BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Toát yếu Kinh Trung Bộ Ni sư Thích Nữ Trí Hải tóm tắt & chú giải |
[04] TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 31 Tiểu kinh rừng Sừng bò I. TOÁT YẾU Cùlagosinga Sutta - The shorter discourse in gosinga. The Buddha meets three bhikkhus who are living in the concord, "blending like milk and water", and inquires how they succeed in living together so harmoniously. Bản kinh ngắn tại rừng Gosinga (Sừng bò). Phật gặp ba tỳ kheo sống chung hòa hợp "như nước với sữa" và hỏi họ làm cách nào họ sống được hòa hợp như vậy. II. TÓM TẮT Phật đến rừng Gosinga, nơi ba tôn giả Anuruddha, Nandiya và Kimbila (A na luật, Nan đề và Kim tỳ la) đang cư trú, và hỏi thăm cách sinh hoạt của họ. 1. Trước hết Ngài hỏi họ có sống hòa hợp với nhau như nước với sữa không? Họ đáp có. Phật hỏi họ làm thế nào để sống hòa hợp như vậy. Họ đáp rằng, vì nghĩ đến lợi ích của sự sống chung, họ đối với nhau bằng tâm từ với cả ba nghiệp thân, ngữ, ý trước mặt cũng như sau lưng. Rồi họ quyết định từ bỏ tâm của mình và chỉ sống với tâm của người khác. Do vậy tuy khác thân nhưng cũng như đồng một tâm. 2. Kế đến, Ngài hỏi họ có sống nhiệt tâm tinh cần, không phóng dật hay không. Họ cũng đáp có. Bằng cách mỗi người tự ý thức để làm các công việc trong đời sống chung, không cần so đo tính toán. 3. Cuối cùng, Phật hỏi, sống tinh cần như vậy, nhưng có đắc các pháp siêu việt con người không? Tôn giả A na luật, với tâm mình biết tâm của hai vị kia, nên đáp rằng họ có thể chứng bốn thiền cho đến Diệt thọ tưởng, không có lạc trú nào cao hơn nữa. Phật xác nhận họ nói đúng. Sau đó, Trường quỷ Dạ xoa - Dìgha Parajana đến đảnh lễ Phật, tỏ sự vui mừng cho dân chúng Vajji (Bạt kỳ) vì nơi này đã có đức Thế tôn cư trú, lại có ba tôn giả ấy cư trú. Lời Trường quỷ Dạ xoa ca tụng danh đức ba thiện nam tử vang dội khắp tất cả các cung trời cho đến cõi Phạm thiên, và Phật dạy đúng thế, gia đình nào, bà con dòng họ nào, làng xóm xứ sở nào từ đó ba vị tôn giả xuất thân, cũng như bất cứ người nào nơi nào khác, kể cả chư thiên, nếu biết nghĩ nhớ đến ba vị tôn giả với tâm hoan hỷ, thì những người ấy, gia đình ấy, nơi chốn ấy, sẽ được an lạc hạnh phúc lâu dài. Vì ba vị ấy sống "vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc an lạc cho chư thiên và loài người." III. CHÚ GIẢI A na luật là em họ của Phật, Nan đề và Kim tỳ la là bạn thân của A na luật từ khi còn tại gia. Từ thân nghiệp, ngữ và ý nghiệp là ba trong sáu nguyên tắc sống chung gọi là Lục Hòa. Dạ xoa Luận nói vị này là vua trời trong số 28 tướng Dạ xoa đề cập trong kinh Trường bộ số 32. IV. PHÁP SỐ Ba nghiệp, bốn thiền, bốn định, chín định thứ đệ. V. KỆ TỤNG Phật thăm A na luật -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 32 Đại kinh Rừng Sừng b òI. TOÁT YẾU Mahàgosinga Sutta - The greater discourse in Gosinga. On a beautiful moonlit night a number of senior disciples meet together in a sàla tree wood and discuss what kind of bhikkhu could illuminate the wood. After each has answered according to his personal ideal, they go to the Buddha, who provides his own answer. Bản kinh dài trong rừng Gosinga. Vào một đêm trăng sáng, một số cao đệ của Phật tụ họp trong rừng cây sa la thảo luận về hạng tỳ kheo nào có thể làm chói sáng khu rừng. Sau khi mỗi người đã trả lời theo lý tưởng riêng mình, họ cùng đi đến Phật. Ngài đưa ra câu trả lời của chính Ngài. II. TÓM TẮT Rừng Gosinga, nơi Phật và chúng tăng đang cư trú, có nhiều cây sa la đang độ trổ bông. Vào một đêm trăng sáng, một số đông đệ tử nổi tiếng của Phật đi đến chỗ tôn giả Xá lợi Phất. Tôn giả lần lượt hỏi quan điểm riêng của mỗi người về một mẫu tỳ kheo lý tưởng trong đạo Phật, với cách nói bóng bảy: "Hạng tỳ kheo nào có thể làm chói sáng khu rừng Gosinga". A nan trả lời: Hạng đa văn. Ly bà đa: Hạng độc cư thiền định. A na luật: Hạng có thiên nhãn. Ca diếp: Hạng khổ hạnh. Mục kiền liên: Hạng giỏi luận thuyết. Khi họ hỏi lại quan điểm của Xá lợi phất, tôn giả trả lời "hạng có khả năng điều phục tâm". Tất cả cùng đi đến Phật để xin Ngài quyết đoán ai đúng ai sai. Phật dạy tất cả đã khéo trả lời đúng với sở trường mình; như A nan đa văn nên cho đa văn là lý tưởng. Rồi Phật dạy theo Ngài, hạng tỳ kheo lý tưởng là người khất thực về, ăn xong ngồi kiết già lưng thẳng cho đến khi tâm giải thoát tất cả lậu hoặc, không có chấp thủ [tức là vị tỳ kheo đã chứng quả A la hán]. III. CHÚ GIẢI Luận thuyết, Abhidhamma: Mặc dù đây không thể là tạng Luận A tỳ đàm, sản phẩm Phật giáo xuất hiện sau Nikàyas, nó cũng cho thấy vào thời Phật, đã có sự phân tích giáo lý làm nền tảng cho tạng Luận sau này. Trong khi những câu trả lời của mỗi đệ tử nêu lên một khía cạnh đặc biệt của đời sống xuất gia đang tầm cầu giải thoát, thì câu trả lời của Phật nói ngay cái mục tiêu cuối cùng của đời sống ấy là đoạn tận lậu hoặc. IV. PHÁP SỐ Năm thành phần của pháp thân: Giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. V. KỆ TỤNG Trong rừng Go-sin-ga -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 33 Đại kinh người chăn b òI. TOÁT YẾU Mahàgopàlaka Sutta - The greater discourse on the cowherd. The Buddha teaches eleven qualities that prevent a bhikkhu's growth in the Dhamma and eleven qualities that contributes to its growth. Bản kinh lớn về người mục đồng. Phật dạy 11 tính chất khiến tỳ kheo không lớn mạnh trong Pháp và 11 tính chất đưa đến sự tăng tiến Pháp. II. TÓM TẮT Người xuất gia muốn tu hành tiến bộ cần có 11 đức tính như người chăn bò thiện xảo: 1. Biết sắc, tức biết về bốn đại và sắc do 4 đại tạo. 2. Biết tướng, là biết phân biệt cách hành xử của kẻ ngu và bậc trí. 3. Biết trừ bỏ trứng bọ chét, là biết trừ khử ngay trong mầm mộng các ý niệm dục, sân, hại và những bất thiện khác. 4. Biết băng bó vết thương, là chế ngự tâm khi căn trần xúc đối. 5. Biết xông khói, là thuyết giảng rộng rãi chính pháp đã được nghe. 6. Biết chỗ nước có thể lội qua, là biết cầu học những vị đa văn về ba tạng kinh điển. 7. Biết chỗ nước uống, là tin hiểu Pháp và Nghĩa, có được sự hân hoan liên hệ đến pháp. 8. Biết con đường, là biết Thánh đạo tám ngành. 9. Biết nơi đàn bò có thể ăn cỏ, là biết bốn niệm xứ. 10. Biết giữ sữa, không vắt cho đến khô kiệt, là không lạm dụng sự cúng dường của thí chủ. 11. Biết săn sóc đặc biệt con bò đầu đàn, là biết kính ái bậc tôn túc trưởng lão, sau lưng như trước mặt. III. CHÚ GIẢI Nghĩa tín thọ: tin nhận ý nghĩa của Pháp. Pháp tín thọ: tin nhận văn tự trình bày Pháp. IV. PHÁP SỐ Bốn đại, bốn niệm xứ, sáu căn, tám thánh đạo. V. KỆ TỤNG Phật dạy các tỳ kheo: -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 34 Tiểu kinh người ch ăn bòI. TOÁT YẾU Cùlagopàlaka Sutta - The shorter discourse on the cowherd. The Buddha explains the types of of bhikkhus who "breast Màra's stream" and get safely across to the further shore. Bản kinh ngắn về người chăn bò. Phật giải thích các hạng tỳ kheo "vượt qua được sông ma" để vượt qua bờ kia một cách an ổn. II. TÓM TẮT Như kẻ chăn bò vô trí không quan sát kỹ, lùa bò qua sông tại chỗ không thể lội qua, đàn bò gặp tai nạn. Cũng thế, có những tu sĩ không khéo biết đời này đời sau, không biết ma giới và phi ma giới, cảnh giới tử thần và cảnh giới bất tử. Những ai nghe và tin theo những vị ấy sẽ phải bất hạnh, đau khổ lâu dài. Phật như người chăn có trí, biết rõ đời này, đời sau, ma giới và phi ma giới, tử thần giới và phi tử thần giới, nên Ngài đã đưa nhiều hạng người an toàn vượt qua dòng sông sinh tử, cảnh giới của Ma: những bậc A la hán, như con bò đầu đàn; A na hàm, như bò đực đã thuận; bậc Nhất lai, như bò con đã lớn; Dự lưu, như bò con còn bú; những bậc Tùy pháp hành, tùy tín hành, như bò con mới sinh còn chạy theo mẹ. III. CHÚ GIẢI A la hán có hai hạng: Tâm giải thoát do lúc tu thiền về Định; Tuệ giải thoát do lúc tu thiền về Tuệ. A na hàm hay Bất hoàn: trừ năm hạ phần kết sử. Tư đà hàm hay Nhất lai: trừ ba kết sử và làm suy yếu tham, sân, si. Dự lưu: trừ ba kết sử là thân kiến [chấp thân này là tôi, của tôi], nghi [đối với Ba ngôi báu], và giới cấm thủ [giữ các khổ hạnh không đưa đến giải thoát]. Tùy tín hành: người đắc Dự lưu đạo tu nhờ tu quán vô thường. Từ đây trở đi cho đến quả vị A la hán, vị ấy được gọi là bậc Tín giải thoát. Tùy pháp hành: người đắc Dự lưu đạo nhờ tu quán vô ngã. Ở các địa vị trên Dự lưu đạo, gọi là bậc Kiến chí. Khi đắc A la hán quả, vị ấy được gọi là bậc Tuệ giải thoát. IV. PHÁP SỐ Bốn quả sa môn. V. KỆ TỤNG Kẻ chăn bò vô trí -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 35 Tiểu kinh Saccaka I. TOÁT YẾU Cùlasaccaka Sutta - The shorter course to Saccaka. The debater Saccaka boast that on debate he can shake the Buddha up and down and thump him about, but when he finally meets the Buddha their discussion takes some unexpected turns. Bản kinh ngắn giảng cho Saccaka. Saccaka, người giỏi biện luận thuộc phái khổ hạnh Ni kiền tử khoe khoang rằng ông ta có thể tranh biện với Phật làm Ngài phải run lên, vần quanh Ngài. Nhưng cuối cùng khi ông gặp Phật, cuộc đàm luận đã có những chuyển biến bất ngờ. II. TÓM TẮT Ni kiền tử Saccaka, tính ưa tranh luận, thường khoe mình có thể đánh bại tất cả giáo chủ. Ông cùng một số đông dân chúng Licchavis đến nơi Phật, cốt cho những người này chứng kiến tài biện bác của ông. Mở đầu, ông hỏi Phật dạy đệ tử những gì. Phật trả lời, Ngài dạy các tỳ kheo rằng 5 uẩn là vô thường, vô ngã. Tất cả hành vô thường, tất cả pháp vô ngã, đó là giáo huấn của Ngài. Saccaka phản bác lời ấy bằng một ví dụ: như đất là chỗ nương của tất cả cây cỏ, cũng vậy tự ngã con người nương tựa vào năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức, mà làm các việc thiện hay ác. Phật gạn hỏi: Có phải ông chủ trương sắc, thọ, tưởng, hành, thức là tự ngã của ta? Saccaka xác nhận như vậy, và còn thêm rằng tất cả đại chúng đây ai cũng xác nhận điều ấy [nghĩ rằng cái gì đa số chấp nhận thì không thể sai lầm]. Phật hỏi Saccaka, có phải vua có quyền đối với thần dân của ông ta không? Saccaka đáp phải. Phật: Ông nói sắc, thọ... là tự ngã của ông, vậy ông có quyền hành gì đối với sắc, thọ... hay không? Saccaka làm thinh. Phật hỏi đến lần thứ hai, thứ ba, ông buộc lòng phải trả lời không. Phật dạy ông đã nói trái với lời trước. Khi ấy Phật hiển thị cho Sacca thấy: 1. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, cái gì vô thường là khổ, cái gì đã vô thường, khổ, thì thực không hợp lý để xem là tôi và của tôi. Do vậy, 5 uẩn là vô thường, khổ, vô ngã. 2. Ai ái luyến khổ, chấp trước khổ, xem nó là tôi và của tôi, thì không thể liễu tri khổ, không trừ diệt được khổ. 3. Như người tìm cầu lõi cây mà chặt về một cây chuối hoàn toàn không lõi, Sacca cũng vậy, đã tự tỏ ra trống rỗng. Saccaka chấp nhận mình bị luận bại, và hỏi Phật đệ tử Ngài chấp hành giáo lý ấy như thế nào để đạt giải thoát. Phật trả lời có hai hạng: Có đệ tử tuệ tri tất cả sắc, tho, tưởng, hành, thức, quá khứ vị lai hiện tại, thô hay tế, trong hay ngoài, đều không phải là tôi, của tôi, hay tự ngã của tôi; hạng ấy thành tựu vô úy. Có đệ tử sau khi thấy chân chính với trí tuệ, giải thoát tất cả chấp thủ, thành tựu ba vô thượng là vô thượng kiến, vô thượng đạo và vô thượng giải thoát. Vị ấy chỉ kính lễ Như lai, bậc đã giác ngộ, đã điều phục, đã tịch tĩnh, đã vượt qua, đã chứng niết bàn. III. CHÚ GIẢI Thành tựu vô úy, đoạn tận nghi hoặc, là bậc hữu học. Giải thoát tất cả chấp thủ chỉ bậc A la hán. Ba vô thượng: Kiến vô thượng chỉ tuệ thế gian và siêu thế; vô thượng đạo là sự thực hành tuệ ấy; và vô thượng giải thoát là kết quả của thực hành. Hoặc có thể giải thích cả ba hoàn toàn siêu thế: Vô thượng kiến là cái thấy chân chính thuộc A la hán
đạo; Hoặc 1 là tri kiến Niết bàn; 2 là các yếu tố thuộc đạo; 3 là quả tối cao. IV. PHÁP SỐ Ba pháp ấn, Năm uẩn. V. KỆ TỤNG Ni kiền tử Sacca -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 36 Đại kinh Saccaka I. TOÁT YẾU Mahàsaccaka Sutta - The greater discourse to Saccaka. The Buddha meets again with Saccaka and in the course of a discussion on development of body and development of mind he relates a detailed narrative on his own spiritual quest. Bản kinh dài giảng cho Saccaka. Phật lại gặp Saccaka và trong một cuộc thảo luận về thân tu tập và tâm tu tập, Ngài thuật lại chi tiết về cuộc tầm đạo của chính mình. II. TÓM TẮT Ni kiền tử Saccaka cho rằng những người tu tập về thân bị đau đớn về thân, và tâm cũng trở nên điên loạn, vì tâm không được tu tập. Ngược lại có người tu tập về tâm mà không tu tập thân, cũng cảm thọ thống khổ, tâm cuồng vì thân không được tu tập. Và ông ta nghĩ chắc chắn đệ tử Phật thuộc hạng thứ hai, nghĩa là chỉ tu tâm, không tu thân. Phật hỏi ông nghĩ thế nào là tu thân, ông đáp đó là các kiểu ép xác của lõa thể ngoại đạo, tiết chế ăn uống trong thời gian tu tập. Phật hỏi sau đó thì sao, Ni kiền tử đáp sau đó họ lại ăn đủ thứ béo bổ để lấy lại sức. Phật dạy như vậy là họ trở lại với những gì họ từ bỏ, thì có tu cũng như không. Phật lại hỏi tu tâm là thế nào, Saccaka không đáp được. Do đó Phật giảng cho nghe thế nào là tu thân và tu tâm trong giới luật bậc thánh : Khi lạc thọ khởi lên vị thánh đệ tử
không tham đắm, theo đuổi lạc ấy. Vị ấy không bị lạc thọ chi phối, vì có tu tập về thân. Khi ấy Saccaka hỏi Phật : có bao giờ lạc thọ khởi lên xâm chiếm tâm Ngài, có bao giờ khổ thọ khởi lên xâm chiếm tâm Ngài không. Để trả lời, Phật kể lại, sau khi thoát ly gia đ ình, Ngài nhận thấy nếu không xả ly các dục về thân mà tu khổ hạnh, thì cũng vô ích như cọ xát một khúc cây còn ướt để lấy lửa. Do đó Ngài từ bỏ các dục, khởi sự tu khổ hạnh. Ngài cảm thọ những khổ thọ khốc liệt, nhưng khổ thọ ấy không chi phối được tâm Ngài. Tuy vậy, vì khổ hạnh đã không giúp Ngài chứng được pháp thượng nhân, nên Ngài nhớ lại một kinh nghiệm thiền lạc mà Ngài đã nếm trải lúc còn thơ ấu. Ngài khởi sự nghĩ không phải tất cả lạc thọ đều đáng sợ, mà còn có thứ lạc thọ vô hại này, đó là lạc thọ ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú các thiền... Nhưng không thể nào chứng được các lạc thọ ấy với một thân thể gầy yếu. Và từ đấy Ngài ăn uống trở lại để tham thiền, và đã đắc đạo. Như vậy lạc thọ của các thiền chứng đã khởi lên nơi Ngài nhưng Ngài không bị lạc thọ ấy chi phối.Saccaka hỏi : Ngài có cho phép ngủ ngày không ? Phật dạy có, mỗi khi khất thực về, cảm thấy mệt mỏi, Ngài cũng đặt lưng xuống ngủ trong chính niệm tỉnh giác. Saccaka bảo : Như vậy là Ngài còn trú trong si ám. Phật dạy, si ám là chưa đoạn trừ lậu hoặc, còn những phiền não đưa đến sinh, già, chết trong tương lai. Saccaka khen Phật dù bị chất vấn công kích mặt vẫn không biến sắc như các đạo sư khác. Rồi ông cáo từ. III. CHÚ GIẢI Theo Luận giải, lần này Saccaka đến gặp Phật với ý định bài bác giáo lý của Ngài, vì lần trước [kinh số 35] đã bị thất bại. Nhưng lần này ông đi một mình, để rủi có bị luận bại cũng không ai biết. Ông định bài báng Phật với câu hỏi về chuyện ngủ ngày, nhưng để dành câu hỏi ấy cho đến đoạn cuối cuộc đàm luận. Thân tu tập theo Saccaka, là thực hành ép xác khổ hạnh. Vì không thấy các tỳ kheo của Phật tu khổ hạnh, ông nghĩ họ không tu thân. Nhưng theo Luận, tu thân trong Phật giáo là thiền quán, còn tu tâm là thiền tịnh chỉ. Khi thánh đệ tử cảm thọ lạc, vị ấy không bị xâm chiếm bởi lạc thọ ấy, vì nhờ tuệ quán, vị ấy biết cảm thọ là vô thường, khổ, không thực chất. Khi cảm thọ khổ, tâm vị ấy cũng không bị khổ thọ xâm chiếm, vì nhờ tu tập định, vị ấy có thể thoát khỏi khổ thọ bằng cách nhập vào một định chứng. Theo Luận giải, Phật gặp Saccaka đến hai lần và chịu khó đàm luận với ông ta mặc dù ông không quy thuận, vì Ngài biết trước ông ta sẽ tái sinh tại Tích lan, nơi đây ông sẽ thành vị A la hán với tên Hắc Phật Hộ [Kàla Buddharakkhita]. IV. PHÁP SỐ Ba lậu, ba minh, bốn thiền, bốn sự thật. V. KỆ TỤNG 1. Ni kiền tử cho rằng ép xác là tu thân -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 37 Tiểu kinh đoạn tận áiI. TOÁT YẾU Cùlatanhàsankhaya Sutta - The shorter discourse on the destruction of craving. The venerable Mahà Moggallàna overhears the Buddha give a brief explanation to Sakka, ruler of gods, as to how a bhikkhu is liberated through the destruction of craving. Wishing to know if Sakka understood the meaning, he makes a trip to the heaven of the Thirty-three to find out. Bản kinh ngắn về sự diệt ái. Tôn giả Mục kiền liên nghe lỏm một bài kinh ngắn Phật giảng cho Đế thích thiên chủ, làm thế nào một tỳ kheo giải thoát nhờ diệt ái. Vì muốn biết Thiên chủ có hiểu được ý nghĩa lời dạy ấy không, tôn giả Mục Liên lên đến cõi trời 33 để tìm hiểu. II. TÓM TẮT Thiên chủ Đế thích đến xin Phật giảng vắn tắt thế nào là một tỳ kheo ái tận giải thoát, thành tựu mục đích của đời sống phạm hạnh. Phật dạy, sau khi tỳ kheo được nghe rằng không có gì đáng chấp thủ, vị ấy biết rõ tất cả pháp, biết một cách rốt ráo, và nhờ biết rốt ráo tất cả pháp, mỗi khi một cảm thọ khởi lên, thuộc loại lạc, khổ hay bất khổ bất lạc, vị ấy đều quán vô thường, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ. Do quán như vậy, vị ấy không chấp trước, do không chấp trước nên không phiền não, chứng niết bàn. Vị ấy tuệ tri Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa. Đế thích hoan hỷ tín thọ lời Phật dạy rồi biến mất tại chỗ. Tôn giả Mục liên muốn biết Đế thích có tín thọ lời Phật dạy hay không, liền bay lên cõi trời 33, gặp Đế thích đang thụ hưởng thiên lạc với vô số thiên nữ trong lâu đài Vejayanta mà ông xây cất sau khi chiến thắng a tu la. Đế thích rất hãnh diện về thành tích này. Tôn giả hóa phép khiến cho lâu đài bị chấn động, thiên chủ hoảng sợ. Tôn giả yêu cầu thiên chủ nhắc lại lời Phật dạy mà ông đã được nghe. Đế thích lặp lại không sai sót. Tôn giả biến mất ở cõi trời 33, trở về bạch Phật. Phật xác nhận đã giảng cho Đế thích pháp môn giải thoát nhờ đoạn ái. III. CHÚ GIẢI Đế thích hỏi về giai đoạn tu tập chuẩn bị của tỳ kheo hướng đến quả vị A la hán, do tu tập n ày mà vị ấy được giải thoát nhờ đoạn diệt ái.Tất cả pháp ở đây là 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới. Chúng được xem là không đáng tham lam chấp thủ [ái và kiến] vì cuối cùng, trên thực tế, chúng hóa ra trái ngược: Chúng được bám víu vì tưởng là thường, lạc và ngã, nhưng kỳ thực là vô thường, khổ, vô ngã. Thánh đệ tử thắng tri chúng là vô thường, khổ, vô ngã, và liễu tri chúng bằng cách đi sâu vào vào sự thực ấy. Quán vô thường, vv. được thực hiện nhờ các loại thắng trí: sinh diệt trí, hoại trí... Vị ấy không chấp thủ - do ái và kiến - vào một hành nào, không bị ái lung lạc, tự thân chứng niết bàn vì đã dập tắt tất cả cấu uế. Đế thích gọi tôn giả Mục liên là bạn đồng tu phạm hạnh, vì bản thân ông trước kia đã chứng quả Dự lưu - theo kinh Trường bộ số 21, và như vậy trước sau gì ông cũng đạt đến giải thoát như tôn giả.IV. PHÁP SỐ Ba thọ: khổ, lạc, bất khổ bất lạc. Bốn cách quán các pháp: vô thường, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ. V. KỆ TỤNG Trời Đế thích hỏi Phật: -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 38 Đại kinh đoạn tận ái I. TOÁT YẾU Mahàtanhàsankhàya Sutta - The greater discourse on the destruction of craving. A bhikkhu named Sati promulgates the pernicious view that the same consciousness transmigrates from life to life. The Buddha reprimands him with a lengthy discourse on dependent origination, showing how all phenomena of existence arise and cease through conditions. Bản kinh dài về Đoạn ái dục. Một tỳ kheo tên Sati tuyên bố tà kiến cho rằng cũng một tâm thức ấy lưu chuyển đời này sang đời khác. Phật quở trách ông với một bài thuyết giảng dài về lý duyên sinh, chỉ rõ tất cả pháp hiện hữu [hiện tượng] đều sinh và diệt do những điều kiện. II. TÓM TẮT Tỳ kheo tên Sati khởi lên ác tà kiến cho rằng Thức này cứ luân chuyển qua các cõi luân hồi nhưng không có đổi khác. Phật cho gọi ông để hỏi có thực ông nghĩ vậy không. Khi Sati xác nhận ông hiểu đúng như vậy, Phật dạy đấy là xuyên tạc lời Ngài dạy, và là một kiểu chấp ngã. Phật thường dạy tất cả pháp do duyên sinh. Thức cũng thế, nếu không có các duyên hay điều kiện, thì thức không hiện khởi. Thức được đặt tên do những điều kiện phát sinh ra nó, như do duyên mắt và sắc, có tên là nhãn thức; do duyên tai và tiếng, có tên là nhĩ thức; do duyên mũi và mùi, có tên là tỷ thức; do duyên lưỡi và vị, có tên là thiệt thức; do duyên thân và xúc, có tên là thân thức; do duyên ý và pháp, có tên là ý thức. Như lửa đốt bằng củi thì gọi là lửa củi, lửa đốt bằng rơm gọi là lửa rơm, đốt bằng trấu gọi là lửa trấu. Tất cả các sinh vật tác thành nhờ thức ăn, nếu thức ăn đoạn diệt, sinh vật cũng đoạn diệt. Có bốn loại thức ăn, nương vào đấy các hữu tình an trú, đó là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực, và thức thực. Bốn loại thức ăn này có nguyên nhân là ái, ái có ra từ thọ, nguyên nhân thọ là xúc, nguyên nhân xúc là sáu nhập, nhân của sáu nhập là danh-sắc, nhân của danh-sắc là thức, nhân của thức là hành, nhân của hành là vô minh. Do mê mờ bốn chân lý nên có sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này. Cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia không; cái này sinh nên kia sinh; cái này diệt, nên kia diệt. Tỳ kheo biết như vậy sẽ không truy tầm quá khứ hay theo đuổi vị lai để đi tìm tự ngã. Họ cũng không thờ một bậc thầy nào khác ngoài Phật, bậc đạo sư đã công bố Duyên khởi. Họ cũng không còn có những giới cấm thủ như ngoại đạo với mục đích tái sinh vào các cõi. Vị ấy thành tựu Giới, từ bỏ năm triền cái, chứng và trú bốn thiền, sống với tâm vô lượng. Khi cảm thọ khởi lên, vị ấy đoạn trừ tâm thuận nghịch, nghĩa là không còn ưa cái này ghét cái nọ. Nhờ không tham nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sinh diệt, sinh diệt nên già chết sầu bi khổ não diệt. Đây là sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này, gọi là "Ái tận giải thoát." III. CHÚ GIẢI Theo Luận, tỳ kheo Sàti vì lý giải sai lạc sự kiện tái sinh, đã đi đến kết luận rằng có một cái thức trường cửu di chuyển từ đời này sang đời khác mới có thể giải thích được hiện tượng tái sinh. Phần đầu kinh này lặp lại đề tài "nắm giữ Pháp một cách sai lạc" như phần đầu của kinh Bắt rắn số 22, chỉ khác là kinh Bắt rắn đề cập kiến chấp về dục [dục thủ], còn kinh này đề cập kiến chấp về thức [kiến thủ]. "Chính thức ấy nói, cảm thọ kết quả các hành vi thiện ác chỗ này chỗ kia..." Đây là một trong sáu loại kiến chấp về tự ngã nói ở kinh số 2, Tất cả lậu hoặc. Mục đích của ví dụ này là để chứng tỏ không có thức lưu chuyển qua các giác quan [căn môn]. Hệt như lửa đốt bằng củi cháy nhờ củi, và tắt khi hết củi chứ không lưu chuyển đến tro để thành lửa tro. Thức cũng vậy, khởi lên do duyên nhãn căn và hình sắc thành nhãn thức sẽ chấp dứt khi các điều kiện này chấm dứt, chứ không chuyển qua lỗ tai, vv. thành nhĩ thức vv. Phật dạy: "Trong sự sinh khởi của thức, còn không có chuyện lưu chuyển từ căn môn này qua căn môn khác, thì làm sao có chuyện lưu chuyển từ đời này sang đời khác." Có cảm thọ nào khởi lên, vị ấy không hoan nghênh thọ ấy; ... do dục hỷ diệt nên thủ diệt: [Kệ: Khi cảm thọ khởi lên, đoạn trừ tâm thuận nghịch]. Lời này cho thấy sợi xích duyên sinh bị bẽ gãy tại chỗ nối thọ với ái. Thọ hay cảm giác đương nhiên phải khởi lên, vì đã có ra cái thân thể do nghiệp quá khứ. Nhưng nếu hiện tại, ta không thích thú trong các cảm thọ, thì ái sẽ không có cơ hội khởi lên kèm theo những phản ứng thuận nghịch để cung cấp thêm nhiên liệu cho vòng tái sinh. Chu kỳ tái sinh như vậy sẽ chấm dứt. IV. PHÁP SỐ Bốn niệm xứ, bốn thiền, bốn thức ăn, năm triền cái, Sáu căn, sáu trần, sáu thức, mười hai nhân duyên. V. KỆ TỤNG Tỳ kheo tên Sati -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 39 Đại kinh xóm ngựa I. TOÁT YẾU Mahà-assapura Sutta - The greater discourse at assapura. The Buddha elucidates "the things that make one a recluse" with a discourse covering many aspects of the bhikkhús training. Bản kinh dài giảng ở xóm ngựa. Phật kể ra những "pháp làm nên một sa môn ẩn sĩ" với một bài giảng bao quát nhiều phương diện tu tập của một tỳ kheo. II. TÓM TẮT Tại ấp có tên "Xóm ngựa" của dân Anga [Ương già], Phật dạy chúng tỳ kheo về các pháp làm nên Sa môn, Bà la môn. Ở đây hai danh từ này phải hiểu như định nghĩa của Phật ở cuối kinh: Sa môn là người đã "dừng lại các ô nhiễm đáng sợ, đem lại khổ quả tái sinh, già chết trong tương lai"; còn Bà la môn là người "đã tắm rửa sạch sẽ tất cả các ác bất thiện pháp, những ô nhiễm đưa đến tái sinh, già chết." Khi đã tự xưng và được người ta gọi là sa môn, tỳ kheo phải tu tập và thành tựu các sa môn hạnh như sau: 1. Tàm và quý nhưng không khen mình chê người; 2. Thân hành thanh tịnh nhưng không khen mình chê người; 3. Khẩu hành thanh tịnh nhưng không khen mình chê người; 4. Ý hành thanh tịnh nhưng không khen mình chê người; 5. Mạng sống thanh tịnh nhưng không khen mình chê người; 6. Hộ trì các căn nhưng không lấy làm tự mãn; 7. Tiết độ trong ăn uống nhưng không tự mãn; 8. Chú tâm cảnh giác vào mọi lúc, tẩy sạch tâm tư khỏi các chướng ngại nhưng không tự mãn; 9. Chính niệm tỉnh giác trong bốn uy nghi nhưng không tự mãn; 10. Thiền định, gột sạch 5 triền cái tham, sân, hôm trầm, trạo hối, nghi; nhờ vậy tuần tự chứng đắc bốn thiền, ba minh, liễu tri bốn chân lý, thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Vị ấy đã xa lìa các bất thiện đưa đến sinh, già, chết trong tương lai, tuệ tri "Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại không còn đời nào khác." III. CHÚ GIẢI Tàm [hiri] và quý [otappa]: hai đức tính bổ túc cho nhau, trong kinh Tăng chi, được Phật gọi là những vị "hộ trì thế gian" vì đấy là nền tảng của Giới. Tàm có đặc tính là ghê tởm trước điều ác, do một ý thức về tính tự trọng. Tàm được thể hiện là sự tự trách mình. Quý có đặc tính là sợ hãi điều quấy, quan tâm đến dư luận. Sa môn hạnh là con đường bát chính. Cứu cánh của sa môn hạnh là diệt tận tham sân si. Tắm rửa ở đây ám chỉ lễ tắm rửa của một người bà la môn khi thời gian làm đệ tử một vị thầy đã hoàn tất. IV. PHÁP SỐ Bốn vật dụng, bốn thiền, năm triền cái, năm thiền chi. V. KỆ TỤNG Phật dạy các tỳ kheo -ooOoo- TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 40 Tiểu kinh Xóm ngựa I. TOÁT YẾU Cùla-assapura Sutta - The shorter discourse at assapura. The Buddha explains "the way proper to the recluse" to be not the mere outward practice of austerities but the inward purification from defilements. Bài pháp ngắn giảng tại xóm ngựa. Phật giải thích "con đường chân chính của sa môn" để ám chỉ không những chỉ có khổ hạnh bề ngoài, mà còn sự tịnh hóa những ô nhiễm nội tâm. II. TÓM TẮT Sa môn hạnh không chỉ tùy thuộc vào việc mang y ca sa hoại sắc, hay thực hành các loại khổ hạnh, mà tùy thuộc vào việc đoạn trừ các ô nhiễm: tham dục, sân hận, phẫn nộ, thù hằn, giả dối, não hại, tật đố, xan lẫn, man trá, xảo quyệt, ái dục, tà kiến. Khi tự ngã đã diệt hết những ô nhiễm không xứng sa môn hạnh, vị ấy được giải thoát, từ đấy tuần tự phát sinh theo nhân quả, các tịnh pháp như sau: hân hoan, hỷ, [thân] khinh an, lạc, định. Với tâm định tĩnh, vị ấy biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy các phương khác. Nhờ đoạn trừ các lậu hoặc, vị ấy tự mình chứng tri ngay trong hiện tại, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, thành bậc sa môn chân chính. III. CHÚ GIẢI Kinh trước nói về sa môn pháp hay các pháp tác thành bậc sa môn; kinh này nói về tư cách sa môn. Mười pháp trước trong 12 "cấu uế của sa môn" cũng được nói trong "16 ấu uế của tâm" ở kinh số 7. IV. PHÁP SỐ Bốn phạm trú hay bốn vô lượng, năm triền cái. V. KỆ TỤNG Xuất gia có kết quả, -ooOoo- Đầu trang | 00 | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 |
Source: Trang web Diệu Pháp, http://www.dieuphap.net
[Trích giảng Trung Bộ][Trở về trang Thư Mục]
last updated: 05-02-2004