| 
         Chương 
        I 
        Phụ 
        Nữ Trong Các Chế Độ Xã Hội 
        Thời Phật Tại Thế
         
        Địa vị xã 
        hội của mỗi cá nhân là cái mà xã hội công nhận nơi 
        mỗi cá nhân đó. Một cách tổng quát, trong bậc thang xã 
        hội giữa vị trí xã hội và địa vị xã hội có mối 
        quan hệ chặt chẽ với nhau. Một vị trí nhất định có giá 
        trị tương ứng trong bậc thang xã hội phản ánh thế lực 
        và quyền lợi mà cá nhân đó được hưởng. 
        Nhưng trên thực tế, có một 
        loại địa vị được gọi là ‘địa vị gán’ (2) và cá 
        nhân nào đã bị xã hội gán một địa vị nào đó thì không 
        hề được quyền lựa chọn. Đó chính là trường hợp 
        của những người phụ nữ trong các chế độ xã hội cùng 
        thời Phật tại thế. 
        1. Phụ nữ trong tư tưởng cổ 
        truyền phương Tây: 
        Ở phương Tây, địa vị người 
        phụ nữ được nhào nặn trong tư tưởng Hy Lạp và La Mã và 
        trong truyền thống đạo Do Thái. Vào khoảng thế kỷ VI trước 
        Tây lịch, các nhà triết học đầu tiên của Hy Lạp xuất 
        hiện. Với sự xuất hìện này, lầu đầu tiên loài người 
        dám suy nghĩ độc lập dựa vào lý trí của mình, tách 
        khỏi thần thoại và tôn giáo. 
        Hai trong những triết gia Hy Lạp 
        dựng nên tư tưởng phương Tây là Plato và Aristotle. Plato là 
        một triết gia đương thời với đức Phật, sanh trong một 
        gia đình quý tộc. Với tư tưởng tiến bộ: mong muốn xây 
        dựng một xã hội lý tưởng căn cứ trên đạo đức chứ 
        không phải bằng bạo lực. Ông chủ trương người phụ 
        nữ giới thượng lưu (và chỉ trong giới thượng lưu mà thôi) 
        phải được giáo dục và huấn luyện để lãnh đạo. Nhưng 
        trên thực tế, tư tưởng của Aristotle thịnh hành hơn. Ông 
        chủ trương người phụ nữ phải ‘thụ động, phục tùng 
        và ít lời’. 
        Còn riêng xã hội La Mã ngay trong 
        thời tiền sử, các bộ tộc người La Tinh sống ở bờ 
        biển miền trung và tây nước Ý này đã thời phụng rất 
        nhiều thần linh và numina (những lực lượng siêu nhiên và 
        thần bí sống chung quanh con người trong các nơi: rừng, sông, 
        suối,.... và cả ở trong nhà có người ở). 
        Với sự phát triển lớn mạnh 
        của thành phố La Mã vào thế kỷ VI trước Tây lịch, tôn 
        giáo La Tinh cũng phát triển theo hai hướng cực kỳ nhanh chóng: 
        một hướng đi vào cuộc sống người nông dân, hướng 
        thứ hai đi vào thành phố La Mã. Lúc bấy giờ các thần 
        linh cũng phát triển thành những thiên thần như Jupiter - 
        vị thần cõi trời lớn nhất, Mars - thiên thần của thực 
        vật và chiến tranh, Juno - vợ của Jupiter, cai quản giới 
        phụ nữ cũng như nữ thần Hy Lạp Hera vậy, nữ thần 
        Minerva trông coi nghệ thuật và thủ công,... Như vậy, ở 
        một phương diện nào đó, các vị nữ thần trong đời 
        sống tư tưởng cổ truyền La Mã đã thể hiện phần nào 
        quyền hạn và địa vị người phụ nữ trong xã hội đương 
        thời. Nhưng, nói chung, đại đa số nữ giới La Mã vẫn 
        bị chèn ép và bóc lột không khác gì ở phương Đông. 
        Mặt khác, ở phương Tây trên bình 
        diện tôn giáo, người phụ nữ của mẫu mực Do Thái bị 
        hạn chế trong vai trò người vợ và người mẹ. Giáo lý Do 
        Thái khoan hồng với chế độ đa thê, người đàn ông có 
        quyền bỏ vợ. Trong gia đình, mẹ phải dạy và kiểm soát 
        con về giáo lý nhưng vào nhà thờ, phụ nữ không được dâng 
        lễ. 
        Trong đạo Do Thái, có khá nhiều 
        nghi lễ do luật Toral đặt ra nhằm phân biệt cái thanh 
        tịnh với cái không thanh tịnh, cái phàm tục với cái thiêng 
        liêng; kể cả vấn đề ‘người đàn ông không được 
        mặc áo quần người đàn bà’: 
        ‘Chết được xem là không thanh 
        tịnh, kinh nguyệt và một vài loại bệnh được xem như là 
        không thanh tịnh’ (3). 
        Hoặc là khi cả gia đình đi lễ 
        ở lễ đường: 
        ‘Đàn ông ngồi ở hội trường 
        lớn, còn phụ nữ thì ngồi tập trung ở một khoảng nhà 
        thờ dành cho họ’ (4). 
        Với sự phải cầu kinh ở nơi riêng, 
        phải cách biệt với nơi đàn ông làm lễ, cho thấy quyền 
        lợi của người phụ nữ trong Do Thái giáo truyền thống khó 
        mà kiếm được một sự bình đẳng tương đương với nam 
        giới. Từ đó ta biết, trong xã hội phưuơng Tây bấy giờ, 
        người phụ nữ tuy đã có nhiều sự ưu đãi được thể 
        hiện qua hình tượng các nữ thần, nhưng vẫn không sao tránh 
        khỏi những thiệt thòi mất mát mà xã hội loài người đã 
        gán cho. 
        2. Phụ nữ trong quan niệm cổ 
        truyền phương Đông: 
        Cùng nhịp đập của nhân loại, 
        người phụ nữ trong các chế độ xã hội của phương Đông 
        lúc bấy giờ không kém phần chịu nhiều tủi nhục. Đông 
        phương có hai nền văn minh căn bản là Trung Hoa và Ấn Độ. 
        Địa vị người phụ nữ ở Đông phương từ xưa cho đến 
        lúc tiếp xúc với Tây phương hoàn toàn lệ thuộc vào nam 
        giới. 
        Đạo Khổng, căn bản của tổ 
        chức xã hội Trung Hoa bấy giờ, khép kín người phụ nữ 
        sau cánh cửa gia đình (khuê môn bất xuất) với các nguyên 
        tắc ‘tam tòng tứ đức, phu xướng phụ tùy’. Nhưng nay 
        ta đang khảo sát đến những vấn đề liên hệ giữa đạo 
        Phật và nữ quyền, và vì đạo Phật phát sinh từ Ấn Độ, 
        ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn lịch sử nữ quyền tại Ấn Độ. 
        Ấn Độ là một trong những vùng 
        đất có nền văn minh cổ nhất của lịch sử loài người. 
        Đấy là nền văn minh ở thượng lưu sông Indus (sông Ấn), 
        trải xuống cả thượng lưu sông Ganges (sông Hằng). Có 
        thể nói trung tâm và linh hồn của nền văn minh tương đối 
        thuần chất và cổ nhất Ấn Độ đã tập trung ở vùng này, 
        nơi mà giống dân Dravidian sinh sống. 
        Đến thế kỷ XIII trước Tây 
        lịch, bộ lạc Aryan du mục tràn từ các cánh đồng Urals, 
        miền ranh giới hai châu Âu Á ngày nay, xuống Ấn Độ, trước 
        tàn sát một phần, sau đồng hóa người Dravidian lập nên 
        nền văn minh Vệ Đà (Vedas). Bà la môn giáo lầy Vedas làm căn 
        bản, đã thiết lập một trật tự chặt chẽ gồm bốn đẳng 
        cấp: 
        
          1. Bà la môn (Bràhmana): chủ trương 
          việc nghi lễ tôn giáo. 
          2. Sát đế lợi (Khattiya): giai cấp vua quan, nắm quyền 
          thống trị. 
          3. Tỳ xá (Vessa): giai cấp bình dân, nông, công, thương. 
          4. Thủ đà la (Sudda): giai cấp tiện dân, bần cùng. 
         
        Chế độ đẳng cấp này dựa trên 
        đức tin thần linh, và ảnh hưởng rất nhiều đến mọi lãnh 
        vực, mọi bình diện: kinh tế, chính trị, xã hội, ... Trong 
        mỗi giai cấp, lại phân biệt người đàn ông là chúa, người 
        đàn bà là tôi. 
        Người phụ nữ bấy giờ, bị 
        khinh rẻ và chỉ là những món đồ tiêu khiển của đàn ông 
        thuộc giới quyền quý. Sự bắt cóc, cưỡng ép, cũng như 
        sự buôn bán phụ nữ, thiếu nữ thường xuyên xảy ra. 
        Trong đời sống thường nhựt, người phụ nữ phải chịu 
        khá nhiều thiệt thòi: họ không được ra khỏi nhà mà không 
        che mặt, không có quyền trong các hoạt động xã hội, không 
        có mặt trong lãnh vực tôn giáo... Những ngày vô tận của 
        họ chỉ là để chờ đợi trong thầm lặng sự viếng thăm 
        của người đàn ông, cho đến khi người này chết thì 
        phải chịu sự thiêu sống để đi theo người đã chết 
        (tục lệ Sati). 
        Sự đau khổ, sự bất công đang 
        tràn ngập khắp các nẻo đường, khắp các phố phường thành 
        thị, ai là người dắt lối đưa đường? Các nhà triết lý, 
        lịch sử có nghi lại có sáu mươi hai vị, lại thêm Kỳ Na 
        giáo (đạo Jaina) nhưng chỉ bàn luận về những vấn đề 
        siêu hình, về bản thể vũ trụ, về sự hữu biên hay vô 
        biên của thế giới, về sự hiện hữu hay không hiện hữu 
        của linh hồn, về sự có tưởng hay không có tưởng sau khi 
        chết, về sự đoạn diệt hay không đoạn diệt bản ngã, 
        ... tất cả đều không đáp ứng được khát vọng của dân 
        chúng. 
        Ngay trong môi trường sinh thái này, 
        đức Phật Thích Ca ra đời, sáng lập nên một tôn giáo bình 
        đẳng, vị tha. Ngài phủ nhận giai cấp bất công, đem chế 
        độ bình đẳng để đãi ngộ mọi hạng người trong xã 
        hội. Và từ đó, Ngài đã mở ra cho nữ giới con đường 
        giải phóng không những ra khỏi một thân phận đen tối 
        thấp hèn, lệ thuộc vào nam giới, mà còn ra khỏi ngục tù 
        bản ngã nhỏ hẹp để vươn lên Chân lý, Niết bàn. 
        -ooOoo- 
        Mục 
        lục | Dẫn nhập |  1 | 2 
        | 3 | 4 | Kết 
        luận  |