|
Chương
III
Tìm
hiểu một số vấn đề dẫn đến sự hiểu biết sai
về địa vị người phụ nữ trong Phật giáo
Nữ giới có một địa vị xứng
đáng trong Phật giáo, điều này đã quá rõ ràng. Nhưng
thực tế không phải không có những vấn đề khiến một
số người chưa thâm nhập Phật pháp, hoặc một số người
chỉ cưỡi ngựa xem hoa hiểu sai về địa vị người phụ
nữ trong giáo lý Phật giáo, như vấn đề người nữ phải
tuân thủ Bát kỉnh pháp, vấn đề mạt pháp sớm hơn năm
trăm năm nếu nữ giới xuất gia, vấn đề người nữ bị
năm điều chướng ngại....
Thực chất những vấn đề này
như thế nào? Có phải người phụ nữ trong giáo lý Phật
giáo chưa thật được bình đẳng? Hay vì chúng ta chưa
hiểu hết ý Phật? Để được một nhận thức đúng đắn
hơn về vấn đề trên, chúng ta nên lần lượt nghiên cứu
những phần trong chương Ba này.
1. Vấn đề bát
kỉnh pháp:
Trong Phật giáo, một vị Tỳ kheo
ni bên cạnh việc thọ trì Giới bổn Patimokkha (Ba la đề
mộc xoa) còn lãnh thọ thêm Bát kỉnh pháp (Garudhamma), trọn
đời cung kính, tôn trọng không được vượt qua. Nội dung
của tám điều cần tôn kính ấy là:
- ‘Dầu cho thọ đại giới
một trăm năm, một Tỳ kheo ni, đối với Tỳ kheo mới
thọ đại giới trong một ngày ấy, cũng phải đảnh lễ,
đứng dậy, chấp tay, xử sự đúng pháp. Pháp này sau khi
cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến
trọn đời không được vượt qua.
- Tỳ kheo ni không có thể an cư
mùa mưa tại chỗ không có Tỳ kheo...
- Nửa tháng một lần, Tỳ kheo
ni cần phải thỉnh chúng Tỳ kheo hỏi ngày trai giới và
đến để thuyết giới...
- Sau khi an cư mùa mưa xong, Tỳ
kheo ni cần phải làm lễ ‘tự tứ’ trước hai Tăng chúng
về ba vấn đề được thấy, được nghe và nghi...
- Tỳ kheo ni phạm trọng tội,
phải hành pháp man na đõa cho đến nửa tháng...
- Sau khi học tập sáu pháp trong
hai năm, phải đến xin thọ cụ túc giới trước hai Tăng
chúng...
- Không vì duyên cớ gì, một
Tỳ kheo ni có thể mắng nhiếc, chỉ trích một Tỳ kheo...
- ...Có sự giáo giới phê bình
giữa các Tỳ kheo về các Tỳ kheo ni, không có sự giáo
giới phê bình giữa các Tỳ kheo ni về các Tỳ kheo...’
(20)
Có sự bất bình đẳng trong tám
điều luật này, người vô văn phàm phu có thể nghĩ như
vậy. Nhiều người đã căn cứ vào tám điều cung kính này
và căn cứ trong luật Phật chế giới điều của Tỳ kheo
ni nhiều hơn giới điều dành cho Tỳ kheo tăng mà cho rằng
trong đạo Phật có sự kỳ thị nam nữ.
Thật ra cũng dễ hiểu, vì phái
nữ có những điều kiện vật chất và tinh thần, tâm lý
khác hẳn nam giới cho nên giới luật cũng khác nhau. Nếu
ở trong nam giới, trí tuệ được đề cao thì đức tính
được đề cao ở nữ giới chính là từ bi, bởi thế mà
những hình tượng tượng trưng cho đức từ bi đều mang hình
thù phụ nữ.
Nếu ở nam giới, lòng can đảm
gan dạ, chí khí được tán dương thì ở nữ giới chính là
sự nhẫn nhục ôn hòa, đức bao dung tha thứ. Nếu ở nam
giới, sự ăn to nói lớn, hoạt bát hùng hồn là một đức
tính thí trái lại, đức tính phái nữ nằm trong sự im
lặng tự xóa mình. Nếu ở nam giới quyền lực uy phong được
ca tụng thì ở nữ giới, đức tính cần thiết là nhũn
nhặn khiêm tốn, không xem mình là quan trọng.
Nhưng những đức tính vừa kể
đối với nữ giới cũng có những mặt trái của nó.
Chẳng hạn mặt trái của lòng từ bi có thể là sự si ái,
lòng kiêu căng. Vì người phụ nữ đóng một vai trò quan
trọng trong vìệc đem lại sự sống, nên họ dễ xem mình là
tất cả, dễ nghĩ rằng không có ta đây thì không xong.
Lại nữa, ‘từ bi’ đôi khi
bị đánh lừa bởi một lòng ngụy tín để đi đến chỗ
si ái, sướt mướt uỷ mị. Đức tính im lặng nhẫn nhục
nơi phụ nữ có thể có bộ mặt trái của nó là sự chấp
trước, phiền não, ôm khư khư một mối hận đến nỗi
mang nó theo xuống tuyền đài và khiến cho phụ nữ khó
giải thoát, khó ‘siêu thăng’ để nói theo từ ngữ Tịnh
Độ.
Đức tính nhũn nhặn khiêm tốn
cần thiết nơi phụ nữ cũng thế, có thể có mặt trái là
sự nhút nhát ỷ lại, tánh làm đỏm, tự xem mình cần
phải lệ thuộc vào một cái gì mới sống nổi. Chính vì
muốn phát huy những đức tính và sửa trị những mặt trái
những tính xấu nơi phụ nữ, mà đức Phật đã chế ra Bát
kỉnh pháp và những giới luật riên cho hàng nữ xuất gia.
Ở đây, chúng ta có thể đi ngược dòng lịch sử để xét
lý do vì sao đức Phật đã chế ra tám điều cung kỉnh.
Chúng ta biết rằng, trong đoàn
thể xuất gia đầu tiên của Phật không có hàng nữ lưu. Mãi
đến năm năm sau khi thành lập Tăng đoàn, bà dì và cũng là
mẹ nuôi đức Phật, di mẫu Mahapajapatì (Ma Ha Ba Xà Ba Đề),
cùng với năm trăm nữ nhân dòng Thích Ca mới đến ngỏ
lời cầu xin Phật cho phép được thế phát xuất gia. Phật
từ chối và bỏ đi nơi khác.
Lần thứ hai khi nghe đức Phật
đang ở Kỳ hoàn tịnh xá, di mẫu cùng năm trăm nữ nhân
ấy từ xa xôi lặn lội, đi bộ rách cả gót chân, y phục
lấm lem đất bụi, đến nơi đứng ngoài cửa khóc lóc
thảm thương. Ngài A Nan thấy thế động lòng can thiệp giúp
cho di mẫu và sau ba lần Ngài năn nỉ, Phật mới bằng lòng
cho bà và năm trăm vị nữ nhân xuất gia với điều kiện
phải tuân Bát kỉnh pháp. Điều này có nghĩa là gì? Tại
sao đức Phật không độ người nữ xuất gia liền như nam
giới mà lại tỏ thái độ từ chối đến ba lần?
Trước hết chúng ta thử suy nghĩ:
phải chăng do Phật biết tâm lý kiêu căng cố hữu của người
phụ nữ, mặt trái của bản năng làm mẹ, ưa bảo bọc và
tự cho mình quan trọng?
Bà Mahaprajapatì là một vì đương
kim thái hậu, lại là mẹ nuôi của Thái tử Tất Đạt Đa
(đức Phật trước khi xuất gia). Bà đã nuôi nấng Thái
tử từ khi mới ra khỏi lòng mẹ được bảy ngày. Như
thế bà có đủ tất cả lý do để kiêu căng ngã mạn khi bước
vào hàng ngũ xuất gia vậy. Nếu đức Phật không chế ra Bát
kỉnh pháp thì điều gì có thể xảy ra? Chúng ta biết đó,
nếu ở đời bà đương kim thái hậu này đã sai bảo được
lính tráng quan hầu, thì không lý do gì khi vào đạo và
lại là mẹ của Phật, bà lại không sai bảo được những
vị tu sĩ đáng đầu con cháu bà? Do đó mà ta thấy một
trong tám điều cung kỉnh rất có ý nghĩa và chỉ có thể
nhắm vào Kiều Đàm Di Mẫu (Mahprajapatì); điều ấy như
vầy?: ‘Dù cho thọ đại giới một trăm năm, một Tỳ kheo
ni đối với Tỳ kheo thọ giới trong một ngày, cũng phải
đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay, xử sự đúng pháp’.
Bên cạnh ý nghĩa đã giải thích
trên, một lý do nữa đã được đặt ra. Ở đây, chúng ta
nên nhìn đức Phật ở cương vị một đức Phật lịch
sử chúng ta sẽ thấy vấn đề này rõ hơn. Đức Phật lưỡng
lự, từ chối đến ba lần mới cho nữ giới xuất gia, đâu
phải Ngài trọng nam khinh nữ. Đó là Ngài đang tìm giải pháp
thích hợp cho hàng nữ giới sau khi xuất gia sống đời
Phạm hạnh trong Tăng đoàn.
Chúng ta cũng biết, vào thời
ấy, xã hội Ấn Độ đang ở trong thời kỳ bán khai, người
xuất gia phải rời bỏ gia đình, sống không gia đình trong
rừng rú. Người nam tu sĩ có thể tự vệ chống bọn cướp,
thú dữ, rắn rết ..., nhưng người tu nữ hoàn toàn không
thể tự bảo vệ được mình, nên Phật đã dạy: ‘Tỳ
kheo ni không thể an cư tại chỗ không có Tỳ kheo’. Và
một lý do sâu xa khác của việc chế Bát kỉnh pháp là đức
Phật muốn có sự cách biệt trong hòa khí giữa Tăng bộ và
Ni bộ. Nữ giới hay thiên về sự quá đà; hoặc quá thân
mật thì mất sự cung kỉnh và dễ lờn, hoặc quá sơ thì
dễ đi đến chỗ kiêu căng tự phụ cho rằng ta đây có
thể tự lập không cần ai dắt dẫn. Do đó một điều cung
kỉnh khác trong tám pháp cung kính bắt buộc Ni chúng phải
thỉnh thoảng đi đến Tỳ kheo tăng để xin chỉ giáo, để
luôn luôn nhớ đến địa vị khất sĩ của mình, nghĩa là
phải tầm cầu Chánh pháp.
Chúng ta được biết thêm, cũng
chính trong kinh Bộ Tăng Chi này đức Thế Tôn đã giải thích
lý do tại sao Ngài ban hành Bát kỉnh pháp:
‘Ví như, này Ànanda, một người
vì nghĩ đến tương lai xây dựng bờ đê cho một hồ nước
lớn để nước không thể chảy qua, cũng vậy, này Ànanda,
vì nghĩ đến tương lai, Ta mới ban hành tám kính pháp này
cho các Tỳ kheo ni cho đến trọn đời, không được vượt
qua’. (21)
Ngày nay trên cương vị của một
người đi tìm Tuyệt đối ‘phàm xuất gia giả, phát túc
siêu phương’, chúng ta cũng có thể nhận thấy Bát kỉnh
pháp không có gì là quá đáng, và còn phải được lãnh
hội một cách sâu xa hơn, ấy là: chúng ta phải kính trọng
tất cả, vì điều trở ngại lớn nhất cho người tìm Đạo
chính là thói kiêu mạn. Hơn nữa là người tu học giáo lý
Vô ngã, thì những vị nữ tu sĩ nào thực tình muốn xóa
bỏ ngã chấp không có lý do gì để mặc cảm về Bát
kỉnh pháp, và vị nam tu sĩ nào thực tình là một con người
đi tìm tuyệt đối cũng không có lý do gì để tự hào.
2. Vấn đề mạt
pháp sớm hơn năm trăm năm:
Bây giờ ta khảo sát một câu nói
khác trong kinh đã khiến cho nhiều người nghĩ rằng đức
Phật bi quan với thân thế người nữ:
‘Này Ananda, nếu nữ nhân không
được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình
trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, thời này
Ananda, phạm hạnh được an trú lâu dài và diệu pháp được
tồn tại đến một ngàn năm. Vì rằng này Ananda, nữ nhân
được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình
trong Pháp và Luật này, nay này Ananda, diệu pháp sẽ được
tồn tại năm trăm năm’. (22)
Thực sự có phải phạm hạnh
sẽ không được an trú lâu dài và diệu pháp cũng chỉ được
tồn tại năm trăm năm khi nữ giới xuất gia hay không? Điều
này khó mà xác định được. Nhưng trên thực tế, với
một câu kinh như vậy ít nhiều đã tác động cho người đọc
cảm giác Phật giáo chưa thật sự dành quyền bình đẳng
cho nữ giới. Ngay đây, chúng ta có thể hiểu được gì
trong câu kinh trên?
Theo một số học giả, các kinh sách
nói về sự tích bà Gotamì và việc thành lập ni đoàn đều
viết vào khoảng năm trăm năm sau Đại Bát Niết Bàn. Trong
khi đức Phật giác ngộ dưới gốc bồ đề năm 423 trước
Tây lịch. Năm năm sau, năm 418 trước Tây lịch, Ni đoàn
được thành lập.
Các cuốn kinh thuật lại việc thành
lập ni đoàn viết năm trăm năm sau, tức là vào khoảng
cuối thế kỷ I Tây lịch, vào lúc trường phái nguyên
thủy ở Ấn Độ nhường bước cho trường phái Đại
thừa đang phát triển mạnh. Vì phát triển mạnh, bấy
giờ, đề cao địa vị người nam trên tư thế người nữ.
Bởi lẽ đó mà dư luận trọng nam khinh nữ được đem vào
kinh. Vấn đề này, nếu đứng trên diện lịch sử, vẫn có
khả năng xảy ra. Vì như chúng ta biết, tất cả kinh điển
Phật giáo đã trải qua nhiều lần kết tập và được
viết thành sách sau thời gian đức Phật Diệt độ và như
vậy khó mà tránh khỏi những sự sai khác, nên bà C.A.F.Rhys
Davids viết:
‘Một trong những điều khó
khăn nhất khi diễn dịch kinh Pali chính vì kinh có nhiều
chỗ xuất xứ khác nhau, có nhiều chỗ sửa chữa, viết
lại, nhìn qua thấy rõ ràng là đã bị thay đổi do các vị
Tỳ kheo đến sau. Ta phải nhận cho rõ những nơi thay đổi
do người đời sau gây ra hầu có thể tìm cách điều
chỉnh. Do đó, nhiều đoạn kinh thiên vị rõ ràng nam giới,
thiên vị rõ ràng tăng đoàn (so với cư sĩ), thiên vị rõ ràng
người đàn ông so sánh với người đàn bà, và các đoạn
kinh này được cố trình bày như chính là lời đức
Phật’. (23)
Thật là một lời bình khá mạnh
mẽ. Nhưng dù sao vẫn là một lời bình và cũng trên vấn
đề này chúng ta vẫn có thể có một quan điểm khác. Ở
đây, ta nên tìm hiểu nguyên nhân phát sinh vấn đề lời
tuyên bố phạm hạnh sẽ không tồn tại lâu dài khi nữ
giới xuất gia. Rõ ràng nếu chỉ trích ra một đoạn kinh văn
nói về vấn đề nay, thì chúng ta khó mà hiểu hết ý
Phật. Nên biết, câu kinh trên cùng nằm trong kinh Gotamì nói
về việc thành lập ni đoàn và Phật đã từng đắn đo
với những lý do đã được giải thích ở phần Bát kỉnh
pháp. Câu kinh này không phải đứng riêng lẻ, mà ngay tiếp
theo là ví dụ của đức Phật:
‘Ví như, này Ànanda, những gia
đình nào có nhiều phụ nữ ít đàn ông, thời những gia
đình ấy rất dễ bị đạo tặc, trộm nghè não hại. Cũng
vậy, này Ànanda, vì rằng nữ nhân được xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật này,
nên Phạm hạnh không được an trú lâu dài...’. (24)
Ngay trong trường hợp này ta có
thể khẳng định: câu kinh trên chỉ nhằm giải thích thêm
cho sự quyết định chế ra tám điều cung kính cho phù hợp
với căn cơ của người phụ nữ và như vậy sẽ không có
một sự bất bình đẳng hay mâu thuẫn nào trong giáo lý
Phật giáo. Vì rằng, cũng chính trong kinh Bộ Tăng Chi, khi
giải thích cho Tôn giả Kimbila nguyên nhân khiến cho diệu pháp
không còn tồn tại lâu dài sau khi Như Lai nhập diệt:
‘Ở đây, này Kimbila, khi Như
Lai nhập diệt, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư
sĩ không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo sư, sống không
cung kính, không tùy thuận Pháp, sống không cung kính, không
tùy thuộc chúng Tăng, sống không cung kính, không tùy
thuận học pháp, sống không cung kính, không tùy thuận,
sống phóng dật, sống không cung kính, không tùy thuận
tiếp đón. Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên, khiến
khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp không tồn tại lâu dài’.
(25)
Và đến đây đức Phật cũng cho
biết thêm nguyên nhân dẫn đến Chánh pháp tồn tại sau khi
đức Phật nhập Niết bàn:
‘Ở đây, này Kimbila, khi Như
Lai nhập diệt, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư
sĩ sống cung kính tùy thuận đức Đạo sư, sống cung kính
tùy thuận Pháp, sống cung kính tùy thuộc chúng Tăng,
sống cung kính tùy thuận học pháp, sống cung kính tùy
thuận không phóng dật, sống cung kính tùy thuận tiếp đón.
Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên, khiến khi Như Lai
nhập diệt, diệu pháp được tồn tại lâu dài’. (26)
Đến đây, chúng ta có thể xác
định Chánh pháp có tồn tại lâu dài hay không tồn tại lâu
dài, không nhất thiết là do có nữ giới xuất gia, mà điều
này phụ thuộc vào việc tứ chúng đệ tử Phật có tu theo
chánh pháp hay không. Vì dù cho người nữ không xuất gia
trong Pháp và Luật của Phật, nhưng nếu nam giới sống không
cung kính, không tùy thuận Phật, Pháp, Tăng, đồng thời
sống buông lung theo cảnh trần, thân, khẩu, ý tạo ra
những nghiệp bất chánh, ... Chánh pháp có thể tồn tại lâu
dài trong một Tăng chúng như vậy chăng?
3. Vấn đề ngũ
chướng:
Trong chương tìm hiểu một số
vấn đề đưa đến sự hiểu sai về địa vị người phụ
nữ trong giáo lý Phật giáo này, chúng ta đã lần lượt đi
qua các vấn đề Bát kỉnh pháp và việc mạt pháp đến
sớm hơn năm trăm năm, nay chúng ta tiếp tục bàn đến năm
điều chướng ngại của người phụ nữ. Đó là:
‘Này A nan, có năm việc nữ nhân
không làm được. Nếu nói rằng nữ nhân được thành Như
Lai, bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, hoặc Chuyển luân
vương, Thiên Đế thích, Ma Vương hay Đại Phạm thiên, thì
điều này nhất định không thể có. Nhưng có năm việc
nam nhân làm được. Nếu nói rằng nam nhân được thành
Như Lai, bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, hoặc
Chuyển luân vương, Thiên Đế thích, Ma Vương hay Đại
Phạm thiên, thì điều này chắc chắn có thật’. (27)
Lại một vấn đề mang tính bất
bình đẳng giữa người nữ với người nam phát sinh. Thực
ra năm điều chướng ngại ấy thật có đối với nữ
giới không? Tại sao ngoài kinh Cù Đàm Di (Trung A Hàm II) kinh
Mâu Ni Vương Nữ (Tăng Nhất A Hàm), lại có thêm kinh Không
Thể Xảy Ra của Kinh bộ Tăng Chi I đề cập đến:
‘Sự kiện này không xảy ra, này
các Tỳ kheo, không có được: ‘Một phụ nữ có thể là
bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác’, sự kiện này không
xảy ra. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỳ kheo: ‘Người
đàn ông có thể là bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác’,
sự kiện này có xảy ra’.
‘Sự kiện này không xảy ra, này
các Tỳ kheo, không có được: ‘Một phụ nữ có thể là
vị Chuyển Luân Vương’, sự kiện này không xảy ra...
‘Sự kiện này không xảy ra, này
các Tỳ kheo, không có được: ‘Một phụ nữ có thể là
vị Đế Thích ..., là Ác ma ..., là Phạm Thiên’, sự
kiện này không xảy ra... (28)
Một phụ nữ không thể làm bậc
A la hán, Chánh Đẳng Giác, không thể làm Chuyển Luân Vương,
làm Đế Thích, Ác ma, Phạm Thiên. Vì sao? Vì không đủ trí
để lãnh nhiệm những ngôi bậc đó ư (A la hán, Chánh Đẳng
Giác, Chuyển Luân Vương, Đế Thích, Ác ma, Phạm Thiên là năm
ngôi vị tượng trưng cho sự thành đạt lớn lao)? Nếu như
vậy là đồng quan niệm với những gì Ác ma nói với Tỳ
kheo ni Somà: người nữ không có trí làm sao có khả năng thành
tựu chánh quả?
‘Địa vị khó
chứng đạt,
Chỉ Thánh nhân chứng đạt,
Trí nữ nhân hai ngón,
Sao hy vọng chứng đạt’ (29)
Sự thật là vậy chăng? Người
phụ nữ không đủ trí đức, không đủ khả năng để hoàn
thành những việc nam nhân làm chăng? Chúng ta nên lắng nghe
Tỳ kheo Somà nói kệ đáp lời Ác ma:
‘Nữ tánh chướng
ngại gì,
Khai tâm khéo thiền định,
Khi trí tuệ triển khai,
Chánh quán pháp vi diệu?
Ai tự mình tìm hỏi:
‘Ta, nữ nhân, nam nhân,
Hay ta là ai khác?’
Xứng nói chuyện Ác ma,
Ác ma thật cân xứng’. (30)
Phật tánh vốn đồng thì làm sao
có thể có sự sai khác giữa các chúng sanh trong việc
chứng ngộ chân lý. Nhưng trong thực tế, chúng ta cũng nên
công nhận rằng đa số phụ nữ có xu hướng thiên về tình
cảm, ít có tánh cương quyết nên cũng ít có khả năng lãnh
đạo, tuy nhiên đó không phải là tất cả.
Như vậy, đứng trước vấn đề
ngũ chướng chúng ta có thể hiểu đấy là một trong những
trường hợp ‘tùy duyên thuyết pháp’. Sự giải thích này
chắc chắn chưa làm thỏa mãn người đọc. Vì cũng có người
nhận định một cách mạnh mẽ rằng vấn đề ngũ chướng
không do đức Phật thuyết giảng mà do người đời sau đem
vào trong kinh: "Qua phương pháp phân tích, so sánh, các tác
giả trên (giáo sư Kajiyamaywichi, học giả Diana Mary Paul, ...)
kết luận là ý niệm ngũ chướng tìm được trong một số
kinh sách, khi có trong tạng Pàli lại thiếu trong Hán tạng,
hoặc ngược lại, có trong Hán tạng lại thiếu trong Pàli
tạng, chứng minh được là ngũ chướng không phải là lời
dạy của đức Phật vào thời nguyên thủy, mà chính là do
dời sau đem vào kinh". (31)
Tuy nhiên, theo thiển ý người
viết, năm điều chướng ngại, ràng buộc người phụ nữ
dù cho đã được đức Phật đề cập trong kinh vẫn chỉ là
dùng để thể hiện những quan điểm, những tư tưởng hoàn
toàn bất lợi với người phụ nữ của thế gian và xã
hội, mà trong Phật giáo thì ngược lại. Và chính điểm này
ta mới thực sự thấy được việc đề cao giá trị đạo
đức và khả năng đồng đẳng với nam giới của phụ nữ
trong giáo lý Phật giáo là một điều chính đáng. Như trong
kinh Tăng Nhất A Hàm II, Phật đã bác bỏ điều này qua
việc đức Phật Bảo Tạng Như Lai thọ ký quả Phật cho Mâu
Ni Vương Nữ:
‘Trong vô lượng số kiếp về
sau, nhà người ra đời sẽ gặp Phật, và được đức
Phật ấy thọ ký thành Phật’. (32)
Như vậy, trong chương ba này, chúng
ta đã lần lượt tìm hiểu một số vấn đề khiến người
học kinh khó mà tránh khỏi ý niệm sai lệch về quan điểm
của đức Phật đối với người phụ nữ. Những vấn đề
này tuy không phải là nhiều nhưng cũng đủ để cho người
đã từng hiểu sai về đạo Phật xác định lại ý kiến
của mình và rút ra kết luận đúng đắn nhất về địa
vị người phụ nữ trong giáo lý Phật giáo.
-ooOoo-
Mục
lục | Dẫn nhập | 1
| 2 | 3 | 4 | Kết
luận |