|    | 
        
         Chương 
        III 
        Tìm 
        hiểu một số vấn đề dẫn đến sự hiểu biết sai 
        về địa vị người phụ nữ trong Phật giáo
         
        Nữ giới có một địa vị xứng 
        đáng trong Phật giáo, điều này đã quá rõ ràng. Nhưng 
        thực tế không phải không có những vấn đề khiến một 
        số người chưa thâm nhập Phật pháp, hoặc một số người 
        chỉ cưỡi ngựa xem hoa hiểu sai về địa vị người phụ 
        nữ trong giáo lý Phật giáo, như vấn đề người nữ phải 
        tuân thủ Bát kỉnh pháp, vấn đề mạt pháp sớm hơn năm 
        trăm năm nếu nữ giới xuất gia, vấn đề người nữ bị 
        năm điều chướng ngại.... 
        Thực chất những vấn đề này 
        như thế nào? Có phải người phụ nữ trong giáo lý Phật 
        giáo chưa thật được bình đẳng? Hay vì chúng ta chưa 
        hiểu hết ý Phật? Để được một nhận thức đúng đắn 
        hơn về vấn đề trên, chúng ta nên lần lượt nghiên cứu 
        những phần trong chương Ba này. 
        1. Vấn đề bát 
        kỉnh pháp: 
        Trong Phật giáo, một vị Tỳ kheo 
        ni bên cạnh việc thọ trì Giới bổn Patimokkha (Ba la đề 
        mộc xoa) còn lãnh thọ thêm Bát kỉnh pháp (Garudhamma), trọn 
        đời cung kính, tôn trọng không được vượt qua. Nội dung 
        của tám điều cần tôn kính ấy là: 
        
          - ‘Dầu cho thọ đại giới 
          một trăm năm, một Tỳ kheo ni, đối với Tỳ kheo mới 
          thọ đại giới trong một ngày ấy, cũng phải đảnh lễ, 
          đứng dậy, chấp tay, xử sự đúng pháp. Pháp này sau khi 
          cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến 
          trọn đời không được vượt qua. 
          - Tỳ kheo ni không có thể an cư 
          mùa mưa tại chỗ không có Tỳ kheo... 
          - Nửa tháng một lần, Tỳ kheo 
          ni cần phải thỉnh chúng Tỳ kheo hỏi ngày trai giới và 
          đến để thuyết giới... 
          - Sau khi an cư mùa mưa xong, Tỳ 
          kheo ni cần phải làm lễ ‘tự tứ’ trước hai Tăng chúng 
          về ba vấn đề được thấy, được nghe và nghi... 
          - Tỳ kheo ni phạm trọng tội, 
          phải hành pháp man na đõa cho đến nửa tháng... 
          - Sau khi học tập sáu pháp trong 
          hai năm, phải đến xin thọ cụ túc giới trước hai Tăng 
          chúng... 
          - Không vì duyên cớ gì, một 
          Tỳ kheo ni có thể mắng nhiếc, chỉ trích một Tỳ kheo... 
          - ...Có sự giáo giới phê bình 
          giữa các Tỳ kheo về các Tỳ kheo ni, không có sự giáo 
          giới phê bình giữa các Tỳ kheo ni về các Tỳ kheo...’ 
          (20) 
         
        Có sự bất bình đẳng trong tám 
        điều luật này, người vô văn phàm phu có thể nghĩ như 
        vậy. Nhiều người đã căn cứ vào tám điều cung kính này 
        và căn cứ trong luật Phật chế giới điều của Tỳ kheo 
        ni nhiều hơn giới điều dành cho Tỳ kheo tăng mà cho rằng 
        trong đạo Phật có sự kỳ thị nam nữ. 
        Thật ra cũng dễ hiểu, vì phái 
        nữ có những điều kiện vật chất và tinh thần, tâm lý 
        khác hẳn nam giới cho nên giới luật cũng khác nhau. Nếu 
        ở trong nam giới, trí tuệ được đề cao thì đức tính 
        được đề cao ở nữ giới chính là từ bi, bởi thế mà 
        những hình tượng tượng trưng cho đức từ bi đều mang hình 
        thù phụ nữ. 
        Nếu ở nam giới, lòng can đảm 
        gan dạ, chí khí được tán dương thì ở nữ giới chính là 
        sự nhẫn nhục ôn hòa, đức bao dung tha thứ. Nếu ở nam 
        giới, sự ăn to nói lớn, hoạt bát hùng hồn là một đức 
        tính thí trái lại, đức tính phái nữ nằm trong sự im 
        lặng tự xóa mình. Nếu ở nam giới quyền lực uy phong được 
        ca tụng thì ở nữ giới, đức tính cần thiết là nhũn 
        nhặn khiêm tốn, không xem mình là quan trọng. 
        Nhưng những đức tính vừa kể 
        đối với nữ giới cũng có những mặt trái của nó. 
        Chẳng hạn mặt trái của lòng từ bi có thể là sự si ái, 
        lòng kiêu căng. Vì người phụ nữ đóng một vai trò quan 
        trọng trong vìệc đem lại sự sống, nên họ dễ xem mình là 
        tất cả, dễ nghĩ rằng không có ta đây thì không xong. 
        Lại nữa, ‘từ bi’ đôi khi 
        bị đánh lừa bởi một lòng ngụy tín để đi đến chỗ 
        si ái, sướt mướt uỷ mị. Đức tính im lặng nhẫn nhục 
        nơi phụ nữ có thể có bộ mặt trái của nó là sự chấp 
        trước, phiền não, ôm khư khư một mối hận đến nỗi 
        mang nó theo xuống tuyền đài và khiến cho phụ nữ khó 
        giải thoát, khó ‘siêu thăng’ để nói theo từ ngữ Tịnh 
        Độ. 
        Đức tính nhũn nhặn khiêm tốn 
        cần thiết nơi phụ nữ cũng thế, có thể có mặt trái là 
        sự nhút nhát ỷ lại, tánh làm đỏm, tự xem mình cần 
        phải lệ thuộc vào một cái gì mới sống nổi. Chính vì 
        muốn phát huy những đức tính và sửa trị những mặt trái 
        những tính xấu nơi phụ nữ, mà đức Phật đã chế ra Bát 
        kỉnh pháp và những giới luật riên cho hàng nữ xuất gia. 
        Ở đây, chúng ta có thể đi ngược dòng lịch sử để xét 
        lý do vì sao đức Phật đã chế ra tám điều cung kỉnh. 
        Chúng ta biết rằng, trong đoàn 
        thể xuất gia đầu tiên của Phật không có hàng nữ lưu. Mãi 
        đến năm năm sau khi thành lập Tăng đoàn, bà dì và cũng là 
        mẹ nuôi đức Phật, di mẫu Mahapajapatì (Ma Ha Ba Xà Ba Đề), 
        cùng với năm trăm nữ nhân dòng Thích Ca mới đến ngỏ 
        lời cầu xin Phật cho phép được thế phát xuất gia. Phật 
        từ chối và bỏ đi nơi khác. 
        Lần thứ hai khi nghe đức Phật 
        đang ở Kỳ hoàn tịnh xá, di mẫu cùng năm trăm nữ nhân 
        ấy từ xa xôi lặn lội, đi bộ rách cả gót chân, y phục 
        lấm lem đất bụi, đến nơi đứng ngoài cửa khóc lóc 
        thảm thương. Ngài A Nan thấy thế động lòng can thiệp giúp 
        cho di mẫu và sau ba lần Ngài năn nỉ, Phật mới bằng lòng 
        cho bà và năm trăm vị nữ nhân xuất gia với điều kiện 
        phải tuân Bát kỉnh pháp. Điều này có nghĩa là gì? Tại 
        sao đức Phật không độ người nữ xuất gia liền như nam 
        giới mà lại tỏ thái độ từ chối đến ba lần? 
        Trước hết chúng ta thử suy nghĩ: 
        phải chăng do Phật biết tâm lý kiêu căng cố hữu của người 
        phụ nữ, mặt trái của bản năng làm mẹ, ưa bảo bọc và 
        tự cho mình quan trọng? 
        Bà Mahaprajapatì là một vì đương 
        kim thái hậu, lại là mẹ nuôi của Thái tử Tất Đạt Đa 
        (đức Phật trước khi xuất gia). Bà đã nuôi nấng Thái 
        tử từ khi mới ra khỏi lòng mẹ được bảy ngày. Như 
        thế bà có đủ tất cả lý do để kiêu căng ngã mạn khi bước 
        vào hàng ngũ xuất gia vậy. Nếu đức Phật không chế ra Bát 
        kỉnh pháp thì điều gì có thể xảy ra? Chúng ta biết đó, 
        nếu ở đời bà đương kim thái hậu này đã sai bảo được 
        lính tráng quan hầu, thì không lý do gì khi vào đạo và 
        lại là mẹ của Phật, bà lại không sai bảo được những 
        vị tu sĩ đáng đầu con cháu bà? Do đó mà ta thấy một 
        trong tám điều cung kỉnh rất có ý nghĩa và chỉ có thể 
        nhắm vào Kiều Đàm Di Mẫu (Mahprajapatì); điều ấy như 
        vầy?: ‘Dù cho thọ đại giới một trăm năm, một Tỳ kheo 
        ni đối với Tỳ kheo thọ giới trong một ngày, cũng phải 
        đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay, xử sự đúng pháp’. 
        Bên cạnh ý nghĩa đã giải thích 
        trên, một lý do nữa đã được đặt ra. Ở đây, chúng ta 
        nên nhìn đức Phật ở cương vị một đức Phật lịch 
        sử chúng ta sẽ thấy vấn đề này rõ hơn. Đức Phật lưỡng 
        lự, từ chối đến ba lần mới cho nữ giới xuất gia, đâu 
        phải Ngài trọng nam khinh nữ. Đó là Ngài đang tìm giải pháp 
        thích hợp cho hàng nữ giới sau khi xuất gia sống đời 
        Phạm hạnh trong Tăng đoàn. 
        Chúng ta cũng biết, vào thời 
        ấy, xã hội Ấn Độ đang ở trong thời kỳ bán khai, người 
        xuất gia phải rời bỏ gia đình, sống không gia đình trong 
        rừng rú. Người nam tu sĩ có thể tự vệ chống bọn cướp, 
        thú dữ, rắn rết ..., nhưng người tu nữ hoàn toàn không 
        thể tự bảo vệ được mình, nên Phật đã dạy: ‘Tỳ 
        kheo ni không thể an cư tại chỗ không có Tỳ kheo’. Và 
        một lý do sâu xa khác của việc chế Bát kỉnh pháp là đức 
        Phật muốn có sự cách biệt trong hòa khí giữa Tăng bộ và 
        Ni bộ. Nữ giới hay thiên về sự quá đà; hoặc quá thân 
        mật thì mất sự cung kỉnh và dễ lờn, hoặc quá sơ thì 
        dễ đi đến chỗ kiêu căng tự phụ cho rằng ta đây có 
        thể tự lập không cần ai dắt dẫn. Do đó một điều cung 
        kỉnh khác trong tám pháp cung kính bắt buộc Ni chúng phải 
        thỉnh thoảng đi đến Tỳ kheo tăng để xin chỉ giáo, để 
        luôn luôn nhớ đến địa vị khất sĩ của mình, nghĩa là 
        phải tầm cầu Chánh pháp. 
        Chúng ta được biết thêm, cũng 
        chính trong kinh Bộ Tăng Chi này đức Thế Tôn đã giải thích 
        lý do tại sao Ngài ban hành Bát kỉnh pháp: 
        
          ‘Ví như, này Ànanda, một người 
          vì nghĩ đến tương lai xây dựng bờ đê cho một hồ nước 
          lớn để nước không thể chảy qua, cũng vậy, này Ànanda, 
          vì nghĩ đến tương lai, Ta mới ban hành tám kính pháp này 
          cho các Tỳ kheo ni cho đến trọn đời, không được vượt 
          qua’. (21) 
         
        Ngày nay trên cương vị của một 
        người đi tìm Tuyệt đối ‘phàm xuất gia giả, phát túc 
        siêu phương’, chúng ta cũng có thể nhận thấy Bát kỉnh 
        pháp không có gì là quá đáng, và còn phải được lãnh 
        hội một cách sâu xa hơn, ấy là: chúng ta phải kính trọng 
        tất cả, vì điều trở ngại lớn nhất cho người tìm Đạo 
        chính là thói kiêu mạn. Hơn nữa là người tu học giáo lý 
        Vô ngã, thì những vị nữ tu sĩ nào thực tình muốn xóa 
        bỏ ngã chấp không có lý do gì để mặc cảm về Bát 
        kỉnh pháp, và vị nam tu sĩ nào thực tình là một con người 
        đi tìm tuyệt đối cũng không có lý do gì để tự hào. 
        2. Vấn đề mạt 
        pháp sớm hơn năm trăm năm: 
        Bây giờ ta khảo sát một câu nói 
        khác trong kinh đã khiến cho nhiều người nghĩ rằng đức 
        Phật bi quan với thân thế người nữ: 
        
          ‘Này Ananda, nếu nữ nhân không 
          được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình 
          trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, thời này 
          Ananda, phạm hạnh được an trú lâu dài và diệu pháp được 
          tồn tại đến một ngàn năm. Vì rằng này Ananda, nữ nhân 
          được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình 
          trong Pháp và Luật này, nay này Ananda, diệu pháp sẽ được 
          tồn tại năm trăm năm’. (22) 
         
        Thực sự có phải phạm hạnh 
        sẽ không được an trú lâu dài và diệu pháp cũng chỉ được 
        tồn tại năm trăm năm khi nữ giới xuất gia hay không? Điều 
        này khó mà xác định được. Nhưng trên thực tế, với 
        một câu kinh như vậy ít nhiều đã tác động cho người đọc 
        cảm giác Phật giáo chưa thật sự dành quyền bình đẳng 
        cho nữ giới. Ngay đây, chúng ta có thể hiểu được gì 
        trong câu kinh trên? 
        Theo một số học giả, các kinh sách 
        nói về sự tích bà Gotamì và việc thành lập ni đoàn đều 
        viết vào khoảng năm trăm năm sau Đại Bát Niết Bàn. Trong 
        khi đức Phật giác ngộ dưới gốc bồ đề năm 423 trước 
        Tây lịch. Năm năm sau, năm 418 trước Tây lịch, Ni đoàn 
        được thành lập. 
        Các cuốn kinh thuật lại việc thành 
        lập ni đoàn viết năm trăm năm sau, tức là vào khoảng 
        cuối thế kỷ I Tây lịch, vào lúc trường phái nguyên 
        thủy ở Ấn Độ nhường bước cho trường phái Đại 
        thừa đang phát triển mạnh. Vì phát triển mạnh, bấy 
        giờ, đề cao địa vị người nam trên tư thế người nữ. 
        Bởi lẽ đó mà dư luận trọng nam khinh nữ được đem vào 
        kinh. Vấn đề này, nếu đứng trên diện lịch sử, vẫn có 
        khả năng xảy ra. Vì như chúng ta biết, tất cả kinh điển 
        Phật giáo đã trải qua nhiều lần kết tập và được 
        viết thành sách sau thời gian đức Phật Diệt độ và như 
        vậy khó mà tránh khỏi những sự sai khác, nên bà C.A.F.Rhys 
        Davids viết: 
        ‘Một trong những điều khó 
        khăn nhất khi diễn dịch kinh Pali chính vì kinh có nhiều 
        chỗ xuất xứ khác nhau, có nhiều chỗ sửa chữa, viết 
        lại, nhìn qua thấy rõ ràng là đã bị thay đổi do các vị 
        Tỳ kheo đến sau. Ta phải nhận cho rõ những nơi thay đổi 
        do người đời sau gây ra hầu có thể tìm cách điều 
        chỉnh. Do đó, nhiều đoạn kinh thiên vị rõ ràng nam giới, 
        thiên vị rõ ràng tăng đoàn (so với cư sĩ), thiên vị rõ ràng 
        người đàn ông so sánh với người đàn bà, và các đoạn 
        kinh này được cố trình bày như chính là lời đức 
        Phật’. (23) 
        Thật là một lời bình khá mạnh 
        mẽ. Nhưng dù sao vẫn là một lời bình và cũng trên vấn 
        đề này chúng ta vẫn có thể có một quan điểm khác. Ở 
        đây, ta nên tìm hiểu nguyên nhân phát sinh vấn đề lời 
        tuyên bố phạm hạnh sẽ không tồn tại lâu dài khi nữ 
        giới xuất gia. Rõ ràng nếu chỉ trích ra một đoạn kinh văn 
        nói về vấn đề nay, thì chúng ta khó mà hiểu hết ý 
        Phật. Nên biết, câu kinh trên cùng nằm trong kinh Gotamì nói 
        về việc thành lập ni đoàn và Phật đã từng đắn đo 
        với những lý do đã được giải thích ở phần Bát kỉnh 
        pháp. Câu kinh này không phải đứng riêng lẻ, mà ngay tiếp 
        theo là ví dụ của đức Phật: 
        
          ‘Ví như, này Ànanda, những gia 
          đình nào có nhiều phụ nữ ít đàn ông, thời những gia 
          đình ấy rất dễ bị đạo tặc, trộm nghè não hại. Cũng 
          vậy, này Ànanda, vì rằng nữ nhân được xuất gia, từ 
          bỏ gia đình, sống không gia đình trong Pháp và Luật này, 
          nên Phạm hạnh không được an trú lâu dài...’. (24) 
         
        Ngay trong trường hợp này ta có 
        thể khẳng định: câu kinh trên chỉ nhằm giải thích thêm 
        cho sự quyết định chế ra tám điều cung kính cho phù hợp 
        với căn cơ của người phụ nữ và như vậy sẽ không có 
        một sự bất bình đẳng hay mâu thuẫn nào trong giáo lý 
        Phật giáo. Vì rằng, cũng chính trong kinh Bộ Tăng Chi, khi 
        giải thích cho Tôn giả Kimbila nguyên nhân khiến cho diệu pháp 
        không còn tồn tại lâu dài sau khi Như Lai nhập diệt: 
        
          ‘Ở đây, này Kimbila, khi Như 
          Lai nhập diệt, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư 
          sĩ không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo sư, sống không 
          cung kính, không tùy thuận Pháp, sống không cung kính, không 
          tùy thuộc chúng Tăng, sống không cung kính, không tùy 
          thuận học pháp, sống không cung kính, không tùy thuận, 
          sống phóng dật, sống không cung kính, không tùy thuận 
          tiếp đón. Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên, khiến 
          khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp không tồn tại lâu dài’. 
          (25) 
         
        Và đến đây đức Phật cũng cho 
        biết thêm nguyên nhân dẫn đến Chánh pháp tồn tại sau khi 
        đức Phật nhập Niết bàn: 
        
          ‘Ở đây, này Kimbila, khi Như 
          Lai nhập diệt, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư 
          sĩ sống cung kính tùy thuận đức Đạo sư, sống cung kính 
          tùy thuận Pháp, sống cung kính tùy thuộc chúng Tăng, 
          sống cung kính tùy thuận học pháp, sống cung kính tùy 
          thuận không phóng dật, sống cung kính tùy thuận tiếp đón. 
          Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên, khiến khi Như Lai 
          nhập diệt, diệu pháp được tồn tại lâu dài’. (26) 
         
        Đến đây, chúng ta có thể xác 
        định Chánh pháp có tồn tại lâu dài hay không tồn tại lâu 
        dài, không nhất thiết là do có nữ giới xuất gia, mà điều 
        này phụ thuộc vào việc tứ chúng đệ tử Phật có tu theo 
        chánh pháp hay không. Vì dù cho người nữ không xuất gia 
        trong Pháp và Luật của Phật, nhưng nếu nam giới sống không 
        cung kính, không tùy thuận Phật, Pháp, Tăng, đồng thời 
        sống buông lung theo cảnh trần, thân, khẩu, ý tạo ra 
        những nghiệp bất chánh, ... Chánh pháp có thể tồn tại lâu 
        dài trong một Tăng chúng như vậy chăng? 
        3. Vấn đề ngũ 
        chướng: 
        Trong chương tìm hiểu một số 
        vấn đề đưa đến sự hiểu sai về địa vị người phụ 
        nữ trong giáo lý Phật giáo này, chúng ta đã lần lượt đi 
        qua các vấn đề Bát kỉnh pháp và việc mạt pháp đến 
        sớm hơn năm trăm năm, nay chúng ta tiếp tục bàn đến năm 
        điều chướng ngại của người phụ nữ. Đó là: 
        
          ‘Này A nan, có năm việc nữ nhân 
          không làm được. Nếu nói rằng nữ nhân được thành Như 
          Lai, bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, hoặc Chuyển luân 
          vương, Thiên Đế thích, Ma Vương hay Đại Phạm thiên, thì 
          điều này nhất định không thể có. Nhưng có năm việc 
          nam nhân làm được. Nếu nói rằng nam nhân được thành 
          Như Lai, bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, hoặc 
          Chuyển luân vương, Thiên Đế thích, Ma Vương hay Đại 
          Phạm thiên, thì điều này chắc chắn có thật’. (27) 
         
        Lại một vấn đề mang tính bất 
        bình đẳng giữa người nữ với người nam phát sinh. Thực 
        ra năm điều chướng ngại ấy thật có đối với nữ 
        giới không? Tại sao ngoài kinh Cù Đàm Di (Trung A Hàm II) kinh 
        Mâu Ni Vương Nữ (Tăng Nhất A Hàm), lại có thêm kinh Không 
        Thể Xảy Ra của Kinh bộ Tăng Chi I đề cập đến: 
        
          ‘Sự kiện này không xảy ra, này 
          các Tỳ kheo, không có được: ‘Một phụ nữ có thể là 
          bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác’, sự kiện này không 
          xảy ra. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỳ kheo: ‘Người 
          đàn ông có thể là bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác’, 
          sự kiện này có xảy ra’. 
          ‘Sự kiện này không xảy ra, này 
          các Tỳ kheo, không có được: ‘Một phụ nữ có thể là 
          vị Chuyển Luân Vương’, sự kiện này không xảy ra... 
          ‘Sự kiện này không xảy ra, này 
          các Tỳ kheo, không có được: ‘Một phụ nữ có thể là 
          vị Đế Thích ..., là Ác ma ..., là Phạm Thiên’, sự 
          kiện này không xảy ra... (28) 
         
        Một phụ nữ không thể làm bậc 
        A la hán, Chánh Đẳng Giác, không thể làm Chuyển Luân Vương, 
        làm Đế Thích, Ác ma, Phạm Thiên. Vì sao? Vì không đủ trí 
        để lãnh nhiệm những ngôi bậc đó ư (A la hán, Chánh Đẳng 
        Giác, Chuyển Luân Vương, Đế Thích, Ác ma, Phạm Thiên là năm 
        ngôi vị tượng trưng cho sự thành đạt lớn lao)? Nếu như 
        vậy là đồng quan niệm với những gì Ác ma nói với Tỳ 
        kheo ni Somà: người nữ không có trí làm sao có khả năng thành 
        tựu chánh quả? 
        ‘Địa vị khó 
        chứng đạt, 
        Chỉ Thánh nhân chứng đạt, 
        Trí nữ nhân hai ngón, 
        Sao hy vọng chứng đạt’ (29) 
        Sự thật là vậy chăng? Người 
        phụ nữ không đủ trí đức, không đủ khả năng để hoàn 
        thành những việc nam nhân làm chăng? Chúng ta nên lắng nghe 
        Tỳ kheo Somà nói kệ đáp lời Ác ma: 
        ‘Nữ tánh chướng 
        ngại gì, 
        Khai tâm khéo thiền định, 
        Khi trí tuệ triển khai, 
        Chánh quán pháp vi diệu? 
        Ai tự mình tìm hỏi: 
        ‘Ta, nữ nhân, nam nhân, 
        Hay ta là ai khác?’ 
        Xứng nói chuyện Ác ma, 
        Ác ma thật cân xứng’. (30) 
        Phật tánh vốn đồng thì làm sao 
        có thể có sự sai khác giữa các chúng sanh trong việc 
        chứng ngộ chân lý. Nhưng trong thực tế, chúng ta cũng nên 
        công nhận rằng đa số phụ nữ có xu hướng thiên về tình 
        cảm, ít có tánh cương quyết nên cũng ít có khả năng lãnh 
        đạo, tuy nhiên đó không phải là tất cả. 
        Như vậy, đứng trước vấn đề 
        ngũ chướng chúng ta có thể hiểu đấy là một trong những 
        trường hợp ‘tùy duyên thuyết pháp’. Sự giải thích này 
        chắc chắn chưa làm thỏa mãn người đọc. Vì cũng có người 
        nhận định một cách mạnh mẽ rằng vấn đề ngũ chướng 
        không do đức Phật thuyết giảng mà do người đời sau đem 
        vào trong kinh: "Qua phương pháp phân tích, so sánh, các tác 
        giả trên (giáo sư Kajiyamaywichi, học giả Diana Mary Paul, ...) 
        kết luận là ý niệm ngũ chướng tìm được trong một số 
        kinh sách, khi có trong tạng Pàli lại thiếu trong Hán tạng, 
        hoặc ngược lại, có trong Hán tạng lại thiếu trong Pàli 
        tạng, chứng minh được là ngũ chướng không phải là lời 
        dạy của đức Phật vào thời nguyên thủy, mà chính là do 
        dời sau đem vào kinh". (31) 
        Tuy nhiên, theo thiển ý người 
        viết, năm điều chướng ngại, ràng buộc người phụ nữ 
        dù cho đã được đức Phật đề cập trong kinh vẫn chỉ là 
        dùng để thể hiện những quan điểm, những tư tưởng hoàn 
        toàn bất lợi với người phụ nữ của thế gian và xã 
        hội, mà trong Phật giáo thì ngược lại. Và chính điểm này 
        ta mới thực sự thấy được việc đề cao giá trị đạo 
        đức và khả năng đồng đẳng với nam giới của phụ nữ 
        trong giáo lý Phật giáo là một điều chính đáng. Như trong 
        kinh Tăng Nhất A Hàm II, Phật đã bác bỏ điều này qua 
        việc đức Phật Bảo Tạng Như Lai thọ ký quả Phật cho Mâu 
        Ni Vương Nữ: 
        
          ‘Trong vô lượng số kiếp về 
          sau, nhà người ra đời sẽ gặp Phật, và được đức 
          Phật ấy thọ ký thành Phật’. (32) 
         
        Như vậy, trong chương ba này, chúng 
        ta đã lần lượt tìm hiểu một số vấn đề khiến người 
        học kinh khó mà tránh khỏi ý niệm sai lệch về quan điểm 
        của đức Phật đối với người phụ nữ. Những vấn đề 
        này tuy không phải là nhiều nhưng cũng đủ để cho người 
        đã từng hiểu sai về đạo Phật xác định lại ý kiến 
        của mình và rút ra kết luận đúng đắn nhất về địa 
        vị người phụ nữ trong giáo lý Phật giáo. 
        -ooOoo- 
        Mục 
        lục | Dẫn nhập |  1 
        | 2 | 3 | 4 | Kết 
        luận  |