SUTTANTAPIṬAKE KHUDDAKANIKĀYE CARIYĀPIṬAKA PĀḶI Lời tiếng Việt: Tỳ khưu Indacanda SRI JAYAWARDHANARAMAYA
Namo tassa bhagavato arahato sammā sambuddhassa
I. DĀNAPĀRAMITĀ
1. Akitticariyaṃ 1. Kappe ca
satasahasse caturo ca asaṅkhiye 1. Các hạnh nào được thực hành trong khoảng thời gian này,[2] (tức là) bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp,[3] tất cả các hạnh ấy là điều kiện làm cho chín muồi quả vị giác ngộ. 2. Atītakappe
caritaṃ ṭhapayitvā bhavābhave 2. Trừ ra các hạnh đã được thực hành trong kiếp quá khứ thuộc đời này hoặc đời khác, ta sẽ nói đến hạnh đã được thực hiện trong kiếp này, ngươi hãy lắng nghe. [4] 3. Yadā ahaṃ
brahāraññe suññe vipinakānane 3. Lúc bấy giờ, ta là vị đạo sĩ khổ hạnh tên Akitti. Ta đã đi sâu vào và cư ngụ ở khu rừng rậm, hoang vắng, là lâm viên có nhiều cây. 4. Tadā maṃ
tapatejena santatto tidivādhibhū 4. Khi ấy, Chúa của chư thiên Sakka [5] bị nóng bức [6] bởi năng lực khổ hạnh của ta nên đã đi đến gần ta để xin vật thực trong dáng vóc vị Bà-la-môn. 5. Pavanā ābhataṃ
paṇṇaṃ atelañca aloṇikaṃ 5. Nhìn thấy (vị ấy) đứng ở cánh cửa (căn chòi lá) của ta, ta đã bày ra chỉ có một tô lá cây đã được gió gom lại, không có dầu và cũng không có muối.[7] 6. Tassa
datvānahaṃ paṇṇaṃ nikkujjitvāna bhājanaṃ 6. Sau khi bố thí lá cây đến vị này, ta đã lập úp cái tô lại, từ bỏ việc tìm kiếm (thức ăn) một lần nữa, và đã đi vào căn chòi lá. 7. Dutiyampi
tatiyampi upagañchi mamantikaṃ 7. Lần thứ nhì, rồi lần thứ ba, vị ấy cũng đã đi đến gặp ta. Không dao động, không dính mắc, ta đã bố thí như hai lần trước. 8. Na me
tappaccayā atthi sarīrasmiṃ vivaṇṇiyaṃ 8. (Nhưng) không vì nguyên nhân ấy mà thân thể của ta trở nên tiều tụy; ta đã trải qua ngày hôm ấy với niềm phỉ lạc và hứng thú. 9. Yadi māsampi
dve māsaṃ dakkhiṇeyyaṃ varaṃ labhe 9. Nếu như ta có được một vị xứng đáng để cúng dường thì ta có thể dâng cúng vật thí tối thượng luôn cả một tháng, hai tháng, mà không dao động, không lưỡng lự. 10. Na tassa dānaṃ
dadamāno yasaṃ lābhañca patthayiṃ 10. Trong khi bố thí phẩm vật cho vị ấy, ta đã không mong cầu danh và lợi. Ta đã thực hiện những hành động ấy trong khi ước mong phẩm vị Toàn Tri.
Akitticariyaṃ paṭhamaṃ. --ooOoo--
2. Saṅkhacariyaṃ *** 11. Punāparaṃ yadā
homi brāhmaṇo saṅkhasavhayo 11. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vị Bà-la-môn tên gọi Saṅ-kha. Có ý định băng qua đại dương, ta đã đi đến bến tàu. 12. Tatthaddasāmi
paṭipathe sayambhuṃ aparājitaṃ 12. Tại nơi ấy, ta đã nhìn thấy ở phía bên kia đường một vị Phật Độc Giác, là bậc không bị kẻ khác hàng phục, đang đi ở con đường xa vắng, trên mặt đất gồ ghề, nóng bỏng. 13. Tamahaṃ
paṭipathe disvā imamatthaṃ vicintayiṃ 13. Sau khi nhìn thấy vị ấy ở phía bên kia đường, ta đã suy xét về sự việc này: “Đây là phước điền đã được thành tựu đến cho người mong cầu phước báu.” 14. Yathāpi
kassako puriso khettaṃ disvā mahāgamaṃ. 14. Cũng giống như người nông phu nhìn thấy thửa ruộng có triển vọng thu hoạch lớn, người ấy không gieo hạt giống ở nơi ấy (nghĩa là) người ấy không có nhu cầu về thóc lúa. 15. Evamevāhaṃ
puññakāmo disvā khetta varuttamaṃ 15. Tương tợ như thế, là người có mong cầu về phước báu, sau khi nhìn thấy phước điền cao quý tối thượng, nếu ta không thể hiện hành động ở phước điền ấy thì ta không phải là người mong cầu về phước báu. 16. Yathā amacco
muddikāmo rañño ante pure jane 16. Giống như vị quan đại thần mong muốn có uy quyền đối với những người trong cung mà không ban cho những người ấy tài sản và thóc gạo thì sẽ bị suy giảm về uy quyền. 17. Evamevāhaṃ
puññakāmo vipulaṃ disvāna dakkhiṇaṃ 17. Tương tợ như thế, là người có mong cầu về phước báu sau khi nhìn thấy bậc cao thượng xứng đáng để cúng dường, nếu ta không dâng cúng vật thí đến vị ấy thì ta sẽ bị suy giảm về phước báu. 18. Evāhaṃ
cintayitvāna orohitvā upāhanā 18. Sau khi suy nghĩ như thế, ta đã cởi ra đôi dép, rồi đảnh lễ ở hai bàn chân của vị ấy, và đã cúng dường dù và dép. 19. Tenevāhaṃ
sataguṇato sukhumālo sukhedhito 19. Mặc dầu ta có cơ thể mảnh mai và được nuôi dưỡng cẩn thận gấp trăm lần so với vị ấy, tuy nhiên trong khi làm tròn đủ hạnh bố thí, ta cũng đã cúng dường đến vị ấy như thế.
Saṅkhacariyaṃ dutiyaṃ. --ooOoo--
3. Kurudhammacariyaṃ *** 20. Punāparaṃ yadā
homi indapatthe puruttame 20. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vị vua tên Dhanañjaya ở tại kinh thành Indapattha, và được thuần thục về mười thiện nghiệp. 21. Kāliṅga
raṭṭhavisayā brāhmaṇā upagañchu maṃ 21. Những người Bà-la-môn từ lãnh thổ vương quốc Kaliṅga đã đi đến gặp ta. Họ đã cầu xin ta con long tượng được xem là biểu hiện của sự thịnh vượng và may mắn. 22. Avuṭṭhiko
janapado dubbhikkho chātako mahā 22. (Họ đã nói rằng): “Xứ sở chúng tôi không có mưa, thức ăn hiếm hoi, đói kém trầm trọng. Xin ngài hãy ban cho con hắc long tượng cao quý có tên là Añjana.” 23. Na me
yācakamanuppatte paṭikkhepo anucchavo 23. (Ta nghĩ rằng): “Đối với ta, khi có được người cầu xin thì sự từ chối là điều không đúng đắn. Sự thọ trì của ta chớ có bị đổ vỡ. Ta sẽ bố thí con voi vĩ đại.” 24. Nāgaṃ gahetvā
soṇḍāya bhiṅkāre ratanāmaye 24. Sau khi nắm lấy con voi ở chiếc ngà và rưới nước từ chiếc bình làm bằng ngọc quý lên bàn tay, ta đã cho con voi đến các vị Bà-la-môn. 25. Tassa nāge
padinnamhi amaccā etadabrūvuṃ 25. Khi con voi ấy đã được cho đi, các quan đại thần đã nói điều này: “Sao ngài lại cho con voi quý báu của ngài đến những kẻ cầu xin? 26. Dhaññaṃ
maṅgalasampannaṃ saṅgāmavijayuttamaṃ 26. Con voi là tối ưu trong việc chiến thắng ở trận tiền, được thành tựu sự thịnh vượng và may mắn. Khi con voi ấy đã được cho đi thì cái gì sẽ vận hành vương quốc của ngài?” 27. Rajjampi me
dade sabbaṃ sarīraṃ dajjamattano 27. Ta có thể bố thí luôn cả toàn bộ vương quốc của ta. Ta có thể bố thí cả thân mạng của mình. Ðối với ta, quả vị Toàn Tri là yêu quý; vì thế ta đã bố thí con long tượng.
Kurudhammacariyaṃ tatiyaṃ. --ooOoo--
4. Mahāsudassanacariyaṃ *** 28. Kusāvatimhi
nagare yadā āsiṃ mahīpati 28. Khi ở thành phố Kusāvatī, ta đã là vị lãnh chúa, đấng Chuyển Luân Vương có quyền lực lớn lao tên Mahāsudassana. 29. Tatthāhaṃ
divase tikkhattuṃ ghosāpemi tahiṃ tahiṃ 29. Tại thành phố ấy, ta đã cho thông báo ba lần trong ngày ở khắp các nơi rằng: “Ai muốn (hoặc) mong mỏi vật gì? Của cải gì nên được ban phát? (Ban phát) đến ai? 30. Ko chātako ko
tasito ko mālaṃ ko vilepanaṃ 30. Ai đói? Ai khát? Ai (cần) vòng hoa? Ai (cần) dầu thoa? Có các loại vải vóc đủ màu, ai trần truồng thì sẽ mặc vào? 31. Ko pathe
chattamādeti ko pāhanā mudū subhā 31. Ai đi đường cần đến dù? Ai (cần đến) giày dép mềm mại, đẹp đẽ?” Ta đã cho thông báo sáng chiều ở khắp các nơi như thế. 32. Na taṃ dasasu
ṭhānesu na pi ṭhānasatesu vā 32. Của cải ấy đã được chuẩn bị cho những người cầu xin không phải chỉ ở mười địa điểm, hoặc ở một trăm địa điểm, mà ở hàng trăm địa điểm. 33. Divā vā yadi
vā rattiṃ yadi eti vaṇibbako 33. Nếu có người nghèo khổ đi đến cho dù ban ngày hoặc ban đêm, họ đều được nhận lãnh tài sản theo như ý thích rồi ra đi với hai tay tràn đầy của cải. 34. Evarūpaṃ
mahādānaṃ adāsiṃ yāvajīvikaṃ 34. Ta đã bố thí những phẩm vật lớn lao có hình thức như thế cho đến trọn đời. Ta cho ra của cải không phải là vì không thích ý, cũng không phải là vì ta không có chỗ để cất giữ. 35. Yathāpi āturo
nāma rogato parimuttiyā 35. Cũng giống như người bị bệnh, sau khi làm hài lòng vị thầy thuốc với vàng bạc cho việc chữa lành căn bệnh, thì (sẽ) được hoàn toàn thoát khỏi căn bệnh. 36. Tathevāhaṃ
jānamāno paripūretumasesato 36. Tương tợ y như thế, khi biết được (điều ấy), để làm viên mãn (pháp bố thí) không bị thiếu sót và làm cho đầy đủ tâm ý còn khiếm khuyết, ta đã ban phát vật thí cho những người cầu xin, không luyến tiếc, không mong mỏi sự đền đáp nhằm thành tựu quả vị Toàn Giác.
Mahāsudassanacariyaṃ catutthaṃ. --ooOoo--
5. Mahāgovindacariyaṃ *** 37. Punāparaṃ yadā
homi satta rājapurohito 37. Vào một thời điểm khác nữa, khi là Bà-la-môn Mahāgovinda, ta đã là viên quan tế tự của bảy vị vua và được các đấng quân vương cung phụng. 38. Tadāhaṃ sattarajjesu yaṃ me āsi upāyanaṃ tena demi mahādānaṃ akkhobhaṃ sāgarūpamaṃ. 38. Khi ấy, phẩm vật ở trong bảy vương quốc đã là của ta. Với phẩm vật ấy ta đã ban phát cuộc đại thí, tợ như biển cả không bị xáo động 39. Na me dessaṃ
dhanaṃ dhaññaṃ napi natthi nicayo mayi 39. Không phải là của cải và lúa gạo là không được vừa ý đối với ta và cũng không phải là ở nơi ta không có sự tích trữ. Quả vị giác ngộ đối với ta rất là cao quý, do đó ta bố thí tài sản quý giá.
Mahāgovindacariyaṃ pañcamaṃ. --ooOoo--
6. Nimirājacariyaṃ *** 40. Punāparaṃ yadā
homi mithilāyaṃ puruttame 40. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vị đại vương tên Nimi, là bậc trí tuệ và là người tầm cầu thiện pháp ở tại kinh thành Mithilā. 41. Tadāhaṃ
māpayitvāna catussālaṃ catummukhaṃ 41. Khi ấy, ta đã cho thực hiện bốn sảnh đường (mỗi sảnh đường) có bốn cổng ra vào (ở bốn hướng chính). Ở tại nơi ấy, ta đã cho tiến hành việc bố thí đến các thú vật, chim chóc, loài người, v.v... 42. Acchādanañca
sayanañca annaṃ pānañca bhojanaṃ 42. Ta đã thực hiện không ngừng nghỉ[13] và đã cho tiến hành cuộc đại thí (gồm có) y phục, giường ghế, cơm ăn, nước uống, và thực phẩm (các loại), 43. Yathāpi sevako
sāmiṃ dhanahetumupāgato 43. Cũng giống như người đầy tớ, vì lý do lương bổng, tiếp cận chủ nhân và suy tầm cách làm hài lòng bằng thân, khẩu, ý (bằng hành động, lời nói, và tư tưởng). 44. Tathevāhaṃ
sabbabhave pariyesissāmi bodhijaṃ 44. Tương tợ y như thế, trong tất cả mọi kiếp sống ta cũng sẽ tầm cầu việc làm sanh khởi sự giác ngộ. Sau khi làm thỏa mãn các chúng sanh với vật bố thí, ta mong cầu quả vị giác ngộ tối thượng.
Nimirājacariyaṃ chaṭṭhamaṃ. --ooOoo--
7. Candakumāracariyaṃ *** 45. Punāparaṃ yadā
homi ekarājassa atrajo 45. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vị hoàng tử tên Canda, con trai của Ekaràja, ở tại thành phố Pupphavatī. 46. Tadāhaṃ yajanā
mutto nikkhanto yaññavāṭato 46. Khi ấy, ta đã được thoát khỏi cuộc tế thần và đã rời khỏi khu vực cuộc lễ tế. Sau khi đã tạo nên niềm xúc động, ta đã tiến hành cuộc đại thí. 47. Nāhaṃ pivāmi
khādāmi napi bhuñjāmi bhojanaṃ 47. (Khi) không được bố thí đến những người xứng đáng sự bố thí, ta không uống, không ăn, cũng không thọ dụng vật thực, thậm chí đến năm sáu đêm. 48. Yathāpi vāṇijo nāma katvāna
bhaṇḍasañcayaṃ 48. Cũng giống như người thương buôn sau khi đã tích trữ hàng hóa thì sẽ đem hàng hóa ấy đến nơi nào có nhiều lợi nhuận. 49. Tatheva sakabhuttāpi pare dinnaṃ
mahapphalaṃ 49. Tương tợ y như thế, ngay cả việc bố thí đến người khác vật đã được thọ dụng bởi bản thân cũng có quả báu lớn; vì thế nên bố thí đến tha nhân, sẽ có được (kết quả) gấp trăm lần. 50. Etamatthavasaṃ ñatvā demi dānaṃ
bhavābhave 50. Biết được năng lực của chân lý ấy, ta đã ban phát vật bố thí kiếp này đến kiếp khác. Ta không suy giảm việc bố thí nhằm thành tựu quả vị Toàn Giác.
Candakumāracariyaṃ sattamaṃ. --ooOoo--
8. Sivirājacariyaṃ *** 51. Ariṭṭhasavhaye
nagare sivi nāmāsiṃ khattiyo 51. Ở tại thành phố có tên gọi là Ariṭṭha, ta đã là vị Sát-đế-lỵ tên Sivi. Vào lúc ngồi ở tòa lâu đài quý báu, ta đã suy nghĩ như vầy: 52. Yaṃ kiñci
mānusaṃ dānaṃ adinnaṃ me na vijjati 52. “Không có bất cứ vật thí nào thuộc về nhân loại mà ta chưa từng bố thí. Thậm chí người nào yêu cầu ta về con mắt thì ta cũng có thể bố thí, không bị dao động.” 53. Mama
saṅkappamaññāya sakko devānamissaro 53. Biết được tâm tư của ta, vị Chúa Trời Sakka ngồi ở giữa tập thể chư thiên đã nói lên lời này: 54. Nisajja
pāsādavare sivirājā mahiddhiko 54. “Đức vua Sivi có đại oai lực trong khi ngồi ở tòa lâu đài quý báu suy nghĩ về vật bố thí đủ các loại, vị ấy không nhìn thấy vật chưa từng được bố thí. 55. Tathannu
vitathannetaṃ handa vīmaṃsayāmi taṃ 55. Điều này là đúng hay không đúng sự thật? Vậy hãy để ta thử thách vị ấy. Các người hãy chờ một chốc lát đến khi ta biết được tâm ý ấy.” 56. Pavedhamāno
palitasiro valitagatto jarāturo 56. Sau khi biến thành dáng vóc người mù lòa, đang run rẩy, có đầu tóc bạc phơ, cơ thể nhăn nheo, già yếu, bệnh hoạn, (Chúa Trời Sakka) đã đi đến gặp đức vua. 57. So tadā
paggahetvāna vāmaṃ dakkhiṇabāhu ca 57. Khi ấy, ông ta đã giơ cánh tay trái và cánh tay phải lên chắp lại ở đầu, rồi đã nói lời này: 58. Yācāmi taṃ
mahārāja dhammikaraṭṭhavaḍḍhana 58. “Tâu đại vương, tôi cầu xin ngài. Ôi vị làm tiến triển vương quốc về phương diện đạo đức, danh tiếng của ngài về sự hoan hỉ trong bố thí đã vang khắp chốn nhân thiên. 59. Ubhopi nettā
nayanā andhā upahatā mama 59. Cả hai con mắt dẫn đường của tôi bị mù lòa, hư hỏng. Hãy bố thí cho tôi một con mắt, ngài cũng hãy còn sống với một con mắt vậy.” 60. Tassāhaṃ
vacanaṃ sutvā haṭṭho saṃviggamānaso 60. Nghe được lời nói của người ấy, ta đã mừng rỡ, có tâm trí phấn chấn. Tràn ngập niềm phấn khởi, ta đã chắp tay lại rồi đã nói lời này: 61. Idānāhaṃ
cintayitvā pāsādato idhāgato 61. “Lúc này đây, sau khi suy nghĩ trẫm đã rời tòa lâu đài đi đến nơi đây. Còn ngươi, sau khi biết được tâm của trẫm đã đi đến để cầu xin con mắt. 62. Aho me mānasaṃ
siddhaṃ saṅkappo paripūrito 62. Ôi, ý định của ta đã được thành tựu, điều ước mong đã được vẹn toàn! Hôm nay, ta sẽ ban cho người hành khất tặng vật cao quý chưa từng được bố thí trước đây. 63. Ehi sīvaka
uṭṭhehi mā dandhayi mā pavedhayi 63. Này Sīvaka, [16] hãy lại gần. Hãy mạnh dạn lên, đừng chần chờ, chớ có run rẩy. Hãy móc ra cả hai con mắt và trao cho người cầu thỉnh.” 64. Tato so codito
mayhaṃ sīvako vacanaṅkaro 64. Sau đó, bị ta thúc giục vị Sīvaka ấy là người thi hành mệnh lệnh đã lấy ra (hai con mắt) giống như nạo cơm dừa, rồi đã trao cho cho người hành khất. 65. Dadamānassa
dennassa dinnadānassa me sato 65. Trong khi chuẩn bị bố thí, khi đang bố thí, khi tặng vật đã được ta bố thí, tâm không có thay đổi với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ. 66. Na me dessā
ubho cakkhu attā na me na dessiyo 66. Hai con mắt không có bị ta ghét bỏ, bản thân không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã bố thí con mắt.
Sivirājacariyaṃ aṭṭhamaṃ. --ooOoo--
9. Vessantaracariyaṃ *** 67. Yā me ahosi
janikā Phusatī nāma khattiyā 67. Người mẹ ruột của ta là nữ nhân dòng Sát-đế-lỵ tên Phusatī. Bà ấy là hoàng hậu yêu quý của (Chúa Trời) Sakka vào những kiếp sống trước.[18] 68. Tassā
āyukkhayaṃ disvā devindo etadabruvi 68. Nhìn thấy sự dứt tuổi thọ của bà ấy, vị Chúa Trời đã nói điều này: “Này quý phi, trẫm ban cho khanh mười điều ân huệ, hãy chọn lựa theo như ý thích.” 69. Evaṃ vuttā ca
sā devī sakkaṃ punidamabruvi 69. Và khi được nói như vậy, bà hoàng hậu ấy đã đáp lại (Chúa Trời) Sakka điều này: “Thiếp có lỗi lầm gì vậy? Phải chăng thiếp bị ngài ghét bỏ khiến ngài lưu đày thiếp khỏi chốn bồng lai như là ngọn gió thổi trốc gốc cây vậy?” 70. Evaṃ vutto ca
so sakko puna tassīdamabruvi 70. Và khi được nói như vậy, vị (Chúa Trời) Sakka ấy đã đáp lại bà ta điều này: “Chẳng phải khanh đã làm điều sai trái và cũng chẳng phải là ta không yêu quý khanh. 71. Ettakaṃ yeva
te āyu cavanakālo bhavissati 71. Sở dĩ như thế ấy chính là vì tuổi thọ của khanh, thời điểm tử vong sắp đến. Hãy tiếp nhận mười điều ân huệ quý báu tối cao đã được trẫm ban thưởng.” 72. Sakkena sā
dinnavarā tuṭṭhahaṭṭhā pamoditā 72. Với mười điều ân huệ được (Chúa Trời) Sakka ban thưởng, bà Phusatī ấy, hớn hở, mừng rỡ, vui sướng, đã lựa chọn mười điều ân huệ sau khi đã tính gộp luôn cả ta (vào các điều ân huệ ấy). 73. Tato cutā sā
phusatī khattiye upapajjatha 73. Mệnh chung từ nơi đó, bà Phusatī ấy đã sanh vào dòng dõi Sát-đế-lỵ ở thành phố Jetuttara và đã kết hôn với Sañjaya. 74. Tadāhaṃ
phusatiyā kucchiṃ okkanto piyamātuyā 74. Khi ấy, ta đã hạ sanh vào lòng bà Phusatī, người mẹ yêu quý. Do nhờ oai lực của ta, người mẹ của ta đã luôn luôn hứng thú trong việc bố thí. 75. Adhane āture
jiṇṇe yācake addhike jane 75. Bà bố thí cho những người không có tài sản, người không có của cải, người bệnh hoạn, người già cả, người ăn xin, người đi đường, các vị Sa-môn, các Bà-la-môn, và những người bị khánh tận. 76. Dasamāse
dhārayitvāna karonto purapadakkhiṇaṃ 76. Sau khi mang thai ta được mười tháng, bà Phusatī trong lúc đang đi quanh thành phố đã sanh ta ở giữa đường phố của những người thương buôn. 77. Na mayhaṃ
mattikaṃ nāmaṃ napi pettikasambhavaṃ 77. Tên của ta không liên quan đến họ mẹ, cũng không xuất phát từ họ cha. Ta đã được sanh ra ở đường phố của những người thương buôn, vì thế ta đã là Vessantara. 78. Yadāhaṃ dārako
homi jātiyā aṭṭhavassiko 78. Đến khi ta đã trở thành đứa bé trai được tám tuổi tính từ lúc sanh, khi ấy ta đã ngồi ở tòa lâu đài và đã suy nghĩ về việc bố thí tặng vật. 79. Hadayaṃ
dadeyyaṃ cakkhuṃ maṃsampi rudhirampi ca 79. Ta có thể bố thí tim, mắt, luôn cả thịt và máu của mình. Ta đã thông báo là ta có thể bố thí xác thân của mình nếu có người van xin. 80. Sabhāvaṃ
cintayantassa akampitamasaṇṭhitaṃ 80. Trong khi ta đang suy xét về bản tánh không dao động không hẹp hòi, tại nơi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru đã rúng động. 81. Anvaddhamāse
paṇṇarase puṇṇamāse uposathe 81. Mỗi nửa tháng, vào ngày mười lăm và ngày cuối tháng là ngày trai giới, ta đã cưỡi lên con voi Paccaya và đã đi đến để bố thí tặng phẩm. 82.
Kāliṅgaraṭṭhavisayā brāhmaṇā upagañchu maṃ 82. Những người Bà-la-môn từ lãnh thổ vương quốc Kaliṅga đã đi đến gặp ta. Họ đã cầu xin ta con long tượng được xem là biểu hiện của sự thịnh vượng và may mắn: 83. Avuṭṭhiko
janapado dubbhikkho chātako mahā 83. “Xứ sở chúng tôi không có mưa, thức ăn hiếm hoi, đói kém trầm trọng. Xin ngài hãy ban cho con long tượng cao quý, toàn màu trắng, tối thắng của loài voi.” 84. Dadāmi na
vikampāmi yaṃ maṃ yācanti brāhmaṇā 84. Ta bố thí điều mà những người Bà-la-môn yêu cầu ta; ta không rung động. Ta không thu giấu vật đang sở hữu. Tâm ý của ta hoan hỉ trong việc bố thí. 85. Na me
yācakamanuppatte paṭikkhepo anucchavo 85. (Nghĩ rằng): “Đối với ta, khi có được người cầu xin thì sự từ chối là điều không đúng đắn. Sự thọ trì của ta chớ có bị đổ vỡ. Ta sẽ bố thí con voi vĩ đại.” 86. Nāgaṃ gahetvā
soṇḍāya bhiṅkāre ratanāmaye 86. Sau khi nắm lấy con voi ở chiếc ngà và rưới nước từ chiếc bình làm bằng ngọc quý lên bàn tay, ta đã cho con voi đến các vị Bà-la-môn. 87. Punāparaṃ
dadantassa sabbasetaṃ gajuttamaṃ 87. Lại một lần nữa, trong khi ta đang bố thí con voi tối thắng toàn màu trắng, khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động. 88. Tassa nāgassa
dānena sivayo kuddhā samāgatā 88. Do việc bố thí con voi ấy, những người dân xứ Sivi giận dữ đã tụ họp lại và đã trục xuất (ta) ra khỏi vương quốc của ta (nói rằng): “Hãy cho ông ta đi đến ngọn núi Vaṅka.” 89. Tesaṃ
nicchuhamānānaṃ akampitamasaṇṭhitaṃ 89. Trong khi bọn họ xua đuổi, ta đã yêu cầu một ân huệ để tiến hành cuộc đại thí, không dao động, không hẹp hòi. 90. Yācitā sivayo
sabbe ekaṃ varamadaṃsu me 90. Khi được yêu cầu, tất cả những người dân xứ Sivi đã ban cho ta một ân huệ. Sau khi cho vỗ kêu hai chiếc trống lớn, ta đã trao tặng món quà vĩ đại. 91. Athettha
vattatī saddo tumulo bheravo mahā 91. Lúc bấy giờ, tại nơi ấy có âm thanh ầm ĩ, ồn ào, ghê rợn vang lên. Bởi sự bố thí (này), họ đã lôi kéo ta đi; một lần nữa ta đã trao tặng món quà vĩ đại. 92. Hatthi asse
rathe datvā dāsidāsaṃ gavaṃ dhanaṃ 92. Sau khi đã bố thí voi, ngựa, xe cộ, tôi trai, tớ gái, trâu bò, của cải, và đã ban phát cuộc đại thí, vào khi ấy ta đã rời khỏi thành phố. 93. Nikkhamitvāna
nagarā nivattitvā vilokite 93. Sau khi rời khỏi thành phố, ta đã quay người lại quan sát, khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động. 94. Catuvāhiṃ
rathaṃ datvā ṭhatvā cātummahāpathe. 94. Sau khi bố thí cỗ xe bốn ngựa kéo, ta đứng ở ngã tư đường, chỉ một mình không người hầu cận, và ta đã nói với Hoàng Hậu Maddī điều này: 95. Tvaṃ maddi
kaṇhaṃ gaṇhāhi lahukā esā kaniṭṭhikā 95. “Này Maddī, nàng hãy ẵm Kaṇhā(jinā), con bé nhẹ và là em gái. Ta sẽ ẵm Jāli bởi vì nó nặng và là anh trai.” 96. Padumaṃ
puṇḍarīkaṃ va maddikaṇhājinaggī 96. Maddī đã ôm lấy Kaṇhājinā như thể ôm lấy đóa sen xanh hoặc đóa sen trắng. Ta đã ôm lấy vị Sát-đế-lỵ Jāli như thể ôm lấy bầu đựng nước bằng vàng. 97. Abhijātā
sukhumālā khattiyā caturo janā 97. Bốn người Sát-đế-lỵ, dòng dõi quý tộc, có vóc dáng mảnh mai, tiến bước trên mặt đất lúc gồ ghề lúc bằng phẳng đi về hướng ngọn núi Vaṅka. 98. Ye keci manujā
enti anumagge paṭippathe 98. Chúng tôi đã hỏi những người đi cùng đường hoặc theo hướng ngược lại về lộ trình: “Ngọn núi Vaṅka ở nơi nào?” 99. Te tattha amhe
passitvā karuṇaṃ giramudīrayuṃ 99. Nhìn thấy chúng tôi ở nơi ấy, họ đã thốt lên lời thương xót. Họ bày tỏ nỗi đau xót (nói rằng): “Ngọn núi Vaṅka ở xa lắm.” 100. Yadi passanti
pavane dārakā phalite dume 100. Nếu hai đứa trẻ nhìn thấy những cây có trái ở trong khu rừng, hai đứa trẻ bật khóc vì nguyên nhân của những trái cây ấy. 101. Rodante
dārake disvā ubbiggā vipulā dumā 101. Trông thấy hai đứa trẻ khóc lóc, những cội cây cao lớn xum xuê tự động khom mình xuống đến gần hai đứa trẻ. 102. Idaṃ
acchariyaṃ disvā abbhutaṃ lomahaṃsanaṃ 102. Sau khi nhìn thấy điều kỳ diệu phi thường khiến lông tóc rởn ốc này, (hoàng hậu) Maddī, với sự rạng rỡ ở toàn thân, đã thốt lên lời tán thán (rằng): 103. Accheraṃ vata
lokasmiṃ abbhutaṃ lomahaṃsanaṃ 103. “Quả thật là điều kỳ diệu phi thường ở thế gian khiến lông tóc rởn ốc. Những cội cây đã tự động khom mình xuống bởi vì oai lực của Vessantara.”[19] 104. Saṅkhipiṃsu
pathaṃ yakkhā anukampāya dārake 104. Vì lòng thương xót hai đứa trẻ, các hàng Dạ-xoa đã thâu ngắn đường đi; chỉ nội trong ngày khởi hành họ đã đi đến vương quốc Ceta. 105.
Saṭṭhirājasahassāni tadā vasanti mātule 105. Lúc bấy giờ có sáu mươi ngàn vị vua cư ngụ ở Mātulā.[20] Tất cả đã chắp tay lên, than khóc, và đã đi đến gần. 106. Tattha
vattetvā sallāpaṃ cetehi cetaputtehi 106. Ở tại nơi ấy, sau khi trao đổi trò chuyện cùng với các vị vương tử xứ Ceta ấy, rồi từ đó bốn người đã đi đến ngọn núi Vaṅka. 107. Āmantayitvā
devindo vissakammaṃ mahiddhikaṃ 107. Chúa Trời đã triệu tập vị Vissakamma có đại thần lực (ra lệnh rằng): “Khanh hãy khéo biến hóa ra một khu ẩn cư được xây dựng tốt đẹp có gian nhà lá xinh xắn.” 108. Sakkassa
vacanaṃ sutvā vissakammo mahiddhiko 108. Nghe theo lời của (Chúa Trời) Sakka, vị Vissakamma có đại thần lực đã khéo biến hóa ra một khu ẩn cư được xây dựng tốt đẹp có gian nhà lá xinh xắn. 109. Ajjhogahetvā
pavanaṃ appasaddaṃ nirākulaṃ 109. Sau khi đã đi sâu vào khu rừng có ít tiếng động không có xáo trộn, bốn người chúng tôi đã sống ở tại nơi ấy, phía bên trong ngọn núi. 110. Ahañca
maddidevī ca jālī kaṇhājinā cubho 110. Khi ấy, ta và Hoàng Hậu Maddī cùng với hai con là Jāli và Kaṇhājinā đã sống ở khu ẩn cư giúp nhau xóa tan nỗi niềm sầu muộn. 111. Dārake
anurakkhanto asuñño homi assame 111. Trong khi chăm nom hai đứa trẻ, ta không có đơn độc ở khu ẩn cư. Nàng Maddī mang về trái cây; nàng ấy nuôi dưỡng ba người. 112. Pavane
vasamānassa addhiko maṃ upāgami 112. Khi ta đang sống ở trong khu rừng, có người khách đi đường đã đến gặp ta và đã cầu xin cả hai người con của ta là Jāli và Kaṇhājinā. 113. Yācakaṃ
upagataṃ disvā hāso me upapajjatha 113. Khi trông thấy người cầu xin đi đến gần, sự mừng rỡ đã sanh khởi ở ta. Khi ấy, ta đã dắt cả hai người con và đã trao tặng cho vị Bà-la-môn. 114. Sake putte
cajantassa jūjake brāhmaṇe yadā 114. Khi ta dứt bỏ hai người con của chính bản thân cho vị Bà-la-môn Jūjaka, khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động. 115. Punadeva
sakko oruyha hutvā brāhmaṇasannibho 115. Hơn thế nữa, (Chúa Trời) Sakka, sau khi ngự xuống với dáng vóc vị Bà-la-môn, đã cầu xin ta Hoàng Hậu Maddī là người vợ có giới hạnh và chung thủy. 116. Maddiṃ hatthe
gahetvāna udakañjali pūriya 116. Sau khi nắm lấy nàng Maddī ở cánh tay và làm đầy hai bàn tay bụm lại với nước, ta đã ban bố nàng Maddī cho vị ấy với tâm ý và tư duy hoan hỷ. 117. Maddiyā
dīyamānāya gagane devā pamoditā 117. Khi nàng Maddī đang được bố thí, chư thiên ở cõi trời đã mừng rỡ. Khi ấy, trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động. 118. Jāliṃ
kaṇhājinaṃ dhītaṃ maddideviṃ patibbataṃ 118. Trong khi dứt bỏ (người con trai) Jāli, người con gái Kaṇhājinā, và Hoàng Hậu Maddī người vợ chung thủy, ta đã không phải nghĩ ngợi với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ. 119. Na me dessā
ubho puttā maddidevī na dessiyā 119. Cả hai người con không có bị ta ghét bỏ, Hoàng Hậu Maddī không có bị ta ghét bỏ, đối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta đã bố thí những người thân yêu. 120. Punāparaṃ
brahāraññe mātāpitusamāgame 120. Vào một dịp khác nữa, khi hội ngộ cùng cha mẹ ở tại khu rừng bao la, trong khi bọn họ đang than khóc bi thảm nói về nỗi niềm hạnh phúc và khổ đau. 121. Hirottappena
garunā ubhinnaṃ upasaṅkamiṃ 121. Do sự tôn kính, ta đã đến gặp song thân với sự hổ thẹn và ái ngại. Khi ấy trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động. 122. Punāparaṃ
brahāraññe nikkhamitvā sañātibhi 122. Vào một dịp khác nữa, ta cùng với thân quyến đã lìa khỏi khu rừng bao la và đi vào thành phố tráng lệ là kinh thành Jetuttara. 123. Ratanāni
satta vassiṃsu mahāmegho pavassatha 123. Khi ấy, bảy loại châu báu đã đổ xuống cơn mưa, có đám mây lớn đã đổ tuôn mưa. Lúc bấy giờ, trái đất với tràng hoa là khu rừng ở núi Sineru cũng đã rúng động. 124. Acetanāyaṃ
paṭhavī aviññāya sukhaṃ dukhaṃ 124. Ngay cả trái đất vô tư này không nhận thức được nỗi niềm hạnh phúc và khổ đau, nó cũng đã rung chuyển bảy lần bởi vì năng lực bố thí của ta.
Vessantaracariyaṃ navamaṃ. --ooOoo--
10. Sasapaṇḍitacariyaṃ *** 125. Punāparaṃ
yadā homi sasako pavanacāriko 125. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là con thỏ lang thang ở trong rừng, có thức ăn là cỏ, lá cây, rau cải, và quả củ. Ta lánh xa việc hãm hại các kẻ khác. 126. Makkeṭo ca
sigālo ca uddapoto cahaṃ tadā 126. Lúc bấy giờ, có một con khỉ, một con chó rừng, một con rái cá nhỏ, và ta sống trong cùng một khu vực, gặp gỡ nhau sáng chiều. 127. Ahaṃ te
anusāsāmi kiriye kalyāṇapāpake 127. Ta giảng dạy cho chúng về các hành động lành dữ: “Các ngươi hãy xa lìa các điều ác, các ngươi hãy gắn bó với các việc thiện.” 128. Uposathamhi
divase candaṃ disvāna pūritaṃ 128. Sau khi nhìn thấy mặt trăng đã tròn vào ngày trai giới, tại nơi ấy ta đã chỉ bảo chúng rằng: “Hôm nay là ngày trai giới. 129. Dānāni
paṭiyādetha dakkhiṇeyyassa dātave 129. Các ngươi hãy chuẩn bị những tặng phẩm để bố thí đến bậc xứng đáng được dâng cúng. Sau khi đã bố thí tặng phẩm đến bậc xứng đáng được dâng cúng, các ngươi hãy thực hành ngày trai giới.” 130. Te me sādhūti
vatvāna yathāsatti yathābalaṃ 130. Chúng đã nói với ta rằng: “Sādhu, lành thay!” Rồi tùy theo khả năng, tùy theo sức lực, sau khi chuẩn bị các tặng phẩm chúng đã đi tìm bậc xứng đáng được dâng cúng. 131. Ahaṃ nissajja
cintesiṃ dānaṃ dakkhiṇānucchavaṃ 131. Ta đã ngồi xuống và suy nghĩ về tặng phẩm thích hợp với bậc xứng đáng được dâng cúng: “Nếu ta đạt được một bậc xứng đáng được dâng cúng thì tặng phẩm của ta sẽ là gì? 132. Na me atthi
tilā muggā māsā vā taṇḍulā ghataṃ 132. Ta không có mè, đậu xanh, đậu tây, gạo, hay bơ. Ta sống bằng cỏ nhưng bố thí cỏ là không thể được. 133. Yadi koci eti
dakkhiṇeyyo bhikkhāya mama santike 133. Nếu có người là bậc xứng đáng được dâng cúng đi đến nơi ta để khất thực, ta sẽ cúng dường bản thân của mình; người ấy sẽ không (phải) ra đi mà không có gì. 134. Mama
saṅkappamaññāya sakko brāhmaṇavaṇṇinā 134. Biết được ý định của ta, (Chúa Trời) Sakka với dáng vóc của vị Bà-la-môn đã đi đến chổ ngụ của ta nhằm việc xác định việc bố thí của ta. 135. Tamahaṃ
disvāna santuṭṭho idaṃ vacanamabrūviṃ 135. Khi nhìn thấy vị ấy, ta đã hớn hở nói lên điều này: “Quả thật là tốt đẹp về việc ông đã đi đến chỗ tôi vì nguyên nhân thực phẩm. 136. Adinnapubbaṃ
dānavaraṃ ajja dassāmi te ahaṃ 136. Hôm nay, tôi sẽ biếu ông tặng phẩm cao quí chưa từng được bố thí trước đây. Ông là con người thành tựu giới đức nên việc hãm hại kẻ khác là không thích hợp đối với ông. 137. Ehi aggiṃ
padīpehi nānā kaṭṭhe samāniya 137. Ông hãy đi đến và đốt lên ngọn lửa. Hãy đem lại nhiều cây củi. Tôi sẽ nướng chín bản thân. Ông sẽ thọ thực vật đã được nấu chín.” 138. Sādhūti so
haṭṭhamano nānā kaṭṭhe samānayi 138. Vị ấy, với tâm ý mừng rỡ, (nói rằng): “Sādhu, lành thay!” rồi đã đem lại nhiều cây củi đốt lên đống lửa lớn và đã tạo nên một cụm than hồng. 139. Aggiṃ tattha
padīpesi yathā so khippaṃ mahā bhave 139. Vị ấy đã đốt lên ngọn lửa ở tại nơi ấy và ngọn lửa ấy đã mau chóng trở nên mãnh liệt như thế. Sau khi rủ sạch các chi thể bị lấm bụi, [21] ta đã tiến vào một bên (đống lửa). 140. Yadā mahā
kaṭṭhapuñjo āditto dhama dhamāyati 140. Khi đống cây củi to lớn đã phát cháy bùng lên mạnh mẽ, ta đã nhảy lên và rơi vào ở chính giữa ngọn lửa. 141. Yathā
sītodakaṃ nāma paviṭṭhaṃ yassa kassaci 141. Giống như bất cứ ai đã đi vào trong làn nước mát lạnh thì được dịu đi nỗi bực bội và cơn phiền muộn (của mình) đồng thời làm sanh khởi [22] sự hứng thú và phỉ lạc. 142. Tatheva
jalataṃ aggiṃ paviṭṭhassa mamaṃ tadā 142. Tương tợ y như thế, khi ta đi vào ngọn lửa đang cháy rực, tất cả nỗi bực bội đã được dịu đi, tợ như (đi vào) làn nước mát lạnh vậy. 143. Chavi chammaṃ
maṃsaṃ naharuṃ aṭṭhiṃ hadayabandhanaṃ 143. Ta đã bố thí đến vị Bà-la-môn hết thảy toàn bộ thân thể gồm có lớp da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và cơ tim.
Sasapaṇḍitacariyaṃ dasamaṃ. --ooOoo-- 144. Akitti
brāhmaṇo saṅkho kururājā dhanañjayo 144. Bà-la-môn Akitti, Saṅkha, Dhañanjaya vua xứ Kuru, đức vua Mahāsudassana, Bà-la-môn Mahāgovinda, 145. Nimi canda kumāro ca sivi vessantaro
saso 145. Nimi, hoàng tử Canda, Sivi, Vessantara, và con thỏ chính là ta vào lúc bấy giờ, và là người đã bố thí những tặng phẩm cao quý. 146. Ete dānaparikkhārā ete dānassa pāramī 146. Những hạnh này là những phần cơ bản của sự bố thí. Những hạnh này là các sự toàn hảo của sự bố thí. Sau khi bố thí mạng sống đến người cầu xin, ta đã làm đầy đủ sự toàn hảo (về bố thí) này. 147.
Bhikkhāyupagataṃ disvā sakattānaṃ pariccajiṃ 147. Sau khi nhìn thấy người đi đến gần để khất thực, ta đã xả bỏ bản thân mình. Không có ai bằng ta về sự bố thí; đây là sự toàn hảo về bố thí của ta.
Dānapāramitā niṭṭhitā. --ooOoo--
II. SĪLAPĀRAMITĀ
1. Mātuposakacariyaṃ *** 148. Yadā ahosi
pavane kuñjaro mātuposako 148. Vào lúc ta là con voi nuôi dưỡng voi mẹ ở trong rừng rậm. Lúc bấy giờ, ở trên trái đất không có người tương đương với ta về giới đức. 149. Pavane disvā
vanacaro rañño maṃ paṭivedayi 149. Có người đi rừng, sau khi nhìn thấy ta ở khu rừng rậm, đã thông báo với đức vua rằng: “Tâu đại vương, có con voi được xứng đáng với ngài đang sống ở trong rừng. 150. Na tassa
parikhāya’ttho napi āḷhakakāsuyā 150. Không cần phải gây thương tích cho nó, cũng không cần đến cọc trói và hầm hố. Khi được nắm ở vòi của chính nó, tự thân nó sẽ đi đến chỗ này.” 151. Tassa taṃ
vacanaṃ sutvā rājāpi tuṭṭhamānaso 151. Nghe được lời nói ấy của ông ta, ngay cả đức vua cũng có tâm trí hớn hở và đã phái đi người thuần hóa voi, là bậc thầy kinh nghiệm, đã được huấn luyện rành rẽ. 152. Gantvāna so
hatthidamako addasa padumassare 152. Sau khi đi đến, người thuần hóa voi ấy đã nhìn thấy (ta), ở trong hồ sen, đang nhổ lên rễ và ngó sen nhằm mục đích nuôi dưỡng mẹ. 153. Viññāya me
sīlaguṇaṃ lakkhaṇaṃ upadhārayi 153. Biết được giới đức của ta, người này đã xác định các đặc điểm và đã nói rằng: “Này con trai, hãy đi đến,” rồi đã nắm chặt cái vòi của ta. 154. Yaṃ me tadā
pākatikaṃ sarīrānugataṃ balaṃ 154. Khi ấy, sức mạnh tự nhiên đồng hành với cơ thể của ta là tương đương với sức mạnh của một ngàn con voi ngày hôm nay. 155. Yadihaṃ tesaṃ
pakuppeyyaṃ upetānaṃ gahanāya maṃ 155. Nếu ta nổi cơn giận dữ với những người đã đi đến để bắt ta, ta có thừa khả năng đối với bọn họ, thậm chí luôn cả vương quốc của những người ấy nữa. 156. Api cāhaṃ
sīlarakkhāya sīlapāramī pūriya 156. Hơn nữa, vì gìn giữ giới để làm viên mãn sự toàn hảo về giới, ta không làm thay đổi tâm ý trong khi họ xô đẩy ta vào cây cọc trói. 157. Yadi te maṃ
tattha koṭṭeyyuṃ phrasūhi tomarehi ca 157. Nếu bọn họ có làm tổn thương ta bằng những cái rìu và những cây thương, ta cũng chẳng nổi cơn giận dữ đối với bọn họ vì ta có nỗi lo sợ bị đứt giới.
Mātuposakacariyaṃ paṭhamaṃ. --ooOoo--
2. Bhūridattacariyaṃ *** 158. Punāparaṃ
yadā homi bhūridatto mahiddhiko 158. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Bhūridatta có đại thần lực. Ta đã đi đến cõi trời cùng với vị Đại Vương Virūpakkha.[24] 159. Tattha
passitvāhaṃ deve ekantaṃ sukha samappite 159. Sau khi nhìn thấy chư thiên ở tại nơi ấy được thọ hưởng an lạc trọn vẹn, ta đã thọ trì giới cấm nhằm mục đích đi đến cõi trời ấy. [25] 160. Sarīrakiccaṃ
katvāna bhūtvā yāpanamattakaṃ 160. Sau khi làm phận sự đối với cơ thể [26] và thọ dụng chỉ đủ để nuôi sống, ta đã quyết định về bốn chi phần (của cơ thể) [27] rồi đã nằm ở trên đỉnh của gò mối. 161. Chaviyā
cammena maṃsena nahāruaṭṭhikehi vā 161. Đối với người nào có việc cần dùng đến da ngoài, da trong, thịt, các sợi gân, hoặc các khúc xương (ở cơ thể ta), chính vì là vật đã được bố thí nên hãy để người ấy mang đi. 162. Saṃsito
akataññunā ālambano mamaggahi 162. Khi ta đang nằm, kẻ vô ơn Ālambana [28] đã nắm lấy ta ném vào trong giỏ rồi đã bắt ta làm trò vui ở nơi này nơi khác. 163. Peḷāya
pakkhipantepi sammaddantepi pāṇinā 163. Ngay cả trong khi ông ấy ném (ta) vào giỏ, thậm chí trong khi ông ấy dùng bàn tay đè bẹp (ta) xuống, ta không giận dữ đối với Ālambana vì ta có nỗi lo sợ bị đứt giới. 164.
Sakajīvitapariccāgo tiṇato lahuko mama 164. Sự xả bỏ sanh mạng bản thân của ta là nhẹ hơn cọng cỏ. Sự phá giới đối với ta tương tợ như việc đảo ngược trái đất. 165. Nirantaraṃ
jātisataṃ cajeyyaṃ mama jīvitaṃ 165. Liên tục một trăm kiếp sống, ta có thể xả bỏ mạng sống của ta chứ không thể nào làm đứt giới cho dù là vì nguyên nhân (làm vua cai trị) bốn châu lục. 166. Api cāhaṃ
sīlarakkhāya sīlapāramipūriyā 166. Hơn nữa, vì gìn giữ giới để làm viên mãn sự toàn hảo về giới, ta không làm thay đổi tâm ý trong khi (Ālambana) ném (ta) vào trong giỏ.
Bhūridattacariyaṃ dutiyaṃ. --ooOoo--
3. Campeyyanāgacariyaṃ *** 167. Punāparaṃ
yadā homi campeyyako mahiddhiko 167. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Campeyyaka có đại thần lực. Vào thời ấy, ta cũng đã là người nghiêm túc, hành trì giới cấm. 168. Tadāpi maṃ
dhammacāriṃ upavutthaṃ uposathaṃ 168. Cũng vào khi ấy, trong khi ta là người hành pháp đang thực hành ngày trai giới, một người luyện rắn đã tóm bắt lấy ta rồi đã bắt ta làm trò vui ở cổng hoàng cung. 169. Yaṃ so vaṇṇaṃ
cintayati nīlaṃ pītañca lohitaṃ 169. Gã ấy nghĩ về màu nào, xanh, vàng, hoặc đỏ, còn ta, trong khi biến đổi theo ý nghĩ của gã ấy, trở thành (có màu sắc) giống như đã được suy nghĩ (bởi người ấy). 170. Thalaṃ
kareyyaṃ udakaṃ udakampī thalaṃ kare 170. Ta có thể biến đất thành nước, và cũng có thể biến nước thành đất. Nếu ta nổi giận đối với gã ấy, ta có thể biến (gã ấy) trở thành tro bụi trong một sát-na.[31] 171. Yadi
cittavasī hessaṃ parihāyissāmi sīlato 171. Nếu như ta thể hiện năng lực của tâm, ta sẽ từ bỏ giới; (và) mục đích tối thượng không được thành tựu đến người từ bỏ giới. 172. Kāmaṃ
bhijjatu yaṃ kāyo idheva vikirīyatu 172. Dầu sao đi nữa, hãy để thân xác này bị tan vỡ, hãy để nó bị phân tán ở ngay đây; trong khi bị tan tác giống như bụi phấn, ta cũng không thể nào làm đứt giới.
Campeyyanāgacariyaṃ tatiyaṃ. --ooOoo--
4. Cullabodhicariyaṃ *** 173. Punāparaṃ
yadā homi cullabodhi susīlavā 173. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Cullabodhi, là người có giới hạnh. Nhìn thấy hiện hữu là nguy hiểm, ta đã ra đi theo hạnh xuất ly. 174. Yā me
dutiyikā āsi brāhmaṇī kanakasantibhā 174. Ta có người vợ dòng dõi Bà-la-môn có nước da như vàng ròng. Cô ta cũng không mong muốn luân hồi nên đã ra đi theo hạnh xuất ly. 175. Nirālayā
chinnabandhū anapekkhā kule gaṇe 175. Không dính mắc, thân quyến đã lìa, không mong muốn về gia đình, (hay) về đồ chúng, chúng tôi du hành qua làng mạc phố chợ và đã đi đến Bārāṇasī. 176. Tattha vasāma
nipakā asaṃsaṭṭhā kule gaṇe 176. Ở tại nơi ấy, chúng tôi đã sống khôn khéo, không cấu kết gia đình, bè đảng. Cả hai đã sống trong khu vườn của đức vua, không bị quấy rầy, ít có tiếng động. 177.
Uyyānadassanaṃ gantvā rājā addasa brāhmaṇiṃ 177. Đức vua đã đi đến ngoạn cảnh khu vườn và đã nhìn thấy người nữ Bà-la-môn. Ngài đã đi đến gặp ta và hỏi rằng: “Nàng ấy là vợ của khanh hay của ai?” 178. Evaṃ vutte
ahaṃ tassa idaṃ vacanamabravi 178. Được nói như vậy, ta đã nói với đức vua lời này: “Nàng ấy không phải là vợ của thần, nàng là người đồng đạo, cùng chung giáo lý.” 179. Tassā
sārattādhigato gāhāpetvāna ceṭake 179. Bị ái luyến và khát khao nàng ấy, đức vua đã ra lệnh các thuộc hạ bắt giữ rồi dùng sức mạnh để ép buộc đưa nàng vào nội cung. 180. Odapattakiyā
mayhaṃ sahajā ekasāsanī 180. Nàng là người vợ của ta theo nghi thức chạm vào bát nước, đồng thời xuất gia cùng chung giáo lý. Trong khi nàng bị lôi kéo đưa đi, sự giận dữ đã khởi lên ở ta. 181. Saha kope
samuppanne sīlabbatamanussariṃ 181. Cùng lúc khi cơn giận đã được phát khởi, ta đã nhớ lại giới cấm. Ngay tại nơi ấy, ta đã nén lại cơn giận và đã không cho bộc phát lên. 182. Yadihaṃ
brāhmaṇiṃ koci koṭṭeyya tiṇhasattiyā 182. Nếu như có ai dùng con dao bén đâm chém người nữ Bà-la-môn ấy, ta cũng không thể nào làm đứt giới với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ. 183. Na me sā
brāhmaṇī dessā na pi me balaṃ na vijjati 183. Người nữ Bà-la-môn ấy không có bị ta ghét bỏ, cũng không phải là sức mạnh của ta không có. Ðối với ta quả vị Toàn Giác là yêu quý; vì thế ta sẽ gìn giữ giới hạnh.
Cullabodhicariyaṃ catutthaṃ. --ooOoo--
5. Mahisarājacariyaṃ *** 184. Punāparaṃ
yadā homi mahiso pavanacāriko 184. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là con trâu lang thang ở trong khu rừng rậm, có thân thể phát triển, khỏe mạnh, to lớn, trông thấy phải sợ hãi. 185. Pabbhāre
giridugge ca rukkhamūle dakāsaye 185. Nơi ấy, trong hang động, ở sườn núi dốc, dưới cội cây, (gần) nơi hồ nước, có (các) khu vực rải rác đó đây dành cho loài trâu. 186. Vicaranto
brahāraññe ṭhānaṃ addasa bhaddakaṃ 186. Trong khi đi lang thang ở khu rừng rậm, ta đã nhìn thấy một nơi thuận tiện. Ta đã đi đến nơi ấy, đứng lại, rồi nằm xuống. 187. Athettha
kapimāgantvā pāpo anariyo lahu 187. Rồi có con khỉ đê tiện, thô lỗ, nhanh nhảu đã đi đến nơi ấy và tiểu tiện, đại tiện ở trên lưng, trên trán, và lông mày của ta. 188. Sakimpi
divasaṃ dutiyaṃ tatiyaṃ catutthampi ca 188. Một lần trong ngày, rồi lần thứ hai, lần thứ ba, và thậm chí đến lần thứ tư, nó làm ta bị nhơ bẩn vào mọi lúc; vì điều ấy, ta trở nên bực bội. 189. Mamaṃ
upaddutaṃ disvā yakkho maṃ idamabravi 189. Nhìn thấy sự bực bội của ta, có con Dạ-xoa đã nói với ta điều này: “Ngươi hãy giết chết cái loài tồi tệ đê tiện ấy bằng các sừng và các móng chân.” 190. Evaṃ vutte
tadā yakkhe ahaṃ taṃ idamabraviṃ 190. Được con Dạ-xoa nói như vậy, khi ấy ta đã nói với con Dạ-xoa ấy điều này: “Sao ngươi lại bôi nhọ ta với cái thây ma đê tiện và thô lỗ? 191. Yadihaṃ tassa
kuppeyyaṃ tato hīnataro bhave 191. Nếu ta nổi giận với nó, vì điều đó ta sẽ trở nên tồi tệ hơn, giới của ta có thể bị đứt, và người trí có thể khiển trách ta. 192. Hīḷitā jīvitā
cāpi parisuddhena mataṃ varaṃ 192. Vả lại, sống mà hổ thẹn thì chết với sự trong sạch là cao quý. Cho dù nguyên nhân là mạng sống, không thể nào ta lại gây ra sự tổn hại cho kẻ khác? 193. Mame
vāyamaññamāno aññepevaṃ karissati 193. Trong khi suy nghĩ về những người khác là giống như ta, con khỉ này cũng sẽ hành động như thế. Chính họ sẽ giết chết nó tại nơi ấy, còn ta thì sẽ có được sự giải thoát này.[34] 194.
Hīnamajjhimaukkaṭṭhe sahanto avamānitaṃ 194. Trong khi nhẫn nhịn sự khinh miệt ở những người kém cỏi, trung bình, hoặc cao quý, như thế bậc thiện trí đạt được theo như điều đã được mong mỏi bởi tâm ý.[35]
Mahisarājacariyaṃ pañcamaṃ. --ooOoo--
6. Rurumigarājacariyaṃ *** 195. Punāparaṃ
yadā homi sutattakanakasannibho 195. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là vua của loài nai, có tên là Ruru, có màu lông tợ như vàng nung đỏ, đang chú tâm vào giới hạnh tối cao. 196. Ramme padese
ramaṇīye vivitte amanussake 196. Ta đã đi đến trú ngụ tại nơi ấy, ở một khu đất xinh xắn, đáng yêu, thanh vắng, không có loài người, bên bờ sông Gaṅgā [37] thích ý. 197. Atho
uparigaṅgāya dhanikehi paripīḷito 197. Khi ấy, ở thượng nguồn sông Gaṅgā, có người đàn ông bị bức bách bởi những chủ nợ nên đã gieo mình xuống dòng sông Gaṅgā (nghĩ rằng): “Ta hoặc là sống hay là chết.” 198. Rattindivaṃ
so gaṅgāya vuyhamāno mahodake 198. Trong khi bị cuốn trôi ở giòng nước lớn và kêu la thảm thiết ngày đêm, người ấy trôi ra giữa dòng sông Gaṅgā. 199. Tassāhaṃ
saddaṃ sutvāna karuṇaṃ paridevato 199. Nghe được tiếng kêu la thảm thiết của người ấy đang than khóc, ta đã đứng ở bờ sông Gaṅgā hỏi rằng: “Ông là người nào?” 200. So me puṭṭho
ca vyākāsi attano kāraṇaṃ tadā 200. Và khi được ta hỏi, người ấy đã giải thích hành động của mình: “Sợ hãi những người chủ nợ, bị hoảng hốt, tôi đã lao mình xuống dòng sông lớn.” 201. Tassa katvāna
kāruññaṃ cajitvā mama jīvitaṃ 201. Khởi tâm thương xót người ấy, ta đã buông bỏ mạng sống của mình, lao vào (dòng nước), và đã vớt người ấy lên trong bóng tối của ban đêm. 202. Assattha
kālamaññāya tassāhaṃ idamabruviṃ 202. Nhận biết được thời điểm đã được hồi phục, ta đã nói với người ấy điều này: “Ta yêu cầu ngươi một ân huệ là ngươi chớ có nói về ta đối với bất cứ người nào.” 203. Nagaraṃ
gantvāna ācikkhi pucchito dhanahetuko 203. Sau khi đi đến thành phố, người ấy vì nguyên nhân của cải đã nói ra khi được hỏi, rồi đã đưa đức vua đi đến vùng phụ cận của ta. 204. Yāvatā
kāraṇaṃ sabbaṃ rañño ārocitaṃ mayā 204. Toàn bộ sự việc đến đâu đã được ta tường thuật cho đức vua. Nghe được lời kể lại, đức vua đã hướng mũi tên vào người ấy (nói rằng): “Trẫm sẽ giết chết kẻ đê tiện phản bội bạn bè ngay tại chỗ này.” 205. Tamahaṃ
anurakkhanto nimminiṃ mama attano 205. Trong khi bảo vệ cho người ấy, ta đã hoán đổi (người ấy) bằng bản thân của ta (nói rằng): “Tâu đại vương hãy để cho người ấy sống. Thần sẽ là người tạo ra lạc thú cho ngài.” 206. Anurakkhiṃ
mama sīlaṃ nārakkhiṃ mama jīvitaṃ 206. Ta đã bảo vệ giới của ta. Ta đã không bảo tồn mạng sống của mình. Bởi vì, vào lúc ấy ta đã là người có giới hạnh với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.
Rururājacariyaṃ chaṭṭhamaṃ. --ooOoo--
7. Mātaṅgacariyaṃ *** 207. Punāparaṃ
yadā homi jaṭilo uggatāpano 207. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là đạo sĩ tóc bện nghiêm trì khổ hạnh, có giới đức, định tâm bền vững, tên là Mātaṅga. 208. Ahañca
brāhmaṇo eko gaṅgākūle vasāmubho 208. Ta và một vị Bà-la-môn, cả hai sống ở bên bờ sông Gaṅgā. Ta sống ở thượng nguồn, còn vị Bà-la-môn sống ở hạ nguồn. 209. Vicaranto
anukūlamhi uddhaṃ me assamaddasa 209. Trong khi đi lang thang dọc theo bờ sông, vị Bà-la-môn đã nhìn thấy khu ẩn cư của ta ở thượng nguồn. Tại nơi ấy, sau khi mắng nhiếc ta, vị ấy đã nguyền rủa về sự vỡ tan cái đầu (của ta). 210. Yadihaṃ tassa
pakuppeyyaṃ yadi sīlaṃ na gopaye 210. Nếu ta nổi cơn giận dữ đối với vị này, nếu ta không gìn giữ giới, thì sau khi nhìn vào vị ấy ta có thể làm cho trở thành như là tro bụi. 211. Yaṃ so tadā
maṃ abhisapi kupito duṭṭhamānaso 211. Lúc bấy giờ, điều mà vị ấy nguyền rủa ta trong lúc bị bực tức và có tâm ý xấu xa lại được áp dụng ở trên cái đầu của chính vị ấy. Ta đã giúp cho vị ấy được thoát khỏi (việc bị bể đầu thành bảy mảnh) bằng thủ thuật. [39] 212. Anurakkhiṃ
mama sīlaṃ nārakkhiṃ mama jīvitaṃ 212. Ta đã bảo vệ giới của ta. Ta đã không bảo tồn mạng sống của mình. Bởi vì, vào lúc ấy ta đã là người có giới hạnh với lý do chỉ là vì quả vị giác ngộ.
Mātaṅgacariyaṃ sattamaṃ. --ooOoo-- 8.
Dhammadevaputtacariyaṃ *** 213. Punāparaṃ
yadā homi mahesakko mahiddhiko 213. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Đại Dạ-xoa tên là Dhamma, có tùy tùng đông đảo, có đại thần lực, có lòng bi mẫn đối với tất cả thế gian. 214. Dasa
kusalakammapathe samādapento mahājanaṃ 214. Trong lúc khuyến khích dân chúng hành trì thập thiện nghiệp đạo, ta cùng với bạn bè và những người hầu cận đi đến các thôn làng phố chợ. 215. Pāpo kadariyo
yakkho dīpento dasa pāpake 215. Có con Dạ-xoa độc ác, bỏn xẻn, trong lúc giảng giải về thập ác, nó với bạn bè và những người hầu cận cũng đi khắp trái đất này. 216. Dhammavādī
adhammo ca ubho paccanikā mayaṃ 216. Là những người nói về chánh pháp và tà pháp, cả hai chúng tôi là đối thủ. Trong khi va chạm càng xe với càng xe ở lối đi ngược chiều, cả hai đối mặt nhau. 217. Kalaho
vattatī bhesmā kalyāṇapāpakassa ca 217. Cuộc xung đột giữa thiện và ác đã xảy ra một cách ghê rợn, và trận chiến đấu lớn lao vì việc rời khỏi đường lộ là sắp sửa xảy ra. 218. Yadihaṃ tassa
pakuppeyyaṃ yadi bhinde tapoguṇaṃ 218. Nếu như ta nổi cơn giận dữ đối với gã ấy, nếu như ta phá vỡ đức tính khổ hạnh, ta có thể làm cho gã ấy và đoàn tùy tùng trở thành tro bụi. 219. Api cāhaṃ
sīlarakkhāya nibbāpetvāna mānasaṃ 219. Tuy nhiên, nhằm mục đích gìn giữ giới hạnh, ta đã làm nguội lạnh tâm ý. Sau khi cùng với đám người bước xuống, ta đã nhường đường cho kẻ ác. 220. Saha pathato
okkante katvā cittassa nibbutiṃ 220. Cùng lúc ta đang rời khỏi đường lộ sau khi đã làm nguội lạnh tâm ý, trái đất ngay lập tức đã tạo ra khe nứt dành cho con Dạ-xoa ác xấu.
Dhammadevaputtacariyaṃ aṭṭhamaṃ. --ooOoo--
9. Alīnasattacariyaṃ *** 221. Pañcālaraṭṭhe
nagaravare kampillāyaṃ puruttame 221. Ở trong kinh thành Kampillā, thành phố tráng lệ thuộc vương quốc Pancāla, có đức vua tên Jayaddisa đã được thành tựu giới đức. 222. Tassa rañño
ahaṃ putto sutadhammo susīlavā 222. Là Alīnasatta, người con trai của đức vua ấy, ta được học tập, có giới hạnh tốt, có đức độ, luôn luôn quan tâm đến người hầu cận. 223. Pitā me
migavaṃ gantvā porisādaṃ upāgami 223. Cha ta đã đi săn thú rừng và đã đến gần bên Porisāda (kẻ ăn thịt người). Gã ấy đã bắt giữ cha ta (nói rằng): “Ngươi là thức ăn của ta, chớ có vùng vẫy.” 224. Tassa taṃ
vacanaṃ sutvā bhīto tasitavedhito 224. Sau khi được nghe lời nói ấy của gã, đức vua đã trở nên hoảng hốt, run rẩy vì sợ hãi, cứng đờ chân cẳng khi trông thấy kẻ ăn thịt người. 225. Migavaṃ
gahetvā muñcassu katvā āgamanaṃ puna 225. (Đức vua đã nói rằng:) “Hãy giữ lấy con thú rừng, rồi trả tự do cho ta,” và đã hứa hẹn việc sẽ quay trở lại. Sau khi giao lại tài sản cho vị (quan đại thần) Bà-la-môn, cha (ta) đã nhắn nhủ ta rằng: 226. Rajjaṃ putta,
paṭipajja mā pamajjī puraṃ idaṃ 226. “Này con, hãy cai quản vương quốc. Chớ bỏ bê thành phố này. Cha đã hứa với kẻ ăn thịt người về việc sẽ quay trở lại của cha.” 227. Mātu pitu ca
vanditvā nissajitvāna attānaṃ 227. Sau khi cúi lạy mẹ cha và buông bỏ bản thân, ta đã đặt cung kiếm xuống rồi đã đi đến gặp kẻ ăn thịt người. 228.
Sasatthahatthūpagataṃ kadāci so tasissatī 228. Có lẽ gã ấy sẽ sợ hãi người đi đến có vũ khí trong tay. Khi ta đã gây nên nỗi lo sợ, vì điều ấy giới sẽ bị hư hỏng. 229.
Sīlakhaṇḍabhayā mayhaṃ tassa dessaṃ na byāhariṃ 229. Vì ta có nỗi lo sợ về việc đứt giới, ta đã không nói điều gây khó chịu đối với gã ấy. Là người nói điều lợi ích, có tâm từ ái, ta đã nói điều này: 230. Ujjālehi
mahā-aggiṃ papatissāmi rukkhato 230. “Hãy đốt lên ngọn lửa lớn, tôi sẽ lao từ trên cây xuống. Này ông chú, ông hãy biết lúc đã được chín tới, rồi ông hãy thọ thực.” 231. Iti sīlavataṃ
hetu nārakkhiṃ mama jīvitaṃ 231. Như thế với việc thực hành giới là nguyên nhân, ta đã không bảo tồn mạng sống của ta. Và ta đã khiến cho gã (ăn thịt người) ấy luôn luôn xa lánh việc giết hại sanh mạng.
Alīnasattacariyaṃ navamaṃ. --ooOoo--
10. Saṅkhapālacariyaṃ *** 232. Punāparaṃ
yadā homi saṅkhapālo mahiddhiko 232. Vào một thời điểm khác nữa, khi ta là Saṅkhapāla, chúa tể của loài rồng, có đại thần lực, có răng nanh [43] là vũ khí, có nọc độc ghê gớm, và có hai lưỡi. 233. Catuppathe
mahāmagge nānā janasamākule 233. Ở tại ngã tư của con đường lớn có sự tụ hội của nhiều hạng người, sau khi quyết định về bốn chi phần (của cơ thể), ta đã thiết lập chỗ cư ngụ ở tại nơi ấy. 234. Chaviyā
cammena maṃsena nahāru aṭṭhikehi vā 234. Đối với người nào có việc cần dùng đến da ngoài, da trong, thịt, các sợi gân, hoặc các khúc xương (ở cơ thể ta), chính vì là vật đã được bố thí nên hãy để người ấy mang đi. 235. Addasaṃsu
bhojaputtā kharā luddā akāruṇā 235. Có những gã vô lại thô lỗ, hung dữ, bất nhân, đã nhìn thấy và đã tiến đến gần ta ở tại nơi ấy, các bàn tay có nắm gậy gộc. 236. Nāsāya
vinivijjhitvā naṅguṭṭhe piṭṭhikaṇṭake 236. Sau khi chọc thủng ở lỗ mũi, ở đuôi, và ở xương sống lưng, những gã vô lại đã đặt ta lên cáng rồi lôi đi. 237. Sasāgarantaṃ
paṭhaviṃ sakānanaṃ sapabbataṃ 237. Và ở nơi ấy, với luồng gió từ lỗ mũi ta, trong khi mong muốn ta có thể thiêu đốt trái đất có biển bao bọc, có rừng, có núi. 238. Sūlehi
vijjhiyantepi koṭṭayantepi sattihi 238. Mặc dù đang bị đâm thọc bởi những cọc nhọn, mặc dầu đang bị chặt chém bởi những con dao, ta cũng không tức giận những gã vô lại; đây là sự toàn hảo về giới của ta.
Saṅkhapālacariyaṃ dasamaṃ. --ooOoo-- 239. Hatthināgo
bhūridatto campeyyo bodhi māhiso 239. Con long tượng, Bhūridatta, (con rồng) Campeyya, (Culla) bodhi, con trâu (chúa), (con nai chúa) Ruru, (đạo sĩ tóc bện) Mātaṅga, (thiên tử) Dhamma, (đức vua) Jayaddisa và người con trai. 240. Ete sabbe
sīlabalā parikkhārā padesikā 240. Tất cả (chín) hạnh này đều có năng lực của giới, là những phần thiết yếu, là những yếu tố góp phần (vào sự toàn hảo về giới); (tuy nhiên), ta còn bảo tồn mạng sống rồi mới gìn giữ các giới. 241. Saṅkhapālassa
me sato sabbakālampi jīvitaṃ 241. (Trái lại), mạng sống của ta khi là Saṅkhapāla luôn luôn được ban phát đến bất cứ người nào; do đó, điều ấy là sự toàn hảo về giới.
Sīlapāramīniddeso niṭṭhito. --ooOoo-- [1] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 480. [2] ettha caritanti cariyā = ở đây, điều đã được thực hành là hạnh, CpA. 17. [3] Chú Giải Sư Dhammapāla giải thích về từ asaṅkheyya như sau: “Ở đây, asaṅkheyya là không có khả năng để đếm, không thể tính đếm được, có ý nghĩa là vượt quá sự tính đếm.” Ngài còn giải thích rõ thêm: “Ý nghĩa ở đây là bốn lần không thể đếm được (bốn a-tăng-kỳ) của các đại kiếp cọng thêm một trăm ngàn đại kiếp” (CpA. 12). Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng “bốn a-tăng-kỳ cọng thêm một trăm ngàn” là một con số có giá trị vô cùng lớn. [4] Đức Phật đang giảng giải cho ngài Sāriputta (Xá-lợi-phất), CpA. 20. [5] Tidivādhibhū là Chúa cõi trời Tidivā, tức là cõi Tāvatiṃsa (Đạo Lợi), CpA. 24. [6] Bị oi bức do hơi nóng phát ra ở tảng đá ngồi có phủ gấm vàng của vị ấy CpA. 24. [7] Mô tả tính chất bố thí bất cứ vật gì thuộc về bản thân không phân biệt, CpA. 24. Như vậy, lúc này, đức Bồ-tát chỉ sử dụng lá cây ở trong rừng để làm thức ăn. [8] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 442. [9] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 276. [10] Kinh Đại Thiện Kiến Vương, Trường Bộ Kinh II; Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 95. [11] So sánh với Kinh Đại Điền-tôn (Mahāgovindasuttaṃ), Trường Bộ Kinh II. [12] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 541. [13] Nghĩa là đã tiến hành ngày đêm không gián đoạn đến lúc dứt tuổi thọ, CpA. 54. [14] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 542. [15] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 499. [16] Sīvaka là tên vị ngự y của đức vua Sivi, CpA. 66. [17] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 547. [18] Chú giải ghi rằng: vào kiếp sống quá khứ liền trước đó, CpA. 74. [19] Do nhờ năng lực phước báu của Vessantara, CpA. 87. [20] Mātulā là tên của một thành phố thuộc vương quốc Ceta, CpA. 87. [21] Nếu có các chúng sanh ở trong bộ lông thì “chớ để chúng bị chết,” (nghĩ thế) ta đã rúng rẩy các phần thân thể đang bị lấm bụi của ta ba lần, CpA. 106. [22] deti được giải thích là uppādeti (làm sanh khởi), CpA. 107. [23] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 543. [24] Cõi trời này là cõi trời Tāvatiṃsa (Đạo Lợi) và Virūpakkha là một vị thủ lãnh của loài rồng rắn (nāgādhipati), CpA. 117. [25] Đi đến bằng phương thức tái sanh (uppattivasena), CpA. 117. [26] Là thực hiện việc chăm sóc cơ thể như rửa mặt, v.v... CpA. 117. [27] Bốn chi phần của cơ thể là da (ngoài và trong), thịt, gân, xương, CpA. 117, như sẽ được đề cập đến ở câu kế. [28] Câu chuyện được ghi lại ở CpA. 118-122. [29] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 506. [30] dhammiko (người nghiêm túc) được giải thích là dhammacārī (người hành pháp) (CpA. 126). Kế đó, dhammacārī được giải thích là “người thực hành thập thiện nghiệp đạo như là bố thí, trì giới, v.v... và không thực hành điều sai trái dầu là nhỏ nhen” (CpA. 129-30). [31] Người luyện rắn này hành hạ ta vô cùng tàn bạo và không biết ta thần lực của ta. Khi nỗi cơn giận dữ, ta đã nghĩ rằng: “Vậy thì ta sẽ phô bày thần lực của ta đối với gã này.” Cho dầu chỉ là một sự suy xét, nhưng nếu như ta thể hiện năng lực của tâm thì gã ấy đã bị phân tác tương tợ như một nắm bụi phấn (CpA. 130). [32] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 443. [33] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 278. [34] Là sự giải thoát khỏi khổ đau và sự giết hại sanh mạng, CpA. 143. [35] Là đạt được trí Toàn Giác theo như ước muốn. [36] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 482. [37] Tên con sông này được ghi lại theo âm là Hằng Hà. [38] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 497. [39] Đức Bồ-tát đã bảo dùng cục đất sét đặt ở trên đầu của vị Bà-la-môn rồi cho vị ấy lội xuống và đứng ở trong nước. Khi mặt trời mọc lên thì vị Bà-la-môn hụp xuống, đầu chìm ở trong nước. Còn cục đất sét (thay thế cái đầu) ở trên mặt nước đã bị mặt trời làm vỡ tan thành bảy mảnh (CpA. 159). [40] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 457. [41] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 513. [42] Chuyện Tiền Thân Đức Phật, câu chuyện 524. [43] Có bốn răng nanh, hai trên hai dưới, CpA. 175. -ooOoo- |
Chân thành cám ơn Tỳ khưu Indacanda đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 09-2006)
[Trở
về trang Thư Mục]
last updated:
09-09-2006