SUTTANTAPIṬAKE KHUDDAKANIKĀYE CARIYĀPIṬAKA PĀḶI Lời tiếng Việt: Tỳ khưu Indacanda SRI JAYAWARDHANARAMAYA
III.
NEKKHAMMAPĀRAMITĀ
1. Yudhañjayacariyaṃ *** 242. Yadā ahaṃ
amitayaso rājaputto yudhañjayo 242. Khi ta là hoàng tử Yudhañjaya có danh tiếng vô lượng, ta đã động tâm sau khi nhìn thấy giọt sương mai bị tiêu tan dưới ánh nắng mặt trời. [2] 243.
Taññevādhipatiṃ katvā saṃvegamanubrūhayiṃ 243. Sau khi trầm tư về chính điều ấy, ta đã làm cho nỗi động tâm tăng trưởng. Ta đã cúi lạy mẹ cha và xin phép xuất gia. 244. Yācanti maṃ
pañjalikā sanegamā saraṭṭhakā 244. Họ cùng với các thị dân và các cư dân của xứ sở, hai tay chắp lại, thỉnh cầu ta rằng: “Này con, ngay ngày hôm nay con hãy cai quản lãnh địa rộng lớn, tiến triển, và thịnh vượng.” 245. Sarājake
sahorodhe sanegame saraṭṭhake 245. Trong khi họ, có cả đức vua, có cả phi tần, có thị dân, có cư dân của xứ sở, đang khóc lóc thảm thương, bởi vì ta đã xuất gia, không lưu luyến. 246. Kevalaṃ
paṭhaviṃ rajjaṃ ñāti parijanayasaṃ 246. Trong khi từ bỏ toàn bộ trái đất, vương quốc, quyến thuộc, người hầu, và danh vọng, ta đã không suy nghĩ (đến điều gì khác) với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ. 247. Mātā pitā na
me dessā napi dessaṃ mahāyasaṃ 247. Me cha không có bị ta ghét bỏ, danh vọng lớn lao cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã từ bỏ vương quốc.
Yudhañjayacariyaṃ paṭhamaṃ. --ooOoo--
2. Somanassacariyaṃ *** 248. Punāparaṃ
yadā homi indapatte puruttame 248. Vào một thời điểm khác nữa, khi ở tại kinh thành Indapatta, ta là người con trai được mong mỏi, được yêu quý, được nổi tiếng (với tên) là Somanassa. 249. Sīlavā
guṇasampanno kalyāṇapaṭibhāṇavā 249. Ta là người có giới, được thành tựu đức hạnh, có lối ứng xử lịch thiệp, có sự tôn kính bậc trưởng thượng, có sự khiêm tốn, và rành rẽ về các cách tiếp độ. 250. Tassa rañño
patikaro ahosi kuhakatāpaso 250. Có gã đạo sĩ giả trá được đức vua ấy yêu mến. Ông ta trồng trọt rau quả hoa màu rồi sinh sống. 251. Tamahaṃ
disvāna kuhakaṃ thusarāsiṃva ataṇḍulaṃ. 251. Nhận biết ông là giả trá ví như đống trấu không có hạt gạo, ví như thân cây có lỗ bọng lớn ở bên trong, ví như cây chuối không có lỏi cứng. 252. Natthi ’massa
sataṃ dhammo sāmaññāpagato ayaṃ 252. Không có pháp của các bậc thiện trí ở người này. Vì lý do nuôi dưỡng mạng sống, người này đã xa rời Sa-môn hạnh, đã từ bỏ pháp trong sạch là sự khiêm tốn. 253. Kupito ahosi
paccanto aṭavīhi parantihi 253. Vùng biên giới đã bị khuấy động bởi những kẻ lâm tặc thuộc các xứ lân bang. Khi ra đi để dẹp yên việc ấy, cha (ta) đã dạy bảo ta rằng: 254. Mā pamajji
tuvaṃ tāta jaṭilaṃ uggatāpanaṃ 254. “Này con yêu dấu, con chớ có lơ là với vị đạo sĩ tóc bện nghiêm trì khổ hạnh. Hãy thi hành điều (vị ấy) ước muốn bởi vì vị ấy là người ban bố (cho chúng ta) mọi điều lạc thú.” 255. Tamahaṃ
gantvā’nupaṭṭhānaṃ idaṃ vacanamabraviṃ 255. Ta đã đi đến phục vụ vị ấy và đã nói lời này: “Này gia chủ, ông có được an vui không?” hoặc “Vật gì cần được mang lại cho ông?” 256. Tena so
kupito āsi kuhako mānanissito 256. Vì thế, kẻ giả trá, chất chứa ngã mạn ấy đã giận dữ (nói rằng): “Hôm nay, ta sẽ làm cho ngươi hoặc là bị giết chết, hoặc là bị trục xuất ra khỏi vương quốc.” 257. Nisedhayitvā
paccantaṃ rājā kuhakamabravi 257. Sau khi bình định khu vực biên giới, đức vua đã nói với kẻ giả trá (ấy) rằng: “Thưa ngài, ngài có được thoải mái, có được sự tôn kính không?” Gã xấu xa đã nói với đức vua rằng: “Hoàng tử cần phải bị trừng trị như thế.” 258. Tassa taṃ
vacanaṃ sutvā āṇāpesi mahīpati 258. Sau khi nghe được lời nói ấy của kẻ ấy, vị chúa tể của trái đất đã ra lệnh rằng: “Hãy chém đầu ngay tại chỗ, rồi phân (thây) thành bốn mảnh, và cho trưng bày ở khắp các ngã đường; đó là phần số dành cho kẻ miệt thị vị đạo sĩ tóc bện.” 259. Tattha
kāraṇikā gantvā caṇḍā luddā akāruṇā 259. Tại nơi ấy,[4] những người hành quyết độc ác, hung dữ, bất nhân đã lôi kéo ta đang ngồi ở lòng mẹ rồi dẫn đi. [5] 260. Tesāhaṃ
evamavacaṃ bandhataṃ gāḷhabandhanaṃ 260. Ta đã nói với họ như vầy: “Hãy cấp tốc đưa ta đã bị trói bằng gông xiềng chắc chắc đến trình diện đức vua, ta có các việc cần làm cho đức vua.” 261. Te maṃ rañño
dassayiṃsu pāpassa pāpasevino 261. Bọn họ đã đưa ta đến gặp vị vua ác xấu là người thân cận với kẻ ác xấu. Sau khi tiếp kiến, ta đã làm cho đức vua hiểu rõ và ta đã tạo được uy thế cho ta. 262. So maṃ tattha
khamāpesi mahārajjamadāsi me 262. Đức vua đã yêu cầu thứ lỗi về việc ấy và đã trao vương quốc rộng lớn lại cho ta. Ta đây, sau khi phá tan sự mê muội, đã xuất gia theo hạnh không nhà. 263. Na me dessaṃ
mahārajjaṃ kāmabhogo na dessiyo 263. Vương quốc rộng lớn không có bị ta ghét bỏ, sự hưởng thụ các dục không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã từ bỏ vương quốc.
Somanassacariyaṃ dutiyaṃ. --ooOoo--
3. Ayogharacariyaṃ *** 264. Punāparaṃ
yadā homi kāsirājassa atrajo 264. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là người con trai của đức vua Kāsi, ta đã lớn lên trong căn nhà bằng sắt [7] và đã được gọi với tên là Ayoghara. 265. Dukkhena
jīvito laddho sampīḷe patiposito 265. (Vua cha đã phán rằng:) “Này con, mạng sống của con được tiếp nhận một cách khó khăn, được nuôi dưỡng ở nơi bực bội. Ngay chính ngày hôm nay, con hãy cai quản toàn thể trái đất này 266. Saraṭṭhakaṃ
sanigamaṃ sajanaṃ vanditvā khattiyaṃ 266. cùng với cư dân trong xứ sở, luôn cả phố chợ, và loài người nữa.” Sau khi đảnh lễ vị Sát-đế-lỵ, ta đã chắp tay lên và đã nói lời này: 267. Ye keci
mahiyā sattā hīnamukkaṭṭhamajjhimā 267. “Bất cứ chúng sanh nào ở trên trái đất, dầu kém cỏi, cao quý, hoặc trung bình, lớn lên trong nhà của chính họ cùng với các thân quyến không cần sự bảo vệ.” 268. Idaṃ loke
uttariyaṃ sampīḷe mama posanaṃ 268. (Rồi ta đã suy nghĩ rằng:) “Sự nuôi dưỡng này của ta ở trong nơi bực bội là hy hữu ở trên thế gian. Ta đã được lớn lên trong căn nhà bằng sắt thiếu hẳn ánh sáng mặt trăng và mặt trời. 269.
Pūtikuṇapasampuṇṇā muccitvā mātukucchito 269. Có được tấm thân hối thối này sau khi rời khỏi bụng mẹ, từ đó ta lại bị ném vào căn nhà sắt khổ sở và kinh hãi hơn một lần nữa. 270. Yadihaṃ
tādisaṃ patvā dukkhaṃ paramadāruṇaṃ 270. Nếu sau khi đã đạt đến khổ đau vô cùng ghê rợn như thế ấy, nếu ta còn thích thú trong vương quyền thì ta là kẻ tồi tệ nhất trong số những kẻ ác xấu.” 271. Ukkaṇṭhitomhi
kāyena rajjenamhi anatthiko 271. Ta nhàm chán xác thân, ta không mong muốn vương quyền, ta sẽ tầm cầu sự tịch diệt Niết-bàn là nơi tử thần không thể đày đọa.” 272. Evāhaṃ
cintayitvāna viravantaṃ mahājanaṃ 272. Trong lúc đó đám đông đang kêu gào, ta đã suy nghĩ như vậy và đã đi vào khu rừng rậm, giống như con voi đã giật đứt xiềng xích. 273. Mātā pitā na
me dessā napi me dessaṃ mahāyasaṃ 273. Mẹ cha không có bị ta ghét bỏ, danh vọng lớn lao cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã từ bỏ vương quốc.
Ayogharacariyaṃ tatiyaṃ. --ooOoo--
4. Bhisacariyaṃ *** 274. Punāparaṃ
yadā homi kāsīnaṃ puravaruttame 274. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta ở tại kinh thành của xứ Kāsi, (ta có) một người em gái và bảy người em trai được sanh ra trong gia đình quý phái (dòng Bà-la-môn). 275. Etesaṃ
pubbajo āsiṃ hirisukkamupāgato 275. Trong số những người này, ta đã được sanh ra trước tiên, đạt được pháp trong sạch là sự khiêm tốn. Sau khi nhận thấy sự hiện hữu là nguy hại, ta đã thỏa thích trong việc xuất gia. 276. Mātā pitūhi
pahitā sahāyā ekamānasā 276. Các thân hữu, được mẹ và cha nhắn đến, đồng tâm mời mọc (ta) bằng các dục lạc: “Bạn hãy duy trì dòng dõi gia tộc.” 277. Yaṃ tesaṃ
vacanaṃ vuttaṃ gihī dhamme sukhāvahaṃ 277. Lời nào của những người ấy được nói ra về việc đem lại lạc thú trong cuộc sống gia đình, điều ấy đối với ta được xem tương tợ như lưỡi cày đã được nung đỏ, thô thiển. 278. Te maṃ tadā
ukkhipantaṃ pucchiṃsu patthitaṃ mama 278. Khi ấy, họ đã hỏi ta, kẻ từ khước (cuộc sống gia đình), về nguyện vọng của ta: “Này bạn, nếu bạn không hưởng thục các dục thì bạn mong muốn điều gì?” 279. Tesāhaṃ
evamavacaṃ atthakāmo hitesinaṃ 279. Là người mong muốn điều tốt đẹp, ta đã nói với họ, những người đang tầm cầu lợi ích (cho ta) rằng: “Tôi không mong muốn trạng thái người tại gia, tôi thỏa thích trong sự xuất ly.” 280. Te mayhaṃ
vacanaṃ sutvā pitu mātu ca sāvayuṃ 280. Sau khi lắng nghe lời nói của ta, họ đã thuật lại cho cha mẹ (ta). Mẹ cha ta đã nói như vầy: “Này quí vị, tất cả chúng tôi cũng xuất gia.” 281. Ubho mātā
pitā mayhaṃ bhaginī ca satta bhātaro 281. Cả hai mẹ cha của ta, người em gái, và bảy em trai đã buông bỏ của cải vô số rồi đi vào trong khu rừng lớn.
Bhisacariyaṃ catutthaṃ. --ooOoo--
5. Soṇapaṇḍitacariyaṃ *** 282. Punāparaṃ
yadā homi nagare brahmavaḍḍhane 282. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta sống ở thành phố Brahma-vaḍḍhana, tại nơi ấy ta đã được sinh ra trong gia đình cao quý, ưu tú, vô cùng giàu có. 283. Tadāpi lokaṃ
disvāna andhabhūtaṃ tamotthataṃ 283. Khi ấy, ta cũng đã nhận thấy thế gian là bị mù quáng, bị bao phủ bởi bóng tối. Tâm (ta) chối từ sự hiện hữu như thể bị châm chích thô bạo bởi cây gậy nhọn. 284. Disvāna
vividhaṃ pāpaṃ evaṃ cintesahaṃ tadā 284. Sau khi nhận thấy sự xấu xa dưới nhiều hình thức khác nhau, ta đã suy nghĩ như vầy: “Lúc nào ta sẽ lìa bỏ gia đình, ta sẽ đi vào rừng?” 285. Tadāpi maṃ
nimantiṃsu kāmabhogehi ñātayo 285. Cũng vào khi ấy, các thân quyến đã mời mọc ta với các sự thọ hưởng về dục lạc, ta cũng đã nói cho những người ấy về ước muốn (của ta) rằng: “Xin các vị chớ có mời mọc ta bằng những thứ ấy.” 286. Yo me
kaṇiṭṭhako bhātā nandonāmāsi paṇḍito 286. Em trai của ta tên là Nanda là bậc trí tuệ. Vị ấy, trong khi học tập theo ta, cũng đã thích thú với việc xuất gia. 287. Ahaṃ soṇo ca
nando ca ubho mātā pitā mama 287. Khi ấy, ta Soṇa và Nanda cùng với cả hai cha mẹ của ta cũng đã buông bỏ của cải vô số rồi đi vào trong khu rừng lớn.
Soṇapaṇḍitacariyaṃ pañcamaṃ.
Nekkhammapāramitā niṭṭhitā. --ooOoo--
IV.
ADHIṬṬHĀNAPĀRAMITĀ
6. Temiyapaṇḍitacariyaṃ *** 288. Punā paraṃ
yadā homi kāsirājassa atrajo 288. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là người con trai của đức vua Kāsi có tên là Mūgapakkha, nhưng mọi người gọi ta là Temiya. [11] 289.
Soḷasitthisahassānaṃ na vijjati pumo tadā 289. Khi ấy, mười sáu ngàn phi tần (của đức vua) không có được một người con trai (luôn cả con gái). Sau nhiều ngày đêm, chỉ mỗi một mình ta đã được sanh ra. 290. Kicchā
laddhaṃ piyaṃ puttaṃ abhijātaṃ jutindharaṃ 290. (Vua) cha đã nuôi dưỡng ta, người con trai yêu quý, đạt được một cách khó nhọc, đã được sanh ra vẹn toàn, có thân tâm sáng lạng, ở trên chiếc giường đã được che chiếc lọng màu trắng. 291. Niddāyamāno
sayanavare pabujjhitvānahaṃ tadā 291. Khi ấy, trong lúc đang ngủ trên chiếc giường cao quý, ta đã thức giấc và nhìn thấy chiếc lọng nhạt màu, nghĩa là ta sẽ bị đi địa ngục. 292. Sahadiṭṭhassa
me chattaṃ tāso uppajji bheravo 292. Có nỗi sợ hãi ghê gớm đã khởi lên ở ta khi được nhìn thấy chiếc lọng. Ta đã đi đến quyết định: “Ta sẽ được thoát khỏi điều này [12] bằng cách nào?”[13] 293. Pubbasālohitā
mayhaṃ devatā atthakāminī 293. Có vị tiên nữ trước đây cùng huyết thống với ta [14] có lòng mong muốn điều tốt đẹp cho ta, sau khi nhìn thấy bản thân ta bị đau khổ, đã căn dặn về ba thái độ: 294. Māpaṇḍiccaṃ
vibhāya bālamato bhava sabbapāṇinaṃ 294. “Chớ ra vẻ khôn ngoan, hãy là kẻ ngu si đối với tất cả chúng sanh, hãy làm cho mọi người khinh khi; như thế sẽ có sự tốt đẹp cho con.” 295. Evaṃ
vuttāya’haṃ tassā idaṃ vacanamabraviṃ 295. Khi được nói như vậy, ta đã nói với bà ấy lời này: “Bà tiên ơi, con sẽ thực hành theo lời mà bà đã chỉ bảo. Mẹ ơi, mẹ đã có lòng mong muốn điều tốt đẹp cho con. Bà tiên ơi, bà đã có mong muốn điều lợi ích cho con.” 296. Tassāhaṃ
vacanaṃ sutvā sāgareva thalaṃ labhiṃ 296. Sau khi nghe được lời nói của bà ấy, ta đã thọ nhận như là đã đến được đất liền ở giữa biển khơi. Mừng rỡ, với tâm ý phấn chấn, ta đã quyết định ba điều: 297. Mūgo ahosiṃ
badhiro pakkho gati vivajjito 297. Ta đã là người câm, điếc, què quặt, việc đi lại đã được từ bỏ. Ta đã quyết định các điều này và đã sống mười sáu năm. 298. Tato me
hatthapāde ca jivhaṃ sotañca maddiya 298. Do đó, họ đã xoa bóp tay chân, lưỡi và mắt của ta. Sau khi nhận thấy không có sự khiếm khuyết ở ta, họ đã chê bai là “Kẻ bất hạnh.” 299. Tato jānapadā
sabbe senāpati purohitā 299. Sau đó, tất cả dân chúng trong xứ sở, các tướng lãnh quân đội, các viên quan tế tự, tất cả đã nhất trí bằng lòng việc truất phế. 300. Sohaṃ tesaṃ
matiṃ sutvā haṭṭho saṃviggamānaso 300. Sau khi nghe ý kiến của những người ấy, ta đây đã trở nên mừng rỡ, có tâm trí phấn chấn. Sự khổ hạnh đã được thể hiện (bởi ta) vì mục đích nào thì mục đích ấy của ta đã được thành công. 301. Nahāpetvā
anulimpitvā veṭhetvā rājaveṭhanaṃ 301. Sau khi đã tắm rửa, xức dầu, đội lên vương miện, làm lễ rưới nước (cho ta), rồi với chiếc lọng che họ đã tiến hành việc đi nhiễu vòng quanh thành phố. 302. Sattāhaṃ
dhārayitvāna uggate ravimaṇḍale 302. Sau khi đã duy trì chiếc lọng trong bảy ngày, đến lúc vầng sáng của mặt trời hiện ra, người đánh xe đã đưa ta ra khỏi (thành phố) bằng chiếc xe ngựa rồi đi về phía khu rừng. 303. Ekokāse
rathaṃ katvā sajjassaṃ hatthamuñcito 303. Sau khi dừng chiếc xe ở một khoảng trống, người đánh xe đã buộc ngựa để được rảnh tay rồi đã đào cái hố để chôn ta ở trong lòng đất. 304.
Adhiṭṭhitamadhiṭṭhānaṃ tajjento vividhakāraṇā 304. Trong khi nhiều nguyên nhân đủ các loại đang đe dọa điều quyết tâm đã được khẳng định, ta đã không làm đổ vỡ việc tuân thủ đã được quyết định với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ. 305. Mātā pitā na
me dessā attā me na ca dessiyo 305. Mẹ cha không có bị ta ghét bỏ, bản thân cũng không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã quyết định việc tuân thủ. 306. Ete aṅge
adhiṭṭhāya vassāni soḷasiṃ vasiṃ. 306. Sau khi quyết định các điều này, ta đã sống trong mười sáu năm. Không có ai bằng (ta) về sự quyết định, điều này là sự toàn hảo về quyết định của ta.
Temiyacariyaṃ chaṭṭhamaṃ.
Adhiṭṭhānapāramitā niṭṭhitā. --ooOoo--
V. SACCAPĀRAMITĀ
7. Kapirājacariyaṃ *** 307. Yadā ahaṃ
kapi āsiṃ nadī kule darīsaye 307. Vào lúc ta là con khỉ sống trong hang ở bờ sông, ta đã bị đe dọa bởi con cá sấu nên không đạt được việc ra đi. 308. Yamhokāse
ahaṃ ṭhatvā orapāraṃ patāmahaṃ 308. Tại địa điểm ta thường đứng ở bờ bên này rồi nhảy qua bờ bên kia, tại chỗ ấy có con cá sấu là kẻ thù, là kẻ sát thủ, có dáng vóc hung tợn. 309. Somaṃ asaṃsi
ehīti ahamemīti taṃ vadiṃ 309. Con cá sấu đã thông báo với ta rằng: “Cứ việc đi đến.” Ta đã nói với nó rằng: “Tôi đang đi đến,” rồi đã bước lên đầu của nó và đã đứng vững bờ bên kia. 310. Na tassa
alikaṃ bhaṇitaṃ yathā vācaṃ akāsahaṃ 310. Điều đã được nói với con cá sấu không phải là không đúng sự thật (vì) ta đã hành động đúng theo lời nói. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.
Kapirājacariyaṃ sattamaṃ. --ooOoo--
8.
Saccatāpasacariyaṃ *** 311. Punāparaṃ
yadā homi tāpaso saccasavhayo 311. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là đạo sĩ khổ hạnh tên gọi Sacca. Ta đã hộ trì thế gian bằng sự chân thật; ta đã làm cho mọi người hợp nhất.
Saccapaṇḍitacariyaṃ aṭṭhamaṃ. --ooOoo--
9. Vaṭṭapotakacariyaṃ *** 312. Punāparaṃ
yadā homi magadhe vaṭṭapotako 312. Vào một thời điểm khác nữa, khi ở tại Magadha, ta là con chim cút con, cánh chưa được mọc, còn non nớt, (như) là miếng thịt ở trong tổ. 313. Mukhatuṇḍake
nāharitvā mātā posayatī mamaṃ 313. (Chim) mẹ tha (mồi) lại ở trong mỏ và nuôi dưỡng ta. Ta sống còn do sự tiếp xúc với chim mẹ; ta không có sức mạnh ở thân. 314. Saṃvacchare
gimhasamaye davaḍāho padippati 314. Trong năm vào mùa nóng, có nạn cháy rừng bộc phát. Ngọn lửa cuộn khói đen tiến về hướng chúng tôi. 315. Dhūmadhūmaṃ
janitvevaṃ saddāyanto mahāsikhī 315. Ngọn lửa lớn lao trong lúc gào thét đã tạo ra luồng khói này cuộn khói nọ. Trong khi lần lượt làm phát cháy, ngọn lửa đã tiến đến gần ta. 316. Aggivegabhayā
bhītā tasitā mātā pitā mama 316. Lo sợ vì sự ồ ạt của ngọn lửa, mẹ cha của ta trở nên kinh hãi, hoảng hốt, đã bỏ rơi ta lại ở trong tổ và đã giải thoát cho bản thân. 317. Pāde pakkhe
pajahāmi natthi me kāyikaṃ balaṃ 317. Ta đã ra sức hai chân, hai cánh; ta không có sức mạnh ở thân. Ta đây không đi được. Khi ấy tại nơi ấy, ta đã suy nghĩ như vầy: 318. Yesāhaṃ
upadhāveyyaṃ bhīto tasitavedhito 318. “Bị kinh hãi, hoảng hốt, run sợ, ta có thể chạy đến gần cha mẹ, nhưng họ đã bỏ rơi ta và tẩu thoát. Ta nên hành động như thế nào ngày hôm nay? 319. Atthi loke
sīlaguṇo saccaṃ soceyyanuddayā 319. Đức hạnh của giới, sự chân thật, sự trong sạch, lòng bi mẫn hiện hữu ở trên đời; với sự chân thật ấy, ta có thể hiện hành động chân thật tối thắng.” 320. Āvajjetvā
dhammabalaṃ saritvā pubbako jine 320. Ta đã hướng về sức mạnh của Giáo Pháp, tưởng nhớ đến các đấng Chiến Thắng [17] trước đây, và nương tựa vào sức mạnh của sự chân thật, ta đã thể hiện hành động chân thật rằng: 321. Santi pakkhā
apatanā santi pādā avañcanā3 321. “Có cánh không thể bay, có chân không thể đi. Mẹ cha đã lìa khỏi, lửa ơi hãy lui đi.” 322. Saha sacce
kataṃ mayhaṃ mahā pajjalito sikhī 322. Với sự chân thật đã được thực hiện bởi ta, ngọn lửa cháy rực to lớn đã lùi trở lại mười sáu karīsa, [18] giống như ngọn lửa đã gặp phải nước. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.
Vaṭṭapotaka cariyaṃ navamaṃ. --ooOoo--
10. Maccharājacariyaṃ *** 323. Punāparaṃ
yadā homi maccharājā mahāsare 323. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vua của loài cá ở trong cái hồ rộng lớn. Và nước ở trong hồ bị khô cạn vào mùa nắng, dưới sự đốt cháy của ánh mặt trời. 324. Tato kākā ca
gijjhā ca bakā kuḷalasenakā 324. Do đó, các con quạ, các con diều hâu, các con cò, các con chim ưng và chim ó đã đáp xuống, ăn các con cá ban ngày lẫn ban đêm. [20] 325. Evaṃ
cintesahaṃ tattha saha ñātīhi pīḷito 325. Tại nơi ấy, cùng với các thân quyến ta đã bị áp bức, và ta đã suy nghĩ như vầy: “Vậy thì bằng cách nào để ta có thể giải thoát cho thân quyến khỏi khổ đau?” 326. Vicintayitvā
dhammatthaṃ saccaṃ addasa passayaṃ 326. Sau khi xem xét ý nghĩa của các pháp, ta đã nhận ra sự chân thật là nơi nương tựa. Căn cứ vào sự chân thật, ta đã cởi bỏ thảm họa bị diệt chủng ấy cho các thân quyến. 327. Anussaritvā
saddhammaṃ paramatthaṃ vicintayaṃ 327. Sau khi hồi tưởng về thiện pháp, ta đã suy nghiệm về chân lý tuyệt đối. Ta đã thể hiện hành động chân thật là pháp bền vững và thường còn ở thế gian rằng: 328. Yato sarāmi
attānaṃ yato pattosmi viññutaṃ 328. “Kể từ lúc ta nhớ được về bản thân, kể từ khi ta đạt đến sự hiểu biết, ta không biết đến việc đã cố ý hãm hại dầu chỉ một sanh mạng. [21] Do lời nói chân thật này, xin Thần Mây [22] hãy đổ mưa xuống. 329. Abhitthanaya
pajjunna nidhiṃ kākassa nāsaya 329. Hỡi Thần Mây, hãy vang lên tiếng sấm, hãy làm tiêu tan kho lương dự trữ của loài quạ, [23] hãy vây hãm loài quạ bằng sự buồn rầu, hãy giải thoát loài cá khỏi nỗi phiền muộn.” 330. Sahakate
saccavare pajjunto cābhigajjiya 330. Đồng lúc với sự chân thật cao quý được thể hiện, Thần Mây đã gầm lên tiếng sấm và trong giây lát đã đổ mưa xuống, làm tràn ngập vùng đất liền và trũng thấp. 331. Evarūpaṃ
saccavaraṃ katvā viriyamuttamaṃ 331. Sau khi thể hiện sự tinh tấn tột đỉnh là pháp chân thật cao quý có hình thức như thế, (có sự) tin cậy vào năng lực và uy quyền của sự chân thật, ta đã làm cho đám mây lớn đổ mưa xuống. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.
Maccharājacariyaṃ dasamaṃ. --ooOoo--
11. Kaṇhadīpāyanacariyaṃ *** 332. Punāparaṃ
yadā homi kaṇhadīpāyano isī 332. Vào một thời điểm khác nữa, khi là vị ẩn sĩ Kaṇhadīpāyana, ta đã sống không được hoan hỷ hơn năm mươi năm. 333. Na koci etaṃ
jānāti anabhiratimanaṃ mama 333. Không ai biết tâm ý không hoan hỷ này của ta. Ta đã không nói ra với ai cả và sự không hoan hỷ diễn tiến ở trong tâm ý của ta. 334. Sabrahmacārī
maṇḍabyo sahāyo me mahā isī 334. Bà-la-môn Maṇḍabya, bạn của ta, là một vị đại ẩn sĩ đã bị thọ lãnh (hành phạt) cắm cọc nhọn do trả quả của nghiệp quá khứ. [25] 335. Tamahaṃ
upaṭṭhahitvāna ārogyamanupāpayiṃ 335. Ta đã chăm sóc và đã phục hồi sức khỏe cho vị ấy. Sau khi cáo từ, ta đã trở về lại chốn ẩn cư của mình. 336. Sahāyo
brāhmaṇo mayhaṃ bhariyaṃ ādāya puttakaṃ 336. Người bạn Bà-la-môn của ta đã đưa vợ và đứa con trai nhỏ đến. Ba người cùng đi và đã đi đến với tư thế của những người khách. 337. Sammodamāno
tehi saha nisinno sakamassame 337. Trong lúc ta đang ngồi tại chốn ẩn cư của mình chuyện trò với những người ấy, đứa bé trai đã ném trái banh và làm cho làm con rắn có nọc độc giận dữ. 338. Tato so
vaṭṭagataṃ maggaṃ anvesanto kumārako 338. Sau đó, trong lúc dõi theo lộ trình di chuyển của trái banh, đứa bé trai ấy đã chạm bàn tay vào đầu của con rắn độc. 339. Tassa āmasane
kuddho sappo visabalassito 339. Do sự đụng chạm của đứa bé, con rắn đã trở nên giận dữ. Ỷ lại vào sức mạnh của nọc độc, bị bực bội với sự bực bội cùng tột, con rắn ngay lập tức đã cắn đứa bé. 340. Saha daṭṭho
āsivisena dārako papati bhūmiyaṃ 340. Khi bị cắn bởi con rắn độc, đứa bé đã ngã xuống ở trên nền đất. Vì điều ấy, ta đã trở nên đau buồn; nỗi buồn đau ấy đã tác động đến ta. 341. Tyāhaṃ
assāsayitvāna dukkhite sokasallite 341. Sau khi an ủi họ (là những người) đang bị đau khổ, đang bị mũi tên sầu muộn, ta đã thể hiện hành động chân thật tột đỉnh cao quý tối thượng lần đầu tiên rằng: 342.
Sattāhamevāhaṃ pasannacitto 342. “Là người mong mỏi phước thiện, ta đã thực hành Phạm hạnh với tâm tín thành chỉ được bảy ngày. Từ đó về sau, Phạm hạnh của ta là năm mươi năm và thêm nữa. 343. Akāmako vāhi
ahaṃ carāmi etena saccena suvatthi hoti 343. Ta thực hành (Phạm hạnh) không có nhiệt tình, chỉ qua ngày. Do lời nói chân thật này, hãy có được sự tốt lành, chất độc hãy được tiêu trừ, và Yaññadatta [26] hãy sống.” 344. Saha sacce
kate mayhaṃ visavegena vedhito 344. Với sự chân thật của ta đã được thể hiện, đứa bé Bà-la-môn bị run rẩy bởi sức mạnh của nọc độc đã được tỉnh lại, đã đứng lên, không tật bệnh. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.
Kaṇhadīpāyanacariyaṃ ekādasamaṃ. --ooOoo--
12. Sutasomacariyaṃ *** 345. Punāparaṃ
yadā homi sutasomo mahīpatī 345. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là đức vua Sutasoma. Bị bắt giữ bởi Porisāda (kẻ ăn thịt người), ta đã nhớ lại lời hứa với vị Bà-la-môn. 346. Khattiyānaṃ
ekasataṃ āvuṇitvā karatale 346. Sau khi xỏ dây ở lòng bàn tay của một trăm vị Sát-đế-lỵ rồi (treo lên) phơi khô họ, kẻ ấy đã đưa ta đi nhằm mục đích tế thần. 347. Apucchi maṃ
porisādo kintvaṃ icchasi nissajaṃ. 347. Kẻ ăn thịt người đã hỏi ta rằng: “Có phải ngài mong muốn việc cởi trói? Ta sẽ làm theo ý thích của ngài nếu ngài còn quay trở lại.” 348. Tassa
paṭissuṇitvāna paṇhe āgamanaṃ mama 348. Vào lúc ấy, sau khi đã hứa hẹn đối với câu hỏi của kẻ (ăn thịt người) ấy về việc trở lại của ta, ta đã đi đến thành phố tráng lệ và đã chối từ vương quốc. 349. Anussaritvā
saddhammaṃ pubbakaṃ jinasevitaṃ 349. Sau khi tưởng nhớ đến Chánh Pháp đã được thực hành bởi các đấng Chiến Thắng thời quá khứ, ta đã trao lại tài sản cho vị Bà-la-môn và đã đi đến gặp kẻ ăn thịt người. 350. Natthi me
saṃsayo tattha ghātayissati vā na vā 350. Trong trường hợp ấy, không có sự phân vân ở ta về việc kẻ ấy sẽ giết hay không (giết). Trong khi bảo vệ lời nói chân thật, ta đã đi đến để buông bỏ mạng sống. Không có ai bằng (ta) về sự chân thật, điều này là sự toàn hảo về chân thật của ta.
Sutasomacariyaṃ dvādasamaṃ.
Saccapāramitā niṭṭhitā. --ooOoo--
VI. METTĀ PĀRAMITĀ
13. Suvaṇṇasāmacariyaṃ *** 351. Sāmo yadā
vane āsiṃ sakkena abhinimmito 351. Vào lúc ta là Sāma ở trong khu rừng đã được (Chúa Trời) Sakka hóa hiện ra. Ở trong khu rừng lớn, ta đã rải tâm từ ái đến các loài sư tử và cọp. 352. Sīhabyagghehi
dīpīhi acchehi mahisehi ca 352. Ta đã sống ở trong khu rừng, được quây quần xung quanh bởi các loài sư tử, cọp, beo, gấu, trâu rừng, nai đốm, và heo rừng. 353. Na maṃ koci
uttasati, napihaṃ bhāyāmi kassaci, 353. Không loài thú nào e ngại ta, ta cũng không sợ hãi loài thú nào. Lúc bấy giờ, được duy trì nhờ vào năng lực từ ái, ta hứng thú ở trong khu rừng lớn.
Suvaṇṇasāmacariyaṃ terasamaṃ. --ooOoo--
14. Ekarājacariyaṃ *** 354. Punāparaṃ
yadā homi ekarājāti vissuto 354. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta được nổi tiếng (với tên) là Ekarāja. Ta đã phát nguyện về giới hạnh tối cao và đã cai quản trái đất to lớn. [30] 355.
Dasakusalakammapathe vattāmi anavasesato 355. Ta đã thực hành về thập thiện nghiệp đạo không thiếu sót. Ta đã thâu phục đám đông dân chúng bằng bốn phép tiếp độ. 356. Evaṃ me
appamattassa idhaloke parattha ca 356. Trong lúc ta đang tinh tấn như thế vì lợi ích ở đời này và thế giới khác, Dabbasena [31] đã tiến đến chiếm cứ thành phố của ta. 357. Rājūpajīve
nigame sabalaṭṭhe saraṭṭhake. 3357. Sau khi thực hiện việc thâu tóm tất cả gồm có nhân sự của đức vua, các thị dân, cùng với quân đội, vá các cư dân của xứ sở, (vị ấy) đã chôn ta ở trong cái hố. 58. Amaccamaṇḍalaṃ
rajjaṃ phītaṃ antepuraṃ mama 358. (Vị ấy) đã chiếm đoạt quần thần, vương quốc thịnh vượng, và hậu cung của ta. Ta đã nhìn thấy chính đứa con trai yêu dấu đang bị bắt đi. Không có ai bằng (ta) về từ ái, điều này là sự toàn hảo về từ ái của ta.
Ekarājacariyaṃ cuddasamaṃ.
Mettā pāramitā niṭṭhitā. --ooOoo--
VII.
UPEKKHĀPĀRAMITĀ
15. Mahālomahaṃsacariyaṃ *** 359. Susāne seyyaṃ
kappemi chavaṭṭhikaṃ upanidhāya ’haṃ 359. Ta nằm ở trong bãi tha ma tựa vào bộ xương người chết. Đám trẻ con nhà quê đã đi đến và đã phô diễn hình thức (khuấy rối) không phải là ít. 360. Apare
gandhañca mālañca bhojanaṃ vividhaṃ bahuṃ 360. Các đứa khác mừng rỡ, với tâm trí phấn chấn, mang lại các quà tặng là hương thơm, vòng hoa, và vô số thực phẩm các loại. 361. Ye me dukkhaṃ
upadahanti ye ca denti sukhaṃ mama 361. Ta đều bình đẳng đối với tất cả những ai gây ra khổ đau cho ta cũng như những ai đem lại cho ta an lạc; thương và giận đều không được biết đến. 362.
Sukhadukkhatulā bhūto yasesu ayasesu ca 362. Là thăng bằng giữa an lạc và khổ đau, giữa các danh thơm và những tiếng xấu, ta đều bình đẳng trong mọi trường hợp; điều này là sự toàn hảo về hành xả của ta.
Mahālomahaṃsacariyaṃ paṇṇarasamaṃ.
Upekkhā pāramitā niṭṭhitā. --ooOoo--
UDDĀNA GĀTHĀ *** 363. Yudhañjayo
somanasso ayoghara bhisenaca 363. Chuyện Yudhañjaya, chuyện Somanassa, chuyện Ayoghara (ngôi nhà sắt), và chuyện Bhisa, chuyện Soṇa và Nanda, chuyện Mūgapakkha (Temiya), chuyện con khỉ chúa, và chuyện vị (đạo sĩ) tên Sacca. 364. Vaṭṭako
maccharājā ca kaṇhadīpāyano isi 364. Chuyện chim cút con, và chuyện vua cá, chuyện ẩn sĩ Kaṇhadīpāyana, lại nữa ta đã là Sutasoma, Sāma, và Ekarājā, và đã có sự toàn hảo về hành xả; như thế đã được thuyết giảng bởi vị Đại Ẩn Sĩ. 365. Evaṃ
bahuvidhiṃ dukkhaṃ sampatti ca bahuvidhā 365. Sau khi kinh nghiệm khổ đau dưới nhiều hình thức và thành công với nhiều thể loại ở lần tái sanh này đến lần tái sanh khác như thế, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng. 366. Datvā
dātabbakaṃ dānaṃ sīlaṃ pūretvā asesato 366. Sau khi bố thí những gì cần được bố thí, sau khi làm viên mãn giới hạnh không thiếu sót, sau khi đạt đến sự toàn hảo về xuất ly, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng. 367. Paṇḍite
paripucchitvā viriyaṃ katvāna muttamaṃ. 367. Sau khi đã vấn hỏi các bậc hiền trí, sau khi đã thể hiện sự tinh tấn tối thượng, sau khi đã đạt đến sự toàn hảo về nhẫn nại, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng. 368. Katvā
daḷhamadhiṭṭhānaṃ saccavāvānurakkhiya 368. Sau khi đã thực hành sự quyết định vững chắc, sau khi đã hộ trì lời nói chân thật, sau khi đã đạt đến sự toàn hảo về từ ái, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng. 369. Lābhālābhe
yasāyase sammānanāvamānane 369. Ðối với lợi lộc và không lợi lộc, đối với danh thơm và tiếng xấu, đối với sự kính trọng và chê bai, sau khi đã là bình đẳng trong mọi trường hợp, ta đã đạt đến quả vị Toàn Giác tối thượng. 370. Kosajjaṃ
bhayato disvā viriyārambhañca khemato 370. Sau khi thấy được sự biếng nhác là nguy hiểm và việc khởi sự tinh tấn là an toàn, hãy nỗ lực tinh tấn; đây là lời giáo huấn của chư Phật. 371. Vivādaṃ
bhayato disvā avivādañca khemato 371. Sau khi thấy được sự tranh cãi là nguy hiểm và sự không tranh cãi là an toàn, hãy hợp nhất, thân thiện; đây là lời giáo huấn của chư Phật. 372. Sau khi thấy được sự dễ duôi là nguy hiểm và sự không dễ duôi là an toàn, hãy tu tập đạo lộ tám chi phần; đây là lời giáo huấn của chư Phật. [33]
Yudhañjayavaggo tatiyo. --ooOoo-- Itthaṃ sudaṃ bhagavā attano pubbacariyaṃ
sambhāvayamāno Ở đây, trong khi trình bày về phẩm hạnh quá khứ của bản thân, đức Thế Tôn đã thuyết giảng về bản thể của Giáo Pháp có tên là Buddhāpadāniyaṃ. [34]
Cariyāpiṭakapāḷi samattā. --ooOoo-- [1] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 460. [2] Do tác động của sự tưởng đến vô thường, CpA. 183. [3] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 505 [4] tattha, được giải thích là: “với sự ra lệnh của đức vua ...,” CpA. 191. [5] Lúc ấy, đức Bồ-tát được bảy tuổi, CpA. 189. [6] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 510. [7] Đức Bồ-tát đã được nuôi lớn lên trong ngôi nhà lớn hoàn toàn bằng sắt được xây dựng theo hình thức gian nhà hình tứ giác nhằm mục đích ngăn ngừa các tai họa do phi nhân. Hai người anh trai của đức Bồ-tát đã bị con nữ Dạ-xoa ăn thịt lúc mới sanh ra (CpA. 195-6). [8] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 488. [9] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 532. [10] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 538. [11] Vào ngày đức Bồ-tát được sanh ra, trời đã đổ cơn mưa xuống toàn thể vương quốc Kāsi, nên được gọi là Temiya (được ầm ướt), CpA. 216-7. [12] Là thoát khỏi vương quốc xui xẻo này, CpA. 218. [13] Dịch theo kathāhaṃ imaṃ muñcissaṃ thay vì kadāhaṃ ...? (Khi nào ta sẽ ...?) [14] Vị này ngự ở trên chiếc lọng ấy và là người mẹ ruột trong một kiếp sống trước đây, CpA. 218. [15] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 57. [16] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 35. [17] Jina (đấng Chiến Thắng) cũng là danh hiệu đề cập đến đức Phật. [18] karīsa là đơn vị đo diện tích. [19] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 75. [20] Lúc này, hồ đã bị cạn nước, các con cá nằm trong các bãi bùn rải rác đó đây, CpA. 237. [21] Dịch theo câu văn Pāḷi ở phần cước chú. [22] Dịch theo Chú Giải ... pajjuno megho abhivassatu, CpA. 238. [23] Kho lương dự trữ ám chỉ đến các con cá đang vướng trong bùn. Nếu trời đổ mưa làm đầy nước trong hồ thì kho lương dự trữ của loài quạ sẽ bị tiêu tan (CpA. 238-9). [24] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 444. [25] Trong thời quá khứ, tiền thân vị này đã dùng một mảnh gỗ mun đâm xuyên qua con ruồi, CpA. 243. [26] Tên của đứa bé trai, CpA. 245. [27] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 537. [28] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 540. [29] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 303. [30] Đã cai quản vùng đất rộng lớn ở vương quốc Kāsi ba trăm do-tuần, CpA. 264. [31] Dabbasena là đức vua xứ Kosala, CpA. 264. [32] Có thể liên quan đến Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 94. [33] Câu kệ 372 không có ở Tạng Tích Lan, nhưng được thấy ở Tạng Thái, Miến Điện, Anh: Pamādaṃ bhayato disvā, appamādañca
khemato [34] Buddhāpadāniyaṃ là đề tài được thuyết giảng, là đề tài được trình bày có liên quan đến công hạnh khó làm thuộc thời xa xưa nghĩa là việc làm quá khứ của chư Phật, CpA. 335. -ooOoo- |
Chân thành cám ơn Tỳ khưu Indacanda đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 09-2006)
[Trở
về trang Thư Mục]
last updated:
09-09-2006