THERAVĀDA Lời Vàng Bậc Thánh Bhikkhu Kusalapuñño
|
Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode) |
PHẦN II Sớ giải Trưởng Lão Ni Kệ * 1- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI DHAMMADINNĀ Được biết trưởng lão ni Dhammadinnā đã nói lên bài kệ này: "Ai với tâm ước muốn Trong thời giáo pháp của đức Thế Tôn Padumuttara, vị trưởng lão ni Dhammadinnā nầy sanh trong một gia đình nghèo tại thành Haṃsavatī. Lớn lên, nàng phải đi làm thuê để kiếm sống. Một hôm, lúc sáng sớm nàng ôm bình đi múc nước, nhìn thấy vị trưởng lão đang khất thực nàng phát tâm trong sạch, lấy phần ăn sáng của mình dâng vào bát trưởng lão với hai tay thành kính. Sau khi nhận phần bánh của nàng, vị trưởng lão tìm một chỗ thích hợp gần đó và ngồi xuống thọ thực, thấy trưởng lão ngồi thọ dụng, nàng vô cùng hoan hỷ, chờ trưởng lão dùng xong nàng cung thỉnh Ngài đến nhà cúng dường thực phẩm, với lòng bi mẫn muốn tiếp độ nàng, nên trưởng lão đã nhận phần thực phẩm. Suốt hôm ấy, nàng vô cùng thoả thích với thiện sự của mình. Kế đó, do biết được đức hạnh của nàng, ông bà chủ đã nhận nàng về làm con dâu trong nhà. Một hôm, nàng cùng mẹ chồng đi đến tịnh xá nghe pháp, nhìn thấy Đức Thế Tôn biểu dương một tỳ khưu ni đệ nhất hạnh thuyết pháp, thoả thích với hình ảnh đó, nàng đã cung thỉnh bậc Đạo Sư cùng chư Tăng về nhà cúng dường đại thí. Khi Thế Tôn cùng chư Tăng thọ thực xong, nàng đến đảnh lễ dướng chân Thế Tôn phát nguyện rằng "Do phước báu mà con đã trong sạch cúng dường trai thực, xin cho con thành tựu vị trí đệ nhất thuyết pháp trong giáo pháp của Đức Phật vị lai như trưởng lão ni kia vậy". Đức Thế Tôn bèn dùng Phật nhãn quán chiếu, thấy nguyện vọng của nàng sẽ được thành tựu, để niềm hoan hỷ của nàng càng tăng trưởng thêm, bậc Đạo Sư đã tuyên bố những quả báo tốt đẹp sẽ phát sanh đến nàng và Ngài thuyết pháp tuỳ hỷ rồi cùng chư Tăng ngự về tịnh xá. Do tích trữ nhiều thiện sự nên sau khi mạng chung, nàng được sanh lên cõi Đạo Lợi. Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, nàng tái sanh làm công chúa con của đức vua Kiṅki tại thành Bārānasī. Nàng là con thứ sáu trong bảy người con của đức vua Kiṅki có tên là Sudhammā. Sáu chị em của công chúa Sudhammā là: thứ nhất công chúa Samanī, thứ nhì công chúa Samanaguttā, thứ ba công chúa Bhikkhunī, thứ tư công chúa Bhikkhu-dāsikā, thứ năm công chúa Dhammā và người em út là công chúa Sanghadāsī. Trong thời Đức Phật hiện tại, sáu nàng công chúa nầy trở thành những đệ tử xuất sắc của bậc Đạo Sư đó là: 1) Trưởng lão ni Khemā vị đại đệ tử tối thắng về trí tuệ. Đức vua Kiṅki là người đệ tử thuần thành, là người đàn tín của Thế Tôn Kassapa, cho nên bảy nàng công chúa nầy cũng trở thành những tín nữ ngoan đạo và hết lòng hộ độ Tam Bảo. Một hôm, sau khi nghe pháp nơi Thế Tôn, các nàng công chúa nầy có ý muốn xuất gia, cùng nhau đến xin phụ vương nhưng Ngài không chấp thuận, dù không được xuất gia nhưng các nàng vẫn không xao lãng lý tưởng xuất ly, thọ trì thập giới và tinh cần thực hành phạm hạnh suốt 20.000 năm. Sau khi thân hoại mạng chung, các nàng công chúa đều được sanh lên cõi Đạo Lợi. Đến thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng được sanh trong một gia đình tại thành Rājagaha (Vương Xá). Khi lớn lên nàng được gả cho trưởng giả Visākha. Một hôm, trưởng giả Visākha đến tịnh xá nghe bậc Đạo Sư thuyết pháp, dứt thời pháp, ông chứng quả Bất Lai. Về đến nhà, lúc bước lên lầu Dhammadinnā đưa tay ra đón chồng nhưng Visākha không cầm tay nàng. Lúc dùng cơm Visākha cũng lặng lẽ ăn không nói một lời, Dhammadinnā cảm thấy lạ, muốn hiểu duyên cớ, nàng lên tiếng hỏi rằng: "Thưa phu quân, vì sao hôm nay chàng không cầm tay thiếp, thậm chí lúc dùng cơm chàng cũng không nói một lời, có phải thiếp đã làm điều gì sai chăng?". Trưởng giả Visākha đáp: "Nầy Dhammadinnā, nàng không có điều gì sai, kể từ hôm nay tôi sẽ không xúc chạm với thân phụ nữ và không nói những lời phù phiếm về vật thực vì tôi đã tỏ ngộ giáo pháp, nếu nàng thích thì cứ ở lại đây, nếu không thích nàng hãy cầm lấy những tài sản ưng ý và trở về nhà của mình". Dhammadinnā bèn nói: "Thưa phu quân, thiếp sẽ không nuốt đồ mửa của chàng đâu, xin chàng hoan hỷ cho phép thiếp xuất gia". Trưởng giả Visākha đáp: "Lành thay, nầy Dhammadinnā". Rồi Visākha đưa nàng đến trú xứ tỳ khưu ni trên chiếc kiệu vàng. Sau khi xuất gia xong nàng thọ trì đề tài thiền quán; vì muốn sống viễn ly yên tịnh, nàng đi đến thầy tế độ thưa rằng: "Bạch thầy, tâm con không thích chỗ đông người, ồn ào, xin thầy cho con đến một nơi yên tịnh gần làng". Các vị tỳ khưu ni đưa nàng đến một nơi thích hợp gần làng. Sống tại đấy không bao lâu, nhờ duyên lành chín muồi và sự tinh cần tu tập, nàng chứng quả Alahán với tứ vô ngại giải. Giai thoại nầy, nàng đã kể trong tập Apadāna: "Lui từ hiền kiếp này Phải làm thuê để sống Sau khi chứng quả Alahán, trưởng lão ni Dhamma-dinnā suy nghĩ rằng: "Tâm của ta đã chấp dứt mọi phiền não, bây giờ ta phải làm gì, ta sẽ đến Rājagaha đảnh lễ bậc Đạo Sư và tiếp độ các quyến thuộc". Rồi trưởng lão cùng với các tỳ khưu ni trở về thành Rājagaha. Cận sự nam Visākha hay tin trưởng lão ni Dhammadinnā trở về. Để thẩm nghiệm sự giác ngộ của trưởng lão ni, chàng đã nêu lên các câu hỏi thâm sâu vi tế, trưởng lão ni Dhammadinnā đã giải đáp rành rẽ, rõ ràng như cắt cành sen bằng con dao bén. Cận sự nam Visākha đi đến bậc Đạo Sư thuật lại cuộc luận đạo của mình với trưởng lão ni Dhammadinnā, bậc Đạo Sư đã tán thán trưởng lão ni với lời rằng: "Nầy Visākha, tỳ khưu ni Dhammadinnā là bậc hiền trí". Rồi bậc Đạo Sư lấy sự việc ấy làm nhân, Ngài tuyên bố giữa chư Tăng rằng: "Nầy chư tỳ khưu ni Dhamma-dinnā là người thù thắng hơn Ni chúng về hạnh thuyết pháp". Và trong quá trình tu chứng, trước khi thành đạt đạo quả Alahán, trưởng lão ni Dhammadinnā đã nói lên bài kệ nầy: "Ai với tâm ước muốn * 2- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI NANDĀ Để giáo giới tỳ khưu ni Nandā, bậc Đạo Sư đã phán bài kệ, nhờ bài kệ này, tỳ khưu ni Nandā được chứng quả Alahán và nàng đã xem đây là bài kệ tâm đắc của mình "Nầy Nandā hãy nhìn Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Vipassī, tỳ khưu ni Nandā nầy sanh làm con gái của một gia chủ giàu có. Khi lớn lên, nàng được duyên lành nghe pháp nơi bậc Đạo Sư và trở thành một tín nữ nhiệt thành hộ độ Tam Bảo. Sau khi Đức Thế Tôn niết bàn, mọi người đóng góp chung hùn xây dựng bảo tháp tôn thờ Xá lợi, nàng đã phát tâm trong sạch cúng dường bảo tháp Xá lợi cây lọng vàng và trang hoàng với nhiều châu báu. Do thiện sự đó, sau khi mạng chung nàng được sanh lên thiên giới. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng sanh làm công chúa của đức vua Khemaka tại thành Kapilavatthu và có tên là Nandā. Công chúa Nandā có một dung sắc xinh đẹp, khả ái, đáng nhìn nên nàng được mọi người ban tặng danh xưng là Abhirūpanandā (Nandā xinh đẹp). Khi nàng trưởng thành, có một vị hoàng tử rất thương yêu nàng, trong ngày thành hôn, vị hoàng tử ấy đã mệnh chung. Đức vua và mẫu hậu cưỡng bức nàng xuất gia, dù trong lòng nàng không muốn. Sau khi xuất gia, nàng vẫn kiêu hãnh với sắc đẹp của mình và nàng không dám đến yết kiến bậc Đạo Sư vì nghĩ rằng: "Bậc Đạo Sư thường khiển trách về sự luyến ái xác thân và dùng nhiều phương tiện trình bày mối hiểm hoạ của xác thân nầy". Đức Thế Tôn biết trí tuệ nàng đã thuần thục, Ngài bèn dạy Mahāpajāpati tập hợp các tỳ khưu ni lại để nghe giáo giới. Tới phiên mình, tỳ khưu ni Abhirūpa-nandā nhờ vị khác đi thế. Đức Thế Tôn biết được phán rằng: "Khi tới phiên tỳ khưu ni phải tự mình đi, không được nhờ vị khác". Không thể làm trái lời dạy bậc Đạo Sư, nên nàng đã cùng với chư Ni đến nghe giáo giới. Đức Thế Tôn dùng thần thông hoá ra một thiếu nữ kiều diễm, chỉ cho một mình nàng thấy, khi Đức Thế Tôn biết nàng bị cuốn hút bởi hình ảnh người thiếu nữ tuyệt trần ấy, Ngài khiến cho người thiếu nữ từ từ già nua với những thể trạng suy sụp. Nhìn thấy cảnh tượng đó, nàng bị xúc cảm mạnh, rồi để giáo hoá nàng, bậc Đạo Sư đã nói hai bài kệ rằng: "Nầy Nandā hãy nhìn Vừa dứt bài kệ, tỳ khưu ni Abhirūpanandā phát triển tuệ quán chứng quả Alahán. Trưởng lão kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna như sau: "Trong thành Aruṇavati * 3- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI ABHAYAMĀTĀ Được biết trưởng lão ni Abhayamātā đã nói lên bài kệ rằng: "Thưa mẫu thân khả kính Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Tissa, vị trưởng lão ni nầy, sanh trong một gia đình Bàlamôn. Do từng gieo duyên lành với chư Phật quá khứ nên khi nhìn thấy Đức Phật Tissa đi khất thực, nàng phát tâm trong sạch đặt thực phẩm cúng dường. Nhờ phước báu thành kính để bát đến Đức Phật, khi mệnh chung nàng được sanh lên thiên giới. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng sanh tại thành Ujjenī. Vì nàng vô cùng xinh đẹp nên được ban tặng danh hiệu là hoa khôi của kinh thành và tên là Padumavatī. Đức vua Bimbisāra (Bình Sa Vương) nghe tin về sắc đẹp của nàng bèn gọi quan tế tự đến dạy rằng: "Nầy hiền khanh, ta nghe tại thành Ujjenī có một hoa khôi tên Padumavatī, trẫm muốn gặp mặt nàng". Quan tế tự đáp: "Thưa vâng, tâu đại vương". Rồi với sức mạnh chú thuật, quan tế tự triệu đến một dạ xoa tên Kumbhīra, dạ xoa dùng thần lực đưa đức vua đến thành Ujjenī, tại nhà của nàng Padumavatī. Đêm hôm đó đức vua đã chăn gối với nàng, khi biết mình có mang, nàng đã thông báo cho đức vua biết. Đức vua nói rằng: "nếu sanh con trai nàng hãy nuôi dưỡng cho thật tốt, khi con lớn hãy dẫn vào cung cho trẫm". Và đức vua ban cho nàng chiếc nhẫn có khắc tên, rồi Ngài trở về hoàng cung. Thời gian thấm thoát vừa tròn mười tháng, nàng hạ sanh một hoàng nam, trong ngày lễ đặt tên, nàng đặt tên cho con là Abhaya (Vô uý). Khi Abhaya được bảy tuổi, nàng đưa Abhaya đến yết kiến đức vua và nói với con rằng: "Đức vua Bimbisāra là phụ vương của con". Đức vua nhìn thấy đứa bé, trong lòng đã dâng lên một tình cảm phụ tử, Ngài bèn nhận nuôi dưỡng bảo bọc nó trong hoàng cung. Về sau, khi đức vua Bimbisāra bị thái tử Ajātasattu sát hại, hoàng tử Abhaya bị xúc động mạnh, chán nản đời sống thế tục, chàng đến xuất gia trong giáo pháp. Nhờ tinh cần nỗ lực và trí tuệ chín muồi không bao lâu tôn giả Abhaya chứng đạt quả vị Alahán. Một hôm Padumavatī vì thương nhớ con đã đi đến thăm viếng. Nhân cơ hội nầy tôn giả Abhaya thuyết pháp tế độ thân mẫu, sau thời pháp bà khởi niềm tin, đến xin xuất gia tại trú xứ tỳ khưu ni. Nhờ thời pháp của tôn giả Abhaya cùng với thiện duyên giải thoát chín muồi, sau khi xuất gia tu tập không bao lâu, bà cũng được chứng quả Alahán. Trưởng lão Abhayamāta đã kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna như sau: "Ta thấy Đức Thế Tôn Sau khi chứng quả Alahán, do tâm đắc bài kệ giáo giới của trưởng lão Abhaya, trưởng lão ni đã hân hoan xướng lên bài kệ ấy: "Thưa mẫu thân khả kính * 4- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI UBBIRI Bậc Đạo Sư đã cảnh tỉnh nàng với bài kệ rằng: "Hỡi này Ubbiri Sau khi chứng quả Alahán, nàng nói lên bài kệ rằng: "Mũi tên khó nhìn thấy Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumut-tara, nàng sanh trong một gia đình tại thành Haṃsavati. Một hôm, cha mẹ nàng đi đến nhà người bạn tham dự một cuộc lễ, do không kết giao với ai, nàng đành phải ở nhà. Lúc bấy giờ, có một vị trưởng lão Alahán, đi khất thực ngang qua cửa, nàng nhìn thấy, khởi ý muốn cúng dường, bèn bước ra thưa rằng: "Bạch Ngài, xin thỉnh Ngài vào nhà". Khi trưởng lão vào nhà, nàng quỳ xuống đảnh lễ ngũ thể đầu địa, rồi nàng sắp đặt một sàng toạ dâng đến trưởng lão. Sau khi trưởng lão ngồi trên sàng toạ ấy, nàng nhận bát để đầy vật thực và thành kính dâng đến trưởng lão, trưởng lão nói lời tuỳ hỷ phúc chúc rồi rời khỏi nơi ấy. Do thiện sự đó, sau khi mệnh chung nàng được sanh cõi Đạo Lợi, thọ hưởng những thiên sản đặc thù trên cõi ấy. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng tái sanh trong một gia đình giàu có tại thành Sāvatthī, được cha mẹ đặt tên là Ubbiri. Do phước báu quá khứ, nên nàng có dung sắc xinh đẹp khả ái. Vừa lớn lên nàng được đưa vào hậu cung của đức vua Kosola. Vài năm sau, nàng sanh một cô công chúa rất dễ thương và đặt tên là Jīvā, đức vua Kosala thấy đứa con, Ngài rất hài lòng, bèn tấn phong nàng làm hoàng hậu. Nhưng ít lâu sau con nàng qua đời, nàng vô cùng đau khổ, ngày nào cũng đi đến mộ địa than khóc. Một hôm, nàng đến yết kiến bậc Đạo Sư, rồi sau đó nàng đi đến bờ sông Aciravatī đứng than khóc, bậc Đạo Sư thấy vậy, Ngài ngồi tại hương thất phóng hào quang đến phán hỏi rằng: "Vì sao con khóc?" Nàng thưa rằng: "Vì tiếc thương bé Jīvā nên con khóc, bạch Thế Tôn". Bậc Đạo Sư phán rằng: "Tại mộ địa nầy có đến tám mươi bốn ngàn con gái của ngươi bị thiêu, vậy ngươi than khóc cho ai". Rồi Ngài chỉ cho nàng chỗ thiêu xác những đứa con đã chết và nói lên bài kệ rằng: "Hỡi này Ubbiri Nàng dùng trí tuệ suy quán theo lời dạy, với pháp âm vi diệu của bậc Đạo Sư cùng với duyên lành chín muồi, nàng đứng tại chỗ ấy phát triển tuệ quán chứng quả Alahán. Giai thoại sau đây được nàng kể trong tập Apadāna: "Ta là thợ kết hoa Hoan hỷ với quả chứng của mình, nàng đã nói lên bài kệ rằng: "Mũi tên khó nhìn thấy * 5- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI SUKKĀ Một vị thọ thần sau khi được nghe pháp nơi trưởng lão ni, quá hoan hỷ pháp thoại, đã tán thán với bài kệ rằng: "Hỡi thị dân Vương Xá Và trước khi niết bàn hoan hỷ với quả chứng của mình, trưởng lão ni Sukkā đã nói lên bài kệ rằng: "Tỳ khưu ni Sukkā Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Vipassī, trưởng lão ni Sukkā sanh trong một gia đình tại thành Bandhumatī. Khi trưởng thành, nàng tháp tùng với các tín nữ khác đi đến tịnh xá nghe pháp. Sau khi nghe pháp thoại nơi bậc Đạo Sư, nàng khởi niềm tin và xin xuất gia trong giáo pháp. Do phước duyên quá khứ, cùng với sự chuyên cần học hỏi Thánh điển Phật ngôn, nàng trở thành bậc đa văn, vị pháp sư lỗi lạc trong hàng Ni chúng. Sống phạm hạnh cho đến khi mãn thọ, nàng được sanh lên cõi Đâu Xuất. Nàng là người hữu duyên, hữu phúc được diện kiến và được xuất gia trong giáo pháp của đức Chánh Đẳng Gáic Sikhī, đức Chánh Đẳng Giác Vessabhū, đức Chánh Đẳng Giác Kakusandha, đức Chánh Đẳng Giác Konāgamana, đức Chánh Đẳng Giác Kassapa và do phước duyên khéo tích trữ, khi xuất gia trong giáo pháp của chư Thế Tôn ấy, nàng luôn là bậc đa văn, bậc pháp sư xuất chúng trong hàng Ni giới. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng sanh trong một gia đình quyền quý tại thành Rāja-gaha (Vương Xá) và được đặt tên là Sukkā. Do duyên lành quá khứ, nên từ nhỏ nàng đã có niềm tin trong sạch nơi Tam Bảo và trở thành một tín nữ ngoan đạo. Về sau, khi được nghe pháp nơi trưởng lão ni Dhammadinnā, với trí tuệ hiểu pháp, nàng cảm nhận rằng đời sống thế tục nhiều phiền muộn, nhiều đau khổ và nàng đã xin xuất gia nơi trú xứ của trưởng lão ni Dhammadinnā. Do là người từng thông hiểu pháp học và pháp hành trong giáo pháp của chư Phật quá khứ, nên khi đang cạo tóc nàng đã phát triển tuệ quán chứng đạt Alahán cùng với tuệ phân tích. Trong tập Apadāna đã ghi lại giai thoại về trưởng lão như sau: "Trong kiếp chín mươi mốt Sau khi chứng quả Alahán, nàng trở thành vị pháp sư lỗi lạc, có khoảng năm trăm tỳ khưu ni đoanh vây. Một hôm, nàng vào thành Vương Xá khất thực, dùng xong nàng trở về trú xứ tỳ khưu ni, nàng đã thuyết pháp đến hội chúng lớn đang câu hội tại đấy, pháp thoại hay đến nỗi các tỳ khưu ni như cảm thấy được nhận từ nàng những hương vị ngọt ngào, thấm nhuần nước bất tử và tất cả đều thành kính lắng tâm nghe pháp. Lúc bấy giờ, có một vị chư thiên ngự trên cội cây cuối con đường kinh hàng của trưởng lão ni, hoan hỷ với pháp thoại của nàng, đã đi khắp nơi trong thành Vương Xá tán thán đức hạnh của nàng với hai bài kệ rằng: "Hỡi thị dân Vương Xá Sau khi nghe những lời tán thán của vị chư thiên, dân chúng hân hoan lũ lượt kéo nhau đến trú xứ của trưởng lão ni Sukkā, lắng nghe nàng thuyết pháp với tâm thành kính và toàn thể thính chúng ấy đều nhận được những lợi ích từ pháp thoại của nàng. Rồi khi tuổi thọ đã tận, trước giờ niết bàn, hoan hỷ với quả chứng của mình, trưởng lão ni đã xướng lên bài kệ rằng: "Tỳ khưu ni Sukkā * 6- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI SELĀ Ác ma đến nói với trưởng lão ni Selā bài kệ như sau: "Niết bàn không có thật Trưởng lão ni Selā trả lời ác ma với bài kệ như sau: "Các dục như gươm giao Ngược dòng thời gian cách đây một trăm ngàn đại kiếp, vị trưởng lão ni nầy sanh trong một gia đình giàu có tại thành Haṃsavatī. Khi trưởng thành, cha mẹ gả nàng cho một công tử môn đăng hộ đối. Sống hạnh phúc bên chồng được nhiều trăm năm. Một hôm, chàng công tử ấy bị bịnh qua đời khiến nàng vô cùng buồn khổ, nhưng vẫn tiếp tục sống với cuộc đời goá bụa, cho đến một ngày kia, nàng nhận thấy rằng: "Thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, tuổi thanh xuân của ta cũng dần dần biến mất, sự vô thường quá ư khắc nghiệt đã cướp lấy những vật yêu quý của ta". Khiến nàng phát sanh kinh tởm, nàng rời khỏi nhà, đi lang thang khắp nơi, từ am thất nầy đến am thất nọ, từ vu viện nầy đến tu viện kia, với mục đích duy nhất là tìm cầu chân hạnh phúc. Một hôm, nàng dừng lại trước cội đại thọ sum xuê tươi tốt, chỗ giác ngộ của Đức Thế Tôn, nàng nhìn cội bồ đề suy nghĩ rằng: "Nếu Đức Thế Tôn là bậc Vô thượng, không ai sánh bằng, thì xin cây bồ đề hãy biểu diễn thần lực cho tôi thấy, ngay lập tức cội bồ đề phát quang tuần tự như ý của nàng, các cành nhánh đều hoá thành vàng chiếu sáng khắp các hướng, nhìn thấy sự kỳ diệu như thế, nàng vô cùng hoan hỷ tịnh tín và thể hiện sự tôn kính bằng cách ngồi chấp hai tay trên đầu tại đấy suốt bảy ngày. Đến ngày thứ bảy, nàng đã thành kính cúng dường năm ngọn đèn đến cội bồ đề. Do phước nghiệp ấy, sau khi mệnh chung, nàng được sanh lên cõi Đạo Lợi. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng sanh làm công chúa con của đức vua Ālāvi, tên là Selā và nàng còn một tên gọi nữa là Ālāvikā (người xứ Ālāvī). Khi bậc Đạo Sư cảm hoá được đức vua Ālāvī, Ngài bèn giao y bát cho vua cầm rồi ngự vào thành Ālāvī cùng đức vua. Công chúa đi yết kiến bậc Đạo Sư và đức vua. Sau khi nghe pháp, nàng khởi niềm tin trong sạch nơi Tam bảo và trở thành một tín nữ mộ đạo. Một hôm, nàng phát sanh động tâm và đến xin xuất gia nơi các tỳ khưu ni, nhờ duyên lành tròn đủ, trí tuệ chín muồi nàng đã chứng đạt Alahán ngay sau đó. Trưởng lão kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna: "Bấy giờ ta chợt hiểu Sau khi chứng quả Alahán, nàng trú tại Sāvatthī. Một hôm, sau khi thọ thực xong nàng rời khỏi thành Sāvatthī, đi đến rừng Andha để chỉ tịnh ban ngày, dưới một cội cây. Lúc bấy giờ, ác ma muốn phá sự độc cư an tịnh của nàng, dưới hình thức một người lạ, đã đến và nói bài kệ nầy: "Niết bàn không có thật Nghe những lời ấy, vị trưởng lão ni nghĩ rằng: "Đây là ác ma muốn quyến rũ ta trở về với dục lạc, không cho ta đi đến Niết bàn, nó không biết rằng ta đã đoạn tận các lậu hoặc, quả là si mê, thôi được ta sẽ cho nó sáng mắt, nàng bèn nói lên hai bài kệ rằng: "Các dục như gươm giáo * 7- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI BHADDAKĀPILĀNĪ Được biết trưởng lão ni Bhaddakāpilānī đã nói lên bài kệ rằng: "Trưởng lão Đại Ca Diếp (Mahākassapa) Thưở quá khứ, trong thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Padumuttara, trưởng lão ni nầy sanh trong một gia đình giàu có tại thành Haṃsavatī. Khi đến tuổi trưởng thành, nàng được gả cho trưởng giả Videha. Videha là một cận sự nam thuần thành trong giáo pháp, chàng thường xuyên đi đến tịnh xá nghe Phật thuyết pháp. Một hôm, lúc đến nghe pháp, chàng nhìn thấy Đức Thế Tôn biểu dương một vị đại thinh văn đệ nhất hạnh đầu đà, thoả thích hình ảnh đó, nghe pháp xong chàng cung thỉnh Đức Thế Tôn cùng chư Tăng về nhà cúng dường suốt bảy ngày. Đến ngày thứ bảy khi Đức Thế Phật cùng chư Tăng thọ thực xong, tay rời khỏi bát, chàng trưởng giả đến quỳ dưới chân Thế Tôn chú nguyện vị trí ấy. Sau khi dùng Phật nhãn quán chiếu, Đức Thế Tôn đã phán bài kệ rằng: "Nầy cận sự nam tín thành, con hãy hoan hỷ, trong một trăm ngàn kiếp nữa vào thời kỳ giáo pháp của Đức Chánh Đẳng Giác Gotama, nguyện vọng của con sẽ được thành tựu, con sẽ là người thừa tự giáo pháp của Đức Thế Tôn ấy có tên là Kassapa". Nghe lời tiên tri của Bậc Đạo Sư, trưởng giả Videha vô cùng hoan hỷ, chàng tích cực hộ độ Đức Phật cùng chư Tăng đầy đủ với những vật dụng. Nói về vợ của trưởng giả Videha, sau khi về làm vợ của Videha, nàng hết lòng phụng sự chồng, thực hiện đầy đủ những bổn phận đối với chồng và được trưởng giả rất mực thương yêu. Những lúc rảnh rỗi nàng thường cùng với trưởng giả đi nghe pháp và trở thành một tín nữ ngoan đạo. Một ngày nọ, lúc đến tịnh xá nghe pháp, nàng thấy Đức Thế Tôn tán thán một vị tỳ khưu ni thù thắng với hạnh túc mạng thông, hoan hỷ với vị trí ấy, trong những dịp cùng chồng cúng dường, nàng đã âm thần chú nguyện cho mình. Khi Đức Thế Tôn niết bàn, trưởng giả Videha đã kêu gọi quyến thuộc cùng bạn bè họp lại xây dựng một ngôi bảo tháp cao bảy do tuần, thành tựu bằng các châu báu chói như ánh mặt trời và rực rỡ như cây chúa trổ hoa để cúng dường bậc Đạo Sư. Lúc bấy giờ, vợ trưởng giả Vedeha cho bảy người thợ làm bảy trăm ngọn đèn, lấy một loại dầu đặc biệt có hương đổ vào đầy bình, lửa từ bảy trăm ngọn đèn cháy sáng rực để cúng dường Đức Thế Tôn. Rồi nàng cho thợ làm bảy trăm cái bình cúng dường bảo tháp cho trồng hoa xung quanh, cho trang hoàng cờ xí và bảo tháp được thành tựu bằng vật báu này, chiếu sáng rực rỡ như ánh mặt trời. Nàng đã cùng với chồng cúng dường hộ độ đến Đức Phật và chư Tăng, thực hiện nhiều thiện sự cho đến khi mệnh chung, cả hai được sanh lên thiên giới. Trong những kiếp luân chuyển sanh tử, nàng đã gắn bó với chồng như gốc với thân vậy. Nàng đã kể lại những giai thoại nầy trong tập Apadāna: Vào thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Vipassī, tại thành Bandhumatī, có một vị Bàlamôn được nhiều người ca tụng là người tốt, là người giàu có, đầy đủ với đức hạnh và tài sản. Nhưng sau đó chàng bị suy sụp tài sản, rơi vào nghèo khó. Lúc bấy giờ, ta là vợ của vị Bàlamôn ấy, thỉnh thoảng ta cùng chồng đi đến nghe pháp nơi Đức Thế Tôn. Một hôm, chàng đến tịnh xá nghe Thế Tôn thuyết pháp, dứt thời pháp chàng phát tâm trong sạch hoan hỷ cởi tấm vải đang choàng trên người, dâng đến bậc Đạo Sư và trở về nhà với độc nhất một tấm vải che thân. Khi về đến nhà, chàng mới nói với ta rằng: "Mình ơi! Mình hãy tuỳ hỷ phước, tôi đã dâng tấm vải choàng đến Thế Tôn rồi!" Nghe vậy, ta chấp tay tỏ lời tuỳ hỷ rằng: "Lành thay thưa phu quân, thiếp rất hoan hỷ việc cúng dường của chàng". Và hai vợ chồng cùng chia xẻ nhau niềm vui phước báu. Khi mệnh chung ta và chàng đều được sanh lên thiên giới. Dứt tuổi thọ trên thiên giới, chàng được sanh làm vua trị vì tại thành Bārāṇasī, còn ta tái sanh làm hoàng hậu của vua, do duyên tiền kiếp nên đức vua rất sủng ái ta. Một hôm, đức vua nhìn thấy tám vị Phật Độc Giác đang đi khất thực, Ngài đã đặt vào bát chư Phật những vật thực thượng vị. Sau đó, đức vua đã xây dựng một phước xá đặc biệt, cho trang hoàng xinh đẹp rồi dâng đến chư Phật Độc Giác. Đức vua cùng ta hết lòng hộ độ chư Độc Giác Phật và trị vì đất nước theo chánh pháp. Mệnh chung từ kiếp ấy, đức vua được sanh trong một gia đình Bàlamôn giàu có tại thành Bārāṇasī còn ta được sanh làm vợ của chàng. Một hôm, sau khi cãi vã với cô em chồng, nhìn thấy cô ta để bát cúng dường Đức Phật Độc Giác với tâm bực tức đố kỵ ta suy nghĩ rằng: "Nếu cô ta đặt bát cúng dường Đức Phật, thì cô ta sẽ được thành tựu tài sản, sao ta có thể để cho cô ấy đạt được điều đó". Nghĩ vậy, ta bèn đi đến lấy bát từ tay Đức Phật, trút bỏ tất cả thực phẩm trong bát, rồi múc bùn đổ đầy lại, dâng đến Đức Phật, khi làm như vậy ta bị nhiều người chỉ trích rằng: "Hỡi kẻ ngu si kia, Đức Độc Giác có lỗi gì với ngươi chăng, sao ngươi lại làm như vậy?" Cảm thấy hổ thẹn với những lời ấy, ta đi đến xin bát, đổ bùn ra rửa sạch rồi lau khô bằng bột thơm, xong ta lấy những thực phẩm thượng vị đặt đầy vào bát, dâng đến Đức Độc Giác. Đến thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, ta tái sanh làm con gái của vị trưởng giả giàu có tại thành Bārāṇasī, do việc múc bùn đổ vào bát Đức Phật Độc Giác, nên thân thể ta có mùi hôi thối, khiến mọi người xa lánh ta. Khi Đức Thế Tôn Kassapa niết bàn, chồng ta, cùng nhiều người lo xây dựng bảo tháp, ta đã gom góp tất cả những tư trang, làm thành một phiến vàng và tẩm phiến vàng ấy với một loại nước thơm đặc biệt, được tinh chế từ bốn loại hương liệu đặt nơi bệ thờ của bảo tháp. Do phước lành nầy, khiến mùi hôi từ thân thể ta tự biến mất. Mệnh chung, ta cùng chàng được sanh lên thiên giới, mãn thọ từ thiên giới, chàng tái sanh trong một gia đình giàu có tại xứ Kāsī, tên là Sumitta. Khi lớn lên ta được gả về làm vợ chàng, chàng rất thương yêu ta và gia đình ta thật là hạnh phúc. Trong kiếp nầy, ta và chàng đã dâng Đức Phật Độc Giác một tấm vải đặc biệt và thường xuyên cúng dường hộ độ vật dụng đến Ngài. Sau kiếp sống ấy, chàng tái sanh tại làng Koliya, do duyên nợ tiền kiếp ta cũng được làm vợ chàng. Lúc bấy giờ, chàng đã lãnh đạo năm trăm gia đình làng Koliya, hộ độ năm trăm vị Phật Độc Giác và xây dựng những phước xá, cung thỉnh quý Ngài an cư ba tháng mùa mưa. Trong suốt ba tháng, gia đình ta cùng các dân làng đã cúng dường hộ độ đầy đủ tứ vật dụng đến chư Phật. Khi ra hạ, những gia đình tại đây đã cùng nhau dâng tam y đến quý Ngài. Mạng chung từ kiếp ấy, chàng tái sanh làm vua tên là Nanda, trị vì một đại quốc độ và có nhiều uy lực. Lúc bấy giờ, ta được làm hoàng hậu của vua và là chỗ sủng ái của Ngài, Ngài là một vị vua nhân từ hiền đức, rất thương yêu dân, Ngài hướng dẫn mọi người sống theo thiện pháp. Nhờ tận tâm hết lòng chăm lo đất nước nên dân chúng thời ấy sống trong cảnh thanh bình thịnh vượng và ta cũng rất hạnh phúc bên Ngài. Khi tuổi thọ đã mãn, Ngài được sanh làm vua Brahmadatta trị vì tại thành Bārāṇasī và ta cũng được làm hoàng hậu Ngài. Trong kiếp nầy, đức vua và ta đã thỉnh năm trăm vị Phật Độc Giác về ngụ tại vườn thượng uyển và hằng ngày cúng dường hộ độ thực phẩm đến quý Ngài. Khi chư Phật lần lượt niết bàn, đức vua và ta xây dựng bảo tháp tôn thờ xá lợi của quý Ngài. Chứng kiến từng bậc khả kính tuần tự ra đi theo định luật vô thường, ta và đức vua bị xúc động mạnh, rồi quyết định từ bỏ tất cả, đi vào vườn thượng uyển xuất gia làm đạo sĩ. Nhờ tu tiến và chứng đạt thiền tứ vô lượng tâm, nên sau khi mạng chung ta và đức vua được sanh lên phạm thiên giới. Khi hết tuổi thọ từ cõi phạm thiên ta sanh trong một gia đình Bàlamôn Kosiya tại thành Sāgala. Cha của ta tên là Kapila, mẹ tên là Sucīmati sống tại thị trấn Madda. Do là tiểu thư độc nhất trong một gia đình giàu có nên từ nhỏ ta được nuôi dưỡng rất chu đáo và được nhiều người hầu hạ. Do tích trữ nhiều phước lành, nên ta có một dung sắc xinh đẹp, khả ái đáng nhìn. Khi trưởng thành do duyên nợ nhiều kiếp, ta được gả về làm vợ cho Bàlamôn trưởng giả Pipphali tại làng Mahātittha. Một hôm, khi đi khảo sát những thuở ruộng, bấy giờ nhằm mùa dọn đất, những người nông dân cày xới đất lên, cuốn theo những loài côn trùng nằm ngổn ngang, Pipphali nhìn thấy những đàn chim sà xuống xớt lấy những con côn trùng đang hoảng hốt lẩn trốn, bị động tâm bởi những cảnh tượng ấy, chàng trở về nhà với nét mặt buồn bã ủ dột, khi ta đến vấn an, chàng mới nói rằng: "Này hiền thê! Toàn bộ gia sản này ta giao lại cho nàng, ta không thể tiếp tục sống đời cư sĩ nữa, ta sẽ xuất gia". Nghe vậy, ta nói với chàng: "Thưa phu quân! thiếp sẽ không nhận gia sản nầy đâu vì thiếp cũng có ý định xuất gia". Thế là ta và chàng từ bỏ mọi ràng buộc của thế tục, trở thành bậc xuất gia. Lúc bấy giờ, hệ thống Ni chúng chưa được thành lập, ta đã sống tại trú xứ du sĩ năm năm. Khi bậc Đạo Sư cho phép nữ giới xuất gia, ta đã đến thọ cụ túc giới nơi trưởng lão ni Mahāpajāpati Gotamī (dì mẫu Phật), tu tập không bao lâu, ta chứng đạt quả vị Alahán. Sau khi chứng quả Alahán, do hạnh nguyện quá khứ và do nỗ lực hiện tại, trưởng lão ni Bhaddakāpilāni trở thành vị thù thắng về túc mạng thông. Do biết rõ hạnh nguyện và thành quả của nàng, nhân một buổi hội họp của chư Tăng tại Jetavanavihāra (Kỳ viên tịnh xá), bậc Đạo Sư đã biểu dương nàng là vị đệ nhất về túc mạng thông trong hàng Ni chúng. Một hôm, để tán thán đức hạnh của trưởng lão Mahākassapa và xác chứng quả vị giải thoát của mình, trưởng lão ni Bhaddakāpilānī đã nói lên bài kệ rằng: "Trưởng lão Đại Ca Diếp * 8- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI NANDĀ (2) Được biết trưởng lão ni Nandā đã nói lên bài kệ rằng: "Khi ta không phóng dật Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng tái sanh trong hoàng tộc Thích Ca và được đặt tên là Nandā. Do có dung sắc xinh đẹp, nên nàng được mọi người ban tặng cho một danh xưng nữa là Sundarī-nandā (hoa khôi Nandā). Khi Đức Thế Tôn giác ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác, Ngài tuần tự ngự trở về thành Kapilavatthu để tiếp độ quyến thuộc, Ngài đã độ cho thái tử Nanda và thái tử Rāhula xuất gia. Khi đức vua Suddhodana (Tịnh Phạn) qua đời, dì mẫu Mahāpajāpatigotamī và nàng Yaso-dhara (mẹ Rāhula) xuất gia, Nandā suy nghĩ rằng: "Hoàng huynh của ta đã từ bỏ ngôi vị chuyển luân vương, xuất gia trở thành bậc Toàn Giác, bậc tối thượng trong thế gian, thái tử Rāhula con của Ngài cũng đã xuất gia, hoàng huynh Nanda, mẫu hậu Mahāpajāpatigotamī cùng hoàng tỷ Yasodhara cũng đã xuất gia hết rồi, vậy ta ở nhà làm gì? Thôi ta hãy xuất gia". Như vậy nàng xuất gia không phải vì lòng tin mà chính vì tình cảm quyến luyến quyến thuộc. Mặc dù đã xuất gia nhưng nàng vẫn tự kiêu với thân sắc, sợ bậc Đạo Sư quở trách nên nàng không đến yết kiến Ngài. Trưởng hợp của nàng cũng tương tự như câu chuyện của tỳ khưu ni Abhirūpanandā, chỉ khác là khi nàng thấy một thiếu nữ mỹ miều do Đức Phật hoá hiện và chứng kiến nhan sắc ấy từ từ bị biến dịch, bị tàn lụi, nàng vô cùng kinh cảm. Nhờ duyên lành tròn đủ, nàng lấy đề mục ấy suy quán dựa trên tam tướng vô thường, khổ vô ngã, khi biết tâm nàng đã chuyên chú trên đề mục, bậc Đạo Sư bèn giáo hoá nàng bằng bài kệ rằng: "Nầy Nandā, hãy nhìn Dựa trên lời dạy bậc Đạo Sư, nàng phát triển tuệ quán, chứng quả Dự Lưu, và để giúp nàng đạt được những quả vị cao hơn, bậc Đạo Sư dạy tiếp rằng: "Này Nandā, trong tấm thân nầy không có một chút gì tinh tuý cả, chỉ là một đống xương, tô đắp bằng máu thịt, bị già chết chi phối". Như được nói trong tập Pháp cú rằng: "Thân nầy làm bằng xương Vừa dứt pháp thoại, nàng đã chứng quả Alahán. Nàng đã kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna như sau: "Trong kiếp một trăm ngàn Sau khi đắc quả Alahán, nhìn lại quá trình tu chứng của mình, nàng xướng lên bài kệ rằng: "Khi ta không phóng dật * 9- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI BHADDĀKUṆḌALAKESĀ Được biết trưởng lão ni Bhaddākuṇḍalakesā đã nói lên bài kệ rằng: "Khi trước sống một y Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng tái sanh trong một gia đình trưởng giả tại thành Rājagaha (Vương Xá) và tên là Bhaddā. Vì là con độc nhất của gia đình giàu có nên nàng rất được cha mẹ thương yêu, cưng chiều và nhiều người hầu hạ. Khi trưởng thành, một hôm nàng nhìn thấy tên trộm tên Sattuka, con của quan tế tự trong thành bị quân lính áp giải ngang nhà để đem đến pháp trường xử trảm, vì phạm vào trọng tội có đủ nhân chứng, vật chứng. Do duyên tiền kiếp nên nàng cảm thấy thương yêu tên tội phạm vô ngần. Nàng nằm sấp trên giường than khóc rằng: "Nếu được chàng, ta sẽ sống, bằng không chắc ta sẽ chết". Người cha vì quá thương con nên đã hối lộ một ngàn đồng vàng cho quan lính và đưa Sattuka đến gặp nàng. Sống với nhau được ba hôm, nhìn thấy những đồ trang sức quý gái của nàng, Sattuka khởi lòng tham, muốn chiếm đoạt, bèn nói với nàng rằng: "Nầy em Bhaddā, khi bị lính bắt, anh có phát nguyện với chư thiên ngự tại hòn núi bỏ kẻ trộm (vì vực núi nầy là nơi quăng những tên tội phạm trộm cắp) là khi nào anh được thả, anh sẽ mang lễ vật đến tạ ơn, vậy em hãy giúp anh chuẩn bị những lễ vật, để chúng ta đi tạ ơn". Vâng lời chàng, Bhaddā sắp đặt đầy đủ các lễ vật, trang điểm xong nàng cùng chồng đi đến ngọn núi ấy. Khi đến chân núi, Sattuka nghĩ rằng: "Nếu tất cả cùng lên núi thì làm sao ta thực hiện được", Sattuka bèn cho nhóm tuỳ tùng dừng lại tại đấy, rồi cầm lấy túi đựng lễ vật cùng với Bhaddā đi lên núi. Trên đường đi hắn biểu lộ những thái độ không thân ái với nàng khiến nàng cảm thấy nghi ngờ. Khi đến đỉnh núi, hắn nói rằng: "Nầy Bhaddā, nàng hãy lộ hết những nữ trang trên người, cởi áo ngoài ra gói những nữ trang ấy lại". Bhaddā hỏi rằng: "Thưa phu quân, em có làm điều gì sái quấy chăng?" Hắn đáp: "nầy nàng ngu, ngươi nghĩ rằng ta đến đây để cúng tế à, nói thật cho nàng biết, ta dụ nàng đến đây để cướp những nữ trang của nàng". Nàng nói: "Thưa phu quân, những đồ trang sức nầy là của ai và thân em là của ai?". Hắn đáp: "Ta không biết gì về sự phân chia nầy cả". Nàng nói: "Thôi được thưa phu quân, nhưng cầu xin chàng cho em một đặc ân, được đeo những nữ trang nầy và hôn chàng lần cuối cùng". Hắn chấp thuận và khi biết hắn đã nhận lời, nàng giả bộ ôm hôn hắn rồi liền xô hắn xuống vực, tên trộm ấy rơi xuống vực sâu tan xương nát thịt. Vị chư thiên ngự tại ngọn núi thấy sự thông minh, sự bình tĩnh ứng xử của nàng, đã khen ngợi với bài kệ rằng: "Không phải là lúc nào Rồi Bhaddā suy nghĩ: "Sự việc xảy ra như vầy, ta không thể trở về nhà được, rời khỏi nơi đây, ta chỉ còn cách xuất gia thôi". Nàng bèn đi đến trú xứ của nhóm ngoại đạo Nigantha xin xuất gia. Nhóm Nigantha hỏi nàng: "Nàng muốn xuất gia ở bậc nào?" Nàng đáp: "Bậc thượng trong giáo phái của quý Ngài như thế nào, hãy cho tôi xuất gia như vậy." Các Nigantha nói: "lành thay", rồi xúm lại nhổ tóc xuất gia cho nàng. Không lâu sau, tóc nàng mọc ra và quăn lại, từ đó nàng mới có tên là Kuṇḍalakesā (nàng tóc quăn). Sau khi học hỏi giáo lý của tông phái nầy, nàng nhận thấy rằng, nơi giáo phái nầy không có gì huyền nhiệm đặc biệt, nàng bèn từ giã chúng Nigantha và tìm đến các vị danh sư thọ giáo học đạo. Cuối cùng với tài trí hùng biện sắc sảo của nàng khiến không có ai dám tranh luận, nàng đi khắp nơi và khi đến khu làng hay thị trấn nào nàng vun lên một đống cát gần cổng ra vào, cắm một nhánh cây diêm phù và căn dặn những đứa trẻ ở gần đó rằng: "Người nào muốn tranh luận với ta thì hãy dẫm lên cành cây diêm phù nầy". Sau bảy ngày không có ai dẫm lên, nàng liền đem cành cây ấy đến nơi khác. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn sau khi Chuyển pháp luân, Ngài tuần tự du hành đến thành Sāvatthī và ngự tại Jetavana (Kỳ Viên Tịnh Xá). Nàng Kuṇḍalakesā đi khắp nơi từ làng mạc, thị trấn đến kinh đô, lần lượt cũng đến thành Sāvatthī và cắm cành cây diêm phù lên đống cát gần cổng thành, căn dặn những đứa trẻ rồi nàng đi vào thành. Sáng hôm ấy, tôn giả Sārīputta, vị tướng quân chánh pháp một mình vào thành, nhìn thấy cành cây, tôn giả bèn hỏi các đứa trẻ rằng: "Vì sao cành cây nầy được cắm ở đây". Các đứa trẻ giải thích cho biết, nghe xong, tôn giả nói với chúng rằng: "Nếu là vậy, các ngươi hãy dẫm lên cành cây nầy đi". Các đứa trẻ vâng lời Ngài cùng nhau dẫm lên cành cây ấy. Nàng Kuṇḍalakesā sau khi thọ thực xong trở ra thành thấy cành cây bị dẫm, bèn hỏi những đứa trẻ. Khi biết tôn giả Sārīputta cho dẫm, nàng suy nghĩ rằng: "Cuộc tranh luận nầy, nếu không có nhiều người tham dự thì sẽ không thú vị" Nàng bèn đi đến các con đường thông báo rằng: "Thưa quý vị, xin quý vị hãy đến chứng kiến cuộc tranh luận giữa tôi với sa môn thích tử". Sau khi quy tụ được một số đông quần chúng, nàng cùng họ đi tìm tôn giả. Bấy giờ Ngài đang ngồi dưới một cội cây, đến nơi nàng nói lên những lời hỏi thăm xã giao, rồi đứng một bên hỏi rằng: "Thưa tôn giả, cành cây diêm phù tôi cắm, có phải Ngài đã cho những đứa trẻ dẫm lên chăng?" Tôn giả đáp: "Đúng vậy, ta đã cho các đứa trẻ dẫm lên". Nàng nói rằng: "Nếu là vậy, thì sẽ có cuộc tranh luận giữa tôi với Ngài". Tôn giả nói: "Xin mời Bhaddā". Nàng nói: "Thưa tôn giả, Ngài hỏi trước hay tôi?" Tôn giả: "Thông thường ta sẽ hỏi trước, nhưng giờ nàng cứ hỏi điều nàng biết". Thuận theo ý tôn giả, nàng nêu lên những câu hỏi theo kiến thức của mình. Tôn giả đã giải đáp sáng tỏ những câu hỏi ấy. Khi không còn gì để hỏi, nàng đành im lặng. Tôn giả nói: "Nàng đã nêu lên nhiều vấn đề hỏi ta, bây giờ đến lượt ta chỉ hỏi nàng một điều thôi". Nàng: "Xin tôn giả cứ hỏi đi". Tôn giả hỏi rằng: "Ekaṃ nāma kiṃ - Thế nào là một pháp". Nàng Kuṇḍalakesā tìm không thấy nút thắt đầu, không thấy nút thắt cuối ví như người lạc giữa màn đêm u tịch, bèn thú nhận rằng: "Tôi không biết thưa Ngài". Tôn giả nói: "Chỉ với một pháp, ngươi còn chưa biết, thì những pháp khác sao ngươi có thể biết được". Rồi tôn giả thuyết pháp cho nàng, dứt pháp thoại, nàng khấu đầu dưới chân tôn giả thưa rằng: Bạch tôn giả, con xin quy y nơi Ngài". Tôn giả khuyên: "Nầy Bhaddā, chớ có quy y ta, ngươi hãy đến quy y nơi Thế tôn, bậc Đạo Sư của trời người". Nàng nói: "Con sẽ làm theo lời Ngài dạy - Bạch Ngài". Chiều lại nàng đi đến yết kiến bậc Đạo Sư, đảnh lễ ngũ thể đầu địa, rồi đứng một bên, bậc Đạo Sư thấy căn cơ nàng đã thuần thục bèn phán rằng: "Dầu có ngàn câu kệ Vừa dứt bài kệ, cũng trong tư thế đứng ấy nàng chứng quả Alahán với tứ tuệ phân tích. Nàng đã kể lại giai thoại nầy trong tập Apadāna: "Cách nay trăm ngàn kiếp Sau khi chứng quả Alahán, nàng đã xin xuất gia, bậc Đạo Sư truyền đạt giới cho nàng, nàng đi đến tịnh xá của các tỳ khưu ni, sống với sự an lạc giải thoát, nhìn lại quá trình tu chứng của mình, nàng đã nói lên bài kệ rằng: "Khi trước sống một y * 10- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI PAṬĀCĀRĀ Được biết trưởng lão ni Paṭācārā đã nói lên bài kệ rằng: "Với cây cày, cày ruộng Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng tái sanh trong một gia đình trưởng giả. Khi trưởng thành, nàng đem lòng yêu thương người đầy tớ trong nhà, hay tin cha mẹ sắp gả mình cho một chàng trai môn đăng, nàng bèn lấy một số tiền trốn đi với tình nhân và sống tại một ngôi làng nhỏ hẻo lánh. Khi sắp sanh, nàng nói với chồng rằng: "Mình ơi! Em sắp sanh rồi mà ở đây chúng ta chẳng có được một người thân để nhờ cậy khi hữu sự, vậy chàng hãy đưa em trở về nhà cha mẹ đi". Người chồng vì sợ ông bà chủ, nên cứ hẹn lần hẹn lựa, khi biết rằng chàng không muốn đưa mình về, chờ lúc chồng đi vắng, nàng thu dọn gọn những đồ vật trong nhà và nhờ người láng giềng nhắn lại cho chồng là nàng đã trở về nhà cha mẹ. Về đến nhà hay tin vợ đi rồi, người chồng suy nghĩ: "Vì ta mà nàng trở thành không nơi nương tựa", liền tức tốc đuổi theo và gặp vợ giữa đường. Lúc ấy nàng vừa sanh con xong, nàng suy nghĩ: "Sanh con rồi, giờ thì không cần thiết trở về nhà cha mẹ nữa". Rồi nàng bế con cùng chồng quay trở lại nhà của mình. Khi mang thai lần thứ hai, cũng như lần trước, chỗ khác nhau là vợ chồng tay bồng tay bế cùng nhau trở về làng, đi được một đỗi, dầu sái mùa nhưng chẳng biết gió từ đâu nổi lên, kéo theo những cụm mây đen giăng phủ cả bầu trời rồi mưa như thác đổ trút xuống trắng cả bầu trời, người vợ bị kiệt sức vì mới sanh, làm sao chống chọi trước mưa to gió lớn, nàng bèn nói với chồng: "Mình ơi! Em và con không thể chịu đựng được nữa, mình đi tìm cành cây về che tạm cho em và con đi". Người chồng ngó quanh, nhìn thấy một bụi cây gần gò mối, liền đi lại chặt những cành cây ấy, nghe động đậy, một con rắn độc từ gò mối bò ra, cắn người chồng chết tại chỗ. Chồng đi đã lâu nhưng không thấy trở về, nàng vô cùng hoang mang lo lắng, không có gì để che chắn mưa gió, nàng phải tỳ hai tay và hai đầu gối xuống đất vừa che mưa gió vừa để úm cho con, nàng đã chịu đựng với tư thế ấy suốt đêm. Trời vừa sáng, nàng một tay bế, một tay dẫn con đi tìm chồng, lần theo con đường chồng đi, nàng nhìn thấy xác chồng nằm chết cạnh gò mối. Nàng đau khổ than khóc vì chồng chết và cũng tự trách mình rằng: "Chính vì ta mà chàng phải chết". Gạt những giọt lệ tử biệt, nàng tay bế tay dắt con trở về cha mẹ. Đi được một đỗi, gặp dòng sông nước lớn và chảy xiết do trận mưa đêm qua, nàng không thể cùng một lúc đem hai con qua sông, nàng bèn để đứa lớn bên nầy, ẵm đứa nhỏ qua trước, đến bờ nàng tìm những nhánh cây nhỏ trải lót, quấn con với một tấm vải cũ và đặt nằm trên những cành lá ấy, rồi quay lại rước đứa lớn, đi được nửa dòng nàng quay lại thăm chừng; một con diều hâu nhìn thấy đứa bé cứ tưởng là cục thịt nó xà xuống xớt lấy bay lên hư không, nhìn thấy con bị diều hâu gắp đi, người mẹ vỗ tay kêu la với ý xua đuổi nhưng vô hiệu quả vì nó đã bay xa. Đứa lớn ở bên nầy, nghe mẹ vỗ tay kêu lớn, tưởng kêu nó, nó bèn chập chững bước xuống và bị nước cuốn đi. Chồng bị rắn cắn chết, đứa nhỏ bị diều hâu tha đi, đứa lớn bị nước cuốn trôi khiến nàng vô cùng đau khổ, vừa đi vừa khóc nàng nghĩ rằng: "Đời ta giờ chẳng còn gì cả, ngoại trừ cha mẹ là nguồn an ủi duy nhất của thôi". Về gần đến thành Sāvatthī, nàng hỏi thăm tin tức về cha mẹ mới hay trận mưa giông đêm qua làm sập nhà đè chết cha mẹ và đứa em trai của nàng, sáng nay những người láng giềng đã đem cả ba đi thiêu trên cùng một giàn hoả. Sự vô thường đã liên tục cướp đi từ tay nàng niềm vui và sự sống, cho đến nguồn hy vọng cuối cùng của nàng cũng bị sụp đổ, với tấm thân bé nhỏ làm sao nàng chịu đựng nổi sự đau khổ quá ư to lớn ấy, nàng như điên như dại, không màn đến lớp vải che thân, vừa đi vừa khóc than rằng: "Hai con ta đã chết Từ đó nàng có tên là Paṭācārā (kẻ không mặc xiêm y). Một số người gặp nàng, họ xua đuổi, quăng rác lên đầu nàng, họ ném đất, ném cát lên người nàng. Lúc bấy giờ, bậc Đạo Sư đang ngự toạ thuyết pháp giữa hội chúng lớn tại Jetavanavihāra (Kỳ viên tịnh xá), từ xa Ngài thấy nàng đang thất tha, thất thểu và biết rằng duyên lành giải thoát của nàng đã chín muồi, với uy lực khiến nàng hướng thẳng về tịnh xá, hội chúng thấy nàng đi đến, nói rằng: "Hãy ngăn cản, chớ cho bà điên ấy vào đây" Bậc Đạo Sư phán rằng: "Chớ có ngăn cản nàng" Và khi nàng sắp bước vào hội chúng, Ngài phán rằng: "Hãy tỉnh lại, này thiếu phụ". Nghe âm giọng từ hoà êm ấm của bậc Đạo Sư rót vào tai, nàng bừng tỉnh, cảm nhận được mình chẳng có mảnh vải che thân, nàng phát sanh hổ thẹn, bèn ngồi sụp xuống, một người thiện nam liền ném cho nàng tấm vải, sau khi khoác tấm vải ấy, nàng tiến đến đảnh lễ ngũ thể đầu địa và thưa rằng: "Bạch Ngài, xin Ngài hãy là chỗ nương tựa của con, một con diều hâu đã xớt lấy đứa con nhỏ, đứa lớn bị dòng nước cuốn đi, người chồng bị rắn cắn chết, cha mẹ và em trai bị nhà sập đè chết, cùng thiêu chung một giàn hoả, chỉ trong một đêm đến sáng những người thân yêu đã lần lượt bỏ con ra đi, giờ đây con chẳng còn một người thân, chằng còn một chỗ nương tựa nào cả, xin Ngài từ bi là chỗ nương tựa cho con". Bậc Đạo Sư phán rằng: "Này Paṭācārā, ngươi chớ có nghĩ rằng chỉ dựa vào sự nương tựa này sẽ làm cho ngươi hết đau khổ, này Paṭācārā từ vô thuỷ luân hồi, nước mắt ngươi đổ xuống vì cha chết, mẹ chết, chồng chết, con chết, quyến thuộc chết, còn nhiều hơn nước trong bốn biển nữa". Rồi Ngài nói lên bài kệ rằng: "Nước ở trong bốn biển Sau khi Đức Thế Tôn thuyết giảng về sự luân hồi đầy nước mắt như vậy, sự sầu muộn của nàng được nhẹ dần, thấy tâm nàng đã được lắng dịu phiền muộn và sẵn sàng lãnh hội giáo pháp, bậc Đạo Sư bèn giảng tiếp rằng: "Này Paṭācārā, một người khi mệnh chung dầu cha mẹ, quyến thuộc có thương yêu đến mấy cũng không thể giúp đỡ, không thể làm chỗ nương tựa được, hiểu như vậy, các bậc hiền trí trau dồi giới đức, thanh lạc ô nhiễm hướng đến Niết bàn". Rồi Ngài nói lên bài kệ rằng: "Dầu cha mẹ, con cái Dứt bài kệ Paṭācārā chứng đạt quả Dự Lưu và ngỏ lời xin xuất gia, bậc Đạo Sư đưa nàng đến trú xứ các tỳ khưu ni cho xuất gia. Sau khi thọ cụ túc giới, nàng nỗ lực tu tập để mong đạt được quả vị cao hơn. Một hôm, nàng cầm bình múc nước rửa chân, xối lần đầu, nước từ chân nàng chảy được một đoạn ngắn rồi dứt, xối, lần thứ nhì, nước chảy xa hơn, xối lần thứ ba, nước chảy xa hơn một chút rồi dứt. Dựa trên nền tảng nầy, nàng suy tư: "Cũng vậy, loài hữu tình có một số chết trong buổi sơ niên như nước ta xối lần đầu, một số chết trong buổi trung niên như nước ta xối lần thứ hai, một số chết trong buổi lão niên như nước ta xối lần thứ ba". Bấy giờ bậc Đạo Sư đang ngự toạ trong hương thất, biết được dòng tư tưởng của nàng, Ngài phóng hào quang như đang đứng trước mặt và dạy rằng: "Nầy Paṭācārā, như vậy cuộc sống của loài hữu tình, cuối cùng cũng phải chết, thế nên với người thấy được sự sanh diệt của ngũ uẩn, dầu sống chỉ một ngày vẫn quý hơn người sống cả trăm năm mà không thấy được sự thật ấy". Rồi Ngài nói lên bài kệ rằng: "Dầu sống chỉ một ngày Dứt bài kệ, tỳ khưu ni Paṭācārā chứng đạt quả vị Alahán với tứ tuệ phân tích. Sau khi chứng quả Alahán, nàng quán lại quá trình tu chứng của mình khi còn là hữu học và nhân duyên đưa đến quả cao, nàng cảm xướng bài kệ rằng: "Với cây cày, cày ruộng * 11- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI KHEMĀ Ác ma đến cám dỗ nàng với bài kệ rằng: "Hỡi nầy nàng Khemā Ngược dòng thời gian cách nay một trăm ngàn đại kiếp, có vị Chánh Đẳng Giác hồng danh Padumuttara, bậc tỏ ngộ các pháp, sanh lên trong thế gian. Lúc bấy giờ, ta sanh trong một gia đình trưởng giả giàu có, tại thành Haṃsavatī. Một hôm, ta đi đến yết kiến bậc Đại Hùng, nghe Ngài giảng Chánh Pháp, ta khởi tâm tịnh tín, xin quy y tam bảo trở thành một tín nữ ngoan đạo. Khi được cha mẹ cho phép, ta đã cung thinh Đức Thế Tôn cùng chư tỳ khưu Tăng về nhà cúng dường thực phẩm suốt bảy ngày. Đến ngày thứ bảy, nhân sự tùng sự Đức Thế Tôn đã biểu dương một vị tỳ khưu ni thù thắng hơn chư Ni về hạnh trí tuệ. Sau khi nghe những lời ấy, ta lấy làm thoả thích, tiến đến đảnh lễ dưới chân Thế tôn và chú nguyện vị trí ấy. Bậc Đạo Sư phán với ta rằng: "Nầy tín nữ, nguyện vọng của ngươi sẽ được thành tựu, trải qua một trăm ngàn đại kiếp, có vị Chánh Đẳng Giác hồng danh Gotama sanh lên trong thế gian, ngươi sẽ trở thành tỳ khưu ni tên là Khemā, sẽ là người thừa tự giáo pháp của Đức Thế Tôn ấy và sẽ trở thành vị đại đệ tử đệ nhất hạnh trí tuệ trong hàng Ni chúng. Do những thiện nghiệp ấy, sau khi mệnh chung, ta được tái sanh lên cõi Đạo Lợi, mãn thọ cõi Đạo Lợi, ta được sanh lên cõi Dạ Ma, từ bỏ thân cõi Dạ Ma, ta được sanh lên cõi Đâu Xuất, mệnh chung cõi Đâu Xuất, ta tái sanh cõi Hoá Lạc và cuối cùng ta được sanh cõi Tha Hoá Tự Tại, đỉnh cao của các cõi trời dục giới. Cũng do phước nghiệp ấy, trong các tầng trời tái sanh, ta đều được làm hoàng hậu của vị Thiên Vương cõi ấy. Mạng chung từ thiên giới, sanh xuống cõi người, ta được làm hoàng hậu của Đức Chuyển Luân Vương và được làm hoàng hậu của vị vua quốc độ. Trong những kiếp luân chuyển giữa hai cõi người trời, ta luôn được an lạc và thọ hưởng đầy đủ những thiên sản, nhân sản cao sang đặc thù. Trong kiếp thứ chín mươi mốt, có vị Chánh Đẳng Giác hồng danh Vipassī sanh lên trong thế gian. Do thiện căn dẫn dắt, ta đi đến yết kiến bậc Đạo Sư, được nghe diệu pháp nơi Ngài, ta khởi niềm tin trong sạch xin xuất gia. Xuất gia tỳ khưu ni xong, ta tinh cần học tập kinh điển Phật ngôn và thực hành phạm hạnh trong giáo pháp của bậc Đại Hùng ấy đến mười ngàn năm. Do phước duyên quá khứ và sự nỗ lực hiện tại, lúc bấy giờ ta trở thành bậc đa văn, bậc Pháp sư giỏi và là người có trí tuệ sắc bén. Nhờ phạm hạnh thanh tịnh nên sau khi mệnh chung ta được sanh lên cõi Đâu Xuất. Cũng trong hiền kiếp nầy, có vị Chánh Đẳng Giác hồng danh Konāgamana sanh lên trong thế gian. Lúc bấy giờ, ta tái sanh trong một gia đình giàu có, tại thành Bārāṇasī. Ta cùng với chị Dhanañjānī và chị Sumedhā kiến tạo một dãy Tăng xá thật lớn và một ngôi tịnh xá trang nhã dâng đến Đức Phật cùng Chư Tăng. Mệnh chung từ kiếp ấy, ta sanh lên cõi Đạo Lợi, trở thành một thiên nữ có uy danh thù thắng hơn các thiên nữ khác. Trong thời giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa. Vào thời ấy, đức vua xứ Kāsī, danh hiệu là Kiki, trị vì tại thành Bārāṇasī, là một cận sự nam thuần thành, một đại đàn tín của Đức Thế Tôn Kassapa. Lúc bấy giờ, ta sanh làm trưởng nữ của đức vua Kiki và tên là Samaṇī. Sau khi nghe được chánh pháp nơi Thế Tôn, ta khởi niềm tin, xin xuất gia nhưng phụ vương không cho. Mặc dù không được xuất gia, nhưng bảy chị em ta: ta, công chú Samaṇaguttā, công chúa Bhikkhuṇī, công chúa Bhikkhudāsikā, công chúa Dhammā, công chúa Sudhammā và công chúa Saṅghadāsikā, không xao lãng lý tưởng xuất ly, hằng ngày chăm lo hộ độ cúng dường Đức Phật cùng chư Tăng, thọ trì thập giới và sống đời phạm hạnh tại gia suốt hai chục ngàn năm. Do thiện nghiệp ấy, sau khi mệnh chung, ta được sanh lên cõi Đạo Lợi. Dù sanh ở cõi nào, ta cũng là người đầy đủ về an lạc, đầy đủ về tài sản, đầy đủ về sắc đẹp, đầy đủ về tuỳ tùng và đầy đủ về trí tuệ. Trong kiếp cuối cùng, ta sanh làm công chúa yêu quý của đức vua Madda tại thành Sāgala. Ngày ta chào đời, cả thành Sāgala đều cộng hưởng sự an lạc. Do hiện tượng đó, nên phụ vương mới đặt tên cho ta là Khemā (niềm an lạc) khi trưởng thành ta có dung sắc và làn da xinh đẹp, phụ vương đem hiến dâng ta cho đức vua Bimbisāra. Từ đó, ta trở thành hoàng hậu của một quốc độ lớn và cũng là nơi sủng ái của đức vua. Tự biết mình đẹp, nên hằng ngày ta cứ mân mê trau chuốt thân sắc và không thích nghe những lời chỉ trích về sắc thân nầy. Lúc bấy giờ, đức vua Bimbisāra vì muốn tiếp độ ta, Ngài cho những ca sĩ ca hát, ca tụng về tịnh xá Trúc Lâm rằng: "Tịnh xá Trúc Lâm là một nơi khả ái, khả hỷ, có nhiều phong cảnh nên thơ hữu tình, người nào chưa thấy tịnh xá Trúc Lâm cũng như người ấy chưa thấy Nandavana - Hỷ Lâm (một khu rừng khả ái khả hỷ của Thiên Vương Đế Thích và chư thiên cõi Đạo Lợi) người nào nhìn thấy tịnh xá Trúc Lâm cũng như được thấy Nandavana - rừng hoan hỷ của cõi trời Đạo Lợi vậy. Ai viếng thăm tịnh xá Trúc Lâm, tâm người ấy sẽ vui thích lạ thường và chiêm ngưỡng hoài không biết chán". Nghe những lời ca tụng về tịnh xá Trúc Lâm, khiến lòng ta nôn nao muốn đi đến chiêm ngưỡng, bèn ngỏ lời xin đức vua, đức vua hoan hỷ cho nhiều tuỳ tùng đưa ta đi xem Trúc Lâm với lời phán rằng: "Này hoàng hậu hữu phước, xin mời nàng hãy đi xem Trúc Lâm cho thoả chí, nơi ấy được tô điểm với hào quang xinh đẹp của Đức Thế Tôn". Ta thưa rằng: "Muôn tâu bệ hạ - khi nào Đức Thế Tôn ngự vào thành Rājagaha (Vương Xá) khất thực, khi ấy thần thiếp mới đến chiêm ngưỡng tịnh xá Trúc Lâm". Nhưng sau đó, ta cũng đi đến Trúc Lâm cùng với các tuỳ tùng, vào đến Trúc Lâm rồi, mới thấy khác hơn những điều ta tưởng. Ta nhìn thấy một vị tỳ khưu trẻ, đang thực hành pháp tinh tấn, ta suy nghĩ rằng: "Vị tỳ khưu này, đang độ thanh xuân, có thân hình khả ái, lại từ bỏ những thú vui thế tục, vào đây xuất gia, sống đời phạm hạnh, thật đáng thán phục". Rồi ta nhìn thấy bậc Đạo Sư đang ngồi tự tại, sau lưng có một thiếu nữ xinh đẹp hầu quạt, ta bèn suy nghĩ rằng: "Thiếu nữ nầy, có màu da sáng như vàng, có đôi mắt đẹp như hoa sen, có bờ môi đỏ như quả chà là chín, chỉ mới thoáng nhìn một chút mà đã khiến cho trái tim nầy, cặp mắt nầy bị cuốn hút vào rồi. Gương mặt nàng thật đẹp, cặp nhũ nàng căng tròn như búp sen, eo nàng thon thả, mông đầy đặn, đồ trang sức, xiêm y của nàng thật lộng lẫy, chiêm ngưỡng hoài không biết chán. Nhìn nàng ta chợt nghĩ: "Vẻ đẹp của nàng thiếu nữ nầy đặc biệt quá, ta chưa từng thấy bao giờ". Rồi dần dần nàng thiếu nữ ấy trở thành trung niên, trở thành lão niên với mặt sạm da nhăn, răng rụng, tóc bạc, lưng còm, tay chân run rẩy, nước miếng chảy ra, nhìn thấy cảnh tượng ấy, lòng ta đầy kinh cảm, nghĩ rằng: "Thân nầy thật bất tịnh, đáng nhàm chán, chỉ có kẻ ngu mới ưa thích. Lúc bấy giờ, bậc Đạo Sư với lòng bi mẫn, thấy tâm ta kinh cảm như vậy, Ngài phán lên bài kệ rằng: "Nầy Khemā hãy nhìn Biết tâm ta đã sẵn sàng, bậc Đạo Sư bèn thuyết kinh Mahānidāna để dẫn dắt ta, lắng nghe kinh, ta chợt nhớ lại quá khứ, ta đã thọ trì bài kinh nầy nơi Đức Phật Kassapa, lấy bài kinh làm nền tảng, ta phát triển tuệ quán, chứng đạt quả Dự Lưu. Rồi ta phủ phục dưới chân bậc Đạo Sư với mục đích sám hối ta thưa rằng: "Kính bạch bậc tỏ ngộ các pháp, con xin đảnh lễ Ngài. Kính bạch bậc Đại Bi, con xin đảnh lễ Ngài. Kính bạch bậc đã vượt qua luân hồi, con xin đảnh lễ Ngài. Kính bạch bậc ban bố pháp bất tử, con xin đảnh lễ Ngài vì si mê tà kiến, vì tham dục chi phối, con không đến yết kiến Ngài, bậc nương nhờ của thế gian, con xin sám hối những lỗi lầm ấy, con là người đam mê trong thân sắc, con nghĩ rằng Ngài không sẵn lòng tiếp độ nên con không đến yết kiến Ngài, bậc đầy lòng từ bi tiếp độ, bậc ban bố pháp cao quý, con xin sám hối lỗi lầm ấy. Lúc bấy giờ, bậc Đạo Sư phán với ta rằng: "Vừa đủ rồi, nầy Khemā". Rồi ta đảnh lễ, nhiễu quanh Ngài, trở về hoàng cung, ta đi đến đức vua thưa rằng: "Muôn tâu Bệ Hạ, thật kỳ diệu thay, phương cách hoàn hảo của Bệ Hạ, thiếp muốn chiêm ngưỡng Trúc Lâm và đã chiêm ngưỡng bậc Ẩn Sỹ ly phiền não. Nếu Bệ Hạ hoan hỷ chấp nhận, thì thiếp xin được xuất gia trong giáo pháp của Đức Thế Tôn". Lúc bấy giờ, đức vua Bimbisāra chấp tay lên nói với ta rằng: "Nầy hiền muội, huynh chuẩn y lời cầu xin của muội, mong rằng việc xuất gia của muội sẽ được thành tựu như ý". Xuất gia được bảy tháng, một hôm khi nhìn thấy nguyên nhân sanh diệt của ngọn đèn, dựa trên nền tảng đó ta suy quán thân nầy, khiến ta nhàm chán tất cả hành và chứng quả Alahán. Ta là người thuần thục trong hoá thông, trong thiên nhĩ thông và tha tâm thông, ta thấu đáo các tiền kiếp, thiên nhãn ta thanh tịnh và đoạn tận các lậu hoặc. Nay sanh hữu không cỏn, trí tuệ ta thấu triệt trong tứ vô ngại giải, thiện xảo trong thất thanh tịnh, lão luyện trong Kāthāvatthu (Ngữ Tông), thông suốt trong Abhi-dhamma (Vi diệu pháp). Một hôm, đức vua Pasenadikosala đến hỏi ta, phần vi tế trong Toraṇavatthu ta đã giải đáp cặn kẻ rõ ràng. Rồi đức vua Pasenadi đi đến yết kiến bậc Đạo Sư thuật lại cuộc luận đạo ấy. Bậc Đạo Sư đã xác chứng lời giải đáp của ta. Do biết rõ hạnh nguyện của ta và kết hợp với nhân hiện tại, bậc Đạo Sư đã biểu dương ta, đệ nhất về trí tuệ trong hàng Ni chúng. Một hôm, lúc đang ngồi tịnh dưới gốc cây, ác ma hoá thân thành chàng thanh niên, đi đến quyến rũ ta với bài kệ rằng: "Hỡi nầy nàng Khemā Ta đã trả lời ác ma với bài kệ như vầy: "Với thân hôi thối nầy * 12- KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI MAHĀPAJĀPATĪGOTAMĪ Được biết trưởng lão ni Mahāpajāpatīgotamī đã nói lên bài kệ rằng: "Kính bạch bậc Giác Ngộ Ngược dòng thời gian cách nay một trăm ngàn đại kiếp, có đức Chánh Đẳng Giác hồng danh Padumuttara, bậc tỏ ngộ các pháp, sanh lên trong thế gian. Lúc bấy giờ, trưởng lão ni tái sanh trong một gia đình quan đại thần giàu có, uy danh tại thành Haṃsa-vatī. Một hôm, nàng và phụ thân cùng các tuỳ tùng đi đến tịnh xá yết kiến bậc Đạo Sư, nhìn thấy bậc Đạo Sư như đức Thiên vương Vāsava, đang làm cho mưa pháp rơi xuống, là bậc không còn lậu hoặc, với hào quang thù diệu chiếu sáng như mặt trời giữa mùa thu, khiến tâm nàng tịnh tín, ngồi lắng nghe diệu pháp của Ngài. Nàng nhìn thấy bậc chúa tể muôn loài, biểu dương một tỳ khưu ni Mātucchā vị trí là bậc kỳ cựu nhất trong hàng Ni chúng. Thỏa thích với hình ảnh đó, nàng bèn cung thỉnh Đức Thế tôn cùng Tăng chúng về thiết đại lễ cúng dường suốt bảy ngày, đến ngày thứ bảy sau khi Đức Phật cùng chư Tăng thọ thực xong, nàng đến đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, chú nguyện vị trí ấy. Bậc Đạo Sư sau khi dùng Phật nhãn quán chiếu vị lai, Ngài phán giữa hội chúng rằng: "Nầy chư tỳ khưu, nàng tín nữ nào với tâm trong sạch cung thỉnh Như Lai cùng Tăng chúng cúng dường suốt bảy ngày, ta tiên đoán người ấy, các ngươi hãy lắng nghe: trải qua một trăm ngàn đại kiếp có vị Chánh Đẳng Giác hồng danh Gotama, là bậc Đạo Sư của thế gian, nàng tín nữ ấy sẽ là người thừa tự giáo pháp, sẽ trở thành đại thinh văn danh xưng Gotamī, sẽ là bậc dì Mẫu nuôi dưỡng sinh mạng của Đức Thế Tôn ấy và sẽ trở thành bậc kỳ cựu nhất trong hàng Ni chúng". Sau khi nghe lời tiên đoán của bậc Đạo Sư, nàng ô cùng hoan hỷ, càng tích cực hộ độ Đức Phật và Tăng chúng với tứ vật dụng, thực hành trọn vẹn những phận sự của người tín nữ đối với tam bảo. Do những thiện nghiệp ấy, sau khi mạng chung, nàng tái sanh lên cõi Đạo Lợi, được hưởng đầy đủ những thiên lạc thù thắng hơn các thiên nữ khác với mười phương diện là sắc, thinh, hương, vị, xúc, tuổi thọ, dung sắc, an lạc, uy danh và sự sáng chói. Nàng được làm hoàng hậu khả ái đáng nhìn của Đức Thiên Vương Đế Thích. Đến mãn thời kỳ giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, nàng tái sanh trong một ngôi làng của dân nô lệ thành Bārāṇasī. Khi lớn lên, nàng được gả cho người trưởng làng. Một hôm, có năm vị Phật Độc Giác ngự vào làng khất thực, nhìn thấy quý Ngài với lục căn thanh tịnh, màu da sáng chói, đầy đủ uy nghi chánh hạnh của bậc Sa Môn, nàng phát tâm trong sạch, đặt bát cúng dường. Sau khi khất thực xong, chư Phật Độc Giác đi vào rừng Isipatana. Lúc bấy giờ, thời tiết đã vào mùa mưa, nàng cùng chồng lãnh đạo năm trăm gia đình nô lệ trong làng, xây dựng năm ngôi tịnh thất, đắp con đường kinh hành, sắp đặt các lu nước cùng đầy đủ các vật dụng cần thiết; sau khi hoàn tất, nàng đã cung thỉnh chư Phật Độc Giác an cư mùa mưa trong các ngôi tịnh thất ấy. Hằng ngày, nàng tổ chức cho năm trăm phụ nữ trong làng thay phiên nhau cúng dường thực phẩm đến chư Phật Độc Giác và tuần tự như thế suốt ba tháng. Mãn mùa mưa, nàng đã vận động mỗi gia đình hùn một tấm vải choàng gộp lại may năm bộ tam y, dâng đến năm vị Phật Độc Giác. Chư Phật thọ nhận tam y, nói lời phúc chúc hoan hỷ đến các thí chủ, rồi bay về núi Gandhamādana, trước sự chứng kiến của năm trăm nàng tín nữ ấy. Do khéo tích trữ nhiều thiện nghiệp, nên sau khi mệnh chung nàng được sanh lên cõi Đạo Lợi, mãn thọ trên cõi ấy, nàng tái sanh vào gia đình trưởng nhóm thợ dệ, trong một làng dệt tại thành Bārāṇasī. Một hôm, nàng nhìn thấy năm trăm vị Phật Độc Giác (trước kia là thái tử của hoàng hậu Padumavatī) đang ngự đi khất thực, nàng phát tâm tịnh tín, thành kính đảnh lễ Chư Phật và đặt thực phẩm cúng dường. Chư Phật thọ thực xong, bay về núi Gandhamādana. Trong kiếp cuối cùng, nàng tái sanh trong hoàng tộc của đức vua Mahāsuppabuddha, thành Devadaha. Nàng được đặt tên theo họ là Gotamī và là em của công chúa Mahāmāyā. Trong ngày lễ đặt tên, các vị Bàlamôn xem tướng, tiên đoán rằng: "Về sau con của hai nàng công chúa nầy sẽ trở thành vị Chuyển Luân Vương". Khi hai nàng trưởng thành, đức vua Suddhodana (Tịnh Phạn) làm lễ rước cả hai về hoàng cung của mình. Sau khi bậc Đạo Sư giác ngộ, Ngài chuyển pháp luân tế độ quần sanh, rồi Ngài tuần tự ngự về thành Kapilavatthu tiếp độ phụ vương cùng quyến thuộc, trong dịp nầy, đức vua Tịnh Phạn đã chứng đạt quả vị Vô Sanh và viên tịch niết bàn ngay sau đó. Với sự băng hà của đức vua khiến bà Gotamī động tâm mạnh và có ý muốn xuất gia. Lần đầu, Bà đến xin bậc Đạo Sư nhưng Ngài không chấp thuận. Lần thứ hai, bà tự cắt tóc, đắp y casa và sau khi giảng xong bài kinh Kalahavivāda, Bà cùng với năm trăm công nương dòng Thích Ca đi đến thành Vesālī nhờ Đại đức Ānanda vào năn nỉ xin bậc Đạo Sư. Rồi bà được xuất gia, thọ cụ túc giới cùng tám trọng pháp. Một hôm, bà đến yết kiến bậc Đạo Sư, đảnh lễ xong, Bà đứng một bên, bậc Đạo Sư đã chỉ dẫn một đề tài thiền quán, Bà tín thọ lời dạy Thế Tôn, rồi nhiệt tâm tinh cần tu tập, không bao lâu Bà cũng được chứng quả Alahán cùng với lục thông và tuệ phân tích. Còn năm trăm vị tỳ khưu ni ấy, sau khi nghe tôn giả Nandaka ban lời giáo giới, tất cả đều chứng đạt lục thông. Một hôm, nhân dịp Chư Tăng câu hội đông đảo tại Jetavanavihāra (Kỳ Viên Tịnh Xá), ngự toạ giữa tăng chúng, bậc Đạo Sư đã biểu dương Bà là bậc kỳ cựu nhất trong hàng Ni chúng. Ngày nọ, trong lúc ngồi suy niệm ân đức của bậc Đạo Sư và những thành quả mà mình đạt được, Bà đã hoan hỷ cảm xướng bài kệ rằng: "Kính bạch bậc Giác Ngộ Trong tập Apadāna đã ghi lại giai thoại về thời Niết bàn của trưởng lão ni Mahāpajāpatīgotamī như sau: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Kūṭāgāra, rừng Mahāvana (Đại Lâm), thành Vesālī. Lúc bấy giờ, trưởng lão ni Mahāpajāpatīgotamī, dì mẫu của bậc Đạo Sư, sống an lạc tại tịnh xá tỳ khưu ni cùng với năm trăm vị tôn ni lậu tận. Trong lúc ngồi yên tịnh, Bà khởi lên tư tưởng như sau: "Việc Niết bàn của Đức Thế Tôn, của hai vị thượng thinh văn, của Rāhula, Ānanda và Nanda ta không được chứng kiến vì nay đã đến thời ta niết bàn, ta cần phải đến xin phép bậc Đạo Sư, rồi mới từ bỏ thọ hành niết bàn". Năm trăm vị tỳ khưu ni ấy cũng có sự suy nghĩ tương tự. Lúc bấy giờ, quả địa cầu rung động, rung chuyển, trống chư thiên cũng tự nhiên vang tiếng. Các chư thiên ngự tại tịnh xá tỳ khưu ni sầu khổ, than khóc, thật đáng thương vô cùng. Rồi các tỳ khưu ni cùng các chư thiên ấy đi đến trưởng lão ni, phủ phục dưới chân Bà thưa rằng: "Kính bạch Ni trưởng, chúng con được thấm nhuần dòng nước bất tử tại tịnh xá nầy, mới đây từ nơi sâu thẳm, quả địa cầu bỗng nhiên rung động, rung chuyển, trống chư thiên cũng tự vang tiếng và chúng con nghe tiếng than khóc. Kính bạch Ni trưởng, phải chăng có nguyên nhân gì phát sanh?". Trưởng lão ni Mahāpajāpatigotamī bèn thuật lại dòng tư tưởng của mình; kế đó, các vị tỳ khưu ni cũng lần lượt kể lại sự suy nghĩ của mình, xong chư Ni ấy thưa rằng: "Kính bạch Ni trưởng, nếu Người muốn niết bàn thì chúng con sẽ niết bàn theo, chúng con sẽ rời khỏi ngôi nhà tam giới, đi đến thành phố thù diệu niết bàn cùng với người". Trưởng lão ni nói rằng: "Khi các con đi Niết bàn, thì ta còn biết nói gì". Rồi Bà rời khỏi tịnh xá cùng với Chư Ni ấy, vừa bước ra cổng, Bà dừng lại nói với các chư thiên ngự tại tịnh xá rằng: "Hãy hoan hỉ cho ta, đây là lần nhìn cuối cùng nơi tịnh xá Ni nầy, trong chỗ nào không có già, không có chết, không có tạo tác, không có thương yêu, không có xa lìa những vật thương yêu, nơi ấy các bậc hiền trí gọi là Asankhatasathāna (vô vi xứ)". Nghe những lời ấy các vị còn phàm than thở rằng" "Thật đáng buồn tủi, chúng ta là những người phước mỏng, tịnh xá Ni nầy từ nay sẽ trống vắng, và nơi đây sẽ không còn những tỳ khưu ni thanh tịnh như vầy nữa, ví như những vì sao sẽ không còn khi mặt trời xuất hiện". Trưởng lão ni Gotamī cùng năm trăm tỳ khưu ni đi Niết bàn ví như dòng song Gaṇgā cùng với năm trăm con sông xuôi về biển cả vậy. Các tín nữ thấy trưởng lão ni đang đi trên đường, họ cùng nhau rời khỏi nhà, đến phủ phục dưới chân Bà than rằng: "Kính bạch Ni trưởng, chúng con tịnh tín nơi Người, giờ Người đành bỏ chúng con để chúng con trở thành người bơ vơ không nơi nương tựa, Ni trưởng ơi! Xin chớ vội niết bàn". Để giải toả nỗi sầu muộn của các tín nữ ấy, trưởng lão ni khuyên rằng: "Chớ có than khóc nầy các con, hôm nay các con cần phải vui mừng, vì sự khổ ta đã biến tri rồi, nguyên nhân sanh khổ ta đã đoạn trừ rồi, sự diệt khổ ta đã tác chứng rồi, và Thánh đạo ta cũng đã tu tập rồi, phận sư đối với bậc Đạo Sư ta đã thực hành rồi, lời Ngài dạy ta cũng đã làm xong, gánh nặng ta đã đặt xuống, ái hữu đã được ta nhổ sạch. Vì mục đích gì, những người rời bỏ nhà xuất gia sống không nhà, mục đích ấy ta đã chứng đạt rồi, mọi kiết sử đã được chấm dứt. Các con ơi! chớ có sầu muộn vì ta, trưởng lão Koṇḍañña, trưởng lão Ānanda, trưởng lão Nanda vẫn còn, trưởng lão Rāhula cũng vẫn còn, chư Tăng vẫn sống hoà hợp an lạc, sao các con lại buồn. Các con ơi! ước nguyện nào mà ta đã khởi tập, từ quá khứ xa xưa ước nguyện ấy sẽ thành tựu với ta trong ngày hôm nay, lúc nầy là lúc đánh trống hoan hỷ, những giọt nước mắt của các con sẽ có lợi ích gì? Nếu các con quý mến và biết ơn ta, các con hãy tinh cần an trú trong thiện pháp đi. Việc ta năn nỉ xin bậc Đạo Sư cho hàng phụ nữ xuất gia và được Ngài chấp thuận, điều đó khiến ta vô cùng hoan hỷ, xin các con hãy tuỳ hỷ theo đi". Sau khi trưởng lão ni khuyên nhủ các tín nữ như thế, Bà cùng với chư Ni đi đến chỗ bậc Đạo Sư, đảnh lễ Ngài và thưa rằng: "Kính bạch bậc Thiện Thệ, con là mẹ của Ngài. Kính bạch bậc Đại Tuệ, Ngài là cha của con. Kính bạch bậc Thế Y, Ngài là người ban an lạc cho con. Kính bạch bậc Đại Sa Môn, Ngài là sanh mẫu của con. Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp thể Ngài được tăng trưởng từ những giọt sữa của con, nhờ những giọt sữa nầy mà Ngài đã hết khát trong một lúc, còn tâm con được lớn mạnh từ dòng sữa Chánh Pháp của Ngài, nhờ dòng sữa nầy mà con vĩnh viễn chấm dứt mọi thèm khát. Kính bạch bậc Đại Ẩn Sĩ, được làm mẹ của Chuyển Luân Vương là một vinh hạnh lớn lao của hàng phụ nữ, nhưng mẹ như vậy được gọi là mẹ trong biển luân hồi. Kính bạch Ngài con bị chìm trong biển luân hồi, được Ngài cứu thoát khỏi dòng luân hồi ấy. Đối với phụ nữ muốn làm mẹ của Chuyển Luân Vương đã là khó, nhưng bội bội phần khó hơn là làm Phật mẫu. Kính bạch bậc Đại Hùng, danh xưng Phật mẫu ấy con cũng đã được rồi, sự ước muốn dầu nhỏ hay lớn nay với con đã chấm dứt. Đời sống phạm hạnh mà con đã dầy công thực hành chỉ với mục đích duy nhất là từ bỏ ngũ uẩn niết bàn. Kính bạch bậc Dứt Khổ xin Ngài từ bi chấp thuận cho con, xin Ngài hoan hỷ duỗi hai bàn chân có đầy căm xe và cờ thật mềm mại như hoa sen, con sẽ đảnh lễ bàn chân ấy. Kính bạch bậc Dẫn Dắt, xin Ngài từ bi hiện thân với đầy đủ tướng tốt, sáng chói như khối vàng, sau khi chiêm ngưỡng con sẽ niết bàn". Bậc Đạo Sư bèn hiển lộ kim thân đầy đủ với ba mươi hai đại nhân tướng, được tô điểm với hào quang xinh đẹp như mặt trời toả ánh sáng êm dịu trong buổi hoàng hôn. Rồi trưởng lão Mahāpajāpatīgotamī với trọn lòng thành kính phủ phục dưới chân Thế Tôn, thưa rằng: "Con xin đảnh lễ bậc dòng dõi mặt trời, chúa của muôn loài, Ngài là ngọn cờ chiến thắng của dòng dõi mặt trời, con xin quy y Ngài lần cuối cùng, để rồi không còn gặp lại Ngài nữa. Kính bạch bậc Cao Quý của thế gian, thông thường các phụ nữ gây nên những lỗi lầm rồi mệnh chung, nếu con có lỗi lầm gì, xin Ngài từ bi xá những lỗi lầm ấy cho con. Lại nữa, con đã cố nài nỉ Ngài cho hàng phụ nữ xuất gia. Kính bạch bậc Thượng Nhân, nếu đây là một lỗi lầm, thì xin Ngài từ bi xá lỗi ấy cho con. Kính bạch bậc Đại Hùng, các tỳ khưu ni đồ chúng của con, nếu có phạm lỗi gì, xin Ngài từ bi tha thứ. Đức Thế Tôn phán rằng: "Nầy Gotamī người trang điểm với đức hạnh, làm sao có lỗi lầm với người sắp niết bàn, Như Lai sẽ nói gì, khi Tăng chúng của Ta thanh tịnh không khiếm khuyết". Lúc bấy giờ năm trăm vị tỳ khưu ni, đi nhiễu quanh Đức Thế Tôn, ví như các vì sao di chuyển quanh Tu di sơn vương vậy. Còn trưởng lão ni, sau khi phủ phục dưới chân Thế Tôn, Bà đứng lên, hướng nhìn Ngài thưa rằng: "Mắt của chúng con không bao giờ biết no đủ khi ngắm nhìn Ngài, tai của chúng con không bao giờ biết no đủ với kim ngôn của Ngài, tâm của chúng con duy nhất được no đủ với vị pháp của Ngài. Kính bạch bậc Cao Cả của muôn loài, khi Ngài tuyên thuyết Chánh Pháp để diệt trừ phiền não cho hội chúng, những người nào được diện kiến Ngài, những người ấy gọi là người có phước. Kính bạch bậc Thượng Đức, những người nào đảnh lễ dưới chân Ngài, những người ấy gọi là người có phước. Kính bạch bậc Thượng Nhân, những người nào được nghe pháp âm vi diệu của Ngài có công năng ly khổ đắc lạc, những người ấy gọi là người có phước". Kế đó, trưởng lão ni trình bạch về việc Niết bàn của mình trước chư tỳ khưu Tăng, xong Bà đến đảnh lễ tôn giả Rāhula, tôn giả Ānanda, tôn giả Nanda và nói như vầy: "Các con ơi! Mẹ nhàm chán xác thân nầy, xác thân nầy như là chỗ ở của rắn độc, chỗ ngụ của bệnh hoạn, ngôi nhà của khổ, hành xứ của già và chết, đầy dẫy những bụi phiền, yếu đuối phải dựa vào người khác, chính vì vậy, Mẹ mới mong niết bàn. Các con ơi! Hãy hiểu cho Mẹ". Tôn giả Nanda và tôn giả Rāhula là bậc ly sầu, vô lậu, kiên cố bất động, trí tuệ, tinh cần, suy nghĩ rằng: "Cả tam giới nầy, do duyên tạo tác không vững chắc, không có lõi ví như cây chuối, như trò ảo thuật hay như bào ảnh, trưởng lão ni Mahāpajāpatīgotamī, người nuôi dưỡng Đức Phật, rồi cũng không thể tránh khỏi cái chết, các pháp hữu vi là vô thường". Lúc bấy giờ, tôn giả Ānanda còn là bậc hữu học, Ngài không chịu nổi cảnh biệt ly như thế, ràn rụa nước mắt, thật đáng thương tâm. Thấy tôn giả Ānanda sầu não như thế, Bà đến an ủi rằng: "Con ơi! Ai cũng đều phải chết, con không nên sầu muộn vì sự chết của Mẹ nhờ vào lời cầu xin của con, Mẹ mới được bậc Đạo Sư cho phép xuất gia. Con ơi! Con chớ bi ai, con hãy gắng gìn giữ giáo pháp, Mẹ nhìn con lần nầy là lần cuối cùng. Với người đi trong hướng nào để không xuất hiện nữa thì Mẹ sẽ đi trong hướng ấy". Rồi Đức Thế Tôn nói với trưởng lão ni rằng: "Nầy Gotamī, những kẻ ngu nào hoài nghi sự giác ngộ của chúng sanh, ngươi hãy hiển thị thần thông, để cho những kẻ ngu ấy từ bỏ tà kiến". Sau khi đảnh lễ Đức Thế Tôn, trưởng lão ni bay lên hư không, biểu diễn thần thông, theo sự cho phép của Bậc Đạo Sư, Bà hoá hiện một thân thành nhiều thân, nhiều thân thành một thân, làm cho xuất hiện, làm cho biến mất, đi xuyên qua vách tường, vách núi như đi nơi chỗ trống, độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên mặt nước không bị chìm xuống như trên đất liền, bay lên hư không như loài chim, tự thân bay đến cõi phạm thiên, trưởng lão ni dùng thần thông lực biến hoá đủ loại, rồi thưa rằng: "Kính bạch bậc Đại Hùng, con hành theo lời dạy của Ngài, đã chứng đạt lợi ích, con xin đảnh lễ dưới chân của Ngài". Trưởng lão ni bèn ngự xuống từ hư không, đảnh lễ bậc Đạo Sư, xong Bà ngồi một nơi phải lẽ, thưa rằng: "Kính bạch Đại Ẩn Sĩ, nay con thọ được một trăm hai mươi tuổi, với chừng ấy cũng vừa đủ, con xin từ biệt niết bàn". Lúc bấy giờ, năm trăm tỳ khưu ni đồ chúng của trưởng lão ni, cùng nhau bay lên hư không với uy lực thần thông các tôn Ni sáng chói như những vì sao di hành chung nhau, chư tôn Ni ấy đã hoá hiện nhiều loại thần thông như những thợ vàng thuần thục chế biến nhiều loại trang sức vậy. Sau khi hoá hiện nhiều loại thần thông, các tỳ khưu ni ấy, hạ xuống từ hư không, đảnh lễ bậc Đạo Sư, rồi ngồi một nơi phải lẽ, thưa rằng: "Kính bạch bậc Đại Hùng, trưởng lão ni Gotamī, là người tiếp độ chúng con, nay chúng con đã tỏ ngộ giáo pháp, chấm dứt các lậu hoặc, thiêu đốt mọi phiền não, nhổ tận gốc sanh hữu, chặt đứt mọi kiết sử như người thợ chặt dây. Việc chúng con đi đến với Thế Tôn là việc đến tốt đẹp, tam minh chúng con đã chứng đạt, lời Phật dạy làm xong. Chúng con thuần thục trong hoá thông và thiên nhĩ thông. Kính bạch Đại Ẩn Sĩ, chúng con thuần thục tha tâm thông, chứng ngộ túc mạng minh, thiên nhãn được thanh tịnh, đoạn tận các lậu hoặc, sanh hữu mới không còn. Kính bạch bậc Đại Hùng, chúng con có trí tuệ thấu triệt trong tứ vô ngại giải, trí ấy phát sanh từ chỗ của Ngài. Kính bạch Đại Ẩn Sĩ, xin Ngài hoan hỷ cho phép chúng con niết bàn". Bậc Đạo Sư phán rằng: "Nầy các tỳ khưu ni, khi các ngươi ngỏ lời xin niết bàn, Như lai còn gì để nói, nay các ngươi hãy làm những gì, nghĩ là hợp thời". Rồi Trưởng lão ni cùng chư Ni ấy, đãnh lễ bậc Đạo Sư, từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi, Đức Thế Tôn cùng hội chúng tiễn Trưởng lão ni đến tận cổng. Trưởng lão ni cùng chư Ni phủ phục dưới chân bậc Đạo Sư thưa rằng: "Đây là lần đảnh lễ cuối cùng của chúng con và lần diện kiến nầy cũng là lần diện kiến sau cuối, để rồi chúng con sẽ không con gặp lại Ngài nữa, vì lát nữa đây chúng con sẽ niết bàn". Kế đó, Trưởng lão ni cùng chư Ni đi về Tịnh xá của mình an tọa trên chỗ ngồi, Lúc bấy giờ, các tín nữ trong kinh thành, nghe tin về Trưởng lão ni, cùng nhau đi đến Tịnh xá, đảnh lễ dưới chân bà, rồi than van khóc lóc thật đáng thương, với tâm trạng đầy sầu muộn, họ thưa rằng: "Kính bạch Ni trưởng, người là chỗ nương tựa của chúng con, xin người đừng bỏ chúng con mà niết bàn, chúng con khấu đầu cúi xin người". Trưởng lão ni xoa đầu một tín nữ là người có niềm tin, có trí tuệ, là bậc huynh trưởng của các bậc tín nữ ấy, khuyên như vầy: "Các con ơi! Khi sầu muộn có nghĩa rơi vào cạm bẩy của ác ma, như vậy thật không nên, các pháp hữu vi là vô thường, mỗi con người cuối cùng rồi cũng phải biệt ly, các con chớ có sầu muộn làm gì". Nói xong, Trưởng lão ni tuần tự nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, nhập thiền không vô biên xứ, , nhập thiền thức vô biên xứ, nhập thiền vô sở hữu xứ, nhập thiền phi tưởng phi phi tưởng xứ. Sau khi, nhập thiền theo chiều xuôi, Trưởng lão ni bèn nhập thiền theo chiều nghịch, rồi nhập trở lại từ sơ thiền cho đến tứ thiền, xuất tứ thiền bà viên tịch niết bàn ví như ngọn đèn hết dầu rồi tắt vậy. Năm trăm vị tỳ khưu ni ấy, cũng đồng lượt niết bàn với Ni turởng Gotamī. Lúc bấy giờ, quả địa cầu rung chuyển, sấm chớp vang trời, trống chư thiên cũng tự vang tiếng, các chư thiên nhỏ lệ mưa hoa từ hư không rơi xuống, ngọn Tu Di sơn vương cũng rung chuyển, đại dương cũng nổi sống. Các hàng chư thiên, Long vương, Atula và Phạm thiên đều đồng tâm kính tiếc tự thốt lên lời rằng: "Các pháp hữu vi là vô thường, ví như Trưởng lão ni nầy cuối cùng cũng hoại diệt, tất cả chúng sanh hợp nhau rồi tan là chỗ cuối cùng, mạng sống nầy cũng đi theo qui luật ấy". Bậc Đạo Sư phán gọi Tôn giả Ānanda đến dạy rằng: "Nầy Ānanda, người hãy đi thông bào cho chư Tăng biết việc Niết bàn của trưởng lão ni". Lúc ấy, tôn giả Ānanda với tâm trạng sầu thảm, đôi mắt ứa lệ, cất tiếng rằng: "Xin chư Tỳ trong hướng đông, hướng nam, hướng tây và hướng bắc, hãy đến vân tập, vị trưởng Ni, người đã làm cho thân cuối cùng của bậc Đaọ Sư lớn lên bằng sữa, với danh xưng Mahāpajāpatigotamī đã niết bàn, ví như vì sao mặt trời mọc vậy, xin quý Ngài hãy tạo sự tôn trọng đối với Phật mẫu đi". Chư Tỳ khưu nghe lời bố cáo ấy, vội vã đi đến, có một số vị đến bằng Phật lực, có một số vị thiện xảo trong thần thông, cùng đến bằng thần thông rồi cùng nhau đưa linh sàng của trưởng lão ni Gotamī, an trú trong hỏa đài cao quí, đặc biệt được làm toàn bằng vàng rất đẹp, bốn vị Thiên vương đưa vai tiếp nhận hỏa đài, đức Đế Thích cùng các chư thiên cũng đến tiếp nhận hỏa đài, tổng cộng có năm trăn hỏa đài do Thiên tử Vissukamma hóa tạo, có màu sắc rực rở như mặt trời giữa mùa thu, các vị chư thiên tuần tự khiêng linh sàng của năm trăm tôn Ni an trú vào hỏa đài. Các bệ hỏa đài được trải đầy hoa, các chư thiên cúng dường bông hoa vật thơm và ca múa, nhóm long cung, Atula và phạm thiên cũng đến cúng dường Phật mẫu. Dẫn đầu đoàn tang lễ là nhân loại, chư thiên, long vương, Atula và phạm thiên, kế là năm trăn hỏa đài an trí nhục thể của năm trăm vị tôn Ni, tiếp theo là hỏa đài của trưởng lão ni Gotamī, sau cùng là Đức Phật cùng chư Tăng. (Đây là một lễ tang vô cùng tôn nghiêm, long trọng và hi hữu, với sự tham dự của Đức Thế Tôn và nhiều vị đại Thinh văn). Tang lễ của Đức Phật không được đầy đủ như thế, khi Đức Thế Tôn niết bàn, không có mặt hai vị chí thượng thinh văn và một số vị đại Thinh văn. Mọi người giúp nhau làm bệ hỏa đài thành tựu bằng vật thơm và rãi đầy bột thơm, rồi thiêu nhục thể chư tôn Ni trên bệ ấy, lửa thiêu đốt tất cả chỉ còn lại Xá - lợi. Nhìn quanh cảnh ấy, tôn giả Ānanda than rằng: "Trưởng lão ni Gotamī đã viên tịch niết bàn, nhục thể của bà cũng bị thiêu đốt hết, rồi không bao lâu nữa Thế Tôn cũng sẽ niết bàn". Sau đó, bậc Đạo Sư dạy tôn giả Ānanda nhặt Xá -lợi của trưởng lão ni Gotamī đặt vào bát của bà, rồi dâng lên Đức Phật. Bậc Đạo sư cầm bát đựng Xá - lợi phán rằng: "Vì hữu vi là thực tánh vô thường nên dù trưởng lão ni Gotamī, là bậc Ni trưởng trong hàng Ni chúng cũng phải niết bàn, ví như thân cây lớn có lõi rắn chắc, dù to lớn nhưng rồi cũng bị hư hoại. Hãy nhìn nầy Ānanda, Phật mẫu niết bàn chỉ còn lại xá-lợi, cũng không có sự sầu bi nào cả". Tôn giả Ānanda thưa rằng: "Thật vi diệu thay là mẹ của ta, bà niết bàn chỉ còn lại Xá - lợi, không có sự sầu bi nào cả". Đức Thế Tôn phán rằng: "Trường lão Ni Gotamī đã vượt qua biển luân hồi, đã đoạn trừ nhân khiến cho nhiệt não, trở thành bậc an tịnh, Gotamī là bậc hiền trí, bậc đa tuệ, bậc quãng tuệ và là bậc kỳ cựu nhất trong hàng Ni chúng". Nầy chư Tỳ khưu, các người hãy thọ trì như vầy Gotamī là bậc thuần thục trong hóa thông, thiên nhĩ thông và tha tâm thông, đã chứng ngộ túc mạng minh, thiên nhãn được thanh tịnh và đoạn tận các lậu hoặc, sanh hữu mới không còn, với trí tuệ thấu triệt tứ vô ngại giải, vì vậy không nên sầu muộn đến Gotamī ấy. Hành tướng (gati) của lửa khi bị dập tắt, không ai biết được như thế nào, hành tướng của người thoát khỏi phiền não, thoát khỏi bộc lưu, chứng đạt pháp bất động cũng không ai biết được dường thế ấy. Do vậy, các ngươi hãy tự mình làm chỗ nương tựa, lấy niệm xứ làm con đường đi, khi các ngươi tu tập thất giác chi thì sẽ chấm dứt mọi khổ đau. * 13- BÀI KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI UPPALAVAṆṆĀ Được biết trưởng lão ni Uppalavaṇṇā đã nói lên bài kệ rằng: "Cả hai mẹ và con Một hôm ác ma đi đến lung lạc nàng với bài lệ rằng: "Nàng đi đến gốc cây Trong thời Giáo Pháp của Đức Tôn Padumuttara, vị Trưởng lão ni nầy tái sanh trong một gia đình trưởng giả giáu có, tại thành Haṃsavatī. Một hôm, nàng cùng với đại chúng đi đến Tịnh xá nghe pháp, nhìn thấy bậc Đạo Sư biểu dương một vị Tỳ khưu ni đệ nhất về thần thông trong hàng Ni chúng. Thỏa thích với hình ảnh đó, nàng cung kỉnh bậc Đạ Sư cùng chư Tăng về cúng dường trai phạn suốt bảy ngày và cúng dường y, xong nàng cúi đầu dưới chân bậc Đạo Sư, chú nguyện như vầy: "Kính bạch bậc Đại Hùng, do phước báu nào mà con đã trong sạch cúng dường thực phẩm và y đến Ngài cùng chư Tăng, cầu xin cho con được thành tựu vị trí như tôn Ni kia vậy". Lúc bấy giờ, bậc Đạo Sư phán với nàng rằng: "Nầy tín nữ, người có tấm lòng cao quí, trong tương lai trải qua 100 ngàn đại kiếp có vị Chánh Đẳng Giác hồng danh Gotama, là bậc Đạo Sư của thế gian, ngự sanh lên. Ngươi sẽ trở thành người thừa tự Giáo pháp của Đức Thế Tôn ấy, là người có đại thắng trí, hành theo lời dạy của bậc đạo Sư, chấm, dứt các lậu hoặc và trở thành đại Thinh văn đệ nhất về thần thông, với danh xưng là Uppalavaṇṇā. Sau khi nghe lời tiên đoán của bậc Đạo Sư, nàng vô cùng hoan hỷ, từ đó nàng càng tích cực hơn trong các thiện sự, an trú trong giới hạnh của người cư sĩ, sống từ bi bác ái đối với mọi loài và hết lòng hộ độ Đức Phật cùng Tăng chúng. Nhờ các thiện nghiệp ấy nên sau khi mệnh chung, nàng được sanh lên cõi Đạo Lợi. Trong kiếp thứ chín mươi mốt, có vị Chánh Đẳng Giác hồng danh Vipassī, bậc tỏ ngộ các pháp, sanh lên trong thế gian. Vào thời ấy, nàng tái sanh trong một gia đình triệu phú tại thành Bārāṇasī, xứ Kāsī. Do thiện duyên đời trước, nên từ nhỏ nàng được hấp thụ ánh sáng Chánh pháp, và trở thành một tín nữ ngoan đạo. Nàng thường xuyên hộ độ cúng dường tứ sự đến Đức Phật cùng Tăng chúng, do muốn được dung sắc xinh đẹp nên nàng luôn cúng dường hoa sen đến Đức Phật và chú nguyện cho mình có một dung sắc xinh đẹp như hoa sen. Trong thời Giáo pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, nàng sanh làm công chúa thứ hai của đức vua Kiki tại thành Bārāṇasī, xứ Kāsī và tên là Samanagutta. Phụ vương của nàng là một cận sự nam sùng kính Tam bảo và là một đại đàng tín của Đức Phật Kassapa, nhờ vậy mà từ nhỏ nàng luôn có cơ hội đặt bát cúng dường Đức Phật cùng chư Tăng. Khi lớn lên, nàng được thấm nhuần hương vị Chánh pháp từ nơi Đức Phật, nàng thỏa thích đời sống xuất gia, nhưng phụ vương không cho. Mặc dầu không được xuất gia, nhưng bảy chị em nàng vẫn không xao lãng ý tưởng xuất ly thọ trì thập giới, tinh tấn thực hành phạm hạnh suốt 20 ngàn năm. Do những phước lành ấy, sau khi mệnh chung, nàng được sanh lên cõi Đạo Lợi. Mãng thọ từ cõi trời, nàng tái sanh trong một gia đình nghèo, tại ngôi làng của dân lao động. Một hôm, trên đường đi ra đồng gặt lúa, nàng nhìn thấy đóa sen mới nở dưới ao nước bên vệ đường, bèn lội xuống ao, hái lá sen và vài lá sen. Khi ra đến chồi, nàng ngồi rang cốm và gói 500 hạt cốm vào những lá sen. Lúc bấy giờ, tại núi Gandhamādana có một vị Độc Giác Phật vừa xuất thiền diệt, Ngài ôm bát ngự đi khất thực, không xa chòi lá của nàng, nhìn thấy Đức Độc Giác với những bước chân từ tốn thoát tục, nàng phát tâm trong sạch, cầm lấy gói cốm cùng đóa sen rời khỏi chòi lá, đến đặt vào bát của Ngài. Khi Ngài vừa bước đi, nàng suy nghĩ rằng: "Thông thường, các bậc xuất gia không cần hoa, vậy ta hãy nhận lại đóa hoa để trang điểm cho mình". Nghĩ vậy nàng bèn đến lấy đóa hoa sen từ tay đức Độc Giác, cầm đóa sen trên tay, nàng chợt nghĩ: "Nếu Ngài không cần dùng hoa, thì Ngài sẽ ngăn không nhận, vậy là Ngài thật sự cần dùng". Nàng bèn đặt đóa sen trên bát và xin sám hối Ngài. Sau khi sám hối xong, nàng thành tâm chú nguyện rằng: "Kính bạch Ngài, do phước mà con trong sạch cúng dường những hạt cốm, xin cho con có được những đứa con trai bằng với số lượng hạt cốm ấy và do quả phước cúng dường hoa sen, xin cho hoa sen hãy mọc lên dưới mỗi bước chân của con". Đức Độc Giác nói lời tùy hỷ phúc chúc rồi bay về núi Gandhamādana trước sự chứng kiến của nàng. Ngài bèn lấy đóa sen đặt nơi bậc thang để làm vật chùi chân cho chư Phật Độc Giác và thọ dụng những hạt cốm. Với thiện sự ấy, sau khi mệnh chung nàng được sanh lên thiên giới và có hoa sen mọc lên đỡ lấy những bước chân của nàng. Mãng thọ từ thiên giới, nàng tái sanh trong hoa sen, tại một ao sen gần chân núi, cạnh chân núi này có một vị đạo sĩ nương trú. Vào buổi sáng, đạo sĩ lần xuống ao rửa mặt, nhìn thấy hoa sen ấy có vẻ khác thường, ông thầm nghĩ: "Hoa sen này to hơn những đóa kia, nhưng những đóa kia đã nở hết rồi, sau đó hoa này vẫn còn búp, chắc là có nguyên nhân trong đóa sen ấy". Nghĩ vậy, vị đạo sĩ bèn lội xuống nước hái lấy đóa sen ấy, khi bàn tay đạo sĩ vừa chạm vào, tức thì những cánh sen nở ra, đạo sĩ nhìn thấy một cô bé nằm trong đóa sen, vừa thấy đứa bé từ trong lòng đạo sĩ đã dâng lên một mối tình phụ tử thiêng liêng, ông liền bê đóa sen ấy về am thất của mình và đặt trên giường. Do phước báu của đứa bé, mỗi khi nó khát sữa, mút tay, thì có một dòng sữa phát sanh từ đầu ngón tay của bé khiến nó không bao giờ bị đói khát. Khi đóa hoa ấy héo, vị đạo sĩ bèn hái một đóa mới về thay, khi đứa bé biết đi, có hoa sen mọc lên đỡ lấy mỗi bước đi. Càng lớn, làn da và dung sắc của đứa bé càng trở nên tươi sáng và xinh đẹp, khi đạo sĩ vào rừng hái trái, đứa bé phải ở lại một mình trong am thất. Khi nàng trưởng thành, theo thường mỗi buồi sáng vị đạo sĩ vào rừng hái trái. Một hôm, sau khi vị đạo sĩ rời am thất vào rừng, tình cờ có một người thợ săn đi ngang qua am thất, nhìn thấy nàng, đầy kinh ngạc, ông ta nghĩ rằng: "Nếu nàng ấy là người, sau lại có một dung sắc đặc thù như thế". Nghĩ vậy, người thợ săn bèn núp vào một góc cây chờ vị đạo sĩ trở về. Khi đạo sĩ trở về, nàng bước ra tiếp nhận gánh trái cây và bình đựng nước. Thấy vậy, người thợ săn biết chắc nàng là người, bèn đi đến đạo sĩ. Vị đạo sĩ lấy khoai củ, trái cây và nước uống mời người thợ săn rồi hỏi rằng: "Nầy ông bạn, ông định nghĩ lại đây hay sẽ đi". Người thợ săn đáp: - Tôi sẽ đi bạch Ngài. Vị đạo sĩ nói: - Những gì ông đã thấy, sau khi rời khỏi nơi đây, xin ông đừng tiếc lộ với bất cứ ai được chăng? Người thợ săn đáp: - Nếu Ngài không muốn, thì tôi sẽ không nói đâu. Mặc dầu hứa với đạo sĩ như vậy, nhưng người thợ săn vẫn làm dấu nơi gốc cây, nơi con đường với ấy định sẽ quay lại. Người thợ săn đi đến thánh Bārāṇasī, vào yết kiến đức vua, đức vua phán hỏi rằng: "Khanh đến có chuyện chi chăng?" Người thợ săn thưa: "Muôn tâu Hoàng thượng, thần là thợ săn của Ngài, thần đã gặp một thiếu nữ thật đặc biệt ở gần chân núi, nên đến báo tin cho Hoàng thượng". Rồi thuật lại mọi chuyện cho đức vua, sau khi nghe xong đức vua vội vã đi đến chân núi, dựng lều trại một chỗ không xa, rồi cùng với người thợ săn và một số vệ quân ngự đến am thất. Lúc bấy giờ, vị đạo sĩ vừa thọ thực xong, đang ngồi nghĩ, đức vua tiến đến xá chào vấn an đạo sĩ, rồi ngồi xuống một nơi phải lẽ, đặt những vật dụng dành cho bậc xuất gia cạnh chân của đạo sĩ và phán rằng: "Trẩm có một vài công việc cần phải giải quyết tại đây - Bạch đạo trưởng" Đạo sĩ thưa rằng: "Xin Đại vương cứ nói" Đức vua phán: - Trẩm được người trình báo rằng, tại vùng này có một số kẻ ác, chúng có thể gây bất lợi cho Đạo trưởng, xin đạo trưởng hãy đi cùng với trẩm. Đạo trưởng thưa: - Muôn tâu bệ hạ, đối với tâm tư con người thật khó khiến cho vừa ý, bần đạo có đứa con nuôi, nó sinh ra và lớn lên tại chốn hoang liêu cô tịch nầy, chẳng biết nó sẽ sống ra sao giữa chốn phồn hoa đô hội. Đức vua phán: - Nếu Trẩm thương yêu nàng, trẩm sẽ hết lòng bảo bộc và đặt nàng ở ngôi vị cao quí nhất. Nghe Đức vua nói vậy, đạo sĩ bèn gọi: "Này Padumavatī thân yêu – Con hãy ra đây" Nàng từ trong am thất bước ra vái chào, đạo sĩ nói với nàng: "Này con thân, con đã trở thành thiếu nữ rồi, nơi đây không còn thích với con nữa, con hãy đi theo đức vua". Nàng đáp: - Lành thay! – Thưa cha. Rồi quỳ xuống bái biệt người cha thân yêu cùng với những giọt nước mắt. Đức vua thấy vậy an ủi rằng: "Nàng hãy yên tâm, trẩm sẽ bảo bộc cha của nàng, rồi đức vua đặt một số tiền vàng, ngay phía trước để làm nghi lễ rước nàng về hoàng cung. Từ khi đức vua được nàng, Ngài không quan tâm đến những cung phi khác, chỉ vui vầy hoang lạc với riêng nàng, khiến các cung phi ấy sanh lòng ganh ghét muốn hãm hại nàng. Một hôm, họ đi đến đức vua thưa rằng: "Muôn tâu bệ hạ, người phụ nữ nầy, chẳng phải là loài người đâu, bệ hạ có từng thấy hoa sen mọc lên trên đường đi chăng, nàng nầy chắc chắn là Dạ xoa, xin bệ hạ hãy trục xuất nó khỏi kinh thành đi". Nghe xong, đức vua im lặng. Sau đó, tại vùng biên địa dấy loạn, đức vua nghĩ rằng: "Hoàng hậu Padumavatī sắp đến ngày khai hoa, ta không thể đem nàng theo" đức vua đành để hoàng hậu ở lại kinh thành thống lĩnh sĩ tướng ra nơi biên địa. Khi biết Hoàng hậu Padumavatī sắp đến ngày sanh nở, do lòng ganh ghét ngắm ngằm từ lâu, các cung phi bèn đút lót các tỳ nữ của Hoàng hậu và dặn rằng: "Khi nào Hoàng hậu hạ sanh ngươi hãy mang đứa bé đi và lấy một khúc gổ thoa máu lên thay vào đó" không lâu sau, Hoàng hậu hạ sanh một vị Thái tử, vị Thái tử nầy sanh từ thai bào, còn 499 vị Thái từ còn lại, sanh từ thấp sanh. Sau khi sanh xong, Hoàng hậu bị hôn mê, người nữ tỳ biết tình trạng của nàng, bèn thoa máu lên khúc gổ đem vào thay, rồi thông báo cho các cung phi, 500 cung phi mỗi người nhận một vị Thái tử gởi đến ngôi làng của người thợ tiện và đặt mỗi vị trong một cái hộp gổ phía ngoài có làm dấu. Khi Hoàng hậu thức tỉnh, bèn gọi nữ tỳ đến hỏi rằng: "Ta sanh rồi chưa?" Nữ tỳ đáp: "Thưa nương nương, nương nương chẳng có sanh một đứa bé nào cả", rồi đặt khúc gổ thoa máu trước mặt nàng thưa rằng: "Đây là đứa con sanh ra từ thai bào của nương nương". Nhìn khúc gổ, nàng vô cùng đau khổ, bảo đứa tỳ nữ rằng: "Ngươi hãy chẻ khúc gổ ấy và đem quăng bỏ, ta sẽ phải hổ thẹn nếu có người biết chuyện này". Nữ tỳ vâng lệnh Hoàng hậu chẻ khúc gổ và quăng vào lò lửa. Nói về Đức vua từ biên cương trở về, do tin vào giờ lành, Ngài phán truyền cho nghĩ ngoài cổng thành. Lúc bấy giờ, các cung phi hay tin bèn đi ra tiếp đoán đức vua và thưa rằng: "Muôn tâu bệ hạ, có lẽ bệ hạ không tin những lời của bọn thiếp, nếu vậy xin bệ hạ cho gọi nữ tỳ của Hoàng hậu đến tra hỏi, Hoàng hậu của Ngài hạ sanh một khúc gổ". Đức vua chưa kịp tra xét sự việc lại quả quyết rằng: "Nàng nầy chắc chắn không phải là loài người, bèn đuổi nàng ra khỏi Hoàng cung. Khi nàng rời khỏi Hoàng cung những đóa sen cũng tự biến mất, đồng thời làn da trên thân thể của nàng cũng tái nhợt đi, nàng một mình thơ thẩn trên đường". Lúc ấy, có một bà cụ nhìn thấy nàng, tự nhiên trong lòng bà phát sanh một tình thương như là con của mình, bèn cất tiếng hỏi rằng: "Nầy con, con sẽ đi về đâu?" Nàng đáp: - Thưa bà, tôi là người lữ hành đang đi tìm quán trọ. Bà lạo nói: - Con hãy đến chổ nầy. Rồi dẫn nàng đến một phước xá sắp đặt vật thực nuôi nàng và nhận nàng làm con nuôi. Nàng đã tạm ở chổ đó với đời sống như vậy. Sau khi Hoàng hậu Padumavatī ra đi, 500 cung phi đi đến đức vua thưa rằng: "Muôn tâu bệ hạ, khi bệ hạ xua quân đi dẹp loạn, chúng thiếp có khấn nguyện rằng: - Nếu bệ hạ chiến thắng trở về, chúng thiếp sẽ làm lễ tạ ơn chư thiên tại dòng sông Gaṅgā, cúi xin bệ hạ hãy ân chuẩn lời thỉnh cầu của chúng thiếp". Đức vua hoan hỷ chấp thuận lời thỉnh cầu ấy, và cùng ngự đến bờ sông Gaṅgā. Các cung phi mang theo những hộp gổ được phủ kín vải. Khi đến bờ sông, các nàng ôm những hộp gổ ấy nhảy xuống nước và thả trôi các chiếc hộp. Những chiếc hộp trôi đi một đoạn bị dính vào lưới. Các quan lính kéo lưới lên, thấy những chiếc hộp, đem đến trình với đức vua. Đức vua quan sát những chiếc hộp phán hỏi rằng: "Nầy các khanh cái gì ở trong những chiếc hộp ấy?". - Muôn Tâu Hoàng thượng, chúng thần không biết. Đức vua bèn cho mở các hộp ấy ra xem, chiếc hộp của Thái tử Mahāpaduma được mở đầu tiên, trong thời gian, các Hoàng tử ở trong hộp do quả phước từ nơi đầu ngón tay của các vị phát sanh dòng sữa, khi các Hoàng tử đói nút ngón tay của mình như được mẹ cho bú vậy, và đức trời Đế Thích cho khắc chữ bên trong hộp để đức vua tin chắc rằng: các cậu bé này được sanh từ bào thai của Hoàng hậu Padumavatī và là Hoàng tử của đức vua Bārāṇasī. Lúc bấy giờ, 500 cung phi kẻ thù hãm hại Hoàng hậu Padumavatī, xin đức vua tra xét kỹ việc này, vừa mở hộp đức vua nhìn thấy đứa bé và dòng chữ, từ nơi sâu thẳm của trái tim nói với đức vua rằng: - Đây chính là Hoàng tử của Ngài. Đức vua vui mừng bế Hoàng tử lên phán truyền rằng: "Các khanh chuẩn bị ngựa, hôm nay trẩm sẽ đi vào thành, Đức vua ngự lên tòa lâu đài đặt một ngàn đồng tiền vàng trên cổ voi, cho đánh trống báo tin với mọi người rằng: "Người nào gặp Hoàng hậu Padumavatī, người ấy sẽ được thưởng 1000 đồng tiền vàng này", sau khi nghe lời bố cáo ấy Padumavatī nói với mẹ rằng: "Thưa mẹ, xin mẹ hãy đến nhận 1000 đồng tiền vàng ấy đi". Bà lão đáp: "Sao mẹ có thể nhận số tiền ấy được?" Lần thứ hai..., lần thứ ba, nàng nói với bà... bà bèn hỏi rằng: "Mẹ sẽ nói như thế nào để nhận số tiền ấy". Nàng đáp: "mẹ cứ nói con gái tôi đã gặp Hoàng hậu Padumavatī rồi nhận tiền". Bà lão nghĩ thầm: "Sự việc này chẳng biết hư thật ra sao?". Nghĩ vậy nhưng rồi bà cũng đế chổ nhận thưởng, quan lính tại đấy hỏi bà rằng: "Có phải bà đã gặp Hoàng hậu Padumavatī chăng? – Thưa bà". Bà lão đáp: "tôi chưa từng gặp, nhưng con gái tôi đã gặp". Các quan lính hỏi: "Thưa bà, con gái bà hiện ở đâu?". Bà lão đáp: - Con tôi đang ở nhà và dẫn quan lính đến gặp con mình vừa thấy Hoàng hậu, các quan lính quỳ mọp xuống. Lúc bấy giờ, bà lão mới biết rằng cô con nuôi của mình chính là Hoàng hậu Padumavatī, bà bèn nói: "Hoàng hậu của vua mà không được sự bảo vệ, như vậy thật không xứng đáng". Các quan lính vội vã quét dọn căn nhà sạch sẽ, cho treo màn chung quanh và cho lính bảo vệ nơi cổng, rồi trở về Hoàng cung trình với đức vua. Đức vua gởi kiệu vàng đến rước nàng, Hoàng hậu truyền lịnh đến quan lính rằng: "Ta sẽ không trở về bằng cách nầy, khi nào đức vua cho trải vải đặc biệt từ đây cho đến Hoàng cung, cho căn vải phía trên và gửi đầy đủ các vật trang sức đến ta, sau khi trang điểm xong ta sẽ đi bộ về triều bằng cách ấy dân chúng trong kinh thành vinh quang của ta". Đức vua truyền lịnh rằng: "Các khanh hãy làm theo ý của Hoàng hậu". Sau đó, Hoàng hậu Padumavatī trang điểm với nhiều loại trang sức và ngự trở về Hoàng cung, lúc ấy mỗi bước chân của Hoàng hậu đều có hoa sen mọc lên đỡ bàn chân của nàng. Sau khi phô bày sự vinh quang của mình đến đại chúng, Hoàng hậu ngự về Hoàng cung và ban tặng vải trải cùng nhiều phẩm vật đến người mẹ nuôi của mình. Nói về đức vua truyền gọi 500 cung phi đến đến trước mặt Hoàng hậu và phán rằng: "Này ái hậu, trẩm ban tặng 500 cung phi này cho nàng để làm nô tỳ". Hoàng hậu đáp: "Lành thay, tâu bệ hạ", xin bệ hạ cho thông báo khắp thành rằng: "bệ hạ đã ban 500 cung phi ấy đến cho thiếp". Đức vua bèn cho đánh trống bố cáo rằng: "500 kẻ thù của Hoàng hậu Padumavatī, ta đã ban cho nàng để làm nô tỳ". Khi Hoàng hậu biết rằng khắp thành mọi người đều biết các cung phi ấy đã trở thành nô tỳ, nàng bèn hỏi đức vua rằng: "Tâu bệ hạ, thiếp muốn trả tự do cho các nô tỳ ấy được không?". Đức vua phán: "này ái hậu, nếu nàng muốn thì được". Hoàng hậu thưa: Tâu bệ hạ, vậy cầu xin bệ hạ đánh trống cho báo tin rằng: "500 cung phi đức vua ban tặng cho Hoàng hậu để làm nô tỳ, nay Hoàng hậu đã trả tự do cho các người ấy". Sau khi trả tự do cho 500 cung phi, Hoàng hậu bèn giao cho 499 vị Hoàng tử, cho các phụ nữ ấy nuôi dưỡng, còn nàng chỉ nuôi một mình Hoàng tử Mahā-paduma. Khi các vị Hoàng tử đến độ tuổi chơi đùa, đức vua cho xây dựng một khu vui chơi trong vườn Thượng Uyển dành cho các Hoàng tử. Khi được 16 tuổi tất cảc các Hoàng tử đều thích chơi đùa dưới ao Maṅgala có đầy hoa sen trong vườn Thượng Uyển. Một hôm, nhìn thấy những hoa sen mới nở tươi thắm, và những hoa sen cũ bị rơi rụng từng cánh, các Hoàng tử suy tư rằng: "Đây chính là trạng thái già, những hoa sen này tuy không có tâm thức, nhưng nó vẫn bị sự biến hoại, thế nên chúng ta không nên hoài công nghĩ rằng sự già sẽ không đến với thân thể chúng ta, thật vậy thân này rồi cũng đi theo định luật ấy". Rồi các vị Hoàng tử lấy hình ảnh đó làm đề tài thiền quán, phát triển trí tuệ chứng đạt quả vị Độc Giác và ngự tọa trong tư thế thiền định trên các cánh hoa sen. Sau đó, nhóm quan quân tùy tùng của các Hoàng tử, thấy trời đã xế chiều bèn thưa rằng: "Giờ đã đến thời, xin thỉnh quý Ngài hồi cung". Các vị Hoàng tử im lặng, nhóm tùy tùng về trình với đức vua rằng: "Muôn tâu Hoàng thượng, quý Hoàng tử ngồi trên những cánh sen, khi chúng thần thỉnh về các vị không chịu lên tiếng". Đức vua truyền rằng: "các khanh hãy để cho các Hoàng tử ngồi như thế". Các vị Hoàng tử vẫn tịnh tọa suốt đêm dưới sự bảo vệ của nhóm tùy tùng cho đến khi trời sáng. Các quan lính tùy tùng thấy vậy thưa rằng: "Thưa quý Hoàng tử, trời đã sáng, xin quý Ngài hãy biết như vậy". Các Hoàng tử đáp: "chúng tôi không phải là Hoàng tử, chúng tôi là Độc Giác". Nhóm tùy tùng thưa rằng: "thưa quý Hoàng tử, theo bọn thần biết, thông thường đức Độc Giác không phải như vầy, là Phật Độc giác phải cạo râu tóc và có tám vật phụ tùng trên mình". Các vị Hoàng tử bèn đưa tay phải lên vuốt đầu, tức thì hình tướng cũ biến mất, trên người có đầy đủ tám vật phụ tùng. Kế đó quý Ngài bay về núi Nandamūlaka trước tầm mắt của đại chúng. Hoàng hậu Padumavatī hay tin đó, nàng sầu muộn than thở rằng: "Trước ta có nhiều con, giờ trở thành người không có con". Do sự sầu muộn đó, khiến nàng mệnh chung và tái sanh trong một gia đình nghèo gần cổng thành Rājagaha. Lớn lên, nàng được một chàng trai cùng làng cưới về. Một hôm, đem cơm ra đồng cho chồng, nhìn thấy tám vị Phật Độc gáic trong số 500 người con của nàng kiếp trước từ núi bay xuống để đi khất thực, nàng bèn nói với chồng rằng: "Thưa phu quân, chàng hãy nhìn xem đó là chư Phật Độc giác, chúng ta thỉnh quý Ngài đến cúng dường nha". Người chồng đáp: "Thông thường các vị Sa môn chim nầy, phi hành như vậy ở nơi khác, các vị Sa môn chim ấy không phải là đức Độc giác đâu". Chư Phật Độc giác bèn ngự xuống không xa chỗ của hai vợ chồng, người vợ phát tâm trong sạch dâng phần cơm của mình đến chư Phật và thỉnh rằng: "Sáng mai con xin thỉnh tám vị hoan hỷ đến nhận thực phẩm". Chư Độc giác đáp: "Lành thay, này tín nữ, mong rằng sự trong sạch thành kính của ngươi hãy có trong sáng mai, tám tọa cụ cũng hãy có, cho dù ngươi thấy có nhiều vị Độc giác khác, nhưng ngươi nên giữ tâm của mình cho tịnh tín hoan hỷ". Sáng hôm ấy, nàng trải tám tấm tọa cụ và sắp đặt những lễ vật cúng dường, rồi ngồi chờ. Tám vị Độc giác nhận lời mời, bèn thông báo cho chư Độc giác khác rằng: "Hỡi các bậc dứt khổ, hôm nay xin quý Ngài chớ đi nơi khác, quý Ngài hãy đến tiếp độ mẹ của mình đi". Khi chư Phật ngự đến, mặc dầu số lượng rất đông, nhưng nàng vẫn không có một sự lúng túng nào, nàng vô cùng hoan hỷ cung thỉnh quý Ngài vào nhà, an tọa trên chỗ ngồi, nàng chỉ sắp đặt có tám tọa cụ, nhưng kỳ diệu thay tọa cụ vẫn tiếp tục phát sanh cho vị thứ chín, thứ mười và cuối cùng là vị thứ 500. Ngôi nhà của nàng tín nữ cũng tự nới rộng ra vừa với số lượng 500 vị. Sau khi chư Phật an vị xong, nàng bèn dâng những thực phẩm đã được chuẩn bị cho tám vị Phật Độc giác và rồi thực phẩm cũng tự phát sanh đầy đủ để nàng cúng dường đến toàn thể chư Độc giác. Cúng dường thực phẩm xong, nàng cầm tám nắm hoa sen đến đặt cạnh chân chư Độc giác và thành tâm chú nguyện rằng: "Kính bạch quý Ngài, do phước báu mà con đã trong sạch cúng dường hoa sen, trong kiếp vị lai xin cho thân thể của con có màu giống như những đóa sen nầy vậy". Chư Độc giác sau khi nói lời tùy hỷ phúc chúc, quý Ngài bay về núi Gandhamādana. Mệnh chung từ kiếp ấy, nàng được sanh lên thiên giới. Đến thời Đức Phật hiện tại, nàng tái sanh trong gia đình trưởng giả giàu có, tại thành Sāvatthī. Vì nàng có làn da giống như màu hoa sen nên cha mẹ đặt tên là Uppalavaṇṇā. Khi lớn lên, nàng trở thành một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp, nghe danh tiếng của nàng nhiều vị vua trong cõi Diêm phù cùng nhau gửi sứ thần đến nhà trưởng giả xin cưới nàng. Vị trưởng giả suy nghĩ: "Ta không thể đáp ứng sự mong muốn của các vị vua ấy được, với cách duy nhất nầy mới mong ổn thỏa cho tất cả". Ông bèn gọi con gái đến hỏi rằng: "này con thân yêu! Hoàn cảnh của gia đình ta như vậy, con xuất gia được chăng?". Mặc dù là một tiểu thơ xinh đẹp, đài các, nhưng do thiện duyên giải thoát chín mùi, căn cơ thuần thục, nên khi nghe cha hỏi vậy, nàng không do dự nhận lời rằng: "Thưa cha con sẽ xuất gia". Vị trưởng giả bèn đưa nàng đến trú xứ Tỳ khưu ni cho xuất gia. Sau khi xuất gia không lâu, trong một dịp quét dọn Chánh điện, nàng lấy ánh lửa ngọn đèn làm cảnh, chú niện đề mục lửa (Tejokasina) chứng được ngũ thiền, lầy thiền làm nền tảng, nàng phát triển thiền quán chứng quả Alahán với lục thông và tứ vô ngại giải. Một lần nọ, Đức Thế Tôn ngự đến vườn xoài của gia chủ Gaṇḍa gần cổng thành Sāvatthī để thực hiện song thông. Lúc bấy giờ, trưởng lão ni Uppalavaṇṇā đi đến yết kiến bậc Đạo Sư, sau khi đảnh lễ Ngài, bèn thưa như vầy: "Kính bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn cho phép con sẽ thực hiện song thông". Khi được bậc Đạo Sư chấp thuận, trưởng lão ni đã rống lên tiếng rống con sư tử với loại song thông. Nhân sự việc đó, trong việc hội hợp của chư tỳ khưu Tăng tại Kỳ viên Tịnh xá, bậc Đạo Sư ngự tọa giữa Tăng chúng đã tán dương trưởng lão ni Uppalavaṇṇā là vị đệ nhất về thần thông trong hàng Ni chúng. Trưởng lão ni sống an lạc trong thiền định, trong thánh quả. Một hôm, trong lúc ngồi suy quán đến sự nguy hiểm, sự hạ liệt và sự uế nhiễm của các dục xuyên qua sự kiện hai mẹ con có chung một chồng, nàng bèn xướng lên ba bài kệ của một tỳ khưu ni đồng trú: "Cả hai mẹ và con Tương truyền rằng: Tại thành Sāvatthī, có hai vợ chồng thương buôn sống với nhau thời gian, nhưng người vợ không biết mình có thai. Một hôm, người chồng mua sắm nhiều hàng hóa chắt đầy lên cổ xe, đi đến thành Rājagaha (Vương Xá) để bán. Thời gian trôi qua bào thai lớn dần và gần đến ngày khai hoa, người mẹ chồng thấy vậy nói với nàng rằng: "Con trai ta vắng nhà đã lâu, giờ nàng lại có thai, có phải nàng đã làm điều xấu chăng?" Nàng dâu đáp: "Thưa mẹ, ngoài con trai của mẹ, con không hề biết người đàn ông nào khác". Người mẹ chồng không tin lời nàng và đã đuổi nàng ra khỏi nhà. Rời khỏi nhà, nàng đi tìm chồng lần hồi nàng cũng đến thành Rājagaha. Bất chợt nàng chuyển bụng, nàng ghé vào ngôi phước xá vệ đường và hạ sanh một bé trai với dung sắc như vàng, nàng đã để con nằm trong phước xá rồi ra ngoài tìm nước. Lúc bấy giờ, có một người thương buôn đi ngang qua phước xá, nghe tiếng trẻ thơ khóc, ông ta dừng lại nhìn thấy đứa bé nằm bơ vơ, ông nghĩ rằng: "Có lẽ đứa bé này là con của người đàn bà không chồng, nên mới bỏ rơi nó, ta sẽ nhận nó về làm con", bèn bế đứa bé ấy đem giao cho người vú. Mẹ của đứa bé, sau khi xong công việc quay lại phước xá không thấy con, nàng vô cùng đau khổ và nàng không ghé vào thành Rājagaha mà vẫn tiếp tục đi. Một tên tướng cướp gặp nàng đem lòng yêu thương và lấy nàng làm vợ. Sống với tên tướng cướp một thời gian, nàng sanh một đứa con gái. Một hôm, trong lúc đứng bế con nàng tranh cãi với chồng, vì cơn tức giận nàng quăng đứa con lên giường, đầu đứa bé chạm vào thành bị rách da chảy máu, vì sợ chồng nàng đành bỏ trốn đến thành Rājagaha. Lúc bấy giờ, con trai của nàng đã trưởng thành, không biết nàng là mẹ mình, bèn lấy nàng làm vợ. Sau đó, con gái của tên tướng cướp cũng lớn lên trở thành thiếu nữ, do nhân duyên xui khiến chàng thành niên đã gặp và cưới con gái tên tướng cướp về làm vợ. Thế là chàng thanh niên đã cưới bà mẹ và người em khác cha cùng làm vợ. Đến một hôm, trong lúc ngồi bắt chí cho cô vợ bé của chồng, nhìn thấy vết sẹo, nàng nghĩ rằng: "Chẳng biết nàng nầy có phải là con gái của ta chăng?", bèn hỏi quê quán, cha mẹ, sau khi biết được sự thật nàng bị động tâm mạnh, bèn đi đến Tịnh xá Tỳ khưu ni xin xuất gia. Sau khi xuất gia, trong lúc ngồi yên tịnh, nàng quán lại cuộc đời của mình và nói lên ba bài kệ trên. * 14- BÀI KỆ NGÔN CỦA TRƯỞNG LÃO NI SUMEDHĀ Được biết trưởng lão ni Sumedhà đã nói lên các bài kệ như vậy: "Ta sanh làm công chúa Trong thời Giáo pháp của Đức Thế Tôn Konāga-mana, nàng tái sanh trong một gia đình Bà la môn giàu có, do quá khứ tích trữ nhiều duyên lành nên từ nhỏ nàng đã có tâm trong sạch hoan hỉ với Tam bảo và trở thành một tín nữ ngoan đạo. Khi lớn lên nàng thường xuyên đến chùa nghe pháp và chăm lo hộ độ cúng dường đến Đức Phật cùng Chư tăng. Một hôm, nàng cùng với hai người bạn là Dhanañ-janī và Khemā, cả ba phát tâm trong sạch xây dựng một ngôi Tănh xá thật trang nhã, sắp đặt đầy đủ các thứ cúng dường đến Chư Tăng có Đức Phật làm tọa chủ. Do phước lành ấy, sau khi mệnh chung, nàng được sanh lên cõi Đạo Lợi, mệnh chung cõi Đạo Lợi nàng được sanh lên cõi Dạ Ma, mãn thọ cõi Dạ Ma nàng sanh lên cõi Đâu Xuất, chết từ cõi Đâu Xuất, nàng sanh lên cõi Hóa lạc, mệnh chung cõi Hóa lạc nàng được sanh lên cõi Tha Hóa Tự Tại. Nàng đã tuần tự tái sanh trong năm cõi trời dục giới và trong những tầng trời ấy nàng đều được làm Hoàng hậu của đức Thiên vương cõi ấy. Đến thời Giáo Pháp của Đức Thế Tôn Kassapa, nàng tái sanh trong một gia đình trưởng giả rất giàu có. Lúc bấy giờ, tại xứ Kāsī thành Bāraṇasī có một vị Hoàng đế rất nhân hậu hiền đức, danh hiệu là Kiki. Ngài là một thiện nam sùng đạo và cũng là một đại đàn tín của Thế Tôn Kassapa. Đức vua Kiki có bảy người con, bảy cô công chúa nầy đều là những tín nữ thuần thành với Tam Bảo. Nàng tiểu thư con nhà trưởng giả là thân hữu thiện hữu của bảy cô công chúa ấy, họ đã cùng nhau tu tập, giữ giới và chăm lo hộ độ cúng dường tứ sự đến Đức Phật cùng Tăng chúng. Do khéo gìn giữ phạm hạnh cùng các thiện sự cúng dường, nên sau khi mệnh chung, nàng được sanh lên cõi Đạo Lợi. Đến thời Giáo pháp của Đức Thế Tôn chúng ta, nàng tái sánh làm công chúa của đức vua Koñca, tại kinh thành Mantāvatī, và được đặt tên là Sumedhā. Khi công chúa trưởng thành, phụ vương cùng mẫu hậu hứa gã nàng cho đức vua Anikaratta trị vì tại thành Vāraṇavatī. Nhưng khi còn bé nàng đã thường cùng với các công chúa trang lứa và các nữ tỳ đi đến Tịnh xá tỳ khưu ni nghe pháp, do thấm nhuần Giáo pháp và do duyên lành giải thoát đã tròn đủ nên tâm tư nàng luôn hướng đến một đời sống xuất ly không ưa thích dục lạc. Vì vậy khi nghe phụ vương cùng mẫu hậu bàn tính việc hôn lễ của mình, nàng thưa rằng: "Thưa phụ vương và mẫu hậu, con không thích đời sống tại gia cư sĩ, con chỉ muốn xuất gia". Đức vua cùng hoàng hậu không chấp nhận việc xuất gia của công chúa, bằng nhiều phương cách hai vị đã cố gắng nài nỉ thuyết phục nàng, nhưng cũng không làm cho nàng xiêu lòng chuyển ý. Lúc bấy giờ, công chúa suy tính tìm một giải thoát để khiến cho cha mẹ chấp thuận cho nàng xuất gia, nàng nghĩ rằng: "Chỉ với cách nầy cha mẹ mới ưng thuận cho ta xuất gia". Rồi nàng tự cầm dao tự cắt tóc mình, lấy những sợi tóc ấy làm đề mục, nàng chú tâm đến bất tịnh tướng và chứng được sơ thiền tại chỗ ấy. Sau khi chứng đạt sơ thiền, nàng đã khiến cho những người tại đấy gồm có đức vua hoàng hậu, vị hôn phu của nàng, vua Anikaratta cùng các tùy tùng đều phát khởi niềm tin trong Giáo pháp. Rồi cha mẹ đã chấp thuận cho nàng xuất gia, nàng rời bỏ hoàng cung, đi đến tịnh xá tỳ khưu ni xin xuất gia. Xuất gia không bao lâu, nhờ duyên lành giải thoát chín muồi cùng với sự nhiệt tâm tinh cần tu tập, nàng đã chứng đạt quả vị Alahán với tứ tuệ phân tích. Sau khi chứng quả Alahán, trưởng lão ni Sumedhā nhìn lại cuộc đời của mình, nàng đã cảm xướng lên các bài kệ như vầy: "Ta sanh làm công chúa -ooOoo- |
[Trở
về trang Thư Mục]
last updated: 02-09-2007