MỤC LỤC
[01] NHẬP ĐỀ
Kinh văn
Ðại ý
Phân đoạn
Giải nghĩa
Xuất xứ
[02] KHAI
TRIỂN
I.- Quan niệm thông thường về cái
Ta.
1.- Bốn tướng ngã, nhơn,
chúng sanh và thọ giả trong Kinh Kim Cang.
2.- Ngã tướng ẩn sâu trong tâm.
3.- Ngã tướng biểu hiện ra thế nào?
4.- Ngã tướng sanh ra ba tướng kia.
5.- Tà kiến: ngã kiến, thân kiến.
A.- Quan niệm thông thường
về "con người"
B.- Trên thực tế, "cá nhơn" chẳng thực sự có
C.- Thân kiến, Ngã kiến là tà kiến.
II.- Phương pháp chứng minh của Ðức
Phật về sự chẳng có cái Tự ngã.
1.- Sắc là vô ngã
2.- Thọ là vô ngã
3.- Tưởng, Hành, Thức cũng đều vô ngã
III.- Quán chiếu năm uẩn là vô
thường, khổ, và chịu sự biến đổi.
1.- Thế nào là Như thật quán?
2.- Quán Sắc là vô thường, khổ, biền đổi
3.- Quán bốn uẩn kia là vô thường, khổ, chịu sự biến đổi.
4.- Quán năm uẩn theo 11 phương diện.
5.- Tích chuyện công chúa Gia nhã ba.
IV.- Hiệu lực của bản Kinh và cách
Hành trì.
1.- Hiệu lực của Kinh Vô Ngã
Tướng.
2.- Hiệu lực: Tâm giải thoát.
3.- Bổ túc Kinh Chuyển Pháp Luân.
4.- Hành trì.
5.- Con đường ngắn: điều phục các căn
6.- Làm thế nào để chẳng chấp thủ?
[03] KẾT
LUẬN |
* * *
Kinh Vô Ngã
Tướng
(Anattalakkhana Sutta)
[01]
NHẬP ĐỀ
K inh
Vô Ngã Tướng là bản Kinh thứ hai do Phật thuyết giảng, sau Kinh Chuyển
Pháp Luân.
Sau ngày Thành Ðạo dưới cội cây Bồ đề, tại
Bồ đề đạo tràng, Ðức Phật Thích ca đi về miền Nam, đến xứ Ba la nại, tìm
năm anh em ông Kiều Trần Như, để thuyết giảng Chánh Pháp cho họ nghe.
Tại vườn Lộc Uyển, Ngài giảng Kinh Chuyển
Pháp Luân cho năm vị tu sĩ trước đây đã từng sống chung với Thái tử Tất
đạt ta khi còn theo pháp tu Khổ hạnh. Trong bản Kinh Chuyển Pháp Luân, Ðức
Phật đã chỉ rỏ con đường Trung Ðạo, trình bày cặn kẽ bốn Chơn lý Nhiệm mầu
(Tứ Diệu Ðế) và con đường đưa tới Thánh quả, thoát khỏi cảnh Luân
hồi và chứng đắc Niết Bàn, tức là Bát Chánh Ðạo. Sau thời pháp, ông Kiều
Trần Như (Kondanna) chứng được quả vị Tu đà huờn.
Bốn vị tu sĩ kia là các ông Bà-sa-ba
(Vappa), Bạt-đề (Bhaddiya), Ma-ha-nam (Mahanama) và
Át-bệ (Assaji) vẫn chưa chứng quả. Ðức Phật liền lưu lại đây và
giảng tiếp Kinh Vô Ngã Tướng, nhằm mục đích giúp cho bốn vị tu sĩ còn lại
được bước vào giòng nước Thánh. Như thế, Kinh Vô Ngã Tướng chính là bản
kinh thứ nhì trong Tam Tạng Kinh Ðiển vậy.
* * *
Kinh văn
1) Một thời Thế tôn ở Bàrànasi (Ba la nại)
tại Isipatana (Chư Tiên đoạ xứ), vườn Lộc Uyển.
2) Ở đây, Thế tôn nói với đoàn năm vị Tỳ
kheo: "Nầy các Tỳ kheo". - Thưa vâng, bạch Thế tôn." Các Tỳ kheo ấy vâng
đáp Thế tôn. Thế tôn nói như sau:
3) - Sắc, nầy các Tỳ kheo, là vô ngã. Nầy
các Tỳ kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn, và có
thể được các sắc như sau: "Mong rằng sắc của tôi là như thế nầy! Mong rằng
sắc của tôi chẳng phải như thế nầy!"
4) Và nầy các Tỳ kheo, vì sắc là vô ngã,
do vậy, sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: "Mong rằng sắc
của tôi như thế nầy! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế nầy!"
5) Thọ, nầy các Tỳ kheo, là vô ngã. Nầy
các Tỳ kheo, nếu thọ là ngã, thời thọ không thể đi đến bệnh hoạn, và có
thể được thọ như sau: "Mong rằng thọ của tôi như thế nầy! Mong rằng thọ
của tôi chẳng phải như thế nầy!"
6) Và nầy các Tỳ kheo, vì thọ là vô ngã,
do vậy, thọ đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các thọ: "Mong rằng thọ
của tôi như thế nầy! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế nầy!"
7) Tưởng là vô ngã...
8) Các hành là vô ngã, nầy các Tỳ kheo,
nếu các hành là ngã, thời các hành không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể
được các hành như sau: "Mong rằng các hành của tôi như thế nầy! Mong rằng
các hành của tôi chẳng phải như thế nầy!"
9) Và nầy các Tỳ kheo, vì các hành là vô
ngã, do vậy, các hành đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các hành như
sau: "Mong rằng các hành của tôi như thế nầy! Mong rằng các hành của tôi
không phải như thế nầy!"
10) Thức là vô ngã, nầy các Tỳ kheo, nếu
thức là ngã, thời thức không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể có được thức
như sau: "Mong rằng thức của tôi như thế nầy! Mong rằng thức của tôi chẳng
phải như thế nầy!"
11) Và nầy các Tỳ kheo, vì thức là vô ngã,
do vậy, thức đi đến bệnh hoạn, và không có thể có được thức: "Mong rằng
thức của tôi như thế nầy! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế nầy!"
12) Nầy các Tỳ kheo, các ông nghĩ thế nào?
Sắc là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
- Là khổ, bạch Thế tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến
hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái nầy là của tôi, cái nầy là
tôi, cái nầy là tự ngã của tôi?"
- Thưa không, bạch Thế tôn.
13 - 15) - Thọ... Tưởng... Các hành...
16) Thức là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
- Là khổ, bạch Thế tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến
hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cắi nầy là của tôi, cái nầy là
tôi, cái nầy là tự ngã của tôi?"
- Thưa không, bạch Thế tôn.
17) - Do vậy, nầy các Tỳ kheo, phàm sắc gì
quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay
thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí huệ như
sau: "Cái nầy không phải của tôi, cái nầy không phải là tôi, cái nầy không
phải là tự ngã của tôi."
18) Phàm thọ gì...
19) Phàm tưởng gì...
20) Phàm các hành gì...
21) Phàm thức gì quá khứ, vị lai, hiện
tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả
thức cần phải như thật quán với chánh trí huệ như sau: "Cái nầy không phải
của tôi, cái nầy không phải là tôi, cái nầy không phải là tự ngã của tôi."
22) Thấy vậy, nầy các Tỳ kheo, bực Ða văn
Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng,
yếm ly đối với các hành, yếm ly đối với thức. Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do
ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: "Ta đã được
giải thoát." Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc
nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái nầy nữa."
23) Thế tôn thuyết như vậy. Nhóm năm vị Tỳ
kheo hoan hỷ, tín thọ lời Thế tôn dạy. Trong khi lời dạy nầy được nói lên,
tâm của nhóm năm vị Tỳ kheo được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có
chấp thủ.
(Ðại Tạng Việt Nam: Tương Ưng Bộ
Kinh,Quyển 3, Phẩm Tham Luyến, VII, trang 125 129 - Tạng Pali: Samyutta
Nikaya, S,iii, 66)
* * *
Ðại ý
Nhằm mục tiêu phá sự
chấp ngã
cứ tin tưởng sai lầm thân tâm nầy chính là Ta, Ðức Phật giảng Kinh Vô Ngã
Tướng cho năm vị Tỳ kheo nghe, chỉ rõ cách quán sát như thật rằng thân tâm
năm uẩn vốn chẳng phải là Ta, chẳng phải là của Ta, chẳng phải là Tự ngã
của Ta.
Xin nhắc lại, trong Kinh Chuyển Pháp Luân,
Ðức Phật dạy:
- Nơi Khổ đế:
...Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.
- Nơi Tập đế (nguyên nhơn gây ra đau khổ):
...chính là ái nầy đưa đến tái
sanh, câu hữu với hỷ và tham, tìm cầu hỷ lạc chỗ nầy chỗ kia. Tức là dục
ái, hữu ái, phi hữu ái.
- Nơi Diệt đế: ...
chính là sự ly tham, đoạn diệt, không có dư tàn khát ái ấy, sự quẳng bỏ,
từ bỏ, giải thoát, không có chấp trước.
Trong Kinh Vô Ngã Tướng nầy, tiếp theo
Kinh Chuyển Pháp Luân, Ðức Phật vạch rõ thêm:
- Nơi
thân tâm năm uẩn
nầy, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, vì
đưa đến Khổ, Bịnh hoạn, nên chẳng
phải là Ta.
-
Ðối với mỗi uẩn, Ta chẳng thể điều khiển chúng, khiến cho chúng
theo ý muốn của Ta, nên năm thủ uẩn
chẳng phải là Ta.
-
Năm uẩn là vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, cho nên chúng
chẳng phải là Ta.
Kinh Vô Ngã Tướng dạy: Khi đã quán sát
đúng như thật rằng thân tâm
năm uẩn chẳng phải là Ta, hành giả
sanh ra nhàm chán (=yếm ly) đối với năm uẩn và do đó rời được sự
tham ái mà giải thoát khỏi các lậu hoặc.
Tóm lại, Kinh Vô Ngã Tướng bổ túc cho Kinh
Chuyển Pháp Luân, vạch rõ đường lối phá bỏ sự cố chấp bám vào thân tâm năm
uẩn nầy, lấy đó là cái Ta, cái Tự ngã, vốn chẳng có thật và
là một tà kiến cần phải quét sạch khỏi tâm thanh tịnh.
* * *
Phân đoạn
Kinh văn ghi trong Ðại Tạng được chia ra
làm 23 tiểu đoạn, mỗi tiểu đoạn có đánh số thứ tự. Nay xin sắp xếp các
tiểu đoạn lại thành các mục chánh, như sau:
I.- Trường hợp nào Ðức Phật nói Kinh Vô
Ngã Tướng: các tiểu đoạn 1) và 2)
II.- Năm uẩn là
vô ngã:
a.- Sắc là vô ngã: các tiểu đoạn
3) và 4)
b.- Thọ là vô ngã: các tiểu đoạn 5) và 6)
c.- Tưởng là vô ngã: tiểu đoạn 7)
d.- Các hành là vô ngã: các tiểu đoạn 8) và 9)
e.- Thức là vô ngã: các tiểu đoạn 10) và 11)
III.- Năm uẩn là
vô thường, khổ, chịu sự biến hoại:
a.- Quán Sắc là vô thường,...:
tiểu đoạn 12)
b.- Quán Thọ, Tưởng, các Hành là vô thường: các tiểu đoạn từ 13)
đến 15)
c.- Quán Thức là vô thường : tiểu đoạn 16)
IV.- Quán niệm như thật mười một phương
diện của năm thủ uẩn:
a.- Sắc: tiểu đoạn 17)
b.- Thọ, Tưởng, Các Hành: các tiểu đoạn 18), 19), 20)
c.- Thức : tiểu đoạn 21)
V.- Lý Vô Ngã đưa đến sự nhàm chán năm
uẩn, dẫn đến sự ly tham và tiến tới giải thoát: tiểu đoạn 22)
VI.- Hiệu quả của bản Kinh: năm vị Tỳ kheo
được giải thoát khỏi các lậu hoặc: tiểu đoạn 23).
* * *
Giải Nghĩa
Chiếu theo Kinh văn, xin lần lượt tìm hiểu
Nghĩa các danh từ chuyên môn về Phật học.
Kinh Vô Ngã Tướng:
Kinh =
bản văn ghi chép lại lời Ðức Phật hay các vị
Bồ tát thuyết giảng về giáo lý cùng các đường lối tu tập.
Tam tạng Kinh điển =
ba giỏ Kinh, gồm có: (1) Luật tạng,
ghi chép các điều giới luật do Ðức Phật đặt ra mà người tu hành phải tuân
theo; (2) Kinh tạng, gồm có các bộ nhiều bản Kinh,
Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ
Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh và Tiểu
Bộ Kinh: (3) Luận Tạng, gồm có
Vi diệu pháp (A tỳ đạt ma)
và các bản luận giải thích rõ thêm các điều
chỉ dạy trong Kinh tạng.
Vô Ngã Tướng: Vô =chẳng
có; Ngã = Ta; Tướng = hình tướng. Vô Ngã Tướng =
chẳng có cái Ta, chẳng phải là Ta, chẳng phải là Tự Ngã của Ta. Nói cách
giản dị cho dễ hiểu, Kinh nầy chứng tỏ rằng thân tâm con người
chẳng phải là Ta; nơi thân tâm nầy chẳng có cái chi tinh túy,
thường còn, bền chặt để gọi đó là cái Ta; trong thân tâm năm uẩn, chẳng có
một uẩn nào đứng làm chủ tể để gọi đó là Ta cả.
Một thời, Thế tôn ở Bàrànasi...:
Thông thường, mỗi bản Kinh đều mở đầu
bằng câu: Tôi nghe như vầy (Như thị
ngã văn), đó là lời Ngài A nan,
thị giả của Ðức Phật Thích ca, đã nghe Kinh và nhắc lại. Vì bản Kinh nầy
được nói vào lúc Ðức Phật vừa mới thành đạo, ngài A nan còn chưa đi tu,
nên chẳng thấy ghi câu nói trên. Một thời, ở đây, căn cứ theo lịch
sử Phật giáo, đó là vào khoảng đôi ba ngày sau khi Ðức Phật thuyết giảng
Kinh Chuyển Pháp Luân vào đêm trăng tròn tháng Bảy, dương lịch.
Thế tôn: Thế =
thế gian; tôn = tôn kính. Thế tôn
là bực được cả thế gian, Trời và Người, đều tôn trọng. Ðây là một
trong mười danh hiệu của Ðức Phật. Lúc Ngài còn tại thế, các đệ tử của
Ngài gọi Ngài là Thế tôn, còn Ðức Phật, Ngài tự xưng là
Như Lai.
Bàrànasi (Ba la nại):
tên cũ của thành phố Varanasi, thuộc tiểu
bang Utta Pradesh, Ấn độ, nằm bên bờ sông Hằng. Nơi đây có nhiều thánh
tích Phật giáo.
Isipatana:
vườn Chư Tiên đoạ xứ; tục truyền nơi đây xưa
kia có nhiều vị Tiên bị đoạ đã tu hành đắc đạo.
Vườn Lộc Uyển:
vườn nai; Lộc = con nai; Uyển =
vườn hoa
Năm vị Tỳ kheo: Tỳ kheo =
tu sĩ Phật giáo, âm chữ Pali là Bhikkhu,
người xuất gia di tu, thọ 250 giới cấm. Năm vị Tỳ kheo nầy trước kia
đã tu theo phép khổ hạnh cùng với Sa môn Cồ đàm (tên của Ðức Phật Thích ca
khi chưa thành đạo). Ðó là các Ngài: Kiều trần như, Bà sa ba, Bạt đề, Ma
ha nam và Át bệ.
Tiểu đoạn 1) và 2):
Hai tiểu đoạn mở đầu bài Kinh cho biết trong
trường hợp nào Ðức Phật đã thuyết giảng Kinh nầy. Theo giáo lý Ðại Thừa,
tiểu đoạn 1) được gọi là thông tự có ghi
lục chủng chứng tín: tín, văn, thời, chủ, xứ,
chúng; ở Kinh nầy chỉ có 4 chứng
tín: thời (Một thời), chủ (Thế tôn), xứ (Ba la nại, vườn
Lộc uyển), chúng (năm vị Tỳ
kheo); còn thiếu 2 chứng tín:
tín và văn (Tôi nghe như vầy).
Tiểu đoạn 2) được gọi là
biệt tự.
[Thông tự là tựa chung cho mọi bản
kinh. Biệt tự là tựa riêng cho một bản kinh. Lục chủng chứng tín
là sáu loại bằng cớ chứng minh bản Kinh thật sự đã được Phật giảng,
vào lúc nào, tại đâu, có ai tham dự nghe.]
Sắc =
hình sắc, tức là hình thể và màu sắc. Nghĩa
rộng của sắc là phần vật chất. Ở đây chữ Sắc lại có nghĩa là
sắc thân, tức là tâm thân vật chất có đầy đủ các giác quan và bộ
phận.
Vô ngã =
chẳng phải là
Ta.
"Mong rằng sắc của tôi là như thế nầy,...
chẳng phải như thế nầy": Câu nầy
hàm ý rằng: tôi muốn sắc của tôi
chiều theo ý muốn của tôi mà trở nên như thế nầy,( phải tốt đẹp hơn); hoặc
sắc của tôi phải theo lịnh của tôi mà chẳng trở nên như thế nầy, (đừng quá
xấu xí như vầy). Nói cách khác,
Sắc là vô ngã, chẳng phải là Ta, vì Sắc đâu có chịu làm
theo ý muốn của Ta, đâu chịu cho Ta sai khiến nó, đâu tuân
theo lịnh của Ta.
Thọ =
cảm thọ, cảm giác, tức là sự hay biết nơi
thân tâm có các cảm giác như nóng, lạnh, đau nhức, tê, sung sướng, khổ sở,
hay đê mê, v.v... Phật học phân biệt ba loại cảm thọ: (1) khổ
thọ (= cảm giác khó chịu), (2) lạc thọ (=cảm giác thoải mái,
sung sướng) và (3) thọ vô ký (= cảm giác trung hoà, chẳng vui mà
cũng chẳng khổ).
Tưởng =
tư tưởng, tri giác, tức là những ý tưởng khởi
lên trong tâm, nhơn có sự tiếp xúc giữa năm giác quan với cảnh vật bên
ngoài, và giữa ý với ý căn bên trong tâm. Tưởng còn gọi là niệm:
chánh niệm là ý niệm chơn chánh; còn vọng tưởng là ý niệm sai
lầm.
Hành =
hành động, tức là những việc làm xãy ra ở bên
ngoài, bằng lời nói hoặc bằng động tác, và ở bên trong, bằng ý nghĩ. Ý
nghĩ khởi sanh trong tâm, khiến cho tâm trở nên động, đó là tâm hành.
Những hình thức chuyển động của tâm còn được gọi là tâm sở; có
tất cả 52 tâm sở, vì thế nên trong Kinh nầy gọi là các hành
(tiểu đoạn 8) ).
Thức =
sự hay biết xãy ra trong tâm. Do sự tiếp xúc
giữa con mắt (nhãn căn)
với cảnh vật bên ngoài, xãy ra nhãn
thức, nếu có sự chú tâm nhìn đến. Có 6 thức: nhãn thức, nhĩ thức,
tị thức, thiệt thức, thân thức, và ý thức. Giáo lý Ðại thừa có
thêm mạt na thức (còn gọi là truyền tống thức, thức thứ bảy
nầy khiến ta chấp ngã ); và a lại da thức (còn gọi là
tàng thức, nơi lưu trữ các chủng tử thiện và ác đã gây ra trong
quá khứ).
Các tiểu đoạn từ 3) đến 11) xét đến
năm thủ uẩn: sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn,
hành uẩn và thức uẩn.
Thủ uẩn =
còn gọi là ấm. Thủ = bám chặt vào;
uẩn = tập hợp lại thành nhóm, có tánh cách che mờ.
Vì con người cứ bám vào năm thủ uẩn, cho
đó là Ta, nên Ðức Phật trong các tiểu đoạn vừa qua chứng minh cho
ta thấy, chẳng có uẩn nào là của Ta, là Ta, là tự ngã
của Ta cả.
Tự ngã: Tự =
chính mình; Ngã = Ta. Chữ tự ngã
ám chỉ phần tinh túy, cốt lõi ở tận bên trong còn lại sau khi đã bỏ
các phần phụ thuộc đi, mới gọi đấy là cái Ta thật sự.
Trong câu "... chẳng phải là CỦA TA,
chẳng phải là TA, chẳng phải là TỰ NGÃ của TA" , nên nhận rõ sự tiệm
tiến (gia tăng dần dần thêm lên) trong ý niệm: từ của Ta (= Ngã sở),
là vật, hay việc ở bên ngoài Ta, đến ngay trên chính thân Ta
(= Ngã), cho chí đến phần tinh túy, cốt lõi bên trong Ta (= Tự Ngã
của Ta). Nói cách khác, (1) là của Ta, thì còn bên ngoài Ta,
(2) là Ta, thì đang ở trên thân Ta, (3) là Tự ngã của Ta,
thì đã đến phần cốt lõi là Ta rồi; nếu bỏ cái Tự ngã của Ta
đi, thì chẳng còn gì hết ráo để có thể gọi được đó là Ta
nữa.
Vô thường: Vô =
chẳng có; Thường = thường còn, có đó
hoài hoài. Vô thường là bị biến đổi, chẳng hằng còn; nay có đó, mai
lại mất đi.
Khổ =
đau khổ, chẳng được thoải mái, bất toại
nguyện hay là chẳng được vừa ý vì gây ra khó chịu.
Lạc =
vui.
Biến hoại: Biến =
thay đổi, chẳng giữ nguyên hình thể và bản
chất; Hoại = hư hoại, bị tiêu diệt mất. Biến hoại là sự thay
đổi đi đến sự tàn tạ và sự huỷ diệt.
Quán =
quan sát kỹ lưỡng và tường tận, dùng trí huệ
soi chiếu để tiến gần đến chơn lý.
Các tiểu đoạn từ 12) đến 16) chứng
minh rằng năm uẩn là vô thường,
khổ, chịu sự biến hoại, cho nên
phải quán chúng (năm uẩn) chẳng phải là của Ta, là Ta,
là Tự ngã của Ta.
Quá khứ =
thời gian đã qua. Quá = đã qua; Khứ
= đi.
Vị lai
= thời gian sắp đến. Vị = chưa; Lai
= đến.
Hiện tại =
thời gian ngay trong lúc đang nói. Hiện =
trước mặt đây; Tại = ở nơi nầy đây.
Nội =
bên trong; Ngoại = bên ngoài.
Thô =
thô sơ, vụng về; Tế = tế nhị, khéo
léo.
Liệt =
hạ liệt, dở, xấu, thua kém;Thắng = ưu
thắng, tốt, hơn.
Như thật quán:
quán đúng theo sự thật là như thế. Như
thật quán tức là vừa quán sát vừa suy gẫm theo đúng như sự thật.
Chánh trí huệ =
trí thông minh chơn chánh, tức là trí hiểu
biết đúng đắn, sáng suốt, theo sát với chánh đạo và chơn lý.
Các tiểu đoạn từ 17) đến 21) xét về mười
một phương diện của mỗi uẩn, quán sát chúng thật kỹ lưỡng đúng như sự thật
và đi đến kết luận năm uẩn chẳng
phải là của Ta, là Ta, là Tự ngã của Ta.
Ða văn Thánh đệ tử:
người đệ tử (= học trò) của bực Thánh, biết
nghe nhiều. Ða = nhiều; Văn
= nghe; Thánh = bực tu hành
đã giải thoát khỏi vòng sanh tử; Ðệ = em; Tử = con.
Yếm ly: Yếm =
chán ghét; Ly = lià xa. Khi nói "người
đó có vẻ yếm thế quá!", ta muốn nói, đó là người chán đời, hay bi
quan. Ở đây, yếm ly chỉ đến tâm trạng của người tu hành thấy thân
tâm nầy gây đau khổ, bịnh hoạn cho ta, nên trong tâm khởi lên sự nhàm
chán đối với thân tâm, chẳng còn tìm cầu các thú vui vật chất cho thân
tâm nữa.
Ly tham: Ly =
lià xa; Tham = ham muốn quá lắm. Người
ly tham là người dứt bỏ được các dục vọng (= các ham muốn), dẹp
được sự bám níu vào các thú vui vật chất cho thân tâm. Tham là một
món độc, trong tam độc: tham, sân,
si. (= ba mối độc lớn là tham,
giận và si mê.)
Giải thoát: Giải =
cởi mở khỏi chỗ bị ràng buôc; Thoát =
vượt khỏi chỗ khổ sở. Giải thoát, ở đây, chỉ sự vượt khỏi các cuộc
sanh tử khổ đau của cảnh tái sanh Luân hồi. (Luân hồi: Luân =
bánh xe; Hồi = trở lại; Luân hồi là cảnh sanh ra, lớn
lên rồi chết, để lại sanh ra, rồi chết nữa, cứ quay vòng vòng mãi chẳng
ngừng.)
Sanh đã tận:
chấm dứt sự tái sanh (= sanh trở lại.) (Tận
= dứt, hết.)
Phạm hạnh:
Hạnh tu thanh tịnh giữ tròn không dâm dục.
Phạm, tiếng Pali là Brahma, là cõi Trời Sắc giới, chúng sanh
trên đó chẳng còn lòng dục, sắc thân đẹp đẽ và thọ mạng rất lâu dài.
(Chúng ta đang sống trong cõi Dục giới, thấp hơn).
Những việc nên làm đã làm:
đây tức là việc giải thoát khỏi mọi lậu hoặc
(=sự thiếu sót, sai lầm hay phiền não) và sự chấm dứt cuộc tái sanh trong
cõi Luân hồi.
Không còn trở lui trạng thái nầy nữa:
tức là chẳng còn trong tình trạng
phải tái sanh trong vòng Luân Hồi. Có thể hiểu trạng thái nầy là trạng
thái bất thoái chuyển, nghĩa là chẳng hề lùi sụt trở lại nữa.
Tiểu đoạn 22) nêu rõ hiệu lực của Lý Vô
Ngã: hành giả đã thông đạt Lý Vô ngã, thì trở nên yếm ly đối
với thân tâm năm uẩn, lià xa tham ái và trở nên giải thoát.
Thuyết =
nói.
Hoan hỷ =
vui mừng.
Tín thọ: Tín =
tin tưởng; Thọ = nghe nhận lời dạy.
Lậu hoặc:
Lậu = rỉ chảy; Hoặc = điều sai lầm, thiếu sót. Lậu hoặc
tức là các phiền não bên trong tâm, rỉ chảy ra ngoài bằng thái độ hay
hành động. Ba lậu hoặc chánh là
tham, sân, si.
Chấp thủ: Chấp =
nắm giữ; Thủ = nắm trong tay. Chấp
thủ là bám níu khư khư, cố giữ lấy thật chặt chịa, chẳng hề chịu tháo
gỡ hay cởi mở ra.
Tiểu đoạn 23) kết thúc bản Kinh Vô Ngã
Tướng, nói lên hiệu lực của Kinh là khiến cho tâm của năm vị Tỳ kheo được
giải thoát khỏi mọi lậu hoặc và từ bỏ sự chấp thủ.
* * *
Xuất xứ
Bản Kinh trên đây được trích từ Ðại
Tạng Việt Nam, thuộc Tương Ưng Bộ Kinh, Quyển 3, Phẩm thứ Bảy:
Tham luyến, các trang từ 125 đến 129.
Bản Kinh nầy do Hoà Thượng Thích Minh
Châu, Viện trưởng Viện Ðại Học Vạn Hạnh Sàigòn dịch. Kinh đã được kết tập
trong Tạng Pali, bộ Samyutta Nikaya, quyển III, bản kinh số
66.
* * *
Ðầu trang | Phần 1 |
Phần 2 | Phần 3 |