BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
GIẢI THOÁT
ĐẠO LUẬN Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt |
PHẦN TÌM HIỂU Phần Tìm hiểu Phẩm 8: Hành môn Chi 1: Nhứt thiết nhập Điạ, Sơ Thiền & 5 thiền chi Chuyển tiếp: Nơi Phẩm 7: Phân biệt Hành xứ, Luận văn có liệt kê ra 38 đề mục quán tưởng, để thực tập, nay được khai triển với đầy đủ các chi tiết tại Phẩm 8 nầy. Phẩm 8 rất dài, chia ra làm năm Chi. Phần Tìm hiểu tại đây chỉ xét về Chi 1: Nhứt thiết nhập Điạ và Sơ Thiền cùng với năm Thiền chi. Các Chi khác của Phẩm 8: Chi 2, 3, 4, 5 sẽ cứu xét đến các đề mục quán tưởng còn lại. 045. Nhận xét về Bố cục của Phẩm 8: Hành môn. Phẩm 8: Hành môn rất dài, chia ra làm năm Chi: Chi 1: Nhứt thiết nhập Điạ Sơ thiền
Các Thiền chi. Cách bố cục chia thành năm Chi như trên đây thiếu phần hợp lý, vì như Chi 1 nầy chưa nói hết về nhóm Nhứt thiết nhập đã bước sang bàn đến các cấp Thiền và Định. Chi 2 giảng tiếp về Thiền định mà Chi 1 còn chưa được giảng đủ, rồi quay về với các Nhứt thiết nhập còn lại, lấn sang đến Chi 3. Về Mười Niệm, ý tưởng lại trải ra ở cuối Chi 3 và trọn Chi 4. Còn Chi 5 bàn về bốn Tâm vô lượng, và giảng nốt về Tứ đại, Thức ăn bất tịnh, khiến ta thấy các ý tưởng hơi rời rạc. Lẽ ra, Tưởng chẳng khứng thức ăn bất tịnh nên xếp chung với Mười Tưởng bất tịnh. Để tiện việc theo d õi, xin xếp các ý tứ trong Phẩm 8 thành từng nhóm với số trang mà các Chi dành cho mỗi nhóm.Như thế, Phẩm 8: Hành môn giảng về: - Nhóm 1: Các Nhứt thiết nhập: từ trang 72 đến 84 ở Chi 1, và các trang 121 đến 131 trong các Chi 2 và Chi 3. - Nhóm 2: Các Thiền chi và Sơ Thiền: trang 84 đến 99, Chi 1. Từ Nhị Thiền đến Phi tưởng Định: trang 100 120, Chi 2 - Nhóm 3: Mười Tưởng bất tịnh: trang 132 đến 141, ở Chi 3 - Nhóm 4: Mười Niệm: từ trang 141 đến 154, trong Chi 3, và từ trang 155 đến 180, trong Chi 4. - Nhóm 5: Bốn Tâm vô lượng: từ trang 181 đến 196, ở Chi 5 - Nhóm 6: Bốn Đại: từ trang 197 đến 205, ở Chi 5. - Tưởng chẳng khứng thức ăn: trang 206 đến 209, Chi 5 - Vô sở hữu xứ và Phi tưởng xứ: cuối trang 209, Chi 5. Thứ tự các nhóm trên đây theo đúng thứ tự của 38 hành xứ đã được liệt kê ở đầu trang 64 của Phẩm 7, có xen thêm vào các Thiền chi với các cấp Thiền và Định. Vấn đề khó là khi đọc mỗi nhóm hành xứ, đôi khi phải nhảy qua một số trang khác, để đọc trọn về nhóm hành xứ đó. Nhưng nếu đã nắm vững được trong đầu rằng Phẩm 8 nầy nói về các Hành môn, qua sáu nhóm Hành xứ sau đây: (1) 10 Nhứt thiết nhập (gồm luôn về Hư-không vàThức); 046. Ý chánh của Chi 1, trong Phẩm 8 Chi 1 của Phẩm 8: Hành môn, xét đến Nhứt thiết nhập Điạ là đề mục quán tưởng đầu tiên trong số 38 hành xứ. Nhứt thiết nhập Điạ là một phương tiện, lấy Đất làm đối tượng để quán tưởng, giúp hành giả giữ được tâm an trú nơi tướng đất. Luận văn chỉ cách tạo một mạn-đà-la trên đất và dạy các cách quán tưởng, cách giữ tướng đất, cách làm cho tướng đó tăng trưởng lên và khi đã thuần thục, thì hành giả chứng được thiền ngoại hành. Rồi từ đó tiến tu để nhập vào Định của Sơ thiền. Năm thiền chi của Sơ thiền cùng các công đức của Sơ Thiền được Luận văn mô tả rất kỹ, để kết thúc Chi 1 nầy. Dựa theo các ý tứ vừa được tóm tắt như trên, ta rút ra được ý chánh của Chi 1: quán tưởng nhứt thiết nhập Địa đúng cách, hành giả lần lượt trải qua năm Thiền chi của Sơ thiền. 047. Dàn bài của Chi 1, trong Phẩm 8. I. Nhập đề: Định nghiã: Nhứt thiết nhập Điạ là phương tiện nương tựa làm cho tâm sanh ra y theo tướng đất. II. Thân bài: A. Nhứt thiết nhập Điạ là gì? Tu cách nào? 1. Hình tướng và chức năng của
Nhứt thiết nhập Điạ
6. Quán tưởng như thế nào?:
7. Khi nào tướng khởi sanh?
B. Từ Thiền ngoại hành đến An định: 1. Thế nào là Thiền ngoại hành?Thế nào là An
định? C. Sơ Thiền và năm Thiền chi của Sơ Thiền. 1. Điều kiện cần có đủ trước để nhập vào
Sơ Thiền: (a) ly dục; (b) lià xa các pháp chẳng lành.
3. Sự đối trị để chống lại năm
triền cái. III. Kết luận: Chẳng thấy có phần Kết của Chi 1. 048. Tìm hiểu nghiã các chữ khó: Nhứt thiết nhập Điạ: Như đã biết, chữ Nhứt thiết nhập là tiếng dùng để dịch chữ Pàli Kasina, nghiã là tất cả, toàn bộ, trọn vẹn; còn được dịch là biến xứ (biến = khắp chốn). Nhứt thiết nhập Điạ là một dụng cụ bằng đất (tạo thành hình một bông hoa mạn-đà-la), dùng như một phương tiện để làm chỗ nương tựa cho mắt nhìn kỹ và khiến tâm chú ý mãi vào, hầu khởi lên tướng bỉ phần tức là một tâm ảnh. Khi hình bóng về hoa mạn-đà-la bằng đất đó, tuy chẳng còn được nhìn bằng mắt nữa mà trong tâm vẫn hiện rõ rệt tướng bỉ phần của hoa đó, thì việc quán tưởng Nhứt thiết nhập Điạ đã thành tựu, đưa đến Thiền ngoại hành, và từ đó tu tiến lên nhập vào Sơ Thiền và các cấp Thiền kế tiếp. Như ý: tức là như ý túc, nghiã là những khả năng siêu phàm tùy theo tâm muốn mà biến hoá được như các thần thông. Phẩm 9 về Thần thông sẽ nói rõ thêm. Thiên nhĩ: Thiên = Trời; Nhĩ = lỗ tai. Có thiên nhĩ thì nghe rõ được âm thanh ở chốn thật xa. Cam lộ: Cam = ngọt; Lộ = sương ban mai. Thường đọc là cam lồ, có nghiã là những chất ngọt ngào, rất đáng qúi. Theo nghiã trong Luận văn nầy, chữ Cam lộ ám chỉ đến hương vị ngọt ngào được hưởng, khi đến ngưỡng cửa của Niết-bàn. Diêm-phù-đề: phiên âm chữ Pàli Jambudipa, nghiã là xứ Ấn độ, vì có nhiều cây Diêm-phù (Jambu). Trong bài Kệ trang 73, chữ Diêm-phù-đề có nghiã: rộng lớn như đại lục điạ. Tướng sáng: dịch chữ minh tướng, tướng sáng rỡ. Mạn-đà-la: phiên âm chữ Pàli mandala, một loại hoa cõi Trời, đẹp và thơm. Một tầm: đơn vị đo chiều dài khoảng 2, 3 m. Tịnh khiết: trong sạch. Viên quy: dụng cụ học trò vẽ vòng tròn. Khánh: nhạc khí như chuông đánh lên khi làm lễ. Bổn sư: Bổn = gốc; Sư = thầy. Thầy bổn sư là vị thầy truyền giới và chỉ dạy giáo lý ban đầu cho mình. Chữ Bổn sư còn chỉ đến Đức Phật Thích-ca, vì các Phật tử tự xem mình như là học trò của chính Đức Phật, khi niệm: Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật. Căn dục: Căn = ở đây có nghiã là các giác quan; Dục = ham muốn. Căn dục là những ham muốn nơi các giác quan, như mắt muốn thấy sắc đẹp, mũi muốn ngữi mùi thơm, lưỡi muốn nếm vị ngọt, v.v. Hư ảo: chẳng có thật, sự vật giả dối làm mờ mắt. Xuất ly: Xuất = ra khỏi; Ly = lià xa. Hạnh xuất ly là đức tánh biết lià xa chỗ chẳng lành; nghiã rộng nói đến sự khước từ tất cả của người tu sĩ để chọn lấy con đường tu hành hầu được giác ngộ và giải thoát. Kham nhẫn: Kham = khứng chịu, cam chịu; Nhẫn = nhịn nhục, bền chí. Người kham nhẫn là người gặp việc khổ biết cam chịu chẳng than van, chẳng trốn lánh, bền chí cố gắng vượt qua. Triền cái: Xem lại Phẩm 1, trang 323.Triền = vấn chặt xung quanh; Cái = che úp lên. Trong Phẩm 8, Chi nầy có kể ra đủ năm triền cái, mà danh từ Hán Việt gọi là ngũ cái. Thắng diệu: Thắng = hơn tất cả; Diệu = khéo đẹp lắm. Quả báo: Quả = kết quả, hậu quả, sự việc xảy ra do vì nguyên nhân tạo lúc trước. Báo = đền báo, báo đáp. Hành động cố ý làm nguyên nhân hiện nay, sanh ra quả báo về sau. An trí y bát: An = yên ổn; Trí = sắp xếp, đặt bày; Y = áo, áo cà-sa; Bát = chén bát, dụng cụ giống như cái nồi nhỏ mà vị khất sĩ dùng đựng thức ăn khi đi xin được. An trí y bát là sắp xếp quần áo và chén bát vào đúng chỗ. Kinh hành: Kinh = bài Kinh, lời Phật dạy; Hành = đi. Sau bữa ăn, hay buổi toạ thiền, tu sĩ vừa đi kinh hành, bước từng bước rất chậm, tâm vừa niệm Kinh, giữ chánh niệm; cốt ý cho thân tâm được thoải mái. Kiết-già = kết-già: đủ chữ kết-già phu tọa = thế ngồi hoa sen khi toạ thiền, rất vững chắc và cũng khá đau chơn. Ngồi xếp bằng, hai chơn tréo nhau, bàn chơn trái gát lên đùi phải, và bàn chơn mặt gát lên đùi trái. Thế ngồi bán già dễ hơn, chơn trái dưới đùi phải, bàn chơn mặt gát lên đùi trái; hoặc ngược lại, bàn chơn trái ở trên đùi mặt và chơn mặt dưới đùi trái. Cần nhứt là ngồi được vững và lâu, vì hễ thân có yên thì tâm mới an. Nhiếp tâm = giữ tâm trụ lại, chú ý đến đối tượng, chẳng chạy lông bông, gạt bỏ mọi ý tưởng khác. Nhứt tâm: Xin xem lại Phẩm 4, trang 371. Tự tánh: Tự = chính mình, riêng của mình; Tánh = bổn tánh, đặc tánh căn bản. Tự tánh là bản tánh căn bản thường còn bên trong;khác với hình tướng thay đổi bên ngoài. Giải đãi: Giải = lười biếng, chậm lụt; Đãi = lười nhác; Giải đãi là lửng đửng, lờ đờ, lười nhác, chậm lụt. Tán loạn: Tán = phân tán, tứ tán, chẳng hội nhau lại; Loạn = chẳng yên, chẳng có trật tự. Tâm tán loạn là tâm chạy lông bông, vướng vít nhiều ý tưởng lộn xộn. Đồng nghiã với chữ loạn động. Tác ý: khởi lên ý, chú ý. Xem lại trang 344, Phẩm 2 Sự duyên: Sự = sự việc; Duyên = cơ duyên, điều kiện khiến có sự thay đổi. Ở đây, sự duyên cũ có nghiã là việc cũ. Niệm căn: Niệm = suy nghĩ, có một ý tưởng trong trí; căn = gốc, nơi phát sanh ra. Niệm căn là nơi phát sanh ra niệm. Niệm căn là một trong năm căn/ ngũ căn. Định căn: Định = dừng lại, trụ lại, chẳng loạn động. Căn là nguồn gốc. Định căn là nơi nguồn gốc phát sanh ra Định. Định căn là một căn trong năm cănTinh tấn căn: Tinh tấn là nỗ lực, cố gắng; Căn là nguồn gốc làm phát sanh ra. Tinh tấn căn là nơi làm phát sanh ra sự cố gắng. Tinh tấn căn là một căn trong năm căn. Ngũ căn gồm có tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn và huệ căn. Lục căn gồm có nhãn căn (mắt), nhĩ căn (tai), tị căn (mũi), thiệt căn (lưỡi), thân căn (thân) và ý căn. Chuyên nhứt tâm: Chuyên = hướng riêng về một phiá; nhứt = một. Chuyên nhứt tâm là tâm chú ý đến một điểm nào trên đối tượng; cũng là tâm trụ vào một điểm duy nhứt trên đối tượng, chẳng nghĩ gì khác nữa, và sắp bước vào Định. Tướng bỉ phần: Ở tiểu mục Thủ tướng (= nắm lấy tướng) nầy, chữ Tướng bỉ phần chỉ cái tâm ảnh về mạn-đà-la, nằm trong tâm, khi mắt chẳng còn nhìn mạn-đà-la bên ngoài. Trân bảo = vật qúi giá. Tự tại: Tự = chính mình, của riêng mình; Tại = hiện tại, tại đây và vào lúc nầy. Ráp hai chữ lại, Tự tại có nghiã là mình hiện có đây, chẳng bị chi ràng buộc; gần nghiã với chữ tự do ở ngoài đời. Nhưng trong bộ Luận thường dùng chữ tự tại cùng một nghiã với chữ thuần thục, tức là mình muốn tướng bỉ phần khởi lên trong tâm, thì hình ảnh của tướng ấy liền khởi lên thành một tâm ảnh trong tâm mình, chẳng có chi trở ngại. Xem lại nghiã chữ tự tại ở trang 344, Tìm hiểu Phẩm 2. Thắng định: Định cao hơn, thâm sâu hơn. Tối thắng định: Tối = hết sức, rất, vào bực nhứt. Tối thắng định là định cao nhứt, hết sức cao. Tâm sở hành: Tâm = tâm, lòng; sở = chỗ; hành = làm, hành động. Tâm sở hành là chỗ mà tâm đang hành động, đang suy tư, tức là các suy tư, ý nghĩ, các động tác của tâm. Thọ trì: Xem lại nghiã ở trang 340, Tìm hiểu Phẩm 2. Ở đây, chữ Thọ trì liên quan đến việc giữ gìn tướng bỉ phần. Linh hoạt: Linh = linh động, biết tùy cơ mà thay đổi các hành động; Hoạt = hoạt động. Linh hoạt trái nghiã với ù lì, buông trôi, thờ ơ. Quán khắp chư căn: Chư căn ở đây (trang 418) chỉ vào ngũ căn/năm căn, tức là tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn và huệ căn. Xem lại chữ ngũ căn ở trên, trang 417. (Tín căn = căn làm cho ta biết tin tưởng; tín = tin tưởng). Hữu dụng: Hữu = có; Dụng = dùng. Hữu dụng là có ích lợi, có thể dùng được. Pháp vị: Pháp = Chánh pháp, pháp tu; Vị = mùi vị, hương vị. Pháp vị là vị ngọt của Chánh pháp, tức là chỗ lợi ích mà pháp tu mang đến cho mình và cho người khác. Chế phục: đàn áp, bắt phải theo đường lối của mình. Đồng nghiã với khuất phục, điều phục, nhiếp phục. Ỷ ly: Ỷ = dựa kề, tựa vào. Ly = lià xa. Chữ ỷ ở đây lại được dùng với nghiã Khinh an, nghiã là cảm thấy thân tâm vui vẻ, nhẹ nhàng, chẳng vướng bận điều chi. Xuất ly: Xuất = ra khỏi; ly = lià xa. Ở đây, chữ xuất ly (trang 85) trỏ vào Niết-bàn, vì hành giả đã ra khỏi rừng phiền não u tối. (Niết-bàn, nghiã gốc là ra khỏi rừng phiền não u tối) Tương ưng: Xem lại nghiã ở trang 389, Phẩm 6. Viễn ly: Viễn = xa; Ly = lià; Viễn ly là lià xa. Vô minh: Vô = chẳng; Minh = sáng, sáng suốt. Vô minh là sự si mê. Trái nghiã với chữ Trí huệ. Giác: Xem lại nghiã oỏ trang 336, Tìm hiểu Phẩm 2 Quán: Xem lại nghiã ở trang 337, Tìm hiểu Phẩm 2 Hỉ: Xem lại nghiã ở trang 337, Tìm hiểu Phẩm 2 Lạc: Xem lại nghiã ở trang 337, Tìm hiểu Phẩm 2. Nhảy nhót: tạm dịch nguyên văn là dõng dược, nghiã bóng là tâm còn rung động vì mừng; mừng rơn. Bồ-đề phần: Bồ-đề = phiên âm chữ Pàli Bodhi, có nghiã là giác ngộ, thấy được Chơn lý. Phần = các phần, ở đây là các yếu tố của sự giác ngộ. Có bảy yếu tố của sự giác ngộ, gọi là thất giác chi (bảy nhánh của sự giác ngộ): (1) niệm, (2) trạch pháp, (3) tinh tấn, (4) hỉ, (5) khinh an, (6) định, (7) xả. Như thế, hỉ là yếu tố thứ tư của Thất giác chi (= Thất Bồ-đề phần). Niệm niệm Hỉ: Chữ niệm niệm ở đây dùng để chỉ thời gian rất ngắn như một niệm trôi phớt qua. Niệm niệm hỉ là nỗi mừng ngắn, qua nhanh. Duyên theo = ý muốn nói, dựa theo đó mà thay đổi theo; chữ duyên có nghiã: vì duyên cớ đó, do theo điều kiện đó, bởi nhân duyên đó mà sanh ra hoặc xảy ra một việc gì. Tư cụ lạc: Tư = tiền của, vốn liếng; Cụ = đầy đủ; Lạc = vui. Thí dụ trong Luận văn hơi khó hiểu: Phật sanh thế lạc = Phật sanh niềm vui cho thế gian. Phải chăng đây là niềm vui được ban bố chung cho cả muôn loài, tựa như mỗi người ai cũng có sẵn một số "vốn" vui trong tâm vậy. (Xin hãy dè dặt). Hành ấm: Hành = hành động, chuyển hành, vận hành, chuyển động (đây là nói sự biến chuyển của Tâm); Ấm = Uẩn = nhóm, tụ họp và che mờ. Hành ấm là tất cả các tri giác, tư tưởng và hành động của Tâm. Trong câu "Hỉ thuộc hành ấm, Lạc thuộc Thọ ấm", tác giả muốn phân biệt Hỉ là một ý tưởng, nên thuộc hành ấm, còn Lạc lại là một tình cảm nên thuộc về thọ ấm. Thọ ấm: Thọ = cảm thọ, nhận chịu lấy. Thọ ấm là tất cả những tình cảm, những cảm giác, nhân vì có đối tượng ở trước mặt nên sanh ra tình cảm, hoặc nhận lấy cảm giác gây ra bởi đối tượng. Xin xem thêm chữ Hành ấm ở trên, để phân biệt giữa Hỉ (thuộc hành ấm) và Lạc (thuộc thọ ấm). Suy nghĩ bình đẳng: Trong khi suy nghĩ, chẳng nghiêng về một ý tưởng nào, chẳng chấp thủ vào một ý tưởng nào, mà cứu xét đồng đều tất cả mọi khía cạnh, chẳng kỳ thị. Thiền chi: Thiền = thiền, xin xem định nghiã trong Luận văn, trang 91. Chi = nhánh. Năm thiền chi là năm giai đoạn mà hành giả trải qua từ Thiền ngoại hành đến Sơ Thiền, như đã được kể ra trong Luận văn: (1) giác, (2) quán, (3) hỉ, (4) lạc và (5) nhứt tâm. Năm trần: Trần = nghiã đen là bụi bặm; nghiã bóng là các đối tượng do năm giác quan thâu nhận, chuyển vào tâm và làm tâm bị dính nhiễm. Năm trần gồm có: sắc trần (hình dạng và màu sắc), thanh trần (âm thanh, tiếng động), hương trần (mùi), vị trần (vị nếm ở lưỡi), xúc trần (va chạm trên thân); nói cho đủ còn có pháp trần (ý được gợi lên trong tâm), thành ra là lục trần (= năm cảnh vật bên ngoài + ý tưởng bên trong tâm) (lục = sáu). Sắc pháp: Sắc = ở đây có nghiã là vật chất. Pháp = ở đây có nghiã là sự vật. Sắc pháp là những sự vật vật chất có hình dạng và thể chất. Thí dụ như ngôi nhà, quyển sách là sắc pháp. Trái nghiã với sắc pháp là tâm pháp, một sự việc trừu tượng, chỉ có trong tâm, chẳng có hình sắc. Thí dụ như sân hận là một tâm pháp, vì đó là một tâm sở giận hờn nổi lên trong tâm. Khi đọc đến Phẩm 11, Năm Phương tiện, đoạn Luận văn nói về Giới sẽ giải thích rõ thêm về sự phân biệt giữa sắc pháp và tâm pháp. Trạo: còn được đọc là Điệu, có nghiã là vụt chạc, hấp tấp, hối hả; vì tâm bên trong chao động mà có hành động và thái độ thiếu sự chững chạc. Xa-ma-tha: phiên âm chữ Pàli Samatha, có nghiã là yên tịnh, là Định, hoặc là định kiến. Xa-ma-tha, hay Định, là một tâm trạng trong đó tâm trụ lại, dừng lại, trên đối tượng đang quán tưởng. Tì-bà-xá-na: phiên âm chữ Pàli Vipassanà, có nghiã là nhìn vào bên trong, thường được dịch là minh sát, sự quan sát rõ ràng bên trong; cũng thường gọi là Huệ, hay huệ kiến. Tì-bà-xá-na là một tâm trạng đang quán sát kỹ lưỡng về bên trong, tức là đang quán tưởng với trí huệ sáng tỏ. Năm phần: Luận văn dùng chữ năm phần để chỉ đến năm yếu tố của Thiền, tức là năm Thiền chi: giác, quán, hỉ, lạc và nhứt tâm. Tánh chế: Tánh = ở đây có nghiã là họ, gia quyến, bộ tộc; Chế = cơ chế, chế độ, thể thức chung sống với nhau. Luận văn nói: "Nếu nói theo bộ lạc, thì gọi là Thiền; nếu nói theo bộ tộc, thì gọi là Chi", câu nầy có nghiã là, một bộ lạc có nhiều bộ tộc, cũng như Thiền có nhiều chi; Thiền rộng hơn, cũng như bộ lạc, Thiền chi là một ngành của Thiền, cũng như một bộ tộc sống trong bộ lạc.(Bộ lạc = sắc dân sơ khai sống vùng hẻo lánh, gồm nhiều cánh họ, hay bộ tộc, tuy khác họ nhưng sống chung tục lệ với nhau trong một bộ lạc). Tạp loạn: Tạp = nhiều thứ chung nhau chẳng có trật tự; Loạn = lộn xộn. Tạp loạn gần nghiã với loạn động. Nhiệt tâm: Nhiệt = nóng. Nhiệt tâm là lòng hăng say làm một việc gì. Thích nghi = thích hợp, phù hợp với, tiện lợi cho. Ba loại Thiện: Thiện = lành; còn có nghiã là khéo. Nói ba loại Thiện ở đây (trang 95 Luận văn) là nói lên việc Thiện, chỉ có một thôi, nhưng khởi lên qua ba giai đoạn: lúc đầu đã lành, đã khéo, lúc giữa vẫn lành, vẫn khéo và lúc sau chót cũng vẫn lành, cũng vẫn khéo. Như nói, "lời Phật giảng pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện", có nghiã là lời nói đó từ đầu chí cuối đều thiện, đều khéo cả ba giai đoạn. Vì lẽ tôn trọng lời tác giả tam chủng Thiện, nên dịch thành ba loại Thiện; thật ra chỉ là một việc Thiện, trải qua ba lúc đều lành, khéo cả. Sơ, Trung, Hậu: Sơ = buổi đầu; Trung = giữa; Hậu = sau. Mười tướng đầy đủ: Đầy đủ = dịch chữ Cụ túc. Có được mười tướng đầy đủ, có nghiã là việc tu hành nay dã thành tựu đầy đủ, như mình đang chứng thấy qua sự thanh tịnh của tâm, qua sự tâm xả bỏ được tăng thêm và qua sự hoan hỉ trong lòng, thấy đầy đủ các tướng như thế. Đồng bàn: Đồng = chất kim loại đồng; Bàn = mâm hay khay; Đồng bàn ở đây là cái mâm lớn bằng đồng bên trên có các vật dụng để dùng khi tắm rửa. Bột tắm: Ngày xưa chưa có xà bông, dùng bột gạo tán nhỏ hoà nước thành viên tròn để chà lên mình mà kỳ cọ. Người hầu tắm: kẻ giúp việc cho người tắm rửa. "Đồng bàn là tướng của Nhứt thiết nhập": Câu nầy vì nói quá ngắn, nên khó hiểu: có lẽ nên viết lại đầy đủ như vầy: Công dụng của cái đồng bàn trong việc tắm rửa cũng giống như công dụng của tướng bỉ phần của Nhứt thiết nhập giúp tâm hành giả sớm được hỉ, lạc và an tịch. Phạm thiên: Phạm = phiên âm tiếng Pàli Brahma, còn đọc là Phạn; Thiên = cõi Trời. Cõi Phạm thiên là cõi Trời thuộc Sắc giới, cao hơn Dục giới. Danh pháp: Danh = tên gọi; Pháp = sự vật. Danh pháp là sự việc chỉ có tên để gọi, trừu tượng, vô hình. Trái với sắc pháp; và gần đổng nghiã với tâm pháp. Thắng duyên: Thắng = trội hơn, lấn hơn, nhiều hơn; Duyên = cơ duyên, ở đây có nghiã là các điều kiện, nguyên nhân khiến hậu quả xảy ra. Nói quán các thắng duyên là nói việc xét đến các điều kiện quan trọng, ở đây (ở đầu trang 98) các thắng duyên đó là nguyên nhân của các triền cái. Mạng chung: Mạng = mạng sống; Chung = chấm dứt. Mạng chung là khi mạng sống đã chấm dứt. Thiên chúng: Thiên = Trời; chúng = chúng sanh, những người. Thiên chúng là các bực Thiên sống trên cõi Trời, gồm có Thiên nam, Thiên nữ, dưới quyền vua Thiên vương. Thoái phần: Thoái = trở lùi lại; Phần = phần, nhóm. Thoái phần là còn phần lùi sụt sau nầy. Trú phần: Trú = ở, ở yên lại; Trú phần là có phần được an trú, tuy chẳng tiến lên, nhưng chẳng lùi sụt lại. Thắng phần: Thắng = vượt hơn lên. Nói đắc được Thiền thắng phần là muốn nói tâm hành giả đạt được sự thắng biện, nghiã là có khả năng phân biện vượt cao hơn lên. Đạt phần: Đạt = đến được chỗ cao sâu. Nói đắc được Thiền đạt phần là muốn nói tâm hành giả đã thông đạt, nghiã là có khả năng hiểu biết đến tận chỗ cao thâm.049. Tìm hiểu vài ý tưởng trong Chi 1, Phẩm 8: 1) Công dụng của Nhứt thiết nhập: Mở đầu cho các Hành môn, Luận văn kể ra Mười Nhứt thiết nhập là mười môn thực hành mà hành giả nên chọn một để tu tập. Nhứt thiết nhập là một dụng cụ, một phương tiện, giúp cho hành giả quán sát sự vật được kỹ càng. Tại sao phải quán sát? Vì muốn thanh lọc tâm ý để Trí huệ sẵn có hết bị che mờ mà chiếu sáng lên, hành giả phải dùng đường lối quán sát; quán sát càng kỹ bao nhiêu thì tâm trí càng sáng tỏ thêm bấy nhiêu, vì thấy ra được những chỗ còn chưa thấy, hay mình chẳng ngờ là có đó mà còn chưa biết nhìn thấy đến. Khi quan sát một vật với đôi mắt, nhìn chẳng bao lâu thì mỏi mắt, sanh chán, quay đi nhìn chỗ khác, khiến cho sự quan sát chẳng đúng mức. Quan sát một vật bằng mắt cho đúng mức, thì hình ảnh của vật xuyên qua mắt đi vào tâm, trở thành một tâm ảnh; quan sát vật bên ngoài bằng mắt càng kỹ lưỡng bao nhiêu thì tâm ảnh bên trong càng rõ rệt bấy nhiêu. Cho đến khi, chẳng cần nhìn bằng mắt đến vật bên ngoài, mà trong tâm vẫn lồ lộ tâm ảnh của vật đó với đầy đủ các đặc điểm, đó là sự quán tưởng về vật đó đã thành công. Nhứt thiết nhập đóng vai trò như cái trụ, cái cọc, để đôi mắt nương tựa vào mà nhìn, quan sát, để quán tưởng. Nhờ có nhứt thiết nhập ở vừa tầm mắt, hành giả dễ gom tâm ý lại, chú ý nhìn vào, tránh được các ý tưởng ngoại lai cùng những sự vật khác chung quanh. Không có nhứt thiết nhập, sự chú tâm nhìn của hành giả chẳng bao lâu sẽ lỏng lẻo, mờ dần rồi mất đi, khiến việc quan sát chẳng đồng đều, chẳng liên tục. Cách tạo ra một Nhứt thiết nhập Điạ, cách ngồi để quán sát, cách tránh các trở ngại, cách giữ gìn tướng bỉ phần, đã được Luận văn mô tả rất tỉ mỉ, chẳng cần nói thêm ở đây cho quá rườm rà. 2) Hai điều cần biết, trước khi bắt đầu tập: Có hai điều cần được giải quyết thoả đáng, trước khi bắt tay vào việc thực tập. Thứ nhứt, có cần phải được một vị thiền sư hướng dẫn không? Thứ hai, các ham muốn có được dẹp qua một bên chưa, ngoại trừ cái ham muốn muốn tu tập đến ngày đạt mục tiên? Thứ nhứt, vấn đề được một thiền sư hướng dẫn là vấn đề quan trọng, đem lại lợi ích rất lớn cho hành giả, vì thiền sư sẽ chỉ ngay các chỗ sơ sót, lỗi lầm trong khi thực tập, kẻo các chỗ vụng về đó trở thành một bịnh khó chữa trị sau nầy. Lại nữa, các thắc mắc được giải quyết ngay tại chỗ, khiến tâm trí được tăng niềm tin. Hơn thế, việc thực tập được thiền sư theo dõi, mỗi tiến bộ được ghi nhận, mỗi bước lià xa đường lối liền được chấn chỉnh, và sự khuyến khích của thiền sư rất cần khi tinh thần của thiền sanh xuống thấp. Tuy nhiên, cơ duyên may mắn gặp đúng được một thiền sư xứng danh là một bực thiện tri thức, như đã đọc qua ở Phẩm 5, thật là hiếm. Trong khi chờ đợi, chẳng lẽ bó gối, khoanh tay: những lời dạy trong Bộ Luận nầy cũng đủ giúp sức cho một người có đầy thiện chí dấn bước lên con đường giải thoát, mà bước đầu là thực tập quán tưởng với một hành môn, như Nhứt thiết nhập Địa nầy. Trong khi tự lực để thực tập, có ba điều nên lưu ý: (1) đừng quá nôn nóng muốn thấy ngay kết quả; (2) chớ lơ là, nay tập mai không, (3) rút kinh nghiệm sau mỗi buổi thực tập, khi thành công được một điểm, khi thất bại trong một việc, để tự mình điều chỉnh lấy mình, rồi thử tới thử lui nhiều bận, mình dạy lấy mình, mình học lấy kinh nghiệm của chính mình. Thứ hai, như đã biết, gọi là dục tức là ham muốn, thì có dục tốt cũng như có dục xấu; tránh các tham dục là điều dĩ nhiên rồi. Nhưng trong một ngày, một buổi làm sao mà dẹp hết các ham muốn đã thâm căn cố đế từ lâu. Thế cho nên, chỉ cần gát qua một bên tất cả mọi ham muốn, ngoài trừ cái ham muốn muốn thực tập Thiền cho đến ngày đạt được mục tiêu. Tại sao phải gạt qua bên tất cả ham muốn? Vì nếu không, thì trong khi ngồi yên quán sát để quán tưởng, đố khỏi sẽ bị các dục vọng trồi lên khuấy động tâm, kéo tâm bỏ chạy theo chúng, như thế thì hỏng to mất rồi! Hai ý nghĩ (1) và (2) trên đây chẳng thấy ghi đầy đủ trong Luận văn, nhưng xét ra rất cần thiết để chuẩn bị tư tưởng cho người sẵn sàng muốn thực tập Thiền theo đúng đường lối Nhứt thiết nhập. 3) Tướng bỉ phần là gì? Luận văn đã mô tả rất tỉ mỉ về tường bỉ phần nầy, chỉ cần đọc kỹ lại để tìm hiểu và nhận chân được tướng ấy khi nó nổi lên trong tâm, lúc việc quán tưởng Nhứt thiết nhập đã chín muồi. Tuy nhiên, xin nói thêm, thật vắn tắt, về tướng nầy để tiện ghi nhớ. Hình sắc vật chất của Nhứt thiết nhập được mắt nhìn kỹ, hình ảnh đó len vào trong tâm tạo nên một tâm ảnh, đó là tướng bỉ phần, chữ tướng chỉ về hình dạng, chữ bỉ có nghiã là kia, đó, nghiã là chỉ đến cái Nhứt thiết nhập ở bên ngoài đấy, còn chữ phần có nghiã là một phần của Nhứt thiết nhập, chẳng phải trọn vẹn cái Nhứt thiết nhập, được đã đưa vào tâm. Tướng bỉ phần còn được phiên dịch ra Anh văn là the after image sign. Tướng nầy khởi lên khi sự chú tâm đã lên cao, và bị mờ phai đi, mỗi khi sự chú ý lià đối tượng đang quán sát chuyển sang việc khác. Vì lẽ đó, giữ được tướng bỉ phần rõ ràng trong tâm là đã thành công bước đầu của việc quán tưởng. Bước đầu đó thành tựu được chính là nhờ ở Nhứt thiết nhập đã hỗ trợ cho sự quán sát của hành giả: hành giả luôn nhìn vào Nhứt thiết nhập và chỉ nhìn vào chỗ ấy mà thôi. Hình ảnh vật chất của Nhứt thiết nhập đã thấm nhập vào tâm bên trong, tạo nên tướng bỉ phần, đó là ý nghiã của chữ nhập trong ba tiếng Nhứt thiết nhập, đồng thời nói lên công dụng của phương tiện tu tập Thiền nầy. 4) Thiền ngoại hành và năm Thiền chi của Sơ Thiền. 41) Chánh niệm: Mở đầu mỗi đoạn dạy về cách thực tập một môn Hành xứ, như Nhứt thiết nhập Địa chẳng hạn, Luận văn thường viết:"Người toạ thiền đi đến nơi yên vắng, ngồi xuống nhiếp tâm, đặt chánh niệm trước mặt, gom tâm ý vào đề mục quán tưởng..." Câu nầy dạy ta phải luôn luôn thắp sáng lên chánh niệm trước khi bắt đầu tu tập Thiền. Chánh niệm là gì? Đó là tâm khởi lên một niệm để canh chừng chính tâm, mà niệm canh chừng đó phải kéo dài, giữ yên, luôn luôn có mặt trong tâm, nhưng chẳng cần nói lên sự hiện diện. Mỗi hành động của thân và miệng, mỗi ý nghĩ dù thoáng qua trong đầu, đều được chánh niệm biết rõ đến, ngay trong lúc hành động hay ý nghĩ ấy diễn ra. Nhờ sự canh chừng đó mà mỗi khi tâm phóng đi, rẽ sang đường khác, thì chánh niệm biết ngay, kéo tâm trở lại đề mục quán tưởng. Đó là sự điều phục tâm ý do chánh niệm thi hành, có công dụng dẹp bớt các vọng tưởng nổi loạn trong tâm. Chánh niệm chẳng những cần thiết trong lúc toạ thiền, nó còn là biểu hiệu của sức sống tâm linh, biết mình đang sống; làm gì, nghĩ gì, cũng biết mình đang làm việc ấy, đang nghĩ đến chuyện ấy. Đó là biết sống trọn vẹn, chớ chẳng phải là cái máy biết ăn, biết đi và biết nghĩ. Vì thế, nếu thắp sáng được luôn luôn chánh niệm, thì tâm của hành giả đang ở trong Định, cái định tuy thông thường mà thường hằng, cái định chẳng cần phải "nhập vào" cũng chẳng muốn "xuất ra". Giữ chánh niệm sáng tỏ hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày, thì cần gì tập Thiền thêm nữa, nhưng chỉ có các vị tu hành đến bực "thượng thừa" mới làm nỗi! 42) Từ lúc mới khởi tập đến lúc được Thiền ngoại hành: Sau khi thắp sáng lên chánh niệm, người ngồi Thiền bắt đầu quán sát đề mục quán tưởng. Cách quán sát Nhứt thiết nhập Điạ đã được Luận văn chỉ dạy rõ ở trang 76, cần làm theo đúng. Quán sát được đều đặn, liên tục chẳng gián đoạn nhờ khéo tác ý và tránh sự loạn động, một thời gian sau, lâu hay mau tùy theo sức cố gắng khi quán sát, thì người toạ thiền cảm thấy thân tâm khá yên tịnh, sức chú ý gia tăng đến đề mục, các vọng tưởng tạm thời vắng bóng, đó là lúc đã tới được với Thiền ngoại hành, tức là tới ngưỡng cửa sắp bước vào Định. Làm sao biết mình vừa đến được với Thiền ngoại hành? Chỉ cần so sánh thân tâm mình lúc mới bắt đầu tập với lúc nầy. Lúc mới đầu tập, xếp chơn lên thấy đau, một chốc lại cảm mỏi lưng đau bắp về, tê chơn. Đến lúc nầy, thân tâm như thế nào? Cái tê, cái nhức, cái mỏi lúc trước chắc vẫn còn đó, có lẽ bớt được chút chút, nhưng sao bây giờ đâu cảm thấy khó chịu nữa. Thân tâm cảm nhận ra như thế, gọi đó là vui, là mừng thì cũng chưa chịu rằng đúng, nhưng phải nhìn nhận là có chỗ khác biệt với lúc mới bắt đầu, dễ chịu hơn chớ! Tình trạng dễ chịu, yên ổn, vắng lặng trên thân và tâm đó chính là tình trạng của người đang đứng tại ngưỡng của Sơ Thiền, chưa bước vào, nhưng sắp bước vào, với điều kiện... Nghiã của Thiền ngoại hành là: còn đi ở ngoài cửa, chưa bước vào trong Định. Luận văn mô tả tỉ mỉ tình trạng nầy nơi tiểu mục Thiền ngoại hành, trang 80, nên đem ra so sánh với những cảm giác mà mình thật sự kinh nghiệm khi thực tập đến giai đoạn nầy. 43) Từ Thiền ngoại hành đến Sơ thiền Trước có nói, người vừa đến với Thiền ngoại hành có thể bước vào cửa Định, với điều kiện... Điều kiện nào đó? Đó là tâm an trú vào đối tượng, nghiã là tâm chỉ biết đến đối tượng mà thôi, chẳng nghĩ gì khác, và tình trạng an trú đó phải được kéo dài trong một thời gian; hễ tâm dứt an trú là hết... định. Và khi tâm an định, trú lâu trên đối tượng, đó là đắc Sơ Thiền. Người sơ cơ trú tâm trên đối tượng chẳng được lâu, có lúc lơi lỏng, có lúc lià xa đôi chút, vì định lực hãy còn yếu. Với sự tu tập chăm chỉ, với nỗ lực điều phục tâm, định lực sẽ gia tăng. Làm sao phân biệt được Thiền ngoại hành với Sơ Thiền. Đoạn Luận văn, các trang 80 đến 84, mô tả rất chi là tỉ mỉ sự khác biệt đó và cách giữ sự an trú được lâu dài, nên đọc lại kỹ và so sánh với những kinh nghiệm bản thân khi tu tập. Nếu thấy khác, cũng đừng ngại, vì Luận văn viết cho người tu cao hơn mình, trường hợp mình có thể chẳng giống hẳn. Muốn biết mình tu có tiến bộ không, nên so sánh tình trạng thân tâm mình lúc nầy với lúc mới bắt đầu tập, hễ thấy tốt hơn, đó là điều đáng mừng. Nhưng nỗi mừng, Hỉ của Sơ thiền, lại do nơi sự ly dục và đối trị các triền cái, điều mà mình cần làm luôn luôn chớ chẳng phải đợi lúc ngồi Thiền mới tập ly . 5) Khai triển vài ý tưởng trong Luận văn về mặt lý thuyết . 51) Tướng, nghiã là gì? Nơi trang 79, Luận văn có nêu ba ý nghiã của Tướng: (1) nghiã nhân duyên, (2) nghiã trí, (3) nghiã hình tượng. Mới đọc qua, thấy khó hiểu, vì Luận văn nói quá vắn tắt. (1) nghiã nhân duyên: Viện dẫn lời Phật: "Các điều ác, các pháp chẳng lành, đều có tướng khởi lên", Luận văn muốn nói, khi các điều ác khởi lên, ta biết được là nhờ có tướng của điều ác đó. Thí dụ như khi sân hận nổi lên, ta cảm thấy tức tức, hơi thở dồn dập, tim đập nhanh, v.v. đó là tướng của sự sân hận, do gnuyên nhân giận mà sanh ra. Cùng thế đó, khi quán sát kỹ Nhứt thiết nhập, hình ảnh bên ngoài của Nhứt thiết nhập là tướng làm nguyên nhân khởi lên tâm ảnh bên trong, ảnh trong tâm, đó là tướng bỉ phần của Nhứt thiết nhập. (2) nghiã trí: Viện dẫn lời Phật: "Với tướng khởi lên đó, nên xả bỏ", đây là nói đến tướng các điều ác, do chánh niệm bên trong nhận thấy được, khiến cho trí huệ biết xả bỏ. Cũng vậy, khi tướng bỉ phần của Nhứt thiết nhập khởi lên trong tâm, trí huệ biết xả bỏ các ý nghĩ khác, để cho tướng kia trở nên rõ. (3) nghiã tượng: Khi đưa ra thí dụ nhờ tấm kiếng soi mà thấy được hình dáng gương mặt, Luận văn muốn nói, hình trên gương giống khuôn mặt thiệt, cũng như tướng bỉ phần là một tâm ảnh giống với hình tượng bên ngoài của Nhứt thiết nhập. 52) Nói về sự ly dục. Nơi cuối trang 84, Luận văn có phân biệt tám loại ly dục, sự xa lià các ham muốn, dục vọng; mới đọc qua thấy hơi nhiều và rắc rối. Xin sắp xếp lại như sau: 1. Cái gì phải ly? Đó là thân
phải ly (thân ly), và tâm cũng phải ly (tâm ly); - Điều phục các triền
cái; 53) Nói về Hỉ, nỗi mừng. Nơi cuối trang 89 Luận văn có phân biệt năm loại Hỉ (= mừng): tiểu hỉ, niệm niệm hỉ, lưu hỉ, việt hỉ, mãn hỉ. Sự phân biệt quá tế nhị, khó cho ta thấy được, tưởng chỉ cần nhớ mừng thì có nỗi mừng lớn, với nỗi mừng nho nhỏ; nỗi mừng lâu hay mừng dai với nỗi mừng thoáng qua trong chốc lát; nỗi mừng sâu đậm với nỗi mừng hời hợt, có lẽ sếp lại từng cặp đôi như thế sẽ dễ hiểu và dễ nhớ hơn. 6) Vài hình ảnh so sánh trong Luận văn cần ghi nhớ. Chi 1 của Phẩm 8: Hành môn có nhiều hình ảnh so sánh rất sống động mà ý nghiã lại thâm sâu, tưởng cần ghi nhớ để phân biệt chỗ tế nhị. 61) Phân biệt giữa Thiền ngoại hành và An định: con thuyền trên sông, khi lướt sóng gió, tượng trưng cho Thiền ngoại hành; khi hết sóng gió, trôi êm đềm, tượng trưng cho An định. (trang 80). 62) Phân biệt giữa Giác và Quán: - như tiếng chuông, lúc mới đánh, tượng trưng cho Giác; khi chuông ngân dài, tượng trưng cho Quán; (trang 87) - như con chim, khi mới vỗ cánh, tượng trưng cho Giác, lúc đang bay liệng, tượng trưng cho Quán (trang 88). - như nhìn người từ xa đi lại, thoáng thấy chưa rõ nam nữ, chưa biết hình sắc, đó là Giác; còn xét thêm kẻ ấy có giới hạnh hay không, giàu sang hay nghèo hèn, đó gọi là Quán. 63) Hình ảnh cái đồng bàn, bột tắm và nước so sánh với tướng bỉ phần của nhứt thiết nhập đang thấm nhập vào thân tâm (các trang 96, 97). 64) Hình ảnh chiếc xe và hình ảnh Quân đội, để tượng trưng cho năm Thiền chi sánh với Sơ Thiền (trang 93). 050. Vài suy gẫm về Nhứt thiết nhập và về các Thiền chi, được nói trong Chi 1, Phẩm 8. 1) Như đã biết Nhứt thiết nhập là một phương tiện giúp ta quán sát kỹ lưỡng, và nhờ quán sát kỹ lưỡng, hình ảnh của Nhứt thiết nhập nhập vào tâm, tạo nên một tâm ảnh. Nhứt thiết nhập là nơi nương tựa cho đôi mắt mở ra nhìn, chú ý nhìn, bền chí nhìn, và như thế tâm bên trong phải dừng lại trên đối tượng, khiến cho sớm đắc được Định tâm. Nhứt thiết nhập có cần thiết cho sự tu tập Thiền định hay không, còn chưa dám bàn đến, nhưng chỉ xin kể lại một câu chuyện cổ, có đúng với Sự thật hay không, cũng chưa dám chắc cho lắm. Ngày xưa, có người tập bắn cung, muốn bắn trăm phát đều trúng vào hồng tâm. Người ấy bắt đầu tập bắn cung bằng cách ... nhìn vào một con chí treo trước mắt. Ngày qua ngày chăm chú nhìn con chí, nhìn mãi, cho đến khi nhìn thấy nó to lên bằng nắm tay, bấy giờ đem cung ra bắn, thì trúng ngay giữa thân con chí. Phải chăng khi giương cung, chàng thiện xạ đã mở mắt ra trông con chí, mà tâm lại chú vào cái phóng ảnh của con chí ở bên trong tâm? Nếu tâm ảnh đó có thật trong tâm chàng thiện xạ, thì việc nói đến tướng bỉ phần của Nhứt thiết nhập chẳng phải là chuyện ngoa. Không tin, xin mời bạn cứ thử làm xem, tôi chẳng dám bảo đảm kết quả, vì chính bạn mới là người làm cho có kết quả được như ý hay không! 2) Năm thiền chi: giác, quán, hỉ, lạc, nhứt tâm sanh ra thế nào nơi Sơ thiền? Luận văn đã chỉ rất rõ, rất tỉ mỉ về năm thiền chi của Sơ Thiền, nên đọc kỹ và tưởng chẳng cần lập lại thêm làm chi cho quá dài dòng ở đây. Phương pháp hành Thiền, đại khái chia ra làm hai loại: 21. Thiền chỉ: (Chỉ là ngưng, dừng nghỉ). Thiền chỉ chủ trương ngưng sự tư duy lại, giữ tâm ý vắng lặng trong tánh không, để đạt đến mục tiêu là không tâm. 22. Thiền quán: (Quán là quan sát nội tâm). Thiền quán chủ trương sự quan sát nội tâm, giữ tâm ý an trú trên đối tượng quán chiếu, để đạt đến định tâm. Như thế, việc tu tập theo Nhứt thiết nhập Điạ là tu theo phương pháp Thiền quán. Việc quan trọng là phải quan sát thật kỹ càng, nhứt là về nội tâm, mới mong đạt đến mục tiêu là định tâm, nhờ đó mà trí huệ phát sáng lên soi rõ con đường giác ngộ và giải thoát. Việc quan sát trong Thiền quán, nhứt là về các Nhứt thiết nhập được phân chia rõ rệt từng giai đoạn, nhưng trong lúc sự thực tập đang tiến triển thì các giai đoạn phối hợp nhau, giai đoạn nầy giúp cho giai đoạn kia khởi lên, giai đoạn sau lại củng cố thêm giai đoạn trước, khiến cho việc phân chia từng giai đoạn chẳng quá cứng rắn, chẳng cứ là một giai đoạn đã dứt xong, rồi mới bắt đầu đến giai đoạn kế. Trong tinh thần mềm dẻo đó, xin xét đến năm thiền chi ở Sơ thiền. Giác là chi thứ nhứt của Sơ thiền. Nguyên chữ Vitakka của Pàli, có nghiã gốc là tư tưởng, suy tưởng, trước được dịch là giác (như trong Luận văn nầy), sau được dịch là Tầm. Giác là gì? Giác là biết, biết đến sự vật gì, ở đây là biết đến đối tượng đang được quán sát. Đối tượng để cho mắt quan sát là Nhứt thiết nhập Địa, dưới hình dạng một bông mạn-đà-la bằng đất tinh khiết. Bước đầu là đôi mắt nhìn chăm chú vào đối tượng, chẳng rời đối tượng, biết mình đang nhìn vào đối tượng, biết đối tượng đó là sự vật gì đang được mình nhìn kỹ. Thông thường nhìn hơi lâu vào một vật, người ta sớm thấy chán rồi quay đi chỗ khác: khi quay đi là mất giác rồi, hay đúng hơn, đã có giác, nhưng giác hiện qua đi. Lại nữa, mắt tuy mở ra nhìn, có vẻ chăm chú, mà thật ra chẳng thấy, nhứt là chẳng để ý đến, chẳng chú ý đến, đây là trường hợp nhìn mà chẳng thấy, thì cũng chẳng có giác, và chuyến nầy, giác đã đi mất. Người toạ thiền khi giác khởi lên, đôi mắt bên ngoài "dán chặt vào" đối tượng, đồng thời bên trong nhãn thức biết rõ vật được nhìn là vật gì. Cả hai nơi, trong và ngoài, phải ăn khớp nhau, mới gọi là giác. Đó là giai đoạn đầu, tức là thiền chi giác, do chú tâm của người quan sát mà khởi lên và kéo dài. Quán là soi xét kỹ lưỡng, thẩm sát, nghiên cứu. Nguyên chữ Vicàra của Pàli, trước được dịch là quán (như trong bộ Luận nầy), sau được dịch là Tứ. Quán là gì? Quán là cứu xét mọi khía cạnh của đối tượng và nhận ra được đặc tánh của đối tượng, các đặc tánh làm cho đối tượng đang được quán sát khác với các sự vật khác. Đi sâu hơn nữa, nhờ quán mà hiểu được bản thể của đối tượng. Như thế, có sự lựa chọn giữa các đặc điểm của đối tượng, lấy ra để nghiền ngẫm mà thấy được đặc tánh cùng bản thể của đối tượng. Ứng vào trường hợp quán Nhứt thiết nhập Điạ, đi từ hình dạng bên ngoài của bông mạn-đà-la bằng đất, gạt qua bên màu sắc, cùng hình thù, để xét tới chất đất tinh khiết, thuần là chất đất mà thôi, đó là công việc của quán trong sự tu tập theo đề mục quán tưởng nầy. Nhưng cùng với giác nhìn bên ngoài bằng mắt, theo sự vận chuyển sinh lý có phối hợp của giác quan mắt cùng các hệ thống thần kinh, tạo nên một hình ảnh vật chất về hoa mạn-đà-la, quán là tác động tâm lý có hiệu quả tạo nên một tâm ảnh ở bên trong tâm, dựa trên các đặc điểm về đối tượng do sự quan sát của giác cung cấp. Hình ảnh vật chất bên ngoài và tâm ảnh bên trong, liên hệ mật thiết với nhau, tạo thành tướng bỉ phần. Tướng nầy càng rõ rệt lên khi sự quan sát của giác gia tăng bên ngoài, cùng lúc với nỗ lực chú tâm bên trong của quán. Tướng bỉ phần bị mờ đi, đó là sức quán bị yếu; tướng ấy bị mất đi là do sức quán đã dứt, tâm quán tưởng chẳng còn chịu "đeo theo" đối tượng nữa. Tại sao? Vì bị ý tưởng khác nổi lên khuấy động, như bị có một vọng tưởng chẳng hạn. Vào lúc đó, nếu chánh niệm sáng tỏ, phát giác ra sự lơ là ấy, liền chuyển đẩy tâm trở lại mức quán cũ, thúc dục mắt nhìn kỹ hơn nữa, thì chẳng bao lâu tướng bỉ phần trở lại trong tâm, gần giống lúc trước. Đó là giai đoạn thứ hai, tức là thiền chi quán, do sức phối hợp của thiền chi giác mà khởi sanh lên và được nuôi dưỡng nhờ sức chú tâm bên trong. Luận văn đưa ra hai thí dụ để tiện phân biệt giữa giác và quán: (1) "Như đánh chuông, tiếng chuông ban đầu là giác, tiếng chuông lúc sau là quán": có lẽ nên hiểu như vầy, đánh chuông, tiếng chuông lúc đánh lên là giác, tiếng chuông ngân nga sau đó là quán; chuông đánh càng to (= giác mạnh mẽ) thì tiếng ngân càng dài lâu (= quán bền bỉ). (2) "Như con chim đang bay liệng trên không, vỗ cánh là giác, lượn qua lượn lại là quán": có lẽ nên hiểu như vầy, vỗ cánh vút bay đi là giác, xoè cánh đập nhịp nhàng để bay bổng, và lượn qua lượn lại là quán. Nên ghi nhớ hai hình ảnh đẹp nầy. Hỉ là mừng, là thoả ý, là vừa lòng khi sực thấy sự việc vừa đến lại phù hợp với sự chờ đợi của mình. Luận văn viết: "Hỉ thuộc hành ấm", ý muốn nói Hỉ là một ý tưởng phát khởi trong tâm, nhân thấy có được sự vừa ý. Và ta có thể hiểu rộng thêm, do sự vừa ý đó mà khiến sanh ra các hành động tươi cười, hớn hở, nhảy nhót, biểu lộ sự thích chí. Như thế, khi có hỉ, tâm trở nên động, hoặc ít, hoặc nhiều, tùy theo mức độ của nỗi mừng. Luận văn lại viết: "Nhứt thiết nhập Điạ chẳng thể làm khởi lên Hỉ, Lạc được. Do nhân duyên lià xa các triền cái và nhiệt tâm tu theo tự tánh, theo pháp đó mà khởi lên Hỉ, Lạc". Như thế, việc Hỉ phát sanh chẳng do Nhứt thiết nhập Điạ, mà do sự lià xa các triền cái, cùng các dục vọng, mà sanh ra. Đấy là những nguyên nhân xa làm khởi lên Hỉ. Thế thì nguyên nhân gần làm khởi phát Hỉ trong khi ngồi Thiền, do đâu mà ra? Theo kinh nghiệm bản thân mà biết được lúc nào Hỉ phát khởi và từ đâu mà có. Người sơ cơ lúc bắt đầu ngồi, thân tâm còn chưa yên ổn, chỗ nầy đau, chỗ kia nhức, chỗ nọ tê; ngồi an một chặp, nhờ sức chú ý khi giác và quán đeo đuổi theo đối tượng, nên tâm lìa được các chỗ khó chịu đó khiến cho đau, nhức, tê, tuy còn đó, nhưng cường độ giảm hẳn, và người ngồi Thiền cảm thấy thân thoải mái hơn lúc đầu, và do đó mà ý Hỉ từ trong tâm mới khởi lên. Hỉ khởi lên vì thấy sức mình chịu đựng chỗ bực bội đã khá khá, việc quan sát và quán tưởng vẫn còn được tiếp tục đều đặn, thế thì còn đòi chi hơn nữa, nên Hỉ mới có cơ hội để khởi phát. Khác với giác và quán, vốn do ý chí của mình mà khởi lên và kéo dài, hỉ và lạc lại ít tùy thuộc vào ý chí cá nhơn, mà phải do một nguyên nhân ngoài ý mình muốn, nhưng lại phù hợp với lòng mình. Thân tâm trở nên an ổn, chẳng phải do mình muốn mà được, nay đã được, thì chẳng có lý do nào khiến Hỉ chẳng khởi lên. Lạc là vui, sự sảng khoái lâng lâng, nhẹ nhàng, mát mẻ trùm khắp thân tâm, kéo dài tiếp theo nỗi mừng, Hỉ, vừa khởi trong tâm. Luận văn viết: "Lạc thuộc về thọ uẩn", điều nầy có nghiã là vui (= Lạc) là một cảm thọ, một cảm giác của thân và tâm, một cảm thọ sung sướng, khoái thích, vì được vừa ý, trái với cảm giác khổ, khó chịu, bực bội. Hễ đã hết khổ, tức là đang vui, và cảm giác lạc khởi lên. Ứng vào việc ngồi quán tưởng về Nhứt thiết nhập, chơn nhức, cẳng tê, mỏi lưng là những khổ thọ, khi cảm thấy được bớt tê, hết nhức, đó là có lạc thọ rồi, chẳng cần chi đợi một cơn gió mát mẻ thoảng nhẹ qua làm mình đê mê mới gọi đó là lạc thọ: hết khổ, vượt qua được sự khổ, đó cũng đủ để khá gọi là lạc, là vui. Nhưng nổi mừng (Hỉ) là một ý tưởng, vốn thuộc hành uẩn, có thể thoáng qua trong tâm, còn niềm vui (Lạc) lại là một cảm thọ, vốn thuộc thọ uẩn, có thể kéo dài lâu hơn, và thấm nhập vào chẳng những nơi tâm mà còn cả khắp châu thân nữa. Kinh nghiệm bản thân của Đức Phật được Luận văn ghi lại ở trang 42 như sau: "Trước ta tập khổ hạnh, trong bảy ngày bảy đêm, thân chẳng lay động, miệng chẳng mở lời, ngồi im lặng hưởng thọ niềm an lạc..." Hai Thiền chi, thứ ba là Hỉ và thứ tư là Lạc đồng gây nên tác dụng tâm lý đến tâm của hành giả, khiến tâm nầy trở nên an vui và tránh được sự loạn động, đưa đến thiền chi thứ năm là nhứt tâm, thành tựu được Sơ thiền. Thế nào là nhứt tâm? Đây là tâm chuyên nhứt chẳng còn bị lay động, ngưng đọng lại và an trú trên đối tượng đang quán tưởng, thường được gọi là tâm bất loạn. Nếu dùng hình ảnh bóng bảy mà nói, thì đó là tâm cùng đối tượng hoà hợp lại thành một, và thiền giả có cảm tưởng mơ hồ dường như tất cả mọi sự vật chung quanh, kể cả thân tâm của mình, đều tan biến đi đâu mất, chỉ còn mỗi một đối tượng quán tưởng trước mặt mà thôi. Xin tóm tắt mấy trang dài dòng và vụng về trên đây và ghi lại về năm Thiền chi của Sơ Thiền như sau: (1) Giác = biết; xáp vào đề mục và
bám lấy, -ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục |
Chân thành cám ơn Cư sĩ Thiện Nhựt đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 01-2004)
[Trở
về trang Thư Mục]
last updated: 16-01-2004