BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
TỨ THANH TỊNH GIỚI (CATUPÀRISUDDHISÌLA)
TỲ-KHƯU HỘ-TÔNG (VANSARAKKHITA BHIKKHU)
PHẨM PARIVÀRA (Trích lục trong tạng Luật)I. Tỳ-khưu có 5 chi, không nên ở không có nissaya (không nương theo ông thầy) [*]
II- Tỳ-khưu có 5 chi khác nữa cũng không nên ở không có nissaya:
III- Tỳ-khưu có 5 chi khác nữa, cũng không nên ở có nissaya:
IV. Tỳ-khưu có đủ 5 chi [*] được phép ở không có nissaya:
V- Tỳ-khưu cố ý phạm tội rồi, dầu tội và chiều theo pháp tây vị (thương, ghét, si mê, sợ sệt) như thế gọi là alajji. VI- Tỳ-khưu có 5 chi hằng sa địa ngục:
VII. Tỳ-khưu không có trí nhớ, hay quên mình, ngủ mê có 5 tội:
VIII. Tỳ-khưu đi đến nhà cư sĩ, hay chung chạ với người thế trong lúc quá giờ, hằng có 5 tội:
IX- 5 pháp hằng thành tựu đến Tỳ-khưu nhất là hành đầu đà thường đi khất thực:
X- Người không nên hành đầu đà có 6 hạng:
XI- người nên hành đầu đà có 10 hạng:
XII- Tỳ-khưu hành đầu đà có 5 hạng:
XIII- Người không nên làm lễ có 5 hạng:
XIV- Người không nên làm lễ có 5 hạng nữa:
XV- Người không nên làm lễ có 5 hạng nữa:
XVI- Tỳ-khưu tiên cáo phải có 5 chi: (cáo, vì).
XVII- Tỳ-khưu phải có 4 chi mới đáng gọi là Tỳ-khưu:
XVIII- Sa-môn phải có đủ 4 chi, mới đúng gọi là Sa-môn:
XIX- Tỳ-khưu không nên cho nissaya đến Tỳ-khưu có 3 chi:
XX- Người xôm tới, đi vào đường dữ, đi xuống địa ngục có 3 hạng:
XXI- Lời nói cao thượng có 4:
XXII. Tỳ-khưu có giới đáng tôn trọng có 4 chi:
XXIII. Tỳ-khưu có 6 chi đáng làm hoà thượng (truyền cụ túc giới), đáng cho nissaya, đáng cho Sa-di hầu hạ:
XXIV. Tỳ-khưu có 5 chi gọi là chia rẽ Tăng, hằng đi thọ sanh trong đường dữ, sa vào địa ngục trọng 1 đại kiếp, hết mong sửa mình được:
XXV- Tỳ-khưu có 7 chi mới gọi là luật sư.
XXVI- Trò đối với thầy có 5 điều:
XXVII- Ông thầy đáng cho trò nương nhờ có 7 điều:
XXVIII. Bát có 2 thứ:
Chỉ được dùng 2 thứ ấy thôi. -ooOoo- GIẢI VỀ KATHINA (Kathina Kathà).Vấn: - tiếng gọi Kathina nghĩa như thế nào? Ðáp: - tiếng Kathina là 1 tiếng trong Phật giáo phát sanh theo lời chuẩn hành của đức Thế Tôn, để buộc chặt 5 quả báo cho thành tựu đến Tỳ-khưu, người thọ và người anumodanà, cho đến hạn kỳ quả báo y. 5 QUẢ BÁO (Ànisansa)Tỳ-khưu thọ Kathina rồi được hưởng 5 quả báo là:
Tóm lại Tỳ-khưu đã thọ Kathina được hưởng 5 quả báo ấy. CÁCH THỨC THỌ KATHINA (Kathinatthàna vidhànakathà).Vấn: - Người hạng nào mới thọ Kathina được. Người hạng nào mới thọ Kathina không được.? Ðáp: - Nếu nói về số người phải có ít lắm là 5 vị trở lên [*], mới thọ Kathina được, ít hơn 5 vị không phép thọ Kathina.
Còn nói về nhập hạ, Tỳ-khưu nhập hạ trước (purimikavassà) Pavàranà trong ngày Pavàranà trước (là Pavàranà trong ngày rằm tháng 9 Việt Nam) mới thọ Kathina được. Tỳ-khưu dứt hạ hoặc nhập hạ sau (nhập hạ ngày 16 tháng 6 sau, năm nhuần) và Tỳ-khưu nhập hạ chùa khác, thọ Kathina không được. Vấn: - người hạng nào mới nên dâng Kathina Ðáp: - Một trong mấy hạng người sau này là: chư thiên, người thiện tín, Tỳ-khưu, Sa-di dùng được cả. Thí chủ phải vào dâng trong hắc, tăng ngồi hoặc đứng trong chùa nhập hạ rồi dâng, nói như vầy: Chúng tôi xin dâng y Kathina (kathina cìvaramdema). Vấn: - Khi thí chủ dâng y, Tăng phải thọ bằng cách nào? Ðáp: - Không nên thọ bằng thân hoặc khẩu, phải cần thọ bằng tâm của Tăng, là phải thọ bằng cách làm thinh. Vấn: - Tỳ-khưu nào đáng thọ Kathina? Ðáp: - Tăng giao y Kathina cho Tỳ-khưu nào, Tỳ-khưu ấy phải thọ. Vấn: - Tăng phải giao y Kathina cho Tỳ-khưu nào? Ðáp: - Tỳ-khưu nào có y cũ thì phải giao cho Tỳ-khưu ấy. Nếu nhiều vị có y cũ, Tăng phải giao cho vị cao hạ hơn và thông rõ 8 pháp, có thể làm phép thọ cho kịp trong ngày ấy. Nếu Tỳ-khưu cao hạ không thông thì giao cho Tỳ-khưu thấp hạ, thông hiểu phép thọ. Nhưng Tăng nên bàn tính trước với vị trưởng lão, cầu ngài thọ rằng: bạch ngài, xin ngài thọ đi, rồi chúng tôi giúp làm với ngài. Khi Tăng được Kathina rồi, hội họp nhau, ngồi (trong hắc) trong Sìmà, chỉ định 2 vị để tuyên ngôn trình cho Tăng rõ. Vị thứ nhất hỏi: Bạch đại đức Tăng, y Kathina đã phát sanh đến Tăng rồi, Tăng nên giao Kathina này cho Tỳ-khưu nào thọ Kathina? Vị thứ hai đáp: Tỳ-khưu nào có y cũ, Tăng nên giao cho vị ấy. Vị thứ nhất nói: Tỳ-khưu có cìvaram cũ, có nhiều vị, hoặc nói trong nơi đây không có vị nào có y cũ cả. Vị thứ hai nói: tăng nên giao Kathina cho vị trưởng lão. Vị thứ nhất nói: Trong nơi đây Tỳ-khưu nào cao hạ? Vị thứ hai nói: Tỳ-khưu (... để pháp danh Tỳ-khưu thọ vào đây ...). Vị thứ nhất nói: vị trưởng lão ấy có thế làm y được và thọ kịp trong ngày nay chăng? Vị thứ hai nói: ngài làm được (hoặc nói: Tăng nên tiếp độ đến vị trưởng lão). Vị thứ nhất hỏi lại nữa rằng: vậy ngài trưởng lão ấy có đủ 8 chi chăng? (xem phần PAKINNAKAKATHÀ tiếp theo). Vị thứ hai đáp: ngài trưởng lão có đủ 8 chi rồi. Nếu vị thứ nhất bằng lòng thì nói: sàdhu, đúng rồi. Tăng nên giao cho ngài trưởng lão ấy. Phải cho Tỳ-khưu thông hiểu trình cho Tăng hay. Vấn: - Tăng hội cần giao Kathina cho Tỳ-khưu người thọ bằng cách thức như thế nào?. Ðáp: - tăng phải giao bằng cách tụng tuyên ngôn 2 bận (nattidutiyakammavàcà). Cách thức để tụng tuyên ngôn 2 bận để giao y ấy, theo lời Phật chuẩn hành [1] (buddhànunàtta) trong phẩm Mahàvagga rằng: phải cho Tỳ-khưu thông hiểu trình đến tăng biết như vậy:
Nghĩa là:
Vấn: - Nếu Tăng giao y Kathina như thế rồi Tỳ-khưu thọ Kathina phải làm như thế nào? Ðáp: - Tỳ-khưu thọ Kathina ấy phải giặt, vò, phơi, đo, cắt, may, nhuộm, làm dấu cho xong trong ngày ấy rồi thọ Kathina. Nếu thí chủ đã cắt may sẵn, Tỳ-khưu thọ chỉ phải nhuộm hoặc làm dấu (kappabindu) thôi, rồi thọ Kathina. Nếu muốn thọ y 2 lớp (sanghati), phải (paccuddhàra) xả y 2 lớp củ, adhitthàna y 2 lớp mới rồi đọc làm lễ thọ (hoặc muốn thọ y vai trái 9 uttàràsànga), hoặc y nội (antaravàsaka) cũng nên làm như nhau. Vấn: - Tỳ-khưu phải thọ Kathina bằng thế nào? Ðáp: - trong phẩm parivàna có nói rằng: nếu Tỳ-khưu muốn thọ y 2 lớp (sànghàti) cần (paccuddhàra) xả y 2 lớp củ của mình, rồi adhitthàna y 2 lớp mới, rồi đọc ra tiếng cho Tăng nghe rõ rằng: Imàya sanghàtiya kathinam atthàràmi (tôi thọ Kathina bằng y 2 lớp này). Nếu thọ y bằng y vai trái uttaràsanga, phải (paccuddhàra) xả y vai trái cũ của mình adhitthàna y vai trái mới, rồi đọc ra tiếng cho Tăng nghe rõ rằng: Iminà uttaràsangena kathinam attharàmi (tôi thọ Kathina bằng y vai trái này). Nếu thọ y antaravàsaka, phải paccuddhàra xả y nội cũ của mình, adhitthàna y mới, rồi đọc ra: tiếng cho tăng nghe rõ rằng: Iminà antaravàsakena kathinam attharàmi (tôi thọ Kathina bằng y nội này). Khi Tỳ-khưu đã thọ Kathina theo cách thức ấy rồi [1], vào gần Tăng hoặc gana hoặc pugala, mặc y vai trái chừa một bên, ngồi chồm hỗm chấp 2 tay đọc cho các vị ấy (anumodanà) rằng: "Atthatam bhante [2] sanghassa kathinam dhammiko kathinatthàro anumodàna [3]". (Bạch các đại đức, Kathina của Tăng tôi đã thọ rồi, sự thọ Kathina ấy đúng theo pháp, xin các đại đức anumodàna đi). Về phần Tỳ-khưu anumodàna, phải mặc y vai trái chừa một bên, ngồi chồm hỗm chấp hai tay đọc anumodanà rằng: Atthatam àvuso [4] sanghassa kathinam dhammiko kathinatthàro anumodàna [5]. (Bạch các đại đức, Kathina của Tăng ngài đã thọ rồi, sự thọ Kathina ấy đúng theo pháp, chúng tôi xin anumodàna).
Trong kinh Chú giải: Evam sabbesam atthatam hoti kathinam (nếu một vị thì đọc Kathina, các vị khác anumodàna như thế gọi là Kathina đủ các vị.). GIẢI VỀ THỂ THỨC THỌ KATHINA KHÔNG ÐƯỢC KẾT QUẢ (Anatthatakathinakathà)Vấn; Tỳ-khưu thọ Kathina không kết quả do 24 cách thế nào? đáp: Tỳ-khưu thọ Kathina không kết quả do 24 điều là:
Kathina mà Tỳ-khưu làm phép thọ phạm 1 trong 24 điều ấy không thành Kathina đâu. GIẢI VỀ CÁCH THỨC THỌ KATHINA ÐƯỢC KẾT QUẢ ÐƯỢC (Atthatakathinakathà)Thọ 17 thứ vải sau này được thành Kathina:
Trong 17 thứ y này, từ thứ 1 đến thứ 5 chỗ chặn giữa 12, 13, 14 là y không định, miễn dâng theo 1 thứ nào cũng được, từ thứ 6 đến thứ 11, từ 15 đến 17 là y nhất định, phải điều đủ theo phép mới làm lễ thọ được. GIẢI VỀ NGUYÊN NHÂN KATHINA XẢ (Ubbhatakathinakathà).Ðức Phật có dạy: Kathanca bhikkhave ubbhatam hoti kathinam attha màtikà bhikkhave kathinassa ubbhàràya. Nghĩa là: "Này các Tỳ-khưu, 8 màtikà này là nguyên nhân làm cho Kathina xả". Tiếng "màtikà" nghĩa là mẹ, hay là người sanh đẻ. Hỏi: - Cớ sao vì 8 màtikà ấy mà cho Kathina xả? Ðáp: - 8 màtikà ấy là:
Trong phẩm Mahavagga có giải rộng 8 màtikà ấy, đây chỉ xin giải tóm tắt bấy nhiêu, nên vị nào muốn biết cho rộng, nên xem trong phần ấy. BÓ BUỘC (Palibodha)Theo Phật ngôn trong phẩm Mahàvaggacó giải rằng: Dve me bhikkhave kathinassa palibodhà. Nghĩa là: Này các Tỳ-khưu! Cả 2 điều ấy là Palibodhà của Kathina. Palibodhà là điều buộc Kathina không cho xả, có 2:
Giải: Đức Phật có dạy trong phẩm Mahàvagga rằng: Idha bhikhave bhikkhu vasatitasmim àvàse vàsàpekkho vàpakkama ti paccessanti evam kho bhikhave àvàsa palibodho hoti. Nghĩa là: Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu trong giáo pháp này, ngụ trong chùa hoặc đi ra khỏi chùa, nhưng còn tiếc rằng: Ta sẽ trở lại. Này các Tỳ-khưu, như thế gọi là sự bận trong chùa (àvàsa palibodha). Về phần cìvara palibodha, đức Phật có giảng trong phẩm Màhàvagga rằng: Idha bhikkhave bhikkhuno cìvaram akatam và hoti vippankatam và cìvaràsà và anupacchinnà, evam kho bhikkhave cìvara palibodho hoti. Nghĩa là: Này các Tỳ-khưu, y ca-sa của Tỳ-khưu trong giáo pháp này, chưa làm hoặc làm chưa rồi, hay là sự mong trong [*] y chưa dứt. Này các Tỳ-khưu! Như thế gọi là cìvara palibodha.
Có 2 điều ấy thuộc về Kathina không cho xả, miễn là còn mắc trong 2 điều ấy, Kathina mới xả. HÀNH TRÌNH KATHINA XẢ (Ubbhàra hay Uddhàra)Hành trình Kathina xả có 2 (vì thế lực của 8 màtikà).
(Nếu chia ra nữa có đến 9 là 8 màtikà ubbhàra và 1 antarubbhàra). giải: Atthamàtikà nghĩa là hành trình Kathina xả theo 8 màtikà là: 1) Hành trình Kathina xả, để cho Tỳ-khưu ra ngoài vòng sìmà, rồi làm cho Kathina xả 1 lượt trong khi ấy. 2) Hành trình Kathina xả, là sahubbhàra, để cho Tỳ-khưu ra ngoài vòng sìmà, xong trở lại kịp Kathina xả trong giữa thời gian hạn kỳ, trong chùa thọ kathina, rồi được vào làm phép xả chung với các Tỳ Khưu . Tám Hành trình Kathina xả ấy gọi là atthamatikà ubbhàra, vì kể vào trong 8 màtikà. 3) Antarubbhàra nghĩa là hành trình kathina xả trong giữa thời gian hạn kỳ, là hành trình kathina xả do tụng tuyên ngôn 2 bận (dutiyakammavàcà) để xả kathina, không kể vào trong 8 màtikà gọi là amtarubhàra, vì là hành trình kathina xả để cho các Tỳ Khưu không đi ra ngoài vòng sìmà chỉ ngồi trong chùa hội họp nhau làm, trong giữa thời gian hạn kỳ (chưa đến thời kỳ định). Trong phẩm vinayàlankàratikà có giải thêm rằng:
Vấn: - Hai hành trình kathina xả là antarubbhàra và sahubbhàra khác nhau như thế nào? Ðáp: - Trong phẩm Vinayàlankàratikà có giải rằng: antarubbhàra để cho các Tỳ Khưu (nhiều vị) không ra ngoài vòng sìmà chỉ ngồi trong chùa tụ hội nhau làm phép xả. Còn sahubbhàra để cho một vị Tỳ Khưu đã ra ngoài vòng sìmà rồi trở lại kịp antarubbhàra ấy vào làm phép xả chung cùng nhau với các Tỳ Khưu ngụ trong sìmà ấy. Ðó là điều khác nhau của hai hành trình ấy. Vấn: - Antarubbhàra tuồng như một hành trình kathina xả khác ngoài tám màtikà; nếu như thế, màtikà là nguyên nhân cho kathina xả cho đến 9 chăng? Ðáp: - Không phải như thế, hành trình kathina xả có một thôi, song giải ra làm hai gọi là:
Nên hiểu rằng khi Tăng tụ hội tụng xả kathina trong giữa thời gian hạn kỳ, nếu có Tỳ Khưu đã ra ngoài vòng sìmà, trở về làm phép xả chung cùng nhau, một lần cũng được gọi là hai trong một lần, bằng không có cũng gọi chỉ có một lần thôi. Cho nên Ðức Phật chỉ chế ra có 8 màtikà như đã có giải. Vấn: - Tỳ Khưu Tăng cần phải tụng tuyên ngôn xả kathina trong thời gian giữa hạn kỳ, vì nguyên nhân chi? Ðáp: - Tỳ Khưu Tăng cần phải tụng tuyên ngôn xả kathina trong giữa thời gian hạn kỳ như thế vì có các thí chủ thỏa thích làm đại lễ, họ cầu tụng xả cho, họ dâng cúng y ngoài trời kathina, đến Tăng ở phương xa đến hội họp nhiều [*]. Tích này Ðức Phật cho phép Tỳ Khưu ni vì có một người cận sự nam bạch cầu xin.
Ðức Thế Tôn có dạy tụng xả kathina như vầy: phải cho Tỳ Khưu thông hiểu trình cho Tăng biết rằng:
Nghĩa là:
Cho nên dứt cả hai Palibodhà phải biết rằng xả rồi, khi ấy cũng không còn được 5 quả báo nữa. Nếu còn cả hai hoặc một trong hai Palibodhà, thì kathina chưa xả, Tỳ Khưu ấy còn được hưởng 5 quả báo; nhưng muốn cho biết Palibodhà nào dứt. Palibodhà nào không dứt, hoặc Palibodhà nào dứt trước, Palibodhà nào dứt sau hoặc dứt một lượt cùng nhau chỉ giải phân biệt theo 8 màtikà như đã có giải trong phẩm parivàra và phẩm taliyasamantapàsàtikà atthakatha rằng:
Vấn: - Hành trình Kathina xả trong sìmà có mấy, ngoài sìmà có mấy, có khi trong sìmà có khi ngoài sìmà có mấy? đáp: - Hành trình Kathina xả trong sìmà có 2 là: antarubbhàra và sahubhàra. Ngoài sìmà có 3 là: pakkamanantika, savanantika và sìmàtikkantika. Có khi trong sìmà, có khi ngoài sìmà, có 4 là: nitthinantika, sannitthànantika, nàsanantika và àsàvacchedika. Giải rằng: antarubbhàra và sahubhàra Kathina xả trong thời chung cùng nhau, là xả vì năng lực tăng tụ hội tụng xả trong vòng sìmà thọ Kathina ấy, thuộc về hành trình Kathina xả trong vòng pakkamanantika, savanantika và sìmàtikkantika, Kathina xả đối với 1 Tỳ-khưu, đi làm cho Kathina xả, phía ngoài vòng sìmà. Nitthinantika, samutthànantika, nàsanantika và àsàvacchedika, kathina xả đối với 1 Tỳ-khưu . Nhưng nếu Tỳ-khưu ấy khi trước không bận tìm phần y mà mình phải được, rồi đi ra ngoài vòng sìmà, hết tiếc rằng: Thôi trở lại. Mà sau đó Tỳ-khưu khác thức tỉnh ép, cho đi đoạt phần y đó lại, rồi trở về làm cho kathina cũng xả trong vòng sìmà đã thọ Kathina. Vậy chỉ về việc phần y mà mình phải được ấy, thuộc về hành trình Kathina xả trong vòng sìmà. Nếu Tỳ-khưu đem phần y mà mình phải được ra ngoài vòng sìmà rồi làm cho Kathina xả trong nơi ấy, chỉ 12 lần thì thuộc về hành trình Kathina xả ngoài vòng sìmà (muốn rõ điều này nên xem tạng Luật, phẩm thứ 8, từ trang 12 đến 48). PAKINNAKAKATHÀVấn: - Mùla của Kathina có mấy? Vatthu có mấy? Bhùmi có mấy? Ðáp: - Mùla của Kathina có 1 là: Tăng tụ hội. Vatthu có 3 là: sanghàti uttaràsanga và antaravàsaka. Bhùmi có 6 là: y làm bằng chỉ may, y làm bằng bông, y làm bằng tơ, y làm bằng lông thú, y làm bằng vỏ cây. Thật vậy, Kathina thì đủ mùla, vatthu, bhùmi như đã có giải, thọ mới kết quả được. Nếu chỉ thiếu 1 điều nào, như số Tỳ-khưu ít hơn 5 vị hoặc thọ Kathina bằng y khác ngoài 1 trong 3 y, hoặc y ấy họ làm bằng vật nào khác ngoài 6 thứ chỉ ấy, thì Kathina không được kết quả. Vấn: - Pháp chỉ về phần đầu Kathina, pháp chỉ về phần giữa, pháp chỉ về phần cuối cùng là thế nào? Đáp: - Trong sự phải thọ Kathina (kathinatthàrakicca) chia ra làm 3 giai đoạn:
Được anumodanà như thế gọi là sự phải thọ Kathina (kathinatthàrakicca) được kết quả. Vấn: - Người có mấy chi không nên thọ Kathina, người có mấy chi nên thọ Kathina? Ðáp: - Người có 8 chi không nên thọ Kathina:
Người có đủ 8 chi (trái với 8 điều giải trên) mới nên thọ Kathina được là:.
Tỳ-khưu thọ Kathina phải biết nhớ rõ rệt 8 điều trên đó mới nên thọ Kathina. Vị Tỳ-khưu biết nhớ các pháp ấy được rỏ rệt, mới có thể làm cho Kathinatthàrakicca được kết quả là:
Nếu không biết, không nhớ các pháp ấy cho rõ rệt, không nên thọ Kathina đâu, trừ ra Tỳ-khưu là vì trưởng lão có tăng hỗ trợ cho sắp đặt thế cho. Vấn: - Pubbakarana (sự phải làm trước) giải như thế nào? Ðáp: - Có 7 điều:
Giải rằng: cả 7 điều ấy, nếu còn sót điều nào, Tỳ-khưu phải làm cho, rồi trước khi thọ Kathina, không nên thọ rồi sau mới làm.
Phải làm theo thứ tự, từ thứ nhất đến thứ nhì, là không nên làm sai, trước làm sau, sau làm trước,nhưng nếu họ làm xong thì càng tốt, bằng còn sót điều nào, phải làm cho rồi mới được (hiện thời chỉ còn sót điều thứ 7, Tỳ-khưu thọ cần phải làm cho bấy nhiêu thôi). Vấn: - Paccuddhàra, adhitthàna giải như thế nào? Ðáp: - Paccuddhàra nói về 3 pháp là: sanghàti, uttaràsanaga và antaravàsaka. Adhitthàna cũng nói về 3 pháp ấy. Nhưng paccuddhàra nói về sanghàti, uttaràsanaga và antaravàsaka, và adhitthàna cũ mà mình đã dùng, còn adhitthàna nói về sanghàti, uttaràsanaga và antaravàsaka là y Kathina ấy. Nếu muốn thọ bằng sanghàti, phải paccuddhàra xả sanghàti cũ, rồi adhitthàna sanghàti mới. Thọ uttaràsanaga hoặc antaravàsaka cũng phải xả uttaràsanaga hoặc antaravàsaka cũ ra, rồi adhitthàna uttaràsanaga hoặc antaravàsaka mới như nhau. Vấn: - Atthàra (sự thọ) nói về mấy pháp? Ðáp: - Atthàra chỉ nói về 1 pháp là nói ra tiếng. Giải: Tỳ-khưu thọ phải nói ra tiếng cho Tăng hội nghe rõ rệt mới kết quả Kathina, nếu thọ thầm thì một mình ("thầm thì" là nói nhỏ đủ một mình nghe), Tăng hội không được nghe với, thì Kathina không được kết quả. còn về cách thức phải thọ như thế nào đã giải ở phía trên đều đủ rồi. Vấn: - Sự thọ Kathina của mấy hạng người không được kết quả, mấy hạng người được kết quả? Ðáp: - Sự thọ Kathina của 3 hạng người không được kết quả là:
Sự thọ Kathina của 3 hạng người sau này mới được kết quả là:
Vấn: - Sự thọ Kathina mấy cách không được kết quả, mấy cách được kết quả? Ðáp: - 3 cách thọ Kathina không kết quả là:
Cách thọ Kathina được kết quả là:
Giải: tiếng Vatthuvipanna nghĩa là vật sái nói về y Kathina không nên dùng (akapiya) là y không đúng phép. Kàlavipanna nghĩa là thời sái, nói về thời là họ dâng y trong ngày nay, Tăng giao cho Tỳ-khưu người thọ trong ngày mai. Karanavipanna: nghĩa là làm sái, nói về thí chủ họ chưa làm y xong, rồi Tỳ-khưu không cắt làm cho rồi trong ngày ấy. Tiếng Vatthusampanna nghĩa là vật phải nói về y Kathina làm đúng theo phép. Kàlasampanna nghĩa là thời phải nói về thí chủ họ dâng trong ngàay nào, Tăng giao cho Tỳ-khưu người thọ trong ngày ấy. Karanasampanna nghĩa là làm phải nói về thí chủ dâng y làm đúng theo phép hoặc họ làm chưa xong, Tăng giao cho trong ngày nào, Tỳ-khưu người thọ được cắt làm cho đúng trong ngày khác không để qua ngày khác. Nói tóm lại Tỳ-khưu thọ Kathina bằng y không nên dùng (akappiya) như y có bông, có màu sái, thí chủ dâng y đến trong ngày nay, tăng giao cho Tỳ-khưu thọ đến ngày mai, thọ như thế thì Kathina không được kết quả. Trừ ra y làm bằng vải, nên dùng (kappiya) Tăng cũng giao cho Tỳ-khưu thọ trong ngày ấy, thọ như thế Kathina mới được kết quả. Vấn: - Tháng nào nên thọ Kathina? Ðáp: - Tháng nên thọ Kathina là 1 tháng cuối cùng của mùa hạ. Giải: Sự thọ Kathina, đức Thế Tôn chỉ cho phép thọ được trong 1 tháng chót mùa hạ: kể từ 16 tháng 9 đến rằm tháng 10, trong khoảng 29 ngày ấy, ngày nào cũng thọ được cả. Ngoài vòng 29 ngày ấy, thọ Kathina không kết quả, dầu có thọ cũng chẳng kết quả chi. Vấn: - sự thọ Kathina sái (atthàravipatti) hay là thọ phải (atthàrasampati), phải biết bằng cách nào? Ðáp: - sự thọ Kathina sái hoặc thọ biết theo 24 thể thọ, không kết quả và 17 thể thức thọ được kết quả như đã có giải. Trích dịch trong Kathina khandhaka thứ 7 của phẩm Mahàvagga, cũng vừa đủ nghĩa lý chỉ có bấy nhiêu. Khemam pappontu pànino. Cầu cho tất cả chúng sanh đều được vui. BHIKKHU VANSARAKKHITA -ooOoo- GIẢI VỀ CÁCH THỨC CÁC THỨ Y CA-SA1) Kusi: dịch là miếng vải dài ở ngay chỗ anuvàta dài chung quanh là ngay chỗ khoản dài. 2) Addhakusi: dịch là miếng vải nữa phần kusi, tức là miếng vải vắn ở ngay chỗ khoản vắn. 3) Mandala: dịch là miếng vải lớn ở ngay chỗ khoản lớn (nếu y ngũ điều điều lớn này có 5 khoản). 4) Addhamandala: dịch là miếng vải nửa phần miếng vải lớn, tức là miếng vải nhỏ (nếu y ngũ điều, điều nhỏ này có 5 khoản). 5) Vivatta: dịch là miếng vải mở ra khi nào trùm thấy rõ ngay cho phía trên lưng, chi này ở ngay khoản lớn chính giữa. 6) Anuvivatta: đây là miếng vải mở tiếp theo (khi trùm chỉ thấy phân nửa) chi này ở ngay chỗ 2 bên khoản Anuvivatta. 7) Gìveyyaka: dịch là miếng vải quấn, (khi nào trùm thì trùm ngay cổ) chi này ở ngay chỗ khoản Vivatta về phía trên. 8) Jangheyyaka: dịch là miếng vải phải đậy trên xương chả vai, chi này ở chỗ 2 khoản anuvivatta về phía dưới. 9) Bahanta: dịch là miếng vải phải đắp bắp tay, khi trùm phải ở ngay phía trên bắp tay, chi này ở ngay chỗ addhamadala nơi 2 khoản phía cuối cùng. Tóm lại y có 9 chi như thế mới hiệp theo lời của đức Phật chế định. cả 3 y (y 2 lớp y vai trái, y nội) phải làm theo 9 chi ấy (trừ ra thiếu vải cắt may không đủ). PHÉP DÂNG Y KATHINA ÐẾN TĂNG (SANGHA)Vấn: - thí chủ dâng cúng y Kathinadàna như thế nào mới gọi là Tăng thí (sanghadàna)? Ðáp: - y để thọ Kathina là vật kể vàao trong sanghadàna thì dâng theo Pali như vầy:
Nghĩa: chúng tôi xin dâng y này để làm lễ Kathina đến Tỳ-khưu tăng (bhikkhusangha) lần thứ nhì, lần thứ ba. Về vật phụ tùng (parikkhàra) đã dâng theo thói quen như vầy:
Nghĩa: vị Tỳ-khưu nào lãnh Kathina của chúng tôi, chúng tôi xin dâng các phụ tùng này đến vị đó. Trong chú giải (atthakathà) có thuyết minh rằng; nếu thí chủ dâng mà đọc Yenamhàkam ... Như vầy, thì Tăng không có quyền làm chủ các vật parikkhàra đó được. Cho nên nếu cần muốn dâng vật nào đến Tăng, phải dâng bằng cách khác, tóm tắt (không ccần để tên các vật dâng theo Pali) như vậy .
nghĩa: bạch các ngài chúng tôi xin dâng những vật này đến Tỳ-khưu tăng. Lại nữa, cũng có 1 cách dâng Kathina chung với vật phụ tùng 1 lần rất tiện lợi theo Pali như vầy.
Nghĩa: bạch chư Đại đức, chúng tôi xin nghiêng mình dâng y Kathina cùng với vật phụ tùng này đến Tỳ-khưu tăng. bạch chư Đại đức cầu xin Tỳ-khưu tăng lãnh y Kathina cùng với những vật phụ tùng của chúng tôi đây, khi đã nhận rồi, xin thọ dụng y này, cho chúng tôi được sự lợi ích, được sự yên vui lâu dài. - Hết- -ooOoo- |
Chân thành cám ơn anh NCT đã giúp đánh máy vi tính (Bình Anson, tháng 08-2001)
[Trở
về trang Thư Mục]
updated: 04-08-2001