sanh được sanh về cõi Trời cũng nhờ giữ giới, các chúng sanh được giàu sang cũng nhờ giữ giới, các chúng sanh được giải thoát nhập Niết-Bàn cũng nhờ giữ giới. Bởi các cớ ấy, nên Thiện tín (hoặc chư Thiện tín) phải ráng thọ trì giới luật cho trong sạch, đừng để lấm nhơ. Người thọ giới trả lời "Sādhu - Lành thay". * PHÉP THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI Những người Thiện tín cầu xin thọ giới Bát Quan Trai, trước ngày hạn kỳ thọ giới, phải sắp đặt cho xong xuôi công việc của mình làm trong ngày thường, đặng sáng ra xin thọ giới cho được trong sạch, khỏi bị việc trần ràng buộc. Đến kỳ, sáng phải thức cho sớm, dọn mình cho sạch sẽ rồi mới đến thọ giới, nếu đi được trong lúc rạng đông thì tốt, bằng không thì phải đối trước Kim Thân, mà phát nguyện như sau: Ajja Uposatho imañca rattiṃ imañca divasaṃ uposathiko (kā) bhavissāmi. Ngày nay phải thọ trì giới Bát Quan Trai, tôi là người thọ trì giới Bát Quan Trai, trọn ngày nay và đêm nay. Nếu không thuộc tiếng Pāli thì phát nguyện bằng tiếng Việt cũng được. Sau khi đã nguyện phải giữ một lòng không nên phạm điều học mà mình phải đã thọ trì. Nếu tiện thì phải đi xin thọ giới nơi thầy Tỳ-khưu hoặc Sa-di, dầu khi mặt trời đã lên cao rồi mà mình mới đi thọ giới, thì cũng gọi rằng được thọ trọn một ngày một đêm, bởi mình đã có phát nguyện rồi, phước báu cũng bằng nhau. Khi đối trước mặt thầy Tỳ-khưu hoặc Sa-di, mà xin thọ giới Bát Quan Trai, trước hết phải đọc bài Lễ Tam Bảo, sau mới xin thọ giới. Xin thọ giới Bát Quan Trai phải đọc như vầy: Ukāsa ahaṃ (mayam) bhante visuṃ visuṃ rakkhanatthāya tisaraṇena saha aṭṭhaṅga-samannāgataṃ uposathaṃ yācāmi (ma). Bạch Ngài, (tôi, chúng tôi) xin thọ trì Tam quy và Bát Quan Trai giới, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích . Dutiyampi ahaṃ (mayaṃ) bhante visuṃ visuṃ rakkhanatthāya tisaraṇena saha aṭṭhaṅga- samannāgataṃ uposathaṃ yācāmi (ma). Bạch Ngài, (tôi, chúng tôi) xin thọ trì Tam quy và Bát Quan Trai giới, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích, lần thứ nhì. Tatiyampi ahaṃ (mayaṃ) bhante visuṃ visuṃ rakkhanatthāya tisaraṇena saha aṭṭhaṅga- samannāgataṃ uposathaṃ yācāmi (ma). Bạch Ngài, (tôi, chúng tôi) xin thọ trì Tam quy và Bát Quan Trai giới, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích, lần thứ ba. (Xong rồi ông thầy truyền giới đọc bài Namo ba lần và Tam Quy, mình phải đọc theo y như trong "phép thọ Ngũ Giới" đã có giải). * BÁT QUAN TRAI GIỚI 1. Pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. 1- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ SÁT SANH. 2. Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. 2- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ TRỘM CẮP. 3. Abrahmacariyā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. 3- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ THÔNG DÂM. 4. Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. 4- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ NÓI DỐI. 5. Surāmerayamajjappamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. 5- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ DỄ DUÔI UỐNG RƯỢU VÀ CÁC CHẤT SAY. 6. Vikālabhojanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. 6- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ ĂN SÁI GIỜ. 7. Naccagītavāditavisūkadassanamālāgandha -vilepanadhāraṇamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. 7- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa SỰ MÚA HÁT, THỔI KÈN, ĐỜN, XEM MÚA HÁT, NGHE ĐỜN KÈN, TRANG ĐIỂM, THOA VẬT THƠM, DỒI PHẤN VÀ ĐEO TRÀNG HOA. 8. Uccāsayanamahāsayanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. 8- Tôi xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa CHỖ NẰM NGỒI NƠI QUÁ CAO VÀ XINH ĐẸP. Xong rồi, người xin thọ giới đọc: Imaṃ aṭṭhaṅgasamannāgataṃ buddhap-paññattaṃ uposathaṃ imañca rattiṃ imañca divasaṃ sammadeva abhirakkhituṃ samādiyāmi. Tôi xin thọ trì Bát Quan Trai giới trọn đủ tám điều của Đức Phật đã giáo truyền, hầu để vâng giữ hành theo cho được trong sạch trọn ngày nay và đêm nay, mong cầu gieo được giống lành để thấy rõ Niết-Bàn trong ngày vị lai. Xong rồi ông thầy truyền giới đọc bằng lời sau này để nhắc nhở cho mình ghi nhớ: Imāni aṭṭha sikkhāpadāni uposathasīla-vasena imañca rattiṃ imañca divasaṃ sādhukaṃ katvā appamādena sammārakkhitabbaṃ. Chư Thiện tín nên thọ trì Bát Quan Trai giới cho trong sạch trọn ngày nay và đêm nay không nên dễ duôi. Người thọ giới đọc: "Āma bhante - Dạ, xin vâng". Xong rồi, ông thầy giải về quả báo trì giới: Sīlena sugatiṃ yanti, Nghĩa như trước Người thọ giới đọc: "Sādhu - Lành thay". DỨT PHẦN THỌ BÁT QUAN TRAI * CHI CỦA NGŨ GIỚI GIỚI SÁT SANH CÓ 5 CHI: 1- Chúng sanh có thức tánh (Pāṇo). GIỚI TRỘM CẮP CÓ 5 CHI: 1- Vật có chủ gìn giữ (Parapariggahitaṃ). GIỚI TÀ DÂM CÓ 4 CHI: 1- Người nữ không nên tà dâm, nghĩa là gái có người gìn giữ
(Agamanīyaṭṭhānaṃ). GIỚI NÓI DỐI CÓ 4 CHI: 1- Điều không thật (Atathaṃ vatthu). GIỚI ẨM TỬU CÓ 4 CHI: 1- Rượu (Majjanīyavatthu). * CHI CỦA GIỚI BÁT QUAN TRAI Các chi trong giới sát sanh, trộm cắp, nói dối, uống rượu đều giống trong Ngũ Giới. GIỚI HÀNH DÂM CÓ 4 CHI: 1- Trong 30 khiếu [1]
(Bhedanavatthu). GIỚI ĂN SÁI GIỜ CÓ 3 CHI: 1- Sái giờ (là từ chinh xế đến mặt trời mọc) (Vikālo). GIỚI MÚA HÁT, ĐỜN, KÈN, XEM MÚA HÁT, NGHE ĐỜN KÈN, ĐIỂM TRANG NHAN SẮC, NHỨT LÀ XỨC DẦU THƠM, DỒI PHẤN, ĐEO TRÀNG HOA CÓ 6 CHI: 1- Múa hát, đờn kèn (Naccagītādi). GIỚI NẰM NGỒI CHỖ QUÁ CAO VÀ XINH ĐẸP CÓ 3 CHI: 1- Nơi nằm ngồi quá cao và xinh đẹp (Uccāsayanamahāsayanaṃ). Khi thiện tín đã phạm đều đủ chi trong mỗi giới gọi là đứt giới, bằng phạm chưa đủ chi, chỉ gọi là giới bất tịnh. * HẠN KỲ TRONG PHÉP THỌ GIỚI BÁT QUAN TRAI Nếu luận về ngày kỳ, thì Giới Bát quan trai chia ra làm hai cách: 1) Phép Bát quan trai thọ trì trong một ngày và một đêm (Pakati
uposatha). Bát quan trai thọ trì trong một ngày, một đêm có 8 ngày trong mỗi tháng: ngày 5, 8, 14,15, 20, 23, 29, 30, tháng thiếu thì ngày 28 và 29. Bát quan trai thọ thêm ngày rước và ngày đưa, có 12 ngày trong mỗi tháng: ngày 1, 4, 6, 7, 9, 13, 16, 19, 21, 22, 24, 28 tháng (thiếu ngày 27): trong 12 ngày ấy đều là ngày trước và sau liên tiếp 8 ngày bát quan trai thọ trì trong một ngày và một đêm. GIẢI TÓM TẮT VỀ HAI CÁCH THỌ TRÌ BÁT QUAN TRAI Trong Bát quan trai thọ trì trong một ngày và một đêm ấy, Thiện tín phải đối trước mặt thầy Tỳ-khưu hoặc Sa-di, mà xin thọ giới mỗi khi đến ngày kỳ. Trong Bát quan trai thọ trì thêm ngày đưa và ngày rước, Thiện tín phải trau giồi đức tánh, tưởng nhớ tám điều học, trong 12 ngày đưa rước, chỉ phải giữ mình, lánh xa ngũ trần để chờ ngày đặng xin thọ trì Bát quan trai 1 ngày, 1 đêm cho thêm sự tinh khiết, không buộc phải đi thọ giới nơi thầy Tỳ-khưu hoặc Sa-di. Phép Bát quan trai thọ trì 1 ngày 1 đêm dạy phải đối trước mặt thầy Tỳ-khưu hoặc Sa-di mà xin thọ trì Tám điều học; đến khi mãn một ngày một đêm ấy, chỉ phải giữ gìn không cho phạm đến Tám điều học, nhưng không buộc phải xin thọ giới. Khi Phật còn tại thế có truyền phép Bát quan trai 6 ngày trong mỗi tháng, là ngày 8, 14, 15, 29, 30, (tháng thiếu thì 28, 29). Sau khi Phật tịch diệt được 4 tháng, có cuộc đại hội nhóm 500 vị A La Hán. Đại Đức Ma ha Ca Diếp làm tọa chủ để kết tập Kinh Luật, thấy còn cách khoảng (từ 15 đến 23, từ 30 tới mùng 8), các Ngài định thêm ngày 5 và 20 để làm phép Bát quan trai trong mỗi tháng có Tám ngày. VIỆC NÊN LÀM Thiện nam, Tín nữ đã xin thọ giới Bát quan trai 1 ngày 1 đêm, trong mỗi kỳ, nếu muốn được trọn phước thì phải giữ gìn thân và khẩu cho trong sạch, y như lời Phật đã truyền răn. Muốn cho thân được tinh khiết phải tránh xa các nghiệp nghệ trong ngày ấy, nhứt là nghề ruộng rẫy, mua bán, vì là việc làm cho giới bất tịnh. Muốn cho khẩu được trọn lành, phải ngăn ngừa những lời nói vô ích, nói đến thế sự; nhứt là biện luận về cơm, gạo, tốt, hay xấu, xứ này xứ kia có nước đục hay trong, y phục dày hay mỏng, nam nữ nhiều hay ít, v.v....; phải nói về điều lành là bàn luận về phép thọ Ngũ giới, Bát quan trai giới, và món quả báo của sự trì giới, tham thiền, trí tuệ và nghe thuyết Pháp. Trước khi niệm Phật tham thiền phải suy nghĩ về các tội của ngũ dục bằng cách sau này: Sắc, thinh, hương, vị, xúc, năm món trần ấy, đều làm cho mình mắc phải nhiều sự phiền não luôn luôn. Hoặc suy gẫm về cái thân ngũ uẩn, cho thấy rõ là vô thường, khổ não, vô ngã; nó sẽ tan rã do nhiều duyên cớ, nhứt là bị thời tiết; nó chỉ làm cho mình phải lao khổ, nó sẽ tan rã tự nhiên, nó chẳng có chi là quí trọng cả; thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cũng đều là vô thường, khổ não, vô ngã như sắc uẩn vậy. Lại suy gẫm thêm về phép động tâm: Tất cả chúng sanh trong vũ trụ, chẳng có một ai mà mình nương nhờ được dầu là cha mẹ, vợ chồng, con trai, con gái, bầu bạn hoặc gia tài cũng đều là khổ, đều là không phải là chổ nương nhờ, không có một ai chia sự vui, sự buồn hoặc thay thế cái đau, cái chết cho mình được . Nếu mình đã tạo nhân dữ, thì mình phải mang quả khổ; bằng làm lành thì được hưởng quả vui, cái khổ hoặc cái vui nó chỉ đến cho một mình ta: dầu có của cải bao nhiêu cũng không thể đem theo được, nếu suy gẫm như thế đó, thì sẽ thấy cả trong vũ trụ đều không có chỗ nương nhờ; chỉ có ân đức Phật, Pháp, Tăng; chỉ có phép Bố thí, Trì giới, Tham thiền, trí tuệ, là đáng cho mình nương theo thì mình sẽ được tiếp dẫn trong kiếp vị lai chẳng sai vậy. Nếu đã suy gẫm như vậy, rồi ắt sẽ được tỏ ngộ, cảm mến đến ân đức Tam Bảo, dùng 10 hiệu của Phật để niệm tưởng. Đức Phật có dạy cách niệm như sau này: phải tìm nơi thanh vắng ngồi kiết già hoặc bán già cho ngay thẳng, thong thả, cho thanh tịnh mà niệm. PHÉP NIỆM PHẬT CÓ BA CÁCH 1- Phải tưởng "Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho..." cho đến "Bhagavā" rồi niệm trở lại từ đầu đến cuối, cho đủ 10 hiệu Phật. Tưởng như vậy được bao nhiêu lần cũng tốt, được 1.000 lần hoặc 10.000 lần, hoặc nhiều hơn nữa càng thêm tốt, tùy sức của mình (xem hiệu Phật nơi chương Ân Đức Phật Bảo). 2- Phải tưởng "So Bhagavā itipi Arahaṃ, so Bhagavā itipi Sammāsambuddho..." cho đến "So Bhagavā itipi Bhagavā..." rồi niệm trở lại từ đầu đến cuối cho đủ 10 hiệu của Phật; tưởng như vậy được bao nhiêu lần cũng tốt, được 1.000 lần hoặc 10.000 lần, hoặc nhiều hơn nữa càng thêm tốt, tùy sức của mình. 3- Phải tưởng một hiệu Arahaṃ, hoặc Sammā- sambuddho, hoặc Buddho, hoặc Bhagavā trong 10 hiệu, niệm hiệu nào cũng được, nghĩa là chỉ tưởng một hiệu mà thôi, tưởng được nhiều càng thêm tốt tùy sức mình, song niệm thì phải hiểu nghĩa mỗi hiệu mới được (xem chương Ân đức Phật Bảo). Niệm đặng thanh tịnh thì sẽ thấy 5 pīti (phỉ lạc, vui sướng, no lòng không biết đói khát) phát sanh ra trong mình như sau này: 1- Cách no vui, da và lông đều nổi ốc (Khuddakāpīti). Nếu có một trong 5 cách no vui phát sanh thì được kết quả gần vào bậc sơ định. Phép niệm Phật không có mãnh lực cho kết quả đến bậc Sơ Định, bởi ân đức của Phật là vô lượng vô biên, khó thấu cho cùng tột được. Người thường năng niệm Phật thì tham, sân, si, không phát khởi lên đặng, năm phép chướng ngại (tham, sân, nghi nan, buồn ngủ, phóng tâm) cũng đều yên lặng. Người niệm Phật phải hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi của mình, như có Phật hằng ở trước mắt mình vậy. Cho nên dầu ít căn lành, cũng được sự hạnh phúc sẽ sanh làm người phú túc, cao sang, hoặc làm bậc trời trong kiếp vị lai; vì thế, các bậc thiện trí thức không nên khinh rẻ phép niệm Phật; phép này có nhiều phước báu, y theo lý đạo đã giải trên. * THẬP ÁC NGHIỆP 1. THÂN CÓ 3 NGHIỆP: 1- Sát sanh (Pāṇātipāto). 2. KHẨU CÓ 4 NGHIỆP: 1- Nói dối (Musāvādo). 3. Ý CÓ 3 NGHIỆP: 1- Tham muốn (Abhijjhā). Các chi của nghiệp: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối đã có giải ở chương Ngũ giới và Bát quan trai rồi. NGHIỆP NÓI HAI LƯỠI CÓ 4 CHI: 1- Người mà ta đâm thọc (Bhinditabbo paro). NGHIỆP NÓI ĐỘC ÁC CÓ 3 CHI: 1- Người mà ta đã mắng chưởi (Akkositabbo paro). NGHIỆP NÓI VÔ ÍCH CÓ 2 CHI: 1- Lời nói vô ích, nhứt là nói về việc đánh giặc của vua Mahābhārata và
nói về chuyện Rāma cướp nàng Sitā
(Bhāratayuddhasitaharaṇādiniratthakathā). Ý THAM MUỐN CÓ HAI CHI: 1- Tài vật của người (Parabhaṇḍaṃ). Ý THÙ OÁN CÓ 2 CHI: 1- Người khác (ngoài mình ra) (Parasatto). Ý THẤY LẦM CÓ 2 CHI: 1- Ý biến đổi theo điều lầm lạc, nhứt là không tin Tam Bảo (Vatthuno
ca gahitākaraviparītatā). Trong 10 nghiệp dữ đã giải, khi đã phạm đều đủ chi trong mỗi nghiệp, thì người phạm tội phải mang quả khổ trong đời này và đời sau. Nếu trong đời hiện tại mà chưa bị hành phạt, là bởi cái quả dữ ấy chưa đến kỳ, qua đời vị lai sẽ bị hành phạt chẳng sai. THẬP THIỆN NGHIỆP 1. THÂN CÓ 3 NGHIỆP: 1- Không sát sanh. 2- KHẨU CÓ 4 NGHIỆP: 1. hông nói dối 3- Ý CÓ 3 NGHIỆP: 1. Không có ý muốn được tài vật của người về làm của mình. Người nào hành theo 10 nghiệp lành đã giải trên, thì sẽ được hưởng quả vui trong đời hiện tại và vị lai chẳng sai. TỨ THẬP NGHIỆP (KAMMAPATHA) GIẾT LOÀI ĐỘNG VẬT 1. Mình giết loài động vật. TRỘM CẮP 5. Mình trộm lấy của người. TÀ DÂM 9. Mình làm sự tà dâm. NÓI DỐI 13. Mình nói dối NÓI ĐÂM THỌC 17. Mình nói lời đâm thọc. NÓI DỮ 21. Mình nói lời nói dữ. NÓI LỜI VÔ ÍCH 25. Mình nói lời vô ích. THAM MUỐN CỦA NGƯỜI 29. Lòng mình tham muốn của người về làm của mình. THÙ OÁN 33. Lòng mình thù oán mong hại người. THẤY QUẤY 37. Mình thấy quấy (giả cho là thiệt, tà cho là chánh). Trong 40 nghiệp này, nếu phạm vào một nghiệp nào, thì gọi là nghiệp ác. * GIẢI VỀ 14 PHÉP DÂNG CÚNG VẬT THỰC * Nếu Thiện nam, Tín nữ có lòng tín thành sốt sắng, muốn dâng cúng vật thực đến Tăng chúng hoặc Tỳ-khưu, Sa-di, thì nên làm theo 14 phép sau này: 1. Phép dâng cúng thực phẩm đến Tăng chúng (Saṅghabhattaṃ). 2. Phép dâng cúng thực phẩm đến 1, 2 hoặc 3 thầy Tỳ-khưu (Uddesabhattaṃ). 3. Phép dâng cúng thực phẩm đến thầy Tỳ-khưu mà mình thỉnh đến (Nimantanabhattaṃ). 4. Phép dâng cúng thực phẩm đến thầy Tỳ-khưu mà mình bắt thăm (Salākabhattam). 5. Phép dâng cúng thực phẩm đến thầy Tỳ-khưu, Tăng, trong một ngày nào không nhất định, trong thượng huyền hoặc trong hạ huyền (Pakkhikabhattaṃ). 6. Phép dâng cúng thực phẩm đến thầy Tỳ-khưu, Tăng, trong một ngày Bát quan trai (Uposathikabhattaṃ). 7. Phép dâng cúng thực phẩm đến thầy Tỳ-khưu, Tăng, trong một ngày mùng 1 hoặc ngày 16 (Pāṭipadikabhattaṃ). 8. Phép dâng cúng thực phẩm đến thầy Tỳ-khưu, Tăng, ở xa mới đến (Āgantukabhattaṃ). 9. Phép dâng cúng thực phẩm đến thầy Tỳ-khưu, Tăng có việc phải đi nơi khác (Gamikabhattaṃ). 10. Phép dâng cúng thực phẩm đến thầy Tỳ-khưu, Tăng có bịnh (Gilānabhattaṃ). 11. Phép dâng cúng thực phẩm đến thầy Tỳ- khưu, Tăng, dưỡng bịnh cho Tỳ-khưu, Tăng cùng nhau (Gilānupaṭṭhākabhattaṃ). 12. Phép dâng cúng thực phẩm thường thường đến thầy Tỳ-khưu, Tăng (Niccabhattaṃ). 13. Phép dâng cúng thực phẩm đến thầy Tỳ-khưu, Tăng, tại chỗ ở, nhứt là tại thất (Kuṭikabhattaṃ). 14. Phép dâng cúng thực phẩm đến thầy Tỳ-khưu, Tăng theo phiên mà mình đã hứa chịu cúng (Vārakabhattaṃ). Trong 14 phép dâng cúng thực phẩm này, nếu thí chủ muốn dâng cúng theo phép nào, thì phải nêu cái hiệu phép ấy bằng tiếng Pāli và nghĩa vào chỗ dấu (...) móc đầu câu, mà đọc, để dâng cúng: Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa. (đọc ba lần) Ayaṃ no bhante piṇḍapāto dhammiko dhammaladdho dhammeneva uppādito mātāpitu- ādike guṇavante uddissa imaṃ (...) saparikkhāraṃ buddhappamukkhassa saṅghassa dema te guṇavantādayo imaṃ (...) attano santakaṃ viya maññamānā anumodantu anumoditvāna yathicchitasampattīhi samijjhantu sabbadukkhā pamuñcantu iminā nissandena. Nghĩa: Bạch Đại Đức Tăng được rõ: những thực phẩm này của chúng tôi làm, hiệp theo lẽ đạo, được cũng hiệp theo lẽ đạo, chúng tôi xin hồi hướng cho các vị ân nhân của chúng tôi, nhứt là cha mẹ chúng tôi, chúng tôi dâng những thực phẩm này gọi là lễ (... tên cái lễ) có cả món ăn phụ tùng, dâng cúng đến Chư Tăng, xin Phật chứng minh, Xin cho các vị ân nhân của chúng tôi, nhứt là cha mẹ chúng tôi hay biết rằng: phước báu của lễ (... tên cái lễ) này về phần các vị đó và xin các vị đó được phép thọ hưởng tùy ý. Khi thọ hưởng rồi, thì được thoát khỏi những điều lao khổ và được kết quả làm ngưôi, quả trời cùng quả Niết-Bàn, và cho được như ý muốn của các vị ân nhân của chúng tôi nhứt là cha mẹ chúng tôi, do theo phước báu chảy vào không dứt. Lần thứ nhì, lần thứ ba. (lạy) * * Nếu dâng cúng Bốn món vật dụng đến Chư Tăng thì đọc: Mayaṃ bhante ime cattāro paccaye idhānetvā saṅghassa dema sādhu bhante saṅgho ime cattāro paccaye paṭiggaṇhātu amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya. Dutiyampi... Tatiyampi... Nghĩa: Bạch Đại Đức Tăng, chúng tôi xin kính dâng bốn món vật dụng này đến Chư Tăng. Cầu xin Đại Đức Tăng nhận lãnh bốn món vật dụng này, cho chúng tôi được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự yên vui lâu dài. Lần thứ nhì, lần thứ ba. (lạy) * * Nếu dâng Bốn món vật dụng đến thầy Tỳ-khưu thì đọc: Mayaṃ bhante ime cattāro paccaye idhānetvā āyasmato dema sādhu bhante āyasmā ime paccaye paṭiggaṇhātu amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya. Dutiyampi... Tatiyampi... Nghĩa: Bạch Ngài, chúng tôi đem bốn món vật dụng này đến đây, để dâng cúng đến Ngài. Cầu xin Ngài nhận lãnh các vật dụng này, cho chúng tôi được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự yên vui lâu dài. Lần thứ nhì, lần thứ ba. (lạy) * CÁCH DÂNG Y KAṬHINA: Imaṃ dussaṃ Kaṭhinacīvaraṃ bhikkhu-saṅghassa dema. Dutiyampi... Tatiyampi... Nghĩa: Chúng tôi xin dâng y này để làm lễ Kaṭhina đến Tỳ-khưu Tăng (bhikkhusaṅgha). Lần thứ nhì, lần thứ ba. (lạy) CÁCH DÂNG THỨ NHÌ: Imaṃ mayaṃ [2] bhante vatthūni bhikkhu- saṅghassa niyyādema [3]. Nghĩa: Bạch Đại Đức Tăng chúng tôi xin dâng những vật này đến Tỳ-khưu Tăng. Lại nữa cũng có một cách dâng Kaṭhina chung với vật phụ tùng, một lần rất tiện lợi theo Pāli như vầy: Imaṃ bhante saparivāraṃ kaṭhina-cīvaradussaṃ bhikkhusaṅghassa onojayāma sādhu no bhante bhikkhusaṅgho imaṃ saparivāraṃ kaṭhinacīvaradussaṃ paṭiggaṇhātu paṭiggahetvā ca iminā dussena kaṭhinaṃ attharatu amhākaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya. Nghĩa: Bạch Đại Đức Tăng, chúng tôi xin thành kính dâng y cùng với những vật phụ tùng này đến Tỳ-khưu Tăng. Bạch Đại Đức Tăng, cầu xin Tỳ-khưu Tăng nhận lãnh và thọ dụng y Kaṭhina cùng với những vật phụ tùng này, cho chúng tôi sự lợi ích, sự yên vui lâu dài. (lạy) Mười thứ y mà Đức Thế Tôn đã cho phép các vị Sa Môn dùng là: 1. Tam y (này): Imaṃ ticīvaraṃ. Mười thứ y này, nếu thí chủ muốn dâng cúng một thứ nào đến Chư Tăng, phải để hiệu y ấy bằng tiếng Pāli và nghĩa thêm vào chỗ dấu (...) móc hai đầu câu mà đọc: Mayaṃ bhante imaṃ (...) idhānetvā saṅghassa dema sādhu bhante saṅgho imaṃ (...) paṭiggaṇhātu amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya. Dutiyampi... Tatiyampi... Nghĩa: Bạch Đại Đức Tăng, chúng tôi xin thành kính dâng y (...) (kể rõ tên y ra) đến Chư Tăng, cầu xin Chư Tăng nhận lãnh (...) cho chúng tôi được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự yên vui lâu dài. Lần thứ nhì, lần thứ ba. (lạy) Trong mười thứ y ấy, nếu thí chủ muốn dâng cúng thứ nào đến Chư Tăng, nếu y ấy có nhiều thứ thì phải đọc hiệu y ấy bằng tiếng Pāli và nghĩa như sau nầy: 1. Tất cả tam y (này): Imāni ticīvarāni. Trong 10 thứ y ấy, nếu thí chủ muốn dâng cúng một thứ nào, phải để hiệu y ấy bằng tiếng Pāli và nghĩa thêm vào chỗ dấu (...) móc hai đầu câu mà đọc. * Nếu dâng cúng Y tắm mưa đến chư Tăng thì đọc: Mayaṃ bhante imāni (vassikasāṭikāyo) idhānetvā saṅghassa dema sādhu bhante saṅgho imāni (vassikasāṭikāyo) paṭiggaṇhātu amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya. Dutiyampi... Tatiyampi... Nghĩa: Bạch Đại Đức Tăng, chúng tôi xin thành kính dâng các Y tắm mưa này đến Chư Tăng. Cầu xin Đại Đức Tăng nhận lãnh các Y tắm mưa nầy cho chúng tôi được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự yên vui lâu dài. Lần thứ nhì, lần thứ ba. (lạy) * Nếu dâng cúng Thực phẩm đến Chư Tăng thì đọc: Mayaṃ bhante imāni khādanīya-bhojanīyādīni sajjetvā saṅghassa dema sādhu bhante saṅgho imāni khādanīyabhojanīyādīni paṭiggaṇhātu amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya. Dutiyampi... Tatiyampi... Nghĩa: Bạch Đại Đức Tăng, chúng tôi xin thành kính dâng những thực phẩm này đến Chư Tăng. Cầu xin Đại Đức Tăng nhận lãnh, cho chúng tôi được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự yên vui lâu dài. Lần thứ nhì, lần thứ ba. (lạy) * Nếu dâng cúng Thực phẩm, đến một vị thầy Tỳ-khưu thì đọc: Mayaṃ bhante imāni khādanīya-bhojanīyādīni sajjetvā sīlavato dema sādhu bhante sīlavā imāni khādanīyabhojanīyādīni paṭiggaṇhātu amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya. Dutiyampi... Tatiyampi... Nghĩa: Bạch Ngài, chúng tôi xin thành kính dâng những thực phẩm này đến Ngài là người có giới hạnh trang nghiêm, xin Ngài thọ lãnh, cho chúng tôi được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự yên vui lâu dài. Lần thứ nhì, lần thứ ba. (lạy) * Nếu dâng cúng Gạo đến Chư Tăng thì đọc: Mayaṃ bhante imāni taṇḍulāni idhānetvā saṅghassa dema sādhu bhante saṅgho imāni taṇḍulāni paṭiggaṇhātu amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya. Dutiyampi... Tatiyampi.... Nghĩa: Bạch Đại Đức Tăng, chúng tôi đem gạo này, đến đây, để dâng cúng đến Chư Tăng. Cầu xin Đại Đức Tăng nhận lãnh gạo này cho chúng tôi được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự yên vui lâu dài. Lần thứ nhì, lần thứ ba. (lạy) * Nếu dâng cúng Các thứ trái cây đến Chư Tăng thì đọc: Mayaṃ bhante imāni nānā phalāni idhānetvā saṅghassa dema sādhu bhante saṅgho imāni nānā phalāni paṭiggaṇhātu amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya. Dutiyampi... Tatiyampi... Nghĩa: Bạch Đại Đức Tăng, chúng tôi đem các thứ trái cây này đến đây, để dâng cúng đến Chư Tăng. Cầu xin Đại Đức Tăng nhận lãnh các thứ trái cây này cho chúng tôi được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự yên vui lâu dài. Lần thứ nhì, lần thứ ba. (lạy) * Nếu dâng cúng Tịnh Xá (Chùa) thì đọc: Mayaṃ bhante imaṃ (uposathāgāraṃ) kāretvā uposathaparivāraṃ ādisaṅghakamma- karaṇatthāya cātuddisassa bhikkhu saṅghassa dema sādhu bhante bhikhu saṅgho imaṃ (uposathāgāraṃ) paṭiggaṇhātu amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya. Dutiyampi... Tatiyampi... Nghĩa: Bạch Đại Đức Tăng, chúng tôi xin thành kính dâng Tịnh Xá này, đến Tỳ-khưu Tăng để hành đạo nhứt là để làm lễ Phát lồ và phép Cấm phòng. Cầu xin Đại Đức Tăng nhận lãnh Tịnh Xá này cho chúng tôi được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự yên vui lâu dài. Lần thứ nhì, lần thứ ba. (lạy) * Nếu dâng cúng Nhà mát, trường học đạo thì đọc "Imaṃ sālaṃ" Dâng cúng Tài sản đến Chư Tăng thì đọc: Mayaṃ bhante imaṃ garubhaṇḍaṃ idhānetvā bhikkhusaṅghassa dema sādhu bhante bhikkhusaṅgho imaṃ garubhaṇḍaṃ paṭiggaṇhātu amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya. Dutiyampi... Tatiyampi... Nghĩa: Bạch Đại Đức Tăng, chúng tôi xin thành kính dâng "Tài sản này" đến Chư Tăng. Cầu xin Đại Đức Tăng nhận lãnh "Tài sản này" cho chúng tôi được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự yên vui lâu dài. Lần thứ nhì, lần thứ ba. (lạy) * Nếu dâng cúng Mật ong thì đọc: Mayaṃ bhante imām madhuṃ idhānetvā bhikkhusaṅghassa dema sādhu bhante bhikkhu- saṅgho imaṃ (madhuṃ) paṭiggaṇhātu amhākaṃ dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya. Dutiyampi... Tatiyampi... Nghĩa: Bạch Đại Đức Tăng, chúng tôi xin thành kính dâng mật ong này đến Chư Tăng. Cầu xin Đại Đức Tăng nhận lãnh mật ong này cho chúng tôi được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự yên vui lâu dài. Lần thứ nhì, lần thứ ba. (lạy) Nếu dâng cúng Dầu thì đọc: (Imaṃ telaṃ). Nếu dâng cúng Nước mía thì đọc: (Imaṃ phāṇitaṃ). Nếu dâng cúng Nước Thốt nốt thì đọc: (Imaṃ tālodakaṃ). Nếu dâng cúng Thuốc chữa bịnh thì đọc: (Imaṃ gilānabhesajjaṃ). * PHƯƠNG PHÁP DÂNG CÚNG VẬT DỤNG Những người Thiện tín, nếu có lòng thành kính đem lễ vật dâng cúng đến Chư Tăng, trước phải thông hiểu theo phép ấy, và vâng giữ làm y theo, mới được trọn phước. Trong Luật này có dạy Thầy Tỳ-khưu, nếu thọ lãnh vật dụng của Thiện nam, Tín nữ đem dâng cúng phải hiệp theo 5 lẽ sau này: 1. Những vật dụng của Thiện tín bố thí, nếu Thầy Tỳ-khưu muốn cần dùng, chỉ được phép thọ lãnh nhiều lắm là đủ sức cho người bực trung gánh vác nổi thôi. 2. Thí chủ phải vào quì dâng cách xa thầy Tỳ-khưu một hắc, hoặc 1 hắc 1 gang. 3. Trong lúc dâng cúng, thí chủ phải nghiêng mình cung kính. 4. Những kẻ thí chủ là Trời, hoặc người, chẳng phải là thú. 5. Thầy Tỳ-khưu tự mình thọ lãnh, bằng tay hoặc dùng khăn, hoặc y tắm đưa ra để thọ lãnh. Những thực phẩm sắm để bố thí đến Chư Tăng để dâng qua ngày sau, chẳng nên dâng cúng đến tay Tăng, nhưng được phép giao cho người coi tài vật cho Tăng dâng cúng thế cho mình, mình cũng được phước vậy. Về cách thọ trái cây, Đức Phật có cho phép các Thầy Tỳ-khưu dùng trái cây của thí chủ dâng theo năm cách sau này: 1. Trái cây đã đốt, nướng, hoặc nhúng vào nước sôi, nước nóng: là trái cây có hột, như ớt, rau dừa, rau muống, v.v.... 2. Trái cây đã gọt, bấm, xâm bằng cây nhọn (trái trâm). 3. Trái cây mà hột không có thể gieo được (trái tươi). 4. Trái cây đã chặt, gọt, xẻ (ổi, lựu, tầm ruột, xoài, v.v...). 5. Trái cây còn gieo được thì phải lấy hột . Lời chú giải: Nếu trái cây nhỏ nhiều thì phải ngắt bỏ đầu đuôi ít trái để trên mặt rồi dâng cúng cũng được, hay là ngắt ngọn hết càng tốt. * BÀI THỈNH PHÁP SƯ Brahmā ca lokādhipatī sahampatī, * THỈNH PHÁP SƯ Thuở Phật mới đạt thành quả vị, * BÀI THỈNH TỲ-KHƯU TĂNG TỤNG KINH CẦU AN Vipattipaṭibāhāya, Cầu xin các Ngài tụng kinh cầu an để ngăn ngừa tránh khỏi các điều rủi ro tai hại, cho đặng thành tựu những hạnh phúc, khiến cho tất cả sự khổ não, kinh sợ và bịnh hoạn đều tiêu tan. (lạy) * PAṬIDĀNAGĀTHĀ Yā devatā santi vihāravāsinī, Tất cả chư Thiên hằng ngự nơi tịnh thất của chư Tăng nơi nền tháp hoặc dưới cội Bồ-đề trong vòng tịnh xá. Tā dhammadānena bhavantu pūjitā. Cầu cho tất cả chư Thiên mà chúng tôi đã dùng pháp thí cúng dường rồi. Sotthiṃ karontedha vihāramaṇdale. Xin hộ trì chư Tăng trong vòng tịnh xá ấy đều được hạnh phúc. Therā ca majjhā navakā ca bhikkhavo, Xin cho sự an vui phát sanh đến những thầy Tỳ-khưu cao hạ, trung hạ hoặc mới xuất gia; những thiện tín là thí chủ, là người hộ trì Tam Bảo; những người trong thôn lân châu quận kiều cư hoặc đại nhơn. Tất cả chúng sanh đó hãy được điều hạnh phúc. Jalābujā ye pica aṇḍasambhavā, Và xin cho tất cả chúng sanh trong bốn loài: noãn, thai, thấp, hóa, khi đã nương theo pháp giải thoát thì nên hành theo cho được dứt khổ. Thātu ciraṃ sataṃ dhammo. Xin cho pháp của các bậc thiện trí thức được hưng thạnh lâu dài. Dhammaddharā ca puggalā. Xin cho những người ủng hộ các pháp được an vui trường cửu. Saṅgho hotu samaggo va, Xin cho chư Tăng được hòa hợp, tấn hóa và được kết quả lợi ích. Amhe rakkhatu saddhammo, Cầu xin Pháp Bảo hộ trì chúng tôi và những người tu Phật, cho được tấn hóa trong Pháp mà các bậc Thánh nhơn đã giáo truyền. * MĀTĀPITUPAṆĀMAGĀTHĀ Yadājāto cayo vāhaṃ, LỄ BÁI PHỤ MẪU KỆ Kính thưa cha mẹ tường tri, * BÀI SÁM HỐI (Tụng đêm 14, Rằm và 30 trong mỗi tháng) Cúi đầu lạy trước Bửu Đài, * SABBADISĀSU METTĀPHARAṆAṂ Sabbe puratthimāya disāya sattā averā sukhī hontu. Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng đông, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui. Sabbe puratthimāya anudisāya sattā averā sukhī hontu. Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng đông nam, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui. Sabbe dakkhiṇāya disāya sattā averā sukhī hontu. Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng nam, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui. Sabbe dakkhiṇāya anudisāya sattā averā sukhī hontu. Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng tây nam, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui. Sabbe pacchimāya disāya sattā averā sukhī hontu. Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng tây, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui. Sabbe pacchimāya anudisāya sattā averā sukhī hontu. Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng tây bắc, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui. Sabbe uttarāya disāya sattā averā sukhī hontu. Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng bắc, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui. Sabbe uttarāya anudisāya sattā averā sukhī hontu. Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng đông, bắc, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui. Sabbe uparimāya disāya sattā averā sukhī hontu. Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng trên, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui. Sabbe heṭṭhimāya disāya sattā averā sukhī hontu. Nguyện cho tất cả chúng sanh trong hướng dưới, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui. Sabbe sattā averā hontu, sukhitā hontu, niddukkhā hontu, abyāpajjhā hontu, anīghā hontu, dīghāyukā hontu, arogā hontu, sampattīhi samijjhantu sukhī attānaṃ pariharantu, dukkhappattā ca niddukkhā, bhayappattā ca nibbhayā, sokappattā ca nissokā, hontu sabbepi pāṇino. Nguyện cho tất cả chúng sanh đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui, đừng có khổ, đừng làm hại lẫn nhau, đừng hẹp lượng, hãy cho được sống lâu, đừng có bệnh hoạn, hãy cho được thành tựu đầy đủ, hãy giữ mình cho được sự yên vui. Tất cả chúng sanh đến khổ rồi, xin đừng cho có khổ, đến sự kinh sợ rồi, xin đừng cho kinh sợ, đến sự thương tiếc rồi, xin đừng cho thương tiếc. (Khi có sự lo sợ hoặc tối trước giờ ngủ nên thường tụng bài này, để rải tâm bác ái đến tất cả chúng sanh, ắt sẽ hết lo sợ, được yên vui ). * KINH HỒI HƯỚNG Yaṃ kiñci kusalakammaṃ, Phước căn tôi đã tạo thành, Sau khi làm xong việc tài thí hoặc pháp thí rồi cần phải đọc câu nguyện sau đây để dứt bỏ lòng ham muốn và mong cầu giải thoát khỏi Khổ sanh tử luân hồi: Idaṃ vata me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu ānagate: Xin cho sự phước thí mà tôi đã trong sạch làm đây, hãy là món duyên lành, để dứt khỏi những điều ô nhiễm, ngủ ngầm nơi tâm trong ngày vị lai. * NHỮNG PHƯƠNG PHÁP NÊN SUY XÉT HẰNG NGÀY Kinh Pháp Cú (Dhammapāda) có nói: "Thương yêu sanh ra lo, thương yêu sanh ra sợ. Không thương yêu thì không lo, không sợ. Ham muốn sanh ra lo, ham muốn sanh ra sợ. Không ham muốn thì không lo, không sợ". Mà lo sợ là khổ. Bởi đâu có thương yêu ham muốn? Bởi vô minh. Vô Minh (Avijjā) nghĩa là không biết, là không biết thiệt, không biết giả, thiệt nói là giả, giả nói là thiệt, như ba điều này: 1. Vạn vật trong tam giới đều không bền vững lâu dài; nay dời mai đổi (Aniccaṃ) mà mình lại cho là bền vững. 2. Nếu vạn vật không bền vững thì là khổ (Dukkhaṃ), mà mình cho là vui. 3. Chẳng có một vật gì là thật của ta [4] (Anattā) mà mình lại cho là của ta (vợ ta, con ta, của cải ta). Bởi cái lầm tưởng ấy nên mình mới có lòng sa mê vào cảnh trần giả dối. Có sa mê mới có chịu khổ đến ngày nay vậy . Chúng sanh trong sáu đường (Trời, người, a tu la, ngạ quỉ, súc sanh, địa ngục) nào có ai được bền vững lâu dài đâu; nay còn mai mất; nay tạo mai diệt; nay dời, mai đổi; nay hiệp, mai tan. Xem coi cha mẹ ta, chồng ta, vợ ta, con ta, sanh ra rồi thì lật bật kế già, đau chết, nào có ai trẻ hoài mà không già, đến khi già thì lo sợ, lo sợ là khổ . Nào có ai sống hoài mà không chết, đến khi gần chết thì lo sợ, lo sợ là khổ. Nào có ai hiệp hoài mà không lìa, đến khi lìa thì lo sợ, lo sợ là khổ. Nào có ai thạnh hoài mà không suy, đến khi suy thì lo sợ, lo sợ là khổ. Thật vậy, chẳng có một ai tránh khỏi các sự khổ ở đời. Bởi có vô minh mới có tưởng lầm, làm quấy, cho cái giả là thật, cho cái khổ là vui, mới có thương yêu ham muốn, sa mê theo ngũ trần dục lạc là: 1. Mắt hay tìm xem sắc tốt. Than ôi! Thiệt là lầm thay, ấy cũng vì mình sa đắm trong năm món trần đó, cho nên chơn tánh mới lu mờ, tinh thần mới ám muội, tạo nên nghiệp ác lâu dài, mắc phải trầm luân khổ hải, từ đời vô thủy nhẫn lại đây, chẳng biết bao nhiêu kiếp mà kể cho xiết. Nếu muốn thoát khỏi cái khổ sanh tử luân hồi thì phải trừ cái vô minh, nếu muốn trừ cái vô minh, thì phải dứt cái lòng ái dục (Taṇhā). Nếu muốn dứt cái lòng ái dục thì: 1. Mắt chẳng nên luyến theo sắc trần. Phải hồi quang phản chiếu để xem xét câu niệm Phật, tham thiền về cái kiếp phù sanh chóng qua, vóc ảo chẳng chắc, đều phải hư hoại. Cái thân tứ đại giả hiệp, từ đầu chí chơn, ở trong đủ 32 vật trược. Tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy xương, thận, tim, gan, bầy nhầy, bao tử, phổi, ruột già, ruột non, vật thực mới, phẩn, óc, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ đặc, nước mắt, mỡ lỏng, nước miếng, nước mũi, nước nhớt, nước tiểu, toàn là những vật hôi tanh dơ bẩn. Nếu căn không luyến theo trần và hồi quang phản chiếu được như vậy rồi thì đâu có sự tiếp xúc, lãnh chịu, đâu có thương yêu ham muốn, đâu có lo sợ, thì cái khổ do đâu mà sanh được? Kinh Pháp Hoa cũng có nói: "Cái nhân trong các việc khổ, là gốc bởi lòng tham muốn bằng dứt lòng tham muốn thì cái khổ không chỗ sanh vậy". Đức Tông Bổn nói: "Các nhơn giả thử xem người trên đời, ai chẳng yêu sắc dục, chẳng ưa rượu thịt, chẳng tham danh lợi, chẳng muốn giàu sang, ta biết các việc ấy là cội khổ, luân hồi, cho nên ta không lo cầu vậy". Than ôi! Người đời chẳng biết sự khổ, hay làm nhiều điều rối rắm, chẳng ngay thẳng, chẳng nghĩa nhân, ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ sang áp hèn, ỷ giàu khinh nghèo, theo vạy bỏ pháp, ỷ lớn hiếp nhỏ làm những việc quấy như vậy, nên mới nổi chìm trong biển khổ. Các nhơn giả này! Phải biết cái đau, cái chết khi đến rồi, thì không ai thay thế cho mình đặng. Dầu ông, bà, cha, mẹ, chồng, vợ, con cháu, cùng là công danh sự nghiệp, cũng đều không chỗ nhờ, chỉ phải gắng hết sức tu hành, thì mới mong thoát khỏi đặng. Huống chi thiều quang thắm thoát, ngày chẳng chờ người, cơn sống thác vô thường, cuộc phù sanh đâu chắc. Bởi vậy, lời Tiên Đức có nói rằng: "Thôi, thôi, thôi, kíp sớm tu, trời nắng chẳng chịu đi chờ mưa đến ướt đầu". Lời ấy rất phải lắm vậy. Phật có nói: Thảm thay cho con người đã sanh ra rồi mà còn phải bị cái khổ GIA, không sao tránh khỏi. Thảm thay cho con người, đã sanh ra rồi mà còn phải bị cái khổ ĐAU, không sao tránh khỏi. Thảm thay cho con người đã sanh ra rồi mà còn phải bị cái khổ CHẾT, không sao tránh khỏi. Bị ba cái khổ trọng đại ấy, mà con người không sớm tìm đàng thoát ra cho khỏi. Thảm thay, thảm thay! Ấy cũng vì chúng ta quá si mê, lầm tưởng cho chúng ta còn trẻ chưa già, còn mạnh chưa đau, còn sống lâu chưa chết, quên câu: Mạng bất khả diên, thời bất khả đãi. (Mạng chẳng khá chờ, giờ chẳng khá đợi). Lại có câu: Một hậu trầm luân, nhứt thất nhơn thân vạn kiếp bất phục. (Chết rồi đọa lạc, một thưở mất thân, muôn kiếp chẳng đặng lại), cho nên chúng ta phải sớm trưa thức tỉnh, chớ nên say mê theo ngũ trần dục lạc làm cho bổn tánh lu mờ, tinh thần điên đảo, gây nên nghiệp báo sâu dày, mắc phải trầm luân khổ ải, thì biết bao giờ, mới thoát khỏi đặng. Nếu chúng ta thường nhớ mà suy xét đến cái cảnh khổ già, đau, chết bằng cách này. Tất cả chúng sanh trai hoặc gái chẳng hạn, từ vua chí dân, đều phải mang ba cái khổ trọng đại đó, chẳng có một ai tránh khỏi được. Suy xét thường thường như vậy, thì chúng ta mới mau được tự tỉnh ăn năn, hồi tâm hướng thiện, Quy y Tam Bảo, mới có thể thoát khỏi cái khổ sanh tử luân hồi đặng. Đức Phật có giảng giải như vầy: "Ngươi nên dứt bỏ sự giận hờn ở thân ngươi, nên chế phục thân ngươi, nên trừ tuyệt những điều tội lỗi ở thân ngươi và dùng thân ngươi để làm việc đạo đức. Ngươi nên dứt bỏ sự giận hờn ở miệng ngươi, nên chế phục miệng ngươi, nên trừ tuyệt những điều tội lỗi ở miệng ngươi và dùng miệng ngươi để nói lời đạo đức. Ngươi nên dứt bỏ sự giận hờn ở ý ngươi, nên chế phục ý ngươi, nên trừ tuyệt những điều tội lỗi ở ý ngươi và dùng ý ngươi để tưởng về đạo đức." Bậc Thánh nhân nhờ tịnh được tam nghiệp (thân, khẩu, ý) nên Ngài mới làm chủ lấy Ngài. Lời nói chân thật là điều cần yếu thứ nhứt; lời nói hòa nhã là điều cần yếu thứ nhì; lời nói hiền lành là điều cần yếu thứ ba; lời nói hữu ích là điều cần yếu thứ tư. Phải nhẫn nhục để trừ giận hờn; * KẾT LUẬN Trước khi Phật nhập Niết-Bàn, đức A Nan và đức Ưu Bà Ly hỏi Phật như vầy: Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Ngài diệt độ, chúng tôi phải lấy ai làm thầy? Phật dạy phải lấy Pháp Luật làm thầy. Theo lẽ ấy, nếu tu không trì Giới thì cũng như tu không thầy. Nếu đã tu không thầy thì không sao nên đặng. Giới ví như mặt đất nếu không mặt đất thì tất cả vạn vật chẳng biết nương dựa vào đâu; Giới ví như vách nhà, nếu nhà không vách thì lấy chi ngăn ngừa đạo tặc; Giới cũng ví như chiếc thuyền để độ người qua biển, nếu không thuyền không sao qua biển đặng. Cho nên các bậc tu Phật, nếu muốn cho chắc được khỏi khổ mà không giữ Giới, thì dầu có hết lòng thành tín đi nữa, cũng phải bị gió trần nhiễm ô, đã bị nhiễm ô thì tâm thần phải điên đảo, không thế nào hết khổ được. Kinh Lăng Nghiêm có nói: Những người tu hành nếu không dứt đường dâm dục, sát sanh, trộm cắp, nói dối, mà muốn nên đạo Phật, thì chẳng khác nào nấu cát muốn thành cơm, nấu đến vô lượng kiếp cũng chẳng nên cơm đặng. Trong kinh Ba La Đề Mộc Xoa, Đức Phật Thích Ca có làm bài kệ. Ngài gom cả tinh thần lý đạo, tôi xin diễn ra sau đây: Giữ thân trong sạch hạnh phúc biết bao, DỨT LUẬT CƯ SĨ * KỆ VÔ THƯỜNG - KHỔ NÃO - VÔ NGÃ Biển trần khổ sóng bồng lai láng, Chú thích: [1] Xem trong Luật Xuất Gia, quyển nhất, chỗ "hành dâm" (điều học Bất Cộng Trụ thứ nhất).[2] Nếu 1 người thì đọc ahaṃ, thế cho mayaṃ. [3] Nếu 1 người thì đọc niyyādemi, thế cho niyyādema. [4] Nghĩa là tất cả vạn vật đều không ở dưới quyền lực của ta. [5] Nói cho đủ là A Tăng Kỳ, nghĩa là vô số. -ooOoo- |
Chân thành cám ơn đạo hữu Huyền Thanh đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 04-2006)
[Trở
về trang Thư Mục]
last updated: 27-04-2006