BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
TỨ THANH TỊNH GIỚI (CATUPÀRISUDDHISÌLA)
TỲ-KHƯU HỘ-TÔNG (VANSARAKKHITA BHIKKHU)
GIẢI VỀ PHÉP ÐẦU ÐÀ (DHUTANGAKATHÀ).Tiếng đầu đà - DHUTANGAKATHA nghĩa là: Chi [*] của người dứt phiền não, hoặc tư cách có trí tuện để dứt trừ phiền não, là điều kiện và là sự tu hành để phá huỷ nghịch pháp. Nói tóm tắt là tác ý để thọ trì chi ấy.
ÐẦU ÐÀ CÓ 13 PHÉP1) Pamsukùkanga: chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách, thường mặc y ca-sa có trạng thái đáng gớm như phẩn đất. 2) Tecìvarikànga: chi của Tỳ-khưu là người chỉ thường mặc tam y (y 2 lớp, y vai trái và y nội). 3) Pindapàtikanga: chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách, thường đi để khất thực. 4) Sapadànacàrikanga: chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách để đi khất thực theo mỗi nhà. 5) Ekàsanikanga: chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách chỉ thường dùng vật thực trong 1 chỗ ngồi 6) Pattapindikanga: chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách chỉ thường dùng vật thực trong 1 bát 7) Khalupacchàbhattikanga: chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách không dùng vật thực mà mình đã ngăn, sau rồi mới được lại 8) Àrannikanga: chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách thường trú ngụ trong rừng. 9) Rukkhamùlikanga: chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách trú ngụ gần cội cây 10) Abbhokàsikanga: chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách thường trú ngụ trong nơi khoảng trống. 11) Sosànikanga: chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách thường trú ngụ trong rừng mộ địa. 12) Yathàsanthatikanga: chi của Tỳ-khưu là người có phẩm cách chỉ ngụ trong chỗ mà Tăng đã cho đầu tiên, không dời đổi. 13) Nesajjikanga: chi của Tỳ-khưu là người thường có phẩm cách ngăn oai nghi nằm, chỉ đứng và ngồi. GIẢI VỀ CÁCH THỌ TRÌ ÐẦU ÐÀ (Dhutangasamàdàna vidhànàdikathà).Khi đức Thế Tôn còn tại thế, phải đối với Ngài mà thọ phép đầu đà. Sau khi Ngài nhập Niết bàn rồi phải thọ với chư đại Thinh văn. Sau khi không còn chư đại Thinh văn, nên xin giữ với bậc A la hán, A na hàm, Tư đà hàm, Tu đà hườn, với bậc thông hiểu Tam tạng hoặc 2 tăng, hoặc 1 tăng. Sau nữa nên xin với bậc đã hành phép đầu đà trước. Nếu không có, nên quét dọn tháp, chùa cho sạch, hết lòng thành kính lễ bái cúng dường như thưở đức Chánh Biến Tri còn tại tiền, rồi ngồi chồm hổm chấp tay xin thọ, bằng không thì thọ nơi mình cũng được. I- CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG MẶC Y CA-SA ÐÁNG GỚM NHƯ PHẨM ÐẤT (Pamasukùlikanga).Có 2 cách thọ:
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý. Hành giả khi đã thọ trì đầu đà này rồi, phải tìm 1 trong 23 thứ vải, kể dưới đây, kiếm thứ nào còn chắc, đem vá cắt, may làm ca-sa, rồi đổi bộ y mà thí chủ đã dâng cho mình đang dùng, mặc y đáng gớm ấy. 23 thứ vải đáng gớm ấy là:
Trong 23 thứ vải đã kể trên, Tỳ-khưu đã nguyện giữ đầu đà rồi, kiếm được và may đủ, thì phải bỏ y cũ (y đã mặc lúc còn chùa hay là của thí chủ dâng cúng). Không phép dùng y của thí chủ dâng đến tay,nếu Tỳ-khưu với nhau cho thì mặc được. Tỳ-khưu giữ đầu đà này có 3 bực:
Ba bậc Tỳ-khưu này nếu thọ lãnh y nơi tay thí chủ dâng cúng, gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giũ. Cho nên chẳng phải chỉ có đầu đà này đâu, đầu đà là 12 đầu đà sẽ giải ra phía sau, nếu Tỳ-khưu đã nguyện giữ rồi mà phá hư, nhưng cố ý hành nữa, cần phải thọ mới lại. Ðầu đà này có 12 quả báu.
KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ MẶC TAM Y ÐÁNG GỚM Màrasenam vighàtàya pamsukùladharo yatisannadhakavaco yudhekhattiyo viyasobhati pahàya kàsikàdini varavatthàni dhàritam yam lokagarunà ko tam pamsukulam na dhàraye tasmà hiattano bhikkhu patinnam samanussaram yogàcàrànukùlamhi pamsukule rato siuyà Nghĩa là: "Bậc đế vương mang thiết giáp bền chắc trong nơi chiến trường thế nào, hành giả là người hành đầu đà mặc tam y đáng gớm, bền chắc trong tư cách sát nhân hại quân ma cũng như thế ấy". Ðức Thế Tôn là tổ sư của chúng sanh trong tam giới mà ngài cũng bỏ các y đáng quí giá, nhứt là y xứ Kàsi, trở lại mặc y phục quí giá, nhất là được ở xứ Kàsi, trở lại mặc y đáng nhờm gớm. Vậy Tỳ-khưu nào dám không mặc y ca-sa đáng gớm ấy được. Cho nên khi hành giả khi đã nhớ đến lời nguyện của mình nên ưa thích trong y ca-sa đáng gớm, vừa theo sự tinh tấn. II- CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ CHỈ MẶC TAM Y (Tecìvarikanga).Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tùy ý. Tỳ-khưu hành đầu đà này, khi đã thọ trì nếu được vải để làm y (ngoài tam y cũ) mà chưa làm xong hoặc còn thiếu vải, thiếu kim, chỉ, được phép cất giữ vải ấy không có tội trong sự ưa thích y thứ tư, vì nguyện nhận cất giữ vải ấy. Nhưng khi đã nhuộm rồi, không nên để dành. Nếu còn tích trữ, gọi là kẻ cướp lớn về phần đầu đà. Tỳ-khưu giữa đầu đà này có 3 bậc.
Ba bậc Tỳ-khưu này, nếu dùng đến tứ y, gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ [*].
Phép đầu đà này có 11 quả báo:
Ấy là 11 quả báo trong đầu đà chỉ mặc tam y, mà Tỳ-khưu đã được thọ trì chín chắn. KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ CHỈ MẶC TAM Y. Atirekavatthatanham pahàya sannidhivivajjito dhìro santosa sukharasannu ticìvaradharo bhavati yogì tasmà sapattacararano pakhìva sacìvarova yogivaro sukkha manuvicaritukàmo cìvaraniyam ratim kayirà. Nghĩa là: Hành giả là người có trí tuệ, biết lương vị của điều an vui phát sanh do sự tri túc, hằng dứt bỏ lòng ham muốn y dư quá số, các ngài năng lánh xa tư cách gom thu y dư để dành, chỉ dùng tam y thôi. Cho nên hành giả cao thượng (trong Phật pháp), khi muốn đi đâu được an vui, chỉ nên có 3 mang y dính theo mình, dường như loài chim bay, chỉ có cặp cánh dính theo mình mà thôi. Phải nên vui thích trong y có hạn định ấy. III- CÁCH THỌ TRÌ ÐẦU ÐÀ THƯỜNG ÐI ÐỂ KHUẤT THỰC (Pindapàtikànga)Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào cũng được. Hành giả đã nguyện thọ phép thọ đầu đà này rồi không nên ưa thích trong 14 thực phẩm dư nữa (atirekalàbha). 14 thực phẩm dư là:
Trong cả 14 thực phẩm ấy, Tỳ-khưu hành đầu đà đi khất thực không nên thọ. Nhưng nếu thí chủ thông hiểu, không thỉnh rằng: Ngài thọ trai tăng mà nói "Xin đại đức thọ thực trong nhà chúng tôi, ngài cũng vậy." Như thế, Tỳ-khưu ấy thọ được, hoặc họ rút thăm để dâng các món thuốc không phải là vật ăn buổi sáng để phát sanh đến Tăng, hoặc vật thọ thực nấu trong chùa, Tỳ-khưu ấy thọ cũng được. Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bực.
Ba bậc Tỳ-khưu này, nếu thọ lãnh 14 thứ vật thực kể trên, gọi là phá phép đẩu đà mà mình đã nguyện giữ. Ðầu đà này có 15 quả báo:
Ấy là 15 quả báo trong đầu đà để đi khất thực mà Tỳ-khưu hành được chơn chánh. KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ ÐI ÐỂ KHẤT THỰC Pindiyàlopasantuttho aparàyattajìviko pahìnàhàrololuppo hoticàtuddiso yativinodayati kosajjam àjìvassa visujjhati tasmà himàtimanneyya bhikkhàcàram sumedhaso. Nghĩa là: hành giả có sự vui thích bình đẳng trong hột cơm mà người cho từng vá, có tư cách không nuôi kẻ khác, đã dứt bỏ lòng ham muốn xấu xa trong vật thực, là người có thể đi đến bốn phương được dễ dàng, dứt trừ sự lười biếng, cách nuôi mạng của Tỳ-khưu ấy được trong sạch. Cho nên người có trí tuệ cao thượng không nên khinh rẻ sự khất thực ấy. Thật vậy, Tỳ-khưu hành đầu đà "đi để khất thực" là người chỉ nuôi một thân mạng không phải nuôi kẻ khác. Như thế chư thiên hằng yêu mến, trọng đãi và hộ trì, vì sự không mong được lễ vật và ngợi khen. IV- CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG ÐI KHẤT THỰC THEO MỖI NHÀ (Sapadànacàrikanga)Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tùy ý. Tỳ-khưu thọ phép đầu đà này, khi vào đến xóm nên đứng xem, e có điều rủi ro, nếu có sự biến cố nào, nên bỏ qua, đi đến nhà khác cũng được. Nơi nào quen chừng không được vật chi chút ít cả, nên cho rằng không phải là nhà thí rồi đi đến xóm khác. Song nếu được chút ít trong nơi nào, không nên bỏ qua và khất thực cho sớm, đặng phòng ngừa sự bỏ qua những nơi có điều rủi ro, để đi đến nơi khác không cho quá giờ, nếu có người bố thí trong chùa, hoặc gặp giữa đường, họ xin bát để vật thực đem đến dâng cũng được. Tỳ-khưu hành đầu đà này, trong lúc đi theo đường, nếu đến buổi ăn, không nên đi trớt, dầu không được vật thực hoặc được chút ít, cũng phải đi khất thực mỗi nhà. Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc:
Ba bậc này, nếu đi khất thực theo ý muốn gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ Ðầu đà này có 8 quả báo:
Ấy là 8 quả báo trong sự thọ đầu đà đi khất thực theo mỗi nhà mà Tỳ-khưu được thọ trì được chín chắn. KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ ÐI KHẤT THỰC THEO MỖI NHÀ Candùpamo niccanavo kulesu amaccharì sabbasamànukampo kulùpakàdìnavavippamutto hotìdhabhikkhu sapadànacàrì loluppacàram pajahàya tasmà okkhittacakkhu yugamattadassì àkankhamàno bhuvisericàram careyya dhìro sapadànacàram. Nghĩa là: Tỳ-khưu hành đầu đà đi khất thực theo mỗi nhà, trong Phật pháp này,là người lành ví như mặt trăng, là người thường đi xin ăn, là người không bón rít trong các nhà, có sự tiếp độ bình đẳng đủ cả nhà, là người đã thoát khỏi tội, phát sanh do sự đi vào xóm. Cho nên bậc trí tuệ, nếu muốn đi trên mặt đất theo sở thích, cũng phải dứt bỏ các đi khất thực theo ý muốn, phải có cặp mắt ngó xuống, chỉ nên liếc xem ra 1 ách (2 sải) rồi nên hành đầu đà đi khất thực theo mỗi nhà. V- CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG NGỒI ĂN TRONG MỘT CHỖ (Ekàsanikanga)Trong đầu đà này có 2 cách thọ:
Trong 2 cách ấy muốn thọ cách nào tuỳ ý. Tỳ-khưu thọ phép đầu đà này, trong nhà ăn, không nên ngồi chỗ của vị trưởng lão. Phải phân biện trước chỗ ngồi vừa thoe địa vị mình, rồi mới nên ngồi. Khi đương ăn, nếu có ông thầy dạy đạo, hoặc vị hoà thượng đi đến nên đứng dậy làm lễ, nhưng không được trở lại ăn nữa. Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc:
Ba bậc này nếu ngồi ăn nhiều chỗ gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ. Ðầu đà này có 8 quả báo:
Ấy là 8 quả báo trong đầu đà ăn trong 1 chỗ ngồi mà Tỳ-khưu thọ trì được chín chắn. KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ ĂN TRONG MỘT CHỖ NGỒI Ekàsanabhojane ratam nayatim bhojana paccayà rujà visahantirase aloluppo parihàpeti na kammamattano iti phàsuvihàra kàrane suvisallekharatupasevite janaye thavisuddha mànaso ratimekàsanabhojaneati. Nghĩa là: các thứ bịnh phát sanh phát sanh do dùng vật thực, hằng không làm hại đến hành giả vui thích trong cách thường thọ thực trong 1 chỗ ngồi. Sự chẳng lựa chọn vị ngon không làm cho tiêu hoại nghiệp tinh tấn của hành giả. Cho nên Tỳ-khưu, là người có tâm trong sạch nên làm cho sự vui thích phát sanh trong đầu đà, chỉ nên ngồi ăn trong 1 chỗ là nguyên nhân làm cho cách ở được an vui. VI- CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG ĂN TRONG MỘT BÁT (Pattapindikànga)Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
Trong 1 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý. Tỳ-khưu thọ phép đầu đà này, khi dùng cháo phải để cháo trong đồ đựng, nếu được đồ an khô (khô, mắn) nên ăn đồ khô trước cũng được, húp cháo trước cũng được, để đồ khô trong cháo, e có mùi hôi tanh, ăn rồi mửa ra, nhưng nếu ăn được cũng tốt. Về mật ong, hoặc đường thì phải chung vào ăn với cháo. Các vật ấy Tỳ-khưu phải thọ cho có tiết độ. Trong khi ăn nếu có nước chấm và củ, trái, rau, phải cầm ăn không tiện phải nên để vào bát. Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc:
Ba bậc này, nếu ăn ngoài bát thì gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ. Ðầu đà này có 6 quả báo:
Ấy là 6 quả báo trong đầu đà chỉ thường ăn trong một bát mà Tỳ-khưu thọ trì được chín chắn KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG ĂN TRONG MỘT BÁT. Nànàbhàjanavikkhepam hitvà okkhittalocano khananto viya mùlàni rasatanhàya sumànaso paribhunjeyya àhàram koanno pattapindiko. Nghĩa là: hành giả là người dứt sự thay đổi trong nhiều món ăn khác, có cặp mắt ngó xuống, có hành vi chơn chánh, để đào bứng gốc rễ của lòng tham muốn, là người có thiện tâm hành phép tri túc, như người gìn giữ thân thể mình thế nào, thì Tỳ-khưu hành đầu đà chỉ thường ăn trong một bát, lẽ nào lại thọ thực (trong đồ đựng bát khác được). VII- CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ NGĂN ATRITTABHOJANA (Khaluppacchàbhattikanga)Khi Tỳ-khưu đương ăn có thí chủ đem vật thực đến dâng trong hắc mà không lãnh gọi là "Ngăn vật thực". Đến khi đứng dậy khỏi chỗ ấy rồi mà dùng vật thực ấy hoặc vật thực khác, phải cho người làm theo luật (vinayakamma) mới ăn được. Không làm thì phạm Ưng đối trị, vật thực nhờ người làm vinayakamma được cho phép ăn nữa ấy gọi là atiritabhojana. Trong đầu đà này có 2 cách thọ:
Trong 2 cách này muốn thọ theo cách nào tuỳ ý. Tỳ-khưu thọ đầu đà này, khi đã ngăn vật thực rồi không nên nhờ người làm cho vật thực dùng được đâu. Ðầu đà này có nghĩa giống nhau với điều học (pathama pavàranà) nhưng đây cao thượng hơn. Nến biết đầu đà này có nghĩa cao thượng hơn điều học pathama pavàrana như thế nào? Trong điều học pathama pavàrana nói: Tỳ-khưu đã ngăn vật thực rồi, khi đã đứng dậy khỏi chỗ ngồi, nếu nhờ người làm vinayakamma rồi thì ăn vật thực ấy được. Trong đầu đà này không phải như thế, dầu có là người làm vinayakamma cho thành vật ăn được, cũng không nên ăn, ấy là chỗ cao thượng hơn, đối với điều học pathama pavàrana. Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc.
Ba bậc này, nếu đã ngăn vật thực rồi mà còn ăn nữa gọi là pháp đầu đà mà mình đã nguyện giữ. Ðầu đà này có 5 quả báu:
Ấy là 5 quả báo trong đầu đà này, mà Tỳ-khưu đã thọ trì chín chắn. KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ NGĂN VẬT THỰC Pariyesanàya khedam na yàti na karoti sannidhim dhiro odarikattam pajahati khahipacchabhattiko yogìtasmà sugatappasattham santosagunàdivuddhi sanjananam dose vidhu nitukàmo bhajeyya yogìdhutangamidam Nghĩa là: Hành giả là người có trí tuệ, là người thọ trì chi của Tỳ-khưu có phẩm cách không dùng vật thực mà mình đã ngăn rồi khi sau ngược lại, là người không có sự khổ cực vì cách tìm vật dụng, không chất chứa vật dụng, là người bỏ tư cách thọ thực quá no. Cho nên hành giả là người có trí tuệ, muốn dứt bỏ phiền khổ não, nên hành đầu đà này mà đức Thế Tôn hằng ngợi khen và đó là phương pháp làm cho tăng trưởng các đức tánh, nhất là đức tri túc. VIII- CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG NƯƠNG NGỤ TRONG RỪNG (Arannikanga)Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý. Tỳ-khưu hành đầu đà này, khi đã thọ trì rồi, không nên ở trong khoảng nhà trước khi mặt trời mọc. Cần phải ngụ nơi rừng trước khi mặt trời mọc. Chỗ ở nơi khoảng nhà là nói về chỗ ở trong xóm [*]. Còn gọi là rừng ấy là chỉ về chỗ ngoài xóm và ngoài chỗ gần xóm.
Chỗ nói xóm là: dầu xóm nào chỉ có 1 hoặc nhiều nhà có hàng rào hoặc vách tường, có tường xung quanh hoặc không có, có người ở hoặc buôn bán chỗ nào có bọn buôn bán đến trú ngụ nơi ấy hơn 4 tháng cũng đều gọi là xóm cả. Chỗ ở trong rừng nên đo từ ranh xóm (chỗ có nhà chòi, trạm nghỉ) cho xa được 1.000 thước. Nếu không có ranh xóm, chòi, trạm nên đo từ chỗ cục đất mà người trai có sức lực bực trung liệng rớt ấy. Nếu gần xóm nghe tiếng người mà bị khuất núi, hoặc có sông ngăn, không thể đi ngay tới được, nên đo theo đường mà họ thường đi tới lui. Nhưng không nên rào ngăn đường đi tắt gần của họ (nếu làm như thế gọi là "kẻ cướp lớn" về phần đầu đà này). Ðầu đà này có 8 quả báo:
Ấy là 8 quả báo đầu đà thường ngụ trong rừng. KẾT LUẬN ÐẦU ÐÀ THƯỜNG NGỤ TRONG RỪNG. Pavivitto asamsatto pantasenàsane rato àràdhayanto nàthassa vanavàsena mànasam eko aranne nivasam yam sukham labhate yati rasam tassana vindanti api devà sandakà. Pamsukùlanca esovakavacam viya dhàrayam arannasangà magato avasesadhutàyudho samattho nacirasseva jetum màram sahàhanam tasmà aranna vàsamhi ratim kayiràtha pandito. Nghĩa là: Hành giả có tâm yên lặng, không lẫn lộn vì phe đảng, hằng vui thích trong nơi thanh vắng, là người có thể làm cho đức Phật được vừa lòng và khen rằng: Hành giả là người nương ngụ trong rừng 1 mình, hằng được an vui cho đến nỗi tất cả chư thiên và thiên đế cũng chẳng đặng nếm hương vị của sự an vui ấy. Như thế, nếu hành giả được hành thêm đầu đà mặc y đáng gớm làm thiết giáp rồi, xông vào chiến trường tức là rừng, dùng 11 pháp Dhuta làm quân binh, thì có thể chiến thắng Ma vương cùng bọn quân ma được dễ dàng không lâu. Cho nên bậc trí tuệ cần phải vui thích trong phương pháp nương ngụ trong rừng. IX- CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG NƯƠNG NGỤ GẦN CỘI CÂY (Rukkhamùlikanga)Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý. Tỳ-khưu hành đầu đà này, khi đã thọ rồi nên tìm nương ngụ gần cội cây, cây nào ở xa chùa, nhà, trừ ra cây chỗ ranh xóm, cây mà họ hay đến cúng vái, cây có dầu, cây có trái, có bông mà họ cần dùng, có dơi chim, cò ở. Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc.
Ba bậc này, nếu ở nơi nào có che lợp đến mặt trời mọc gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ. Ðầu đà này có 6 quả báo:
Ấy là 6 quả báo trong đầu đà này mà Tỳ-khưu đã thọ trì được chín chắn. KẾT LUẬN TRONG ÐÀU ÐÀ THƯỜNG NƯƠNG NGỤ GẦN CỘI CÂY. Vannito buddhasaetthena nissayoti cabhàsito nivàso pavivittassa rukkhamùlasamo kutoàvàsamaccheraharedevatà paripàlite pavivitte vasanto hi rukkhamùlamhi subbato abhirattàni nìlàni pandùni patìani ca passanto tarupannàni nicca-sannam panùdati tasamà hi buddhadàyajjam bhàvanàbhiratàlayam vivittam nàti manneyyà rukkhamùlam vicakkhano. Nghĩa là: chỗ ở của Tỳ-khưu, là người có tâm yên lặng mà đức Phật hằng ngợi khen và giảng rằng: Chỗ ở trong rừng là nơi nương náu của bậc xuất gia, chẳngcó chi sánh bằng "Tỳ-khưu ngụ trong rừng là nơi thanh vắng, có thể dứt bỏ được sự bón rít trong thất, có chư thiên nương theo rừng hộ trì nữa. Chẳng phải có thế thôi, Tỳ-khưu là người ở gần cội cây, khi thấy lá mới trổ xanh tươi hoặc lá cây chín có màu vàng đã rụng, có thể dứt trừ phép thường tưởng [*] (nicca-sanna). Bởi cớ ấy, bậc có trí tuệ không nên khinh rẻ chỗ yên lặng gần cội cây, là chỗ của đức Chánh Biến Tri đã ngự, là nơi cư trú của các hành giả ưa thích trong phép thiền định.
X- CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG NGỤ TRONG KHOẢNG TRỐNG (Abbhokasikanga).Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ.
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý. Tỳ-khưu hành đầu đà này,nếu vào tịnh xá để nghe pháp, hoặc làm lễ Uposatha mà có mưa đến không nên cội ra đi, chờ cho mưa tạnh sẽ đi, hoặc đã vào nhà ăn, nhà khói đã làm Phật sự (giúp việc cho vị trưởng lão, cho tăng cũng nên). Nếu đi theo đường có cầm vật phụ tùng của vị trưởng lão mà mắc mưa nên vào đụt mưa trong các phước xá (nhà trạm) cắt giữa đường cũng được, dầu không có cầm vật chi của vị trưởng lão, vào nơi ấy đụt mưa cũng nên, song phải đi chậm rãi, hoặc không nên tính ở nghỉ trong phước xá ấy. Tỳ-khưu hành đầu đà có ba bậc:
Ba bậc này nếu ở trong các nơi có che lợp, hoặc dưới cội cây hoặc ở chỗ che lợp đến mặt trời mọc, gọi là phá phép đầu đà mà mình nguyện giữ. Quả báo trong abbhokàsikanga - Ðầu đà này có 5 quả báo:
Ấy là 5 quả báo trong đầu đà này mà Tỳ-khưu thọ trì được chín chắn. KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ NGỤ TRONG KHOẢNG TRỐNG. Anagàriyabhàvassa anurùpe adullabhe tàràmani vìtanamhi candadi pappabhàsite abbhotàse vasam bhikkhu migabhutena cetasà thinamiddham vinodetvà bhanamàràmatam sito pavivekarasassàdam nacirasseva vidatiyasmà tasmàhisappanno obhokàse ratosiyà. Nghĩa là: Hành giả không gìn giữ chỗ ở, ví như thú rừng hằng nương theo trạng thái vui thích trong phép thiền định, tìm kiếm chỗ ngụ trong khoảng trống, là nơi vừa cho hàng xuất gia, lấy các ngôi sao làm trần, có ẩn dạng ngọc mã não, lấy mặt trăng làm đèn để soi sáng, có thể dứt trừ sự lười biếng trong thân tâm và không bao lâu sẽ được hưởng điều vui thích trong hương vị của pháp yên lặng. Cho nên hành giả là người có trí tuệ nên ưa thích khoảng trống như thế. XI- CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG NGỤ NƠI MỘ ÐỊA (Sosànikanga).Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ.
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý. Nơi thiêu người hoặc chôn tử thi đầu đà là họ còn đương thiêu hoặc chôn thường ngày hay là đã bỏ từ 12 năm rồi, cũng gọi là mộ địa. Những nơi nào họ nói là mộ địa mà chưa từng thiêu hoặc chôn tử thi, không gọi là mộ địa được. Thật vậy, Tỳ-khưu ngụ trong mộ địa không nên bảo người làm chỗ đi kinh hành, chỗ để giường chõng, không nên chứa nước uống, tắm, rửa hoặc dạy người học kinh luật. Vì đầu đà này trọng lắm, cần phải ngừa sự rủ ro. phải trình cho vị trưởng lão trong chùa và các viên chức trong làng, tổng hay trước, rồi mới được phép vào ngụ, không nên dễ duôi. Khi đi vào, phải theo đường lộ, đến khi đi kinh hành phải iếc mắt xem chỗ thiêu hoặc chôn tử thi. Ban ngày nên phân biện cho rồi chỗ có cây, đá, gốc cây. Nếu có phi nhơn [*] kêu la trong ban đêm, không nên dùng vật chi để đánh, đập, đuổi xô đâu. Cần đi đến mộ địa mỗi ngày, nếu đi vào nơi ấy lúc nữa đêm, khuya rồi trở về cũng được. Không nên ăn mè, bột trộn, với đậu rajamàsa, cá, thịt, hoặc bánh trộn với sữa tươi, dầu và đường mía, là vật vừa miệng của hành phi nhơn. Chẳng nên đi vào đình, miếu cất trong nơi ấy.
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc:
Ba bậc này nếu lúc canh 5 (là canh chót, ít hơn hết) mà chẳng vào ở nơi mồ mã gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ. 10 quả báo trong Sosànikanga:
Ấy là 10 quả báu trong đầu đà này mà Tỳ-khưu thọ trì được chín chắn KẾT LUẬN TRONG ÐÀU ÐÀ THƯỜNG NGỤ TRONG NƠI MỘ ÐỊA Sosànikanhimaranànusa-dippabhàvà niddàga tampi phusanti pamàdadosà sampassato cakunapàni bahùni tassa kàmànurà gavasagampi nahoti cittam sam vegameti vipulam namadam upeti sammàatho ghatati nibbutimesamàno sosànikangamitineka gunàvahattà nibbànaninnahadayena nisevitabbam. Nghĩa là: Tỳ-khưu là người ngụ trong mộ địa, dầu muốn ngủ trong nơi ấy cũng trái lẽ, vì không bị các sự dễ duôi tiếp xúc do thắng lực của phép thiền định về sự chết đã đắc trong nơi ấy. Chẳng phải có thế thôi, tâm của Tỳ-khưu ấy khi đã thường thấy tử thi thì không sao bị tình dục lôi cuốn mà chỉ có nhiều Samvega (dịch là "cảm sợ") không say mê. Cho nên hành giả mong đạt đến Niết bàn là nơi dứt khổ, phải tinh tấn hành đầu đà này, nhờ tâm chơn chánh xu hướng về phép đầu đà thường ngụ trong mộ địa là pháp đem đến rất nhiều đức tánh như đã có giải. XII- CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐÀU ÐÀ THƯỜNG Ở TRONG CHỖ TĂNG ÐÃ CHO ÐẦU TIÊN KHÔNG DỜI ÐỔI (Yathàsanthatikanga)Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ.
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý. Hành giả thọ đầu đà này, nếu Tỳ-khưu thế mặt Tăng cho chỗ ở đầu tiên thế nào, thì phải vui thích chỗ ở ấy thôi, không được tìm hỏi, hoặc đi lựa chỗ ở nào khác. Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc:
Ba bậc này, nếu phát lòng ham muốn cũng chỗ ở theo mình, gọi là phá phép đầu đà mà mình đã nguyện giữ. Ðầu đà này có 6 quả báo:
Ấy là 6 quả báo trong đầu đà thường ở chỗ mà tăng già đã cho mà Tỳ-khưu thọ trì được chín chắm. KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ THƯỜNG NGỤ TRONG CHỖ TĂNG ÐÃ CHỈ CHO ÐẦU TIÊN KHÔNG DỜI ÐỔI. Yam laddham tena santuttho yathàsan thatiko yati nibbikappo sukkham seti seti tina santhara kesupi naso rajjàti setthamhi hìnam laddhà na kuppati tasmà ariyatàcannam mun ipunga vavannitam anuyrujetha medhàvì yathàsantaràmatam. Nghĩa là: hành giả có sự tri túc trong chỗ ở, được sao ở vậy, là người ngụ chỗ mà Tăng cho, không tìm ở chỗ cao sang, thì hằng ngủ được an vui, dầu là nằm trên chiếu cỏ. Người không vui thích trong chỗ quí trọng, dầu được chỗ thấp hèn cũng chẳng bất bình hờn giận, mới đáng gọi là người tiếp độ các hàng phạm hạnh mới xuất gia cho được điều lợi ích. Bởi cớ ấy, bậc trí tuệ nên có lòng vui thích trong chỗ ở mà Tăng đã cho, là cổ lệ của hàng thánh nhơn, mà đức Phật đã thường khen ngợi. XIII- CÁCH THỌ TRÌ TRONG ÐẦU ÐÀ NGĂN OAI NGHI NẰM ( Nesajjikanga)Trong đầu đà này cũng có 2 cách thọ:
Trong 2 cách ấy muốn thọ theo cách nào tuỳ ý. Tỳ-khưu đã nguyện hành đầu đà này rồi ban đêm, trong canh 3 đi kinh hành trọn một canh cũng được, nhưng không nên nằm [*].
Tỳ-khưu hành đầu đà này có 3 bậc:
Ba bậc này nếu nằm trước mặt trời mọc, gọi là phá phép đầu đà mà mình nguyện giữ. Quả báo đầu đà Nesajjikànga (đầu tiên ngăn oai nghi nằm) - Ðầu đà này có 5 quả báo:
KẾT LUẬN TRONG ÐẦU ÐÀ NGĂN OAI NGHI NẰM Àbhuyitvàna pallankam panidhaya ujumtanum nisìdànto vikampeti màrassa hàdayam yati sèyyasukham middhasukham hitvà àraddhaviriyo nisajjà bhirato bhikkhu sabhayanto tapovanam niràmisam pìtisukham yasmà samodhigacchati tasmà samanuyunjeyya dhìro nesajjikam vatam. Nghĩa là: Hành giả ngồi bán già, thân hình cho ngay thẳng, có thể làm cho tâm của Ma Vương phải rung động. Tỳ Khưu là người có tâm tinh tấn dứt bỏ cách nằm và ngủ cho vui sướng, chỉ ưa thích trong oai nghi ngồi, làm cho rừng, tức là tapadhamma [1] được soi sáng rõ ràng, hằng được phỉ dạ [2] vừa lòng không có amisa [3].
Bởi cớ ấy bậc có trí tuệ nên giữ gìn phép đầu đà Nesajjika này cho được chín chắn. GIẢI VỀ SỰ ÐOÁN XÉT CHUNG TRONG 13 ÐẦU ÐÀ (Sanàsavinicchayakathà)Mười ba đầu đà này nói tóm lại chỉ có tám phần: 3 phần chánh và 5 phần không chung lộn; tóm lại nữa còn 4 phần:
tóm lại nữa có 2 phần :
Nhưng đầu đà nào mà hành giả không thọ hoặc đã thọ mà thiền định vẫn được tiến hóa không tiêu hoại, cũng gọi là thọ, là phải thọ để làm khuôn mẫu cho kẻ hậu lai; hoặc đầu đà nào mà hành giả thọ hay không thọ mà thiền định vẫn không phát sanh cũng gọi là thọ, là phải thọ như thường để làm gương đến người hậu tấn. Tóm lại nữa, chỉ còn một, là nơi nói về tác ý thọ trì cả 13 đầu đà ấy. Hỏi: - Chia đầu đà ra làm 3 phần chánh và 5 phần không chung lộn ấy như thế nào ? Đáp: - 1. Sapadànacàrikanga, 2. Ekàsanikanga, 3. Abbokàsikanga, cả ba đầu đà ấy gọi là đầu đà chánh. Nghĩa là: Khi đã thọ sapadànacàrikanga rồi thọ luôn pindapàtikanga cũng được, nếu đã thọ ekàsanikanga rồi thọ luôn pattapindikanga và khalupacchàbhattikanga cũng được, nếu đã thọ khalupacchàbhattikanga cũng được, nếu đã thọ abbokàsikanga rồi không lẽ không thọ rukkhamùlikanga, yâthàsanthatikanga nữa thế nào được. Àrannikanga, pamsukùkikanga, tecìvarikanga, nesajjikanga, sosànikanga, cả 5 đầu đà ấy gọi là 5 đầu đà không chung lộn nhau, vì không mường tượng với đầu đà khác. Hỏi: - Chỗ nói tóm lại, còn 4 phần ấy như thế nào ? Đáp: - Pamsukùlikanga, tecìvarikanga - cả hai đầu đà này gọi là nương theo ca-sa vì dính dấp cùng nhau trong cách dùng ca-sa. Pindapàtikanga, sapadànacàrikanga, ekàsanikanga, pattapindikanga, khalupacchàbhattikanga, cả 5 đầu đà này gọi là nương theo thọ thực vì dính dấp cùng trong cách thọ thực. Àrannikanga rukhamùlikanga, abbhokàsikanga, sosànikanga, yathàsanthatikanga, cả 5 đầu đà này gọi là nương theo chỗ ở vì có sự dính dấp cùng nhau trong chỗ ở. Nesajjikanga gọi là nương theo tinh tấn vì dính dấp cùng nhau trong sự tinh tấn. Hỏi: - Chỗ nói tóm lại, còn 2 phần ấy như thế nào ? Đáp: - 12 đầu đà trên gọi là nương theo vật dụng. một đầu đà Nesajjikanga sau cuối cùng gọi là nương theo tinh tấn. GIẢI VỀ PHÂN PHÁT ÐẦU ÐÀ (Byàssavinicchayakathà)- Tỳ Khưu nên thọ trì cả 13 đầu đà. - Tỳ Khưu ni chỉ nên thọ trì 8 đầu đà ( vì khó giữ). - Sa-di không có luật buộc phải adhitthàna tam y, rút tecìvatikanga ra chỉ còn 12 đầu đà. - Sikkhamànà và Sa-di ni không bị buộc phải adhitthàna tam y như sadi và phận sự phụ nữ như Tỳ Khưu ni nên bỏ àrannikanga, khalupacchàbhattikanga, abbhokàsikanga, rukkhamùlikanga sosànikanga, tecìvarikanga ra còn lại 7 đầu đà. Cận sự nam và cận sự nữ [*] nên thọ trì 2 đầu đà là ekàsanikanga và pattapindikanga. [*] cận sự nam và cận sự nữ là người nam hoặc người nữ đem cả thân tâm lo cho Tam bảo hết lòng hành theo giáo pháp của đức Phật. -ooOoo- |
Chân thành cám ơn anh NCT đã giúp đánh máy vi tính (Bình Anson, tháng 08-2001)
[Trở
về trang Thư Mục]
updated: 04-08-2001