BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Toát yếu Kinh Trung Bộ Ni sư Thích Nữ Trí Hải tóm tắt & chú giải |
[05] TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 41-42 Sàleyyaka - Veranjaka I. TOÁT YẾU The brahmins of Sàla and of Veranja. In these two nearly identical suttas, the Buddha explains to the groups of brahmin householders the courses of conduct leading to rebirth in lower realms and the courses leading to higher rebirth and deliverance. Các bà la môn ở Sàla và ở Veranja. Trong hai kinh gần giống nhau này, Phật giảng cho các nhóm gia chủ Bà la môn về các nghiệp đạo đưa đến tái sinh ở các cõi thấp, và các nghiệp đạo đưa đến tái sinh cao cấp và đưa đến giải thoát. II. TÓM TẮT Phật giảng tại thôn Sàla cho dân chúng nước Kosala, và tại Xá vệ cho dân Veranja đến viếng, về mười ác nghiệp và 10 thiện nghiệp, khi được hỏi do nhân gì sau khi chết có hữu tình sinh vào đọa xứ, có hữu tình vào cõi lành. Sinh vào đọa xứ là do ba ác nghiệp về thân: sát sinh, trộm cắp, tà dâm; bốn ác nghiệp về khẩu: nói láo, nói hai lưỡi, nói thô ác, nói lời vô ích; và ba ác nghiệp về ý: tham, sân, tà kiến. Ai từ bỏ mười ác nghiệp này, hành đúng chính đạo, thì tùy ý muốn, có thể sinh vào các dòng họ cao quý trong loài người, hoặc sinh vào các cõi trời dục giới hay sắc giới, vô sắc giới. III. CHÚ GIẢI Có tà kiến "Không có bố thí" nghĩa là tà kiến phủ nhận quả báo của bố thí. "Không đời này, đời sau" phủ nhận tái sinh. "Không mẹ, không cha" phủ nhận quả báo của sự bất hiếu hay có hiếu với cha mẹ. "Không có sa môn..." phủ nhận hiện hữu của Phật và các bậc A la hán. Đây toàn là những loại chấp "không tưởng" của chủ nghĩa duy vật. "Hành đúng pháp, đúng chính đạo" được nói trong Kinh, là điều kiện cần để tái sinh vào các cõi trời và diệt tận lậu hoặc, nhưng chưa phải là đủ. Ví dụ, muốn tái sinh vào cõi Phạm thiện trở lên, cần phải đắc các thiền chứng. Muốn tái sinh vào các cõi Tịnh cư [ngũ tịnh cư thiên] thì phải đắc quả Bất hoàn. Muốn tái sinh vào các cõi vô sắc, phải đắc các thiền chứng vô sắc tương ứng, như Không vô biên, Thức vô biên, vv. Muốn đạt đến Diệt tận lậu hoặc, cần phải thực hành trọn vẹn thánh đạo tám ngành cho đến A la hán đạo. IV. PHÁP SỐ Ba thân hành, ba ý hành, bốn khẩu hành, mười ác nghiệp, mười thiện nghiệp, 28 cõi trời. V. KỆ TỤNG Phật đến làng Sa la -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 43 Đại kinh Phương quảng I. TOÁT YẾU Mahàvedalla Sutta - The greater series of questions and answers. These two discourses take form of discussions on various subtle points of Dhamma, the former between the venerable Mahà Kotthila and the venerable Sàriputta, the latter between the bhikkhunì Dhammadinnà and the lay follower Visàkha. Tập hợp lớn các vấn đáp. Hai kinh này mang hình thức đàm luận những điểm tế nhị về Pháp. Kinh trước là giữa hai tôn giả Câu thi la và Xá lợi phất, kinh sau giữa tỳ kheo ni Dhammadinnà và cư sĩ Visàkha. II. TÓM TẮT Tôn giả Xá lợi phất luận đàm với Ma ha Câu thi la về các điểm: 1. Liệt tuệ và trí tuệ: Liệt tuệ là không tuệ tri bốn chân lý; trí tuệ là có tuệ tri 4 chân lý. Trí tuệ là thắng tri, liễu tri và đoạn tận. 2. Khác nhau giữa Tuệ tri và Thức tri: Tuệ tri là do tu tập và từ bỏ. Thức tri là biết các cảm thọ lạc, khổ và trung tính. Giữa tuệ và thức có tương quan, nghĩa là cái gì thức biết thì tuệ cũng biết, nên rất khó phân biệt. 3. Giữa Thức, tưởng, thọ có tương quan, nên rất khó phân biệt; vì cái gì được cảm tho, cũng được nhận thức, và cái gì được nhận thức thì cũng được liễu biệt. 4. Ý thức biệt lập 5 giác quan thì thế nào: có thể đưa đến Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ. 5. Các điều kiện [duyên] cho chính tri kiến: có hai, là tiếng người khác, và như lý tác ý. Làm thế nào để chính tri kiến đưa đến hai quả giải thoát - tâm và tuệ giải thoát - cùng công đức của hai giải thoát ấy: cần 5 yếu tố là Giới, Văn, Thảo luận, Chỉ và Quán. 6. Có bao nhiêu hữu: có ba, là dục, sắc và vô sắc. 7. Tái sinh tương lai xảy ra thế nào: do vô minh và tham ái, thích thú chỗ này chỗ kia. Nếu xả ly vô minh và tham ái thì tái sinh không xảy ra. 8. Thiền thứ nhất từ bỏ gì, thành tựu gì: Ly dục, ly bất thiện pháp, từ bỏ 5 triền cái: tham, sân, hôn trầm, trạo hối, và nghi; thành tựu 5 thiền chi là tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. 9. Năm căn: có đối tượng sai khác, có ý làm chỗ nương, ý lãnh thọ các cảnh giới của 5 căn, 5 căn lại do duyên tuổi thọ mà trú. Tuổi thọ lại do duyên hơi ấm, và hơi ấm do duyên tuổi thọ, cũng như do ánh sáng mà thấy tim đèn, do tim đèn mà ánh sáng hiện. 10. Thọ hành và cảm thọ là một hay khác: khác, vì nếu là một thì một vị chứng Diệt thọ tưởng định sẽ chết luôn, nhưng sự thực là vị ấy có thể xuất định và có cảm giác trở lại. 11. Sự chết: Lúc nào thì thân xác được xem là đã chết: lúc ba pháp được từ bỏ: tuổi thọ, hơi ấm và thức. Khác nhau giữa thây chết và tỳ kheo nhập Diệt thọ tưởng định: nơi tỳ kheo nhập Diệt thọ tưởng định, tuổi thọ và thức vẫn còn an trú nên còn hơi ấm, nơi người chết, hai thứ ấy đã chấm dứt. 12. Điều kiện để chứng nhập tâm Giải thoát bất khổ bất lạc có 4: xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng trú thiền thứ tư với xả niệm thanh tịnh. 13. Điều kiện để chứng nhập tâm Giải thoát Vô tướng: có hai, là tác ý vô tướng giới và không tác ý tất cả pháp. 14. Vô lượng TGT, vô sở hữu TGT, không TGT và vô tướng tâm giải thoát: những pháp này có khi khác nghĩa, có khi đồng nghĩa. Khác nghĩa khi nói về nhân tu, như: Vô lượng tâm giải thoát là do tu bốn phạm trú từ bi hỷ xả; Vô sở hữu là do vượt trên Thức vô biên xứ, chứng trú Vô sở hữu xứ; Không tâm giải thoát là thiền quán về sự trống rỗng, không có ngã hay ngã sở; Vô tướng tâm giải thoát là do không tác ý tất cả tướng, an trú định vô tướng. Cả bốn tâm giải thoát đồng nghĩa, vì nó là đặc tính của quả chứng, tức tâm giải thoát bất động, không bị động vì tham sân si. Tham sân si là nguyên nhân của giới hạn, nên không tham sân si là tâm giải thoát vô lượng; tham sân si là chướng ngại, nên không tham sân si là Không tâm giải thoát và vô sở hữu tâm giải thoát; tham sân si là cái tạo ra các tướng, nên không tham sân si gọi là giải thoát vô tướng. III. CHÚ GIẢI Tôn giả Ma ha Câu thi la được Phật tuyên bố là đệ nhất về trí phân tích, tài biện thuyết. Trong thiền định, thân hành là hơi thở ra vào; khẩu hành là tầm tứ; ý hành là thọ, tưởng. Luận nói, bình thường, các căn bị ô nhiễm vì đối tượng giác quan, như một tấm gương đặt tại ngã tư đường cái; nhưng các căn của một vị ở trong Diệt định thì trong sáng như một tấm gương đặt trong hộp. Thọ hành, àyusankhàrà, theo Luận, chỉ sinh khí, khác với cảm thọ, vì nó giữ cho thân xác một vị đã chứng Diệt thọ tưởng vẫn sống. Thiền chứng này, trong đó mọi tâm hành đều ngưng, chỉ được chứng đắc bởi một vị đã đắc quả Bất hoàn hay A la hán mà đồng thời cũng đã làm chủ tám thiền về tịnh chỉ. Vô tướng tâm giải thoát là quả chứng. Tướng là sắc, vv.; vô tướng giới là Niết bàn, trong đó vắng bóng mọi tướng hữu vi sinh diệt. Luận giải Không tâm giải thoát, sunnatà cetovimutti, là tuệ chứng nhân và pháp đều vô ngã, không tự tính. Trong bốn tâm giải thoát, chỉ có Vô tướng giải thoát là thuộc siêu thế. Ba giải thoát trước đấy, vô lượng là Bốn phạm trú, Vô sở hữu là định vô sắc thứ ba trong bốn vô sắc, và Không giải thoát - tuệ thấy rõ các hành là không - đều thuộc thế gian. Tham, sân, si làm nên những hạn lượng, pamànakarana, vì chúng áp đặt giới hạn trên phạm vi và chiều sâu của tâm thức. Nhưng theo Luận giải, vì nó khiến người ta đo lường một người nào là phàm phu, Dự lưu, Nhất lai hay Bất hoàn. Luận nói có 12 tâm giải thoát là: 4 phạm trú, 4 đạo, 4 quả. Tâm giải thoát bất động là quả A la hán. Nói tâm trống rỗng tham, sân, si, là tâm giải thoát siêu thế nhờ không tướng vì tham sân si tạo ra các tướng. Có chín tâm giải thoát nhờ không tướng: vô sở hữu xứ và 4 đạo, 4 quả. Theo Luận, những cái tạo nên tướng, nimittakarana, là tham sân si vì chúng dán nhãn hiệu lên một người là phàm hay thánh, là tham hay sân hay si. Nhưng cũng có thể hiểu rằng ô nhiễm tham sân si này khiến tâm gán cho sự vật các đặc tính sai lạc như trường tồn, khả ái, có tự ngã, đẹp đẽ. Luận giải: có 13 vô tướng tâm giải thoát là: tuệ, vì nó tẩy trừ các tướng thường, lạc, ngã; 4 định vô sắc, vì chúng không có tướng vật chất; và 4 đạo 4 quả, vì chúng không có ô nhiễm. Cả 4 tâm giải thoát đều đồng nghĩa vì chúng đều ám chỉ quả A la hán, và vì bốn tên vô lượng, không, vô tướng, vô sở hữu đều là tên khác của Niết bàn. IV. PHÁP SỐ Ba thọ, bốn chân lý, bốn phạm trú, bốn không, bốn tâm giải thoát, năm pháp trợ duyên cho chính kiến đưa đến giải thoát: giới, văn, thảo luận, chỉ, quán. V. KỆ TỤNG Tôn giả Xá lợi phất -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 44 Tiểu kinh Phương quảng I. TOÁT YẾU Cùlavedalla Sutta - The shorter series of questions and answers. Tập hợp ngắn các vấn đáp. (Xem kinh 43.) II. TÓM TẮT Ni sư Dhammadinna giảng cho nam cư sĩ Visakha về những điểm: 1. Tự thân: năm thủ uẩn là tự thân. Tập khởi của tự thân là khát ái câu hữu hỉ, tham, tìm cầu hỉ lạc chỗ này chỗ khác. Tự thân diệt là đoạn diệt khát ái. Con đường đoạn diệt là thánh đạo tám ngành. 2. Thủ và uẩn: có dục tham đối với năm uẩn thì gọi là thủ uẩn. 3. Thân kiến là sự chấp trước của phàm phu, xem 5 uẩn là tự ngã, hay xem tự ngã có năm uẩn, hay xem 5 uẩn ở trong tự ngã, hay xem tự ngã ở trong 5 uẩn. Phi thân kiến là không có những quan điểm như vậy. 4. Tám thánh đạo và ba uẩn. Thánh đạo là hữu vi, không phải vô vi; Ba uẩn thâu nhiếp tám thánh đạo: Giới uẩn là chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng; Ðịnh uẩn là chính tinh tấn, chính niệm, chính định; Tuệ uẩn là chính kiến, và chính tư duy. 5. Ðịnh, định tướng, định cư tụ, và định tu tập: Nhất tâm là định; 4 niệm xứ là tướng của định, bốn chính cần là tư cụ của định, tu tập các pháp ấy gọi là tu tập định. 6. Ba hành là thân, khẩu, ý. Thở vô thở ra là thân hành vì lệ thuộc thân; tầm tứ là khẩu hành vì do suy tư mà có lời nói; tưởng, thọ là ý hành vì hai pháp này tùy thuộc về tâm. 7. Nhập và xuất Diệt thọ tướng định: Một người nhập định này không khởi lên ý nghĩ tôi sẽ nhập, đang nhập hay đã nhập, chỉ do tu tập nên đưa đến trạng thái ấy. Khi nhập định này, thứ tự diệt ba hành là khẩu, thân, ý. Khi xuất, thứ tự sinh khởi trở lại ba hành là ý, thân, khẩu. Khi xuất Diệt định, vị ấy cảm thọ ba loại xúc là không, vô tướng, vô nguyện. Tâm vị ấy hướng về độc cư. 8. Ba thọ: đối với lạc thọ, thì trú là lạc, biến hoại là khổ. Ðối với khổ thọ, thì trú là khổ, biến hoại là lạc. Ðối với bất khổ bất lạc, thì có trí là lạc, vô trí là khổ. Trong lạc thọ, có tham tùy miên; trong khổ thọ có sân tùy miên; trong bất khổ bất lạc có si tùy miên. Tuy nhiên, ba thọ này ở trong thiền định thì không có tùy miên tham, sân, si. Ví dụ lạc thọ ở sơ thiền không có tham tùy miên; ưu tư muốn đạt các cảnh giới cao thượng là một loại khổ thọ nhưng không có sân tùy miên; và xả niệm thanh tịnh ở tứ thiền là bất khổ bất lạc thọ nhưng không có vô minh tùy miên. 9. Minh và vô minh; 10. Giải thoát và niết bàn. III. CHÚ GIẢI Visàkha là một thương gia giàu có ở thành Vương xá. Dhammadinnà khi còn tại gia, là vợ ông ta. Sau khi xuất gia làm tỳ kheo ni, bà đắc quả A la hán, được Phật công bố là đệ tử ni xuất sắc nhất về giảng Pháp. Năm thủ uẩn là toàn bộ chân lý về Khổ, nên bốn câu hỏi đặt ra đầu tiên về Bốn chân lý liên hệ đến bản ngã hay Khổ. Thủ ở đây chỉ tham ái, là một phần của hành uẩn, nên nó không phải năm uẩn; nhưng vì nó không tách rời 5 uẩn, nên cũng không có thủ ở ngoài năm uẩn. Kiến chấp bản ngã có 20 kiểu. Luận dẫn 4 hình thức chấp ngã liên hệ đến sắc uẩn như sau. Hoặc chấp hình chất là ngã, như ngọn lửa là một với màu sắc ngọn lửa. Hoặc chấp ngã có một hình chất như cây có cái bóng cây. Hoặc chấp hình chất ở trong ngã, như mùi hương ở trong hoa. Hoặc chấp ngã ở trong hình chất, như viên ngọc nằm trong cái hộp. Thứ tự diệt và tái sinh khởi ba hành trong thiền định: tầm tứ hay khẩu hành diệt trước, trong nhị thiền; kế đến là hơi thở hay thân hành diệt ở tứ thiền; và cuối cùng thọ và tưởng hay ý hành diệt khi chứng nhập Diệt định. Khi xuất diệt định, trước hết là tâm hành, tức ý thức về sự đắc quả khởi lên, cùng với nó là thọ và tưởng tương ứng; kế tiếp là khi hữu phần tâm khởi lên, thì hơi thở hay thân hành bắt đầu trở lại. Cuối cùng, khi thiền giả trở về với sinh hoạt bình thường, thì khẩu hành khởi lên. Tương đương, patibhàga, chỉ sự tương quan giữa hai pháp vừa đối nghịch vừa phụ thuộc vào nhau, như sáng với tối. Vô minh là tương đương với bất khổ bất lạc, vì cảm thọ này rất vi tế khó nhận diện. Niết bàn cũng có cái đối nghịch là các pháp hữu vi, nhưng theo nghĩa tuyệt đối, nó không có pháp phụ thuộc vì làm sao có cái gì phụ thuộc vào Niết bàn là pháp vô vi, vô điều kiện? IV. PHÁP SỐ Ba hành, ba thọ, ba tùy miên, ba uẩn [giới định tuệ], bốn chân lý, năm triền cái, năm thiền chỉ, năm uẩn, tám thánh đạo. V. KỆ TỤNG 1. Cư sĩ Visakha -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 45 Tiểu kinh Pháp hành I. TOÁT YẾU Cùladhammasamàdàna Sutta - The shorter discourse on ways of undertaking things. The Buddha explains, differently in each of the two suttas, four ways of undertaking things, distinguished according to whether they are painful or pleasant now and whether they ripen in pain or pleasure in the future. Bản kinh ngắn về những lối hành xử. Phật giải thích trong hai kinh này, bốn cách thọ lãnh các pháp, khác nhau ở chỗ hiện tại chúng là lạc hay khổ và trong tương lai, chúng kết thành quả báo vui hay khổ. II. TÓM TẮT Có bốn pháp hành: hiện tại lạc, vị lai khổ; hiện tại khổ, vị lai cũng khổ. Hiện tại khổ, vị lai lạc; và hiện tại lạc, vị lai cũng an lạc. Loại 1 là pháp hành của các sa môn bà la môn tham đắm dục lạc, tương lai bị quả báo ở ba đường ác. Loại 2 là khổ hạnh thuộc giới cấm thủ của ngoại đạo. Loại 3 là những người bẩm sinh nhiều tham sân si, nhưng chịu khó tu hành một cách vất vả, sống phạm hạnh trong sạch, khi thân hoại mạng chung sinh vào cõi lành. Loại 4 là những người bẩm sinh ít tham sân, có trí tuệ, lại ly dục, ly bất thiện, chứng và trú thiền thứ nhất đến thiền thứ tư, khi chết sinh thiên giới. III. CHÚ GIẢI IV. PHÁP SỐ Ba độc, ba thọ, bốn thiền, bốn loại pháp hành, năm thiền chi. V. KỆ TỤNG Phật dạy chư tỳ kheo -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 46 Ðại kinh pháp hành I. TOÁT YẾU Mahàdhammasamàdàna Sutta - The greater discourse on ways of undertaking things. Bản kinh dài về những lối hành xử. (Xem kinh 45) II. TÓM TẮT Phật dạy, chúng sinh phần lớn đều mong bớt khổ, thêm vui, nhưng chỉ gặp ít vui, nhiều khổ. Nguyên nhân là phàm phu không tu học thánh pháp, chuyên làm những việc không đáng làm và tránh né những việc đáng làm, khiến cho khổ pháp tăng trưởng, lạc pháp giảm thiểu. Có bốn pháp hành: hiện tại khổ, tương lai khổ; hiện tại vui, tương lai khổ; hiện tại khổ, tương lai vui; hiện tại vui, tương lai vui. Hiện tại khổ, tương lai khổ, là trường hợp người hiện tại làm mười nghiệp ác trong tâm trạng đau khổ, khi thân hoại mạng chung sinh vào cõi xấu. Như thuốc đã đắng mà lại độc, làm chết người uống. Hiện tại vui, tương lai khổ, là trường hợp làm 10 nghiệp ác trong tâm trạng hân hoan, khi chết đọa vào cõi dữ. Như thuốc độc bỏ vào đồ uống ngon ngọt. Hiện tại khổ, tương lai vui, là trường hợp người từ bỏ 10 nghiệp ác với tâm trạng đau khổ; do duyên từ bỏ ác nghiệp, khi thân hoại mạng chung được sinh vào cõi lành. Như thuốc đắng nhưng làm khỏi bệnh. Hiện tại vui, tương lai vui, là trường hợp người từ bỏ 10 nghiệp ác với tâm trạng hân hoan, do duyên ấy khi chết tái sinh vào cõi lành. Như thuốc ngon ngọt, lại làm khỏi bệnh. III. CHÚ GIẢI Những điều nên làm và không nên làm được đề cập đầy đủ trong kinh số 114 Trung bộ (tập 3). IV. PHÁP SỐ Bốn pháp hành, Mười ác nghiệp. V. KỆ TỤNG Hữu tình đều mong mỏi -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 47 Kinh tư sát I. TOÁT YẾU Vìmamsaka Sutta - the inquirer. The Buddha invites the bhikkhus to maek a thorough investigation of himself in order to find out whether or not he can be accepted as fully enlightened. Người tìm hiểu. Phật khuyên các tỳ kheo nên làm một cuộc tra tầm toàn diện về bản thân Ngài để tìm hiểu xem Ngài có đáng được chấp nhận là hoàn toàn giác ngộ hay không. II. TÓM TẮT Phật dạy các tỳ kheo cần phải tìm hiểu về Như Lai xem Ngài có thực là Chính đẳng giác hay không. Có bảy việc đáng tìm hiểu. 1. Những pháp ô nhiễm do mắt tai nhận thức có còn hiện khởi nơi Ngài không. 2. Những tạp pháp khi nhiễm khi tịnh do mắt tai nhận thức, có hiện khởi không. 3. Những pháp hoàn toàn thanh tịnh do mắt tai nhận thức, có hiện khởi không. 4. Thiện pháp này thành tựu nơi Ngài trong một thời gian dài hay ngắn. 5. Khi nổi danh, một số nguy hiểm có xảy ra cho Ngài không. 6. Xét Ngài do sợ hãi tiếng xấu mà từ bỏ hay vì đã đoạn diệt tham ái mà từ bỏ; để nhận rằng Ngài do vô úy mà từ bỏ, vì dù ở giữa chúng hay ở một mình Ngài vẫn vậy; và Ngài không chỉ trích những người theo ác giới, chuyên trọng tài vật. 7. Sau khi tìm hiểu, phải hỏi lại Phật chính những điều ấy. Một đệ tử cần phải đến gần một bậc đạo sư như vậy để nghe pháp, chứng tri pháp ấy, đạt đến cứu cánh, và khi ấy sẽ khởi lòng tịnh tín: "Thế tôn là bậc Chính đẳng giác, Pháp được Ngài khéo giảng, chư tăng khéo hành trì." Lòng tin như thế được gọi là căn cứ trên chính kiến, không thể bị phá hoại bởi bất cứ ai trên thế giới với chư thiên, ma, Phạm, sa môn, bà la môn… III. CHÚ GIẢI Do mắt tai nhận thức: Thân hành và ngữ hành là những pháp do mắt tai nhận thức. Cũng như thấy sóng gợn, bọt nổi mà biết trong nước có cá, do hành vi hay lời nói nhiễm ô, người ta có thể biết cái tâm phát sinh ra những hành vi và lời nói ấy cũng nhiễm ô. Tạp pháp, vìtimissà dhammà, ám chỉ hành vi của người đang thanh lọc hành vi mình, nhưng không thể kiên trì giới hạnh, khi Phật khi ma. Nguy hiểm là kiêu căng ngã mạn, vv. Một vài người, khi chưa nổi danh thì những nguy hiểm này không rõ rệt, họ có vẻ an tịnh; nhưng khi nổi tiếng, có đồ chúng, họ lại cư xử bất đáng, đả kích người khác như một con báo vồ đàn nai. IV. PHÁP SỐ Ba loại pháp: nhiễm, tịnh, và hỗn tạp. V. KỆ TỤNG Phật dạy các tỳ kheo -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 48 Kosambiya I. TOÁT YẾU Kosambiya Sutta - The kosambians. During the period when the bhikkhus at Kosambi are divided by a dispute, the Buddha teaches them the six qualities that create love and respect and conduce to unity. He then explains seven extraordinary knowledges possed by a noble disciple who has realised the fruit of stream-entry. Những người xứ Câu diệm bì. Trong thời gian chư tỳ kheo ở Câu diệm bì chia rẽ vì một cuộc tranh cãi, Phật giảng dạy cho họ sáu đức tính tạo nên tình thương yêu và tương kính, đưa đến hòa hợp. Rồi Ngài giải thích bảy thắng trí mà một vị thánh đệ tử có được khi chứng quả Dự lưu. II. TÓM TẮT Nhân các tỳ kheo ở Kosambi chia rẽ vì cãi nhau, Phật giảng sáu pháp hòa thuận và bảy yếu tố của Dự lưu quả. 1. Từ thân hành đối với nhau trước mặt như sau lưng. 2. Từ khẩu hành; 3. Từ ý hành; 4. San sẻ lợi lộc vật chất; 5. Cùng nhau thành tựu giới luật; 6. Cùng nhau thành tựu tri kiến bậc thánh. Trong đây, tri kiến bậc thánh là nòng cốt của lục hòa. Bảy yếu tố của quả Dự lưu là bảy yếu tố của tri kiến bậc thánh: 1. Thiền định để gột trừ năm triền cái. 2. Ðạt đến tịnh chỉ. 3. Quán sát bằng tri kiến này không có trong giới luật ngoại đạo. 4. Phát lộ khi phạm giới. 5. Giúp đỡ bạn đồng tu. 6. Lóng tai nghe Pháp. 7. Thành tựu nghĩa tín thọ, pháp tín thọ, và hân hoan liên hệ Pháp. III. CHÚ GIẢI Kinh này bắt nguồn từ cuộc tranh cãi ở Câu diệm bì, khởi từ sự hiểu lầm một tiểu giới nhưng đã nhanh chóng bùng lên và lan rộng, chia đại đa số tăng chúng và tín đồ ở địa phương thành hai phe thù nghịch. IV. PHÁP SỐ Năm triền cái, sáu hòa, bảy yếu tố của Dự lưu quả [trừ 5 triền cái, tịnh chỉ; trí quán sát; phát lộ ngay khi phạm tiểu giới; giúp đỡ đồng tu; lóng tai nghe pháp; hiểu rõ ý nghĩa và hân hoan trong Pháp]. V. KỆ TỤNG 1. Chúng ở Kosambi -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 49 Phạm thiên cầu thỉnh I. TOÁT YẾU Brahmanimantanika Sutta - The invitation of a brahmà. Baka the Brahmà, a high divinity, adopts the pernicious view that the heavenly world over which he presides is eternal and that there is no higher state beyond. The Buddha visits him to dissuade him from that wrong view and engages him in a contest of Olympian dimensions. Sự mời mọc của Phạm thiên. Vị trời Baka cõi Phạm thiên, có tà kiến rằng cõi trời mà ông làm chủ là trường cửu, không có cõi nào cao hơn. Phật viếng thăm ông ta để giải trừ tà kiến ấy nơi ông, và đưa ông vào một cuộc tranh tài có tầm cỡ thế vận hội. II. TÓM TẮT Phạm thiên Baka khởi lên tà kiến chấp cõi trời của ông là trường tồn, toàn diện, không có giải thoát nào cao hơn thế. Phật viếng thăm và nói ông ta đã sai lầm. Khi ấy Ác ma nhập vào một vị trời để bảo Phật chớ can thiệp, và xác nhận Phạm thiên là số một trên thế gian, ai phỉ báng sẽ phải đọa, ai tán dương Phạm thiên, khi thân hoại mạng chung sẽ được sung sướng. Khi ấy Phật bảo Ác ma Ngài biết rõ Phạm thiên cũng trong tay Ác ma, nhưng Phật thì không, Ngài đã thoát khỏi tầm tay của ma. Phạm thiên lặp lại tà kiến cho rằng cõi trời ấy trường cửu, toàn diện, không biến hoại, và nói nếu Phật nương vào 4 đại, chúng sinh… cho đến các cõi trời, thì Phật sẽ ở trong lãnh địa ông ta. Phật xác nhận uy quyền của Phạm thiên trong giới hạn ấy, nhưng Ngài còn biết nhiều cõi trời cao hơn cõi Phạm thiên, như cõi Quang âm thiên, Biến tịnh thiên, Quảng quả thiên… tuy vậy Ngài không chấp thủ bốn đại và bất cứ một pháp nào. Do vậy Ngài vượt xa Phạm thiên. Ðể trổ tài, Phạm thiên nói ông sẽ biến mất trước Phật, nhưng ông không biến được. Trái lại, Phật hiện thần thông khiến thiên chúng không thấy được Ngài, nhưng nghe tiếng Ngài nói "Do thấy nguy hiểm của hữu, Như Lai tìm phi hữu; và đối với hữu, Như Lai không tôn trọng, không chấp thủ." Thiên chúng tán dương thần lực của Phật. Ác ma nhập vào một vị trời để khuyến cáo Phật đừng giảng Pháp, vì xưa kia có những vị xuất gia do nói pháp, hướng dẫn đệ tử mà khi chết phải đọa. Phật nhận diện ác ma và nói Ngài biết ác ma đang nghĩ: "Những ai được sa môn Gotama thuyết pháp, sẽ thoát ngoài tầm ảnh hưởng của ta." III. CHÚ GIẢI Kinh số 1, Pháp môn căn bản, cũng được giảng khi Phật ở rừng Subhaga tại Ukkatthà. Ðề tài tương đồng giữa hai kinh này rất đáng chú ý. Có thể nói kinh này là một trình diễn có kịch tính những ý tưởng đã nêu trong kinh Pháp môn căn bản dưới hình thức triết lý trừu tượng. Vậy, Phạm thiên Baka tiêu biểu tự ngã trong hình thức trổi nhất, mù quáng trong tưởng tri với những ảo tưởng về thường, lạc, ngã. Bên dưới là khát ái, tượng trưng bởi Ác ma - không lộ liễu giữa chúng hội, nhưng lại là tác giả thực sự của mọi tưởng, chính ác ma nắm toàn thể vũ trụ trong tay. IV. PHÁP SỐ Bốn đại. V. KỆ TỤNG Phạm thiên tên Baka -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 50 Hàng ma I. TOÁT YẾU Màratajjanìya Sutta - The rebuke to Màra. Màra attempts to harass the venerable Moggallàna, but the latter relates a story of the distant past to warn Màra of the dangers in creating trouble for a disciple of the Buddha. Hàng phục Ác ma. Ác ma cố quấy nhiễu tôn giả Mục kiền liên, Ngài bèn thuật lại một câu chuyện từ quá khứ lâu xa để cảnh cáo cho Ác ma biết những nguy hiểm xảy đến khi quấy rối một đệ tử của Phật. II. TÓM TẮT Trong vườn Lộc uyển, tôn giả Mục kiền liên đang kinh hành ngoài trời, bỗng dưng cảm thấy bụng nặng. Ngài trở vào ngồi thiền quán, thấy ác ma đang ở trong bao tử. Ngài bảo ác ma không nên quấy nhiễu đệ tử Phật, sẽ mang họa lâu dài. Khi ác ma đi ra, tôn giả kể cho nghe thuở xa xưa, dưới thời đức Phật Câu lưu tôn [Kakusandha] Ngài cũng là ác ma tên Dusi, còn ác ma bây giờ thuở ấy là con trai của chị Ngài, gọi Ngài bằng cậu. Phật Câu lưu tôn có hai đệ tử xuất sắc tên Vidhura giỏi thuyết pháp và Sanjiva giỏi chứng thiền. Ác ma Dusi nhập vào các gia chủ, dùng những lời thô ác để thóa mạ những tỳ kheo giới đức. Phần lớn gia chủ này sau khi chết phải đọa vào cõi dữ. Các tỳ kheo được Phật Câu lưu tôn dạy biến mãn tâm từ không hận không sân, nên không bị ảnh hưởng bởi những lời phỉ báng. Khi ấy ác ma Dusi đổi phương pháp, nhập vào các gia chủ đến đảnh lễ tôn trọng cúng dường các tỳ kheo giới đức, hầu mong chi phối những vị này. Các gia chủ ấy sau khi chết được sinh vào cõi lành. Còn các tỳ kheo được Phật Câu lưu tôn dạy tu thiền quán bất tịnh, vô thường để sinh tưởng nhàm chán, nên không bị chi phối vì cung kính lợi dưỡng. Ác ma Dusi không hại được tôn giả Vidhura bằng phỉ báng cũng như tán dương, nên nhập vào một đứa trẻ khiến nó liệng đá vỡ đầu tôn giả, máu chảy đầm đìa, trong khi Ngài đang đi sau lưng đức Phật. Khi Phật quay lại nhìn, nghĩ rằng ác ma này thật sự đã làm điều quá đáng, liền khi ấy ác ma Dusi mạng chung, đọa vào đại địa ngục cọc sắt, bị nấu sôi hàng vạn năm. Tôn giả Mục kiền liên kể xong, Ác ma thất vọng biến mất tại chỗ. III. CHÚ GIẢI Dùsì tên của ác ma, có nghĩa là kẻ hư hỏng, hoặc kẻ làm hư hỏng. Vidhura có nghĩa là Vô song. Sanjìva là Người sống sót. Những mục đồng thấy Ngài nhập Diệt định ở giữa rừng, tưởng là thây chết, đốt thân Ngài bằng cỏ khô và phân bò rồi bỏ đi. Sau khi xuất định, Ngài ôm bát đi khất thực, chúng tưởng Ngài sống lại. IV. PHÁP SỐ Bốn phạm trú. V. KỆ TỤNG Trong ngôi rừng Lộc uyển, -ooOoo- Đầu trang | 00 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
Source: Trang web Diệu Pháp, http://www.dieuphap.net
[Trích giảng Trung Bộ][Trở về trang Thư Mục]
last updated: 25-01-2005