| 
         [Phần 
        II] 
        -oOo- 
        11. 
        Bửa cơm cuối cùng của Ðức Phật Tổ Gotama: Nấm hay 
        thịt lợn?
        Danh từ "Sukara-Maddava" 
        xuất hiện mười hai lần trong toàn bộ Tam tạng Kinh điển 
        tiếng Pàli [24]. Từ này được gặp sáu lần trong kinh Ðại 
        Bát Níp-bàn (Mahaparinibbana sutta) thuộc tạng kinh Trường 
        bộ (Dìgha Nikàya) và sáu lần nữa trong kinh Cunda (Cunda 
        sutta) thuộc kinh tạng Tiểu bộ (Khuddaka Nikàya). Hai kinh văn 
        này đề cập cùng một sự kiện là gia chủ Cunda, một 
        thợ vàng giàu sang mời và cúng dường Ðức Phật tổ 
        Gotama món sukara-maddava. Thực phẩm này là bữa ăn cuối cùng 
        của Ðức Phật trước khi ngài nhập vô dư Níp- bàn 
        (Mahaparinibbana). 
        Gần đây, có người đã dịch 
        danh từ sukara-madava thành "một loại nấm mà lợn thích 
        ăn" hay "một loại nấm mọc dưới đất bị lợn 
        dẫm chân" hay "một loại nấm mọc ở nơi mà heo 
        ở" [25]. Không biết chính xác ai là người đầu tiên 
        đã dịch danh từ này như thế, nhưng tin chắc là bản 
        dịch này sẽ được những người ăn chay hoàn toàn ủng 
        hộ [26]. Từ rất lâu họ đã thể hiện nhiều phương pháp 
        khác nhau để chứng minh Ðức Phật ăn chay. Bản dịch này 
        nên thẩm xét lại kỹ hơn. 
        Trong quyển kinh chú giải Trường 
        bộ (Sumaígalavilasini) của trưởng lão Buddhaghosa [27] viết 
        rằng những gì được gọi là sukara-maddava là "thịt 
        lợn loại cao cấp, trong lứa vừa phải - không quá già mà 
        cũng không quá non - mềm và được phục vụ ngoài thị thành 
        cho mọi người tiêu dùng (pavattamamsa)". Trưởng lão 
        Dhammapala, tác giả quyển chú giải Paramatthadipani thuộc 
        Tiểu bộ kinh, có cùng quan niệm như vậy [28]. Ngoài ra trưởng 
        lão Buddhadatta viết quyển Mathuratthavilasini - chú giải bộ 
        Buddhavamsa (Phật sử) thuộc Tiểu bộ - cũng tuyên bố rằng 
        một trong ba mươi điểm tương đồng của chư vị Chánh Ðẳng 
        Chánh Giác (sammasambuddhasa) là: bữa ăn cuối cùng của ngài 
        trước khi Níp-bàn là "thịt thú vật" (parinibbànadivasemaư 
        sarasa-bhojanaư). Trong Tam tạng Thái Lan và Miến Ðiện (đã 
        dịch sang tiếng Anh) thì danh từ sukara-maddava được dịch là 
        "thịt heo mềm" [29]. 
        Nếu nguồn gốc của từ ngữ đã 
        được thẩm định, thì giá trị của bản dịch không nên 
        nghi ngờ nữa. Thuật ngữ sukara-maddava được phân chia làm 
        hai từ: "sukara" và "maddava". Trong từ điển 
        Pàli được biên soạn do Robert Caesar Childers, và trong quyển 
        thuật ngữ Pàli do Dines Anderson biên soạn, cũng như trong 
        quyển Pàli-Anh, do trưởng lão Buddhadatta biên soạn thì danh 
        từ sukara được dịch là "lợn" mà tính từ maddava 
        được dịch là "mềm". Như vậy căn cứ vào nguồn 
        gốc của từ ngữ, thuật ngữ sukara-maddava thật sự không 
        có liên hệ gì đến bất kỳ loài "nấm" nào cả. 
        Cũng nên biết rằng, gia chủ 
        Cunda là một Phật tử [30]. Ông biết Ðức Phật Gotama sức 
        khỏe bị suy yếu. Ông cố ý nấu món sukara-maddava này, 
        với lòng mong muốn là món ăn này sẽ gia tăng sức khỏe 
        cho ngài. Cunda lẽ nào dám liều cúng dường bậc đạo sư 
        một món nấm, mà đã biết rằng là "có thể" nguy 
        hại [31], và theo như các nhà dinh dưỡng học, có thể gây 
        sự yếu ớt, nhiều độc tố và lẫn cái chết nữa. Vả 
        lại, nấm là thực phẩm có rất ít chất dinh dưỡng để 
        sử dụng cho việc tăng lực [32]. Nói một cách khác, nấm 
        không có nhiều chất dinh dưỡng bằng bắp cải, cho nên 
        rất dại khờ mới nghĩ rằng nó sẽ làm gia tăng sức 
        khỏe. Cũng nên biết rằng, cái chết của Ðức Phật thật 
        sự không phải chết vì dùng sukara, thịt lợn 
        (sukara-maddava), do gia chủ Cunda cúng dường - như nhiều người 
        lầm tưởng - mà vì cơ thể của ngài đã cạn kiệt và vì 
        cuộc đời của Thế Tôn đến lúc phải ra đi. Ba tháng trước, 
        ngài đã quyết định nhập diệt vào ngày trăng tròn tháng 
        tư âm lịch (vesakha). Sự việc này như đã được ghi lại 
        trong kinh Ðại Níp bàn (Mahàparinibbàna) và kinh Cunda, Ðức 
        Phật Gotama không bao giờ nói rằng thịt lợn (sukara-maddava) 
        do gia chủ Cunda cúng có độc tố [33]. Ngài chỉ nói là 
        trong thế giới này không có ai dù là Bà la môn, đạo sĩ, 
        trời, ma vương hay Phạm thiên nào có thể tiêu hóa 
        (jirapeti) thực phẩm đó, ngoại trừ Như Lai. Ngài Nagasena và 
        Buddhaghosa đã chú giải là khi thịt lợn (sukara-maddava) được 
        nấu, có nhiều vị chư thiên thêm gia vị cực bổ vào, lý 
        do là các vị nghĩ rằng đây là bữa cơm cuối cùng của Ðức 
        Phật Gotama. Nhận biết được điều này, Ðức Phật gọi 
        gia chủ Cunda đừng có cúng dường món thịt lợn chứa gia 
        vị cực bổ này cho chư Tỳ khưu tháp tùng theo ngài, bởi vì 
        nó có lẽ "quá liều" đối với chư vị mà chỉ có 
        đức Như Lai mới có thể thọ dụng được. Như vậy việc 
        dịch thuật ngữ sukara-maddava thành nấm và đoán chừng 
        rằng cái chết của Ðức Phật là do độc tố của nấm thì 
        thật sự không đúng. 
        Ðiều này thực sự không quan 
        trọng và người Phật tử không nên sử dụng vấn đề này 
        để tranh luận. Cho dù "sukara-maddava" có thật sự là 
        nấm hay không, thì không thể nào sử dụng thuật ngữ trên 
        để làm cứ điểm cho việc biện hộ ăn chay. Loại thực 
        phẩm mà Ðức Phật dùng không thể dựa vào bữa ăn cuối 
        cùng của Ðức Thế Tôn. Nhiều nguồn kinh điển Tam tạng 
        quả quyết cho là Ðức Phật đã có thái độ của ngài 
        về việc ăn chay, và ngài đã áp dụng ăn chay cho chư vị 
        đệ tử. 
        [Ðầu 
        trang] 
        
        12. 
        Một vị Bồ-tát phải thực hành việc ăn chay không? 
        Một số người nói rằng, ý tưởng 
        hình thành việc ăn chay là do Bồ Tát Sĩ Ðạt Ða khổ 
        hạnh sáu năm ở chốn rừng già Uruvela, bởi vì lúc đó ngài 
        chỉ dùng trái cây thôi, không ăn cá hay thịt. Thật sự đây 
        là một sự lầm lẫn - nếu không muốn nói đây là chuyện 
        bịa đặt. Ngài khổ hạnh chỉ vì hành động bất thiện 
        của Ngài trong kiếp quá khứ, đó là Ngài nhục mạ Ðức 
        Phật Ca Diếp (Kassapa). Như vậy thực sự khổ hạnh không có 
        hàm ý là Bồ Tát luyện tập tâm bác ái. Việc ăn chay không 
        phải là một trong những hạnh tu pháp độ (paramita) do chư 
        vị Bồ Tát tu tập. Vả lại, những pháp độ của ngài 
        phải hoàn thành trước khi Bồ Tát tái sinh lên cõi trời 
        Ðâu suất (Tusita) nơi mà Bồ Tát đợi lúc thích hợp để 
        giáng trần. 
        [Ðầu 
        trang] 
        
        13. 
        Việc thực hành ăn chay do các tu sĩ 
        Ðức Phật Gotama không bao giờ yêu 
        cầu hay cấm các tu sĩ ăn chay. Nếu tu sĩ nào cảm thấy 
        hoan hỉ, chấp thuận và thoải mái trong việc ăn chay, thì 
        tự do mà ăn. Tuy nhiên việc ăn chay không nên tu tập chỉ vì 
        các giáo điều khác nhau do chính Ðức Phật cấm chế và cũng 
        không nên tu tập một cách mù quáng và mê tín, vì việc ăn 
        chay không có cơ sở trên mặt giáo lý. Giới luật cấm các 
        tu sĩ hỏi xin bất cứ thực phẩm nào từ thí chủ - ngoại 
        trừ bị bệnh - một thầy Tỳ khưu ăn chay không được 
        chỉ dẫn cho thí chủ chuẩn bị thực phẩm đặc biệt mà 
        không có dung chứa cá hoặc thịt. Vị ấy phải thọ nhận 
        bất cứ lễ phẩm cúng dường nào của đàn-na dâng cúng. 
        Nếu không, vị ấy không phải là Tỳ khưu để cúng dường 
        (subharo). 
        Sự khó khăn trong việc tìm kiếm 
        thực phẩm chay không phải là vấn đề cho sự vi phạm 
        của bất cứ luật lệ chính nào khác. Vị Tỳ khưu nên 
        hiểu và ý thức rằng luật nào là căn bản, và luật nào 
        là kém quan trọng; luật nào phải ưu tiên gìn giữ và 
        luật nào chỉ phụ thuộc thôi. 
        Lại nữa, thầy Tỳ khưu không nên 
        khoe khoang với người khác hoặc đại chúng là mình không 
        ăn cá, thịt. Vị ấy phải biết an lạc cho chính mình. 
        Trong bất cứ hoàn cảnh nào, mục đích chính của các 
        giới luật là tu tập, kiểm điểm chính mình, không có 
        cống cao ngã mạn, khoe khoang hay ích kỷ. Nói khác hơn, ăn 
        chay phải được tu tập không vì đó mà xem thường, lỗi 
        phải hay nhạo báng những Tỳ khưu không ăn chay [34], hay vì 
        mục tiêu nào khác không phù hợp pháp luật - như Ðề Bà 
        Ðạt Ða (Devadatta) đã làm, ông là một trong những người 
        ăn chay đầu tiên. Nếu không, vị Tỳ khưu ăn chay sẽ không 
        làm giảm bớt, mà trái lại còn tăng thêm phiền não cho mình. 
        Vả lại, vị Tỳ khưu ăn chay 
        phải ý thức rằng ăn chay chỉ là việc thực tập và không 
        nên tuân theo một cách mù quáng. Nếu như coi thường điểm 
        chính yếu này, vị ấy sẽ không thể đạt được sự 
        thanh tịnh hay giác ngộ. Thậm chí đạo quả thấp nhất, Tu 
        đà huờn (Sotapanna), cũng không bao giờ thành tựu được vì 
        vị đó tự mình dính mắc mình vào các giới luật và 
        giới cấm thủ (sìlabbataparàmàsa). 
        Ðối với những Tỳ khưu, việc 
        thực hành ăn chay đôi khi là một cảm nhận vui thích. Có 
        một Tỳ khưu nói với đệ tử của mình là thầy sẽ ăn 
        chay vài tháng thôi. Vì theo giới luật, Tỳ khưu không được 
        từ chối bất cứ thực phẩm nào đã dâng cúng cho mình - 
        ngoại trừ nó trái với pháp và luật. Vị đó nhận, nhưng 
        không ăn thực phẩm có dung chứa cá và thịt. 
        Một ngày nọ, có thể cho là ngày 
        bất hạnh, một đệ tử hỏi Tỳ khưu: "Thưa ngài, ngài 
        có biết là thực phẩm người nọ cúng dường, mà ngài 
        vừa ăn có thịt không?" Gặp phải câu hỏi lắc léo này, 
        Tỳ khưu im lặng một lát. Tuy nhiên vì ngài sáng trí, nên 
        ngài lấy lại điềm tỉnh, tìm ra câu giải đáp với ba tiêu 
        chuẩn được dùng thịt. Ngài nói: "Này ..., tôi không 
        thấy, nghe hay nghi ngờ thực phẩm đó có thịt. Nếu tôi 
        biết trước, dĩ nhiên tôi sẽ không ăn". Câu trả lời 
        này được chấp nhận bằng một nụ cười và cái gật đầu 
        nhẹ giống như cậu bé đã bị cha khiển trách. 
        Ðiều khác nhau giữa ăn chay và 
        tam tịnh nhục ví như thanh gươm và vỏ kiếm. Tam tịnh 
        nhục có thể so sánh với thanh kiếm, còn ăn chay giống như 
        bao kiếm. Trong điều kiện an toàn, người ta có thể thưởng 
        thức và khoe khoang vẻ đẹp của bao kiếm có cẩn và trang 
        trí ngọc ngà trong khi đó lưỡi kiếm thì có thể quên lãng 
        trong bao. Tuy nhiên trong hoàn cảnh nguy cấp, thanh kiếm có 
        thể được sử dụng để tự vệ và hữu ích hơn bao 
        kiếm nhiều. 
        Từ ví dụ trên, chúng ta thực 
        sự biết thực hành ăn chay là một điều kiện khó khăn, 
        đặc biệt đối với những ai không nấu ăn giỏi. Ví dụ 
        người tu khó phân biệt được đậu hủ chiên với dầu 
        dừa và đậu hủ chiên với mỡ lợn. Thiên nhiên không có 
        ưu đãi tỉ giác của con người giống như thú vật. Nhưng 
        giả sử vị ấy đã có khả năng đặc biệt như vậy, thì 
        vị xuất gia đó sẽ đối diện một số khó khăn, đặc 
        biệt là trong điều kiện giao tế. Chắc chắn điều đó không 
        phù hợp cho bậc xuất gia ngửi thực phẩm nhiều lần khi mình 
        sắp sửa ăn. 
        [Ðầu 
        trang] 
        
        14. 
        Người cư sĩ thực hành việc ăn chay 
        Khác biệt với những người 
        xuất gia, người cư sĩ sẽ không gặp nhiều khó khăn trong 
        việc ăn chay bởi vì họ có thể, chọn lựa và nấu nướng 
        cho chính mình, sử dụng hương vị nào họ muốn. Một khó 
        khăn nữa có thể đương đầu là để ngăn chặn không cho 
        côn trùng rơi vào thực phẩm. Nếu việc này xảy ra, họ 
        sẽ rơi vào tình trạng nghi hoặc bởi vì không có thánh điển 
        nào chứng minh rõ cho người cư sĩ là thực phẩm đó vẫn 
        còn là thực phẩm nguyên chất hay không. Căn cứ trên mặt 
        luận lý, thực phẩm này không thể được coi là thanh 
        tịnh nữa. Tuy nhiên, nếu thực phẩm được cho là món ăn 
        không còn là chay, thì không người nào thành công trong 
        việc thực hành ăn chay thanh tịnh! Có bất cứ thực phẩm 
        nào mà chưa từng bị xác chết của côn trùng làm ô uế 
        hay đụng chạm vào? Câu hỏi này được người tại gia 
        trả lời: Nếu gạo, bột mì và những món khác bị pha 
        tạp với xác chết côn trùng thì được xem là thực phẩm 
        chay hay không? Nếu rau trái và những sản phẩm nông nghiệp 
        khác có dung chứa sâu bọ, côn trùng hay trứng của nó thì 
        có được cho là thực phẩm chay hay không? Ðậu hủ do 
        những người khác cầm tay mà tay người đó vừa mới cầm 
        thịt thì đậu hủ đó còn là thực phẩm chay hay không? 
        Cho đến nay chưa có tiêu chuẩn nào 
        để giải tỏa sự thắc mắc này. Cho nên sự thành tựu 
        trong việc ăn chay vẫn còn hoài nghi [35]. 
        [Ðầu 
        trang] 
        
        15. 
        Ăn chay trong thời đại mới 
        Không có phủ nhận rằng thời đại 
        hôm nay con người cần phải có, và thậm chí bắt buộc 
        phải có những nhu cầu sống cơ bản như quần áo, thực 
        phẩm, chỗ ngụ và thuốc men, được sản xuất ở những 
        nhà máy và được buôn bán ngoài chợ. Hiện nay trong những 
        sản phẩm đó có nhiều loại được làm bằng nguyên liệu 
        lấy từ nguồn gốc động vật. Thậm chí những thứ vật 
        dụng dùng hàng ngày, được phục vụ mọi nơi, cũng không 
        tránh khỏi chúng. Những nhà quan sát học nói rằng kem đánh 
        răng Colgate, xà bông Camay, Palmolive bán ở thị trường Los 
        Angeles, Hoa Kỳ có dung chứa mỡ lợn [35]. 
        Theo quan niệm thực tế này, 
        thời nay người ta có thể ăn chay một cách nghiêm túc được 
        không? Nếu có thể, người ta sẽ đánh răng bằng bột; 
        tắm bằng đá sông thay cho xà bông, hay nói khác hơn là người 
        ta trở về lối sống nguyên thủy. Một lối sống khoan dung 
        hơn, là không biết tới nguyên liệu hay những thành tố 
        của sản phẩm do nhà máy sản xuất. Giá như không có xương 
        động vật vào trong kem đánh răng, xà phòng, nước tương, 
        dầu ăn... nên xem xét các sản phẩm cho phép, không chế 
        tạo bằng bất cứ bộ phận nào của thú vật! Tuy nhiên 
        nếu chọn lối sống này thì nên trả lời câu hỏi: "Cách 
        sống này có thích nghi với tinh thần ăn chay ngày xưa không?" 
        [Ðầu 
        trang] 
        
        16. 
        Việc ăn chay hay Bát giới: Một sự lựa chọn tùy duyên 
        Vì cả hai đều liên quan đến cái 
        ăn, sự ăn chay thì thường nối tiếp với tám giới 
        (Atthasila), giới thứ sáu là không dùng thực phẩm phi 
        thời. Hầu hết những tu sĩ Ðại thừa ăn chay mà không gìn 
        giữ giới luật này theo giới luật của hệ Pàli tạng thì 
        điều này sẽ phạm tác ác (paccittiya) [36]. 
        Dường như là hai giới luật đó 
        được xem như là có thể thay đổi cho nhau, hoặc chọn 
        lựa tùy duyên. Theo sự lý giải: "Ai cảm thấy ăn chay 
        thoải mái thì cứ ăn chay, còn ai hoan hỉ giữ giới thứ sáu 
        thì cứ gìn giữ. Dù sao đi nữa cả hai đều có chiều hướng 
        phát huy đức hạnh như được thấy trong pháp của Ðức 
        Phật" [37]. 
        Thật sự lời lý luận này không 
        phù hợp với giáo lý chơn truyền của Ðức Phật tổ 
        Gotama. Tối thiểu lời lý luận này cũng soi sáng sự ngang 
        bằng giáo lý của Ðức Phật và kiến nghị việc không ăn 
        cá, thịt của Devadatta. 
        Việc đối chiếu ăn chay với điều 
        giới luật thứ sáu của bát giới là một điều không phù 
        hợp, khác với vị trí không chính thống của ăn chay. Tám 
        giới chính thức do Ðức Phật Gotama dạy như là phương 
        tiện sinh thiên hoặc thanh tịnh hóa. Cho nên người nào thay 
        thế giới thứ sáu với điều ăn chay là một điều không 
        thận trọng lắm. Chắc chắn còn nhiều người vẫn chưa 
        hiểu giới luật thứ sáu. 
        Giới luật thật sự không chỉ là 
        quy luật về oai nghi tế hạnh, mà còn là truyền thống tu 
        tập của chư Phật, chư Tỳ khưu và người tại gia cư sĩ 
        nhiều thời đại qua. Sau khi Tỳ khưu vi phạm, Ðức Phật 
        mới cấm giới luật. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là 
        giới luật không được biết đến trong một hình thức nào 
        khác trước đó. Một Tỳ khưu phạm luật chỉ là một động 
        cơ chính để đức Bổn Sư bắt đầu cấm chế chính thức 
        giới luật. Vì lý do trên, chắc chắn không đúng khi quả 
        quyết là những giới luật là do Ðức Phật Gotama thiết 
        lập theo ý muốn riêng tư và sở thích của ngài. Như thế, 
        sự sửa đổi giới thứ sáu của bát giới do những nhà tu 
        Ðại thừa không những ám chỉ việc tổn hại trong việc hành 
        trì giới này, mà còn có nghĩa đánh mất truyền thống đã 
        được chư Phật chế định! 
        Người ta quan niệm là lợi ích 
        của giới thứ sáu trong bát giới là chỉ để thực hành 
        việc điều độ trong sự ăn uống, kỳ dư, không còn lợi 
        ích nào khác nữa. Dĩ nhiên cách nói như vậy thì chưa đúng. 
        Ngoài lợi ích tiến bộ tâm linh, gìn giữ giới thứ sáu cũng 
        duy trì sức khỏe tốt. Thực tập giới thứ sáu, cũng được 
        gọi là "nhịn đói với nước trái cây" [38]. Trong 
        danh từ y dược học hiện đại cho biết là hữu ích cho 
        sức khỏe ở nhiều nước đã phát triển: Mỹ, Ðức, 
        Thụy Sĩ, Nga. 
        Viện nghiên cứu y học nổi 
        tiếng thế giới, Karolinska ở thủ đô của Thụy Ðiển 
        giới thiệu nó như là một phương pháp chữa bệnh có kết 
        quả. Lúc nhịn ăn thân thể không thu nhận protein và mỡ, 
        cho nên nó thiêu đốt và tiêu hóa đi các tế bào của nó 
        trong quy trình cho là "sự tiêu hóa". Nhờ sự chọn 
        lựa và tiêu hóa đi những tế bào không tốt, già nua hay 
        chết chóc, thân thể tự tống cặn bã và độc tố mà nó 
        đã dung chứa. Bác sĩ Otto Buchinger gọi phương pháp nhịn ăn 
        này là "xả cặn bã, đốt cháy rác rến". Trong giai 
        đoạn kiêng ăn, ống dẫn đồ ăn, gan và thận có lẽ 
        hoạt động có kết quả hơn, vì chúng tạm ngưng việc xử 
        lý thực phẩm mới, chỉ còn sự đào thải cặn bã và hoán 
        chuyển độc tố loại trừ ra khỏi thân thể. Ðồng thời, 
        sự cấu tạo tế bào mới đang gia tăng nhanh không ngại thân 
        thể thiếu protein trong lúc nhịn ăn, bởi vì chất protein 
        trong thân thể là trạng thái sinh động, có lẽ liên hồi tái 
        tổng hợp và tái thực hiện cho các điều kiện khác của 
        thân thể [39]. 
        Một số nhà khoa học hiện nay có 
        thể chứng minh rằng thân thể có thể tiêu hóa, chế tạo 
        và tiếp thu những chất dinh dưỡng có kết quả hơn vào sáng 
        sớm. Do đó, buổi sáng là thời điểm tốt nhất cho loài 
        người, loài thú để ăn (ngoại trừ thú ăn đêm) mà ban đêm 
        là thời điểm tốt nhất cho việc nghĩ ngơi. Cho nên nếu 
        ai ép buộc bao tử, ruột và những cơ quan tiêu hóa khác làm 
        việc cả ngày lẫn đêm thì nguy hại cho thân thể. 
        [Ðầu 
        trang] 
        
        17. 
        Ăn chay và sức khỏe 
        Những lợi ích tôn giáo về 
        việc ăn chay đã được đề cập đến trong những phần trước. 
        Bây giờ chủ đề cuối cùng để thảo luận là ăn chay và 
        kết quả của nó về sức khỏe thân thể. Có một ý kiến 
        cho là ăn chay sẽ có sức khỏe và mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên 
        cũng có ý kiến đối lập cho là ăn cá và thịt sẽ mạnh 
        mẽ và khỏe hơn. Ý kiến nào đúng hơn? Không có câu trả 
        lời xác định cho câu hỏi này. 
        Nói một cách khác, dù ăn chay hay 
        ăn mặn, ăn cách nào có lợi ích cho sức khỏe thì tùy 
        thuộc vào từng cá nhân. Ðối với người bị một số 
        bệnh như: dị ứng, căng thẳng thần kinh, bệnh tim... hay người 
        có chất cholesterol cao thì ăn chay (chính xác hơn là ăn kiêng) 
        có thể thật sự lợi ích cho sức khỏe của họ. Tuy nhiên 
        đối với trẻ em ăn chay chắc chắn sẽ cản trở sự phát 
        triển cơ thể của chúng, đặc biệt là sự phát triển 
        bộ não. Dung lượng protein trong những sản phẩm nông 
        nghiệp luôn luôn không thể thay thế nhu cầu protein động 
        vật của cơ thể. Ðiều đó cũng nên hiểu rằng cá và 
        thịt dung chứa những chất dinh dưỡng ít có trong cây rau 
        hoặc trái, ví dụ vitamin B12. Vitamin B12 không thể sản 
        xuất một cách tổng hợp là có lợi ích cho việc hệ 
        thống và thay đổi những tế bào mới. Ngoài chứng bệnh 
        thiếu máu, không có đủ vitamin B12 có thể gây nên sự 
        mệt mỏi thần kinh, và thiệt hại bộ não. Những triệu 
        chứng là tê liệt, rối loạn thần kinh và hoang tưởng. 
        Nếu không điều trị sớm, kết quả sẽ là suy giảm tâm 
        thức thường xuyên và bại xụi [40]. 
        Chắc chắn là tuyệt đối không 
        ăn cá thịt dẫn đến việc ảnh hưởng xấu cho sức 
        khỏe. Nếu không, vì sao những hội sức khỏe đề cao 
        thực phẩm cá, thịt và sữa. Một số người ăn chay ở phương 
        Tây cho dùng sữa, trứng và cả cá nước ngọt, e rằng ăn 
        chay quá khe khắc có thể tổn hại cho sức khỏe. Như thế, 
        có thể kết luận là ăn chay chỉ phù hợp cho ai vấp phải 
        một số bệnh nào đó, ai tiêu thụ chất dinh dưỡng quá 
        mức, hay người lao động nhẹ, bởi vì họ không cần 
        thiết nhận nhiều protein động vật hay những chất dinh dưỡng 
        khác có dung chứa từ cá và thịt. Trái lại, trẻ thơ, người 
        kém chất dinh dưỡng hoặc người làm việc nhiều mà sự 
        tiêu thụ chất protein của động vật và những chất bổ 
        khác trong cá, thịt, sữa được đòi hỏi với số lượng 
        lớn, không nên cố ăn chay, ngoại trừ xét thấy có lợi 
        cho sức khỏe. 
        [Ðầu 
        trang] 
        
        18. 
        Tóm lược 
        Sau khi xem xét những lời dạy đã 
        được trình bày trong quyển sách này, bây giờ độc giả có 
        thể trả lời đúng câu hỏi: "Quý vị là người ăn động 
        vật hay thực vật?" Câu trả lời là phải phù hợp 
        với giáo pháp, lời dạy nguyên thủy của Ðức Phật, là 
        ăn thế nào cũng được. Người tu chân chính không để 
        mắc mứu trong điều khó xử về ăn chay. Tấm gương thận 
        trọng của Ðức Phật là việc hướng dẫn tốt để đối 
        diện cũng như khắc phục những vấn đề ăn chay. 
        Người tu không nên cho mình là người 
        ăn thịt; dường như mình là người bán hàng cho những nhà 
        sản xuất thực phẩm làm bằng cá, thịt; cố làm giàu có 
        qua việc bán thịt và vô tình biện minh cho việc giết thú 
        lấy thịt bán. Nhưng người tu cũng không nên cho mình là người 
        ăn chay, truyền bá cho việc ăn chay, thu hút người khác 
        sống theo cách sống của mình một cách u mê. Người tu là 
        người có "lối sống độc nhất" trong sự cung 
        ứng điều kiện thực phẩm của mình. 
        Như vậy để trả lời câu hỏi 
        cho chủ đề của quyển sách này, người tu hành phải nói 
        thẳng thắng: "Tôi không phải là người ăn động vật 
        mà cũng không phải là người ăn thực vật! Tôi là người 
        ăn bất cứ thực phẩm nào phù hợp giáo pháp, lời dạy 
        của bậc giác ngộ". 
        [Ðầu 
        trang] 
        
        Lời 
        bạt 
        Ðọc cuốn sách "Vấn đề 
        ẩm thực trong Phật giáo," chúng ta thấy ý nghĩa của 
        sự tu hành là gì? Phương pháp để đạt được cứu cánh 
        (Niết Bàn) của người tu Phật ra sao? Hành giả tu Phật sai 
        mục tiêu lý tưởng sẽ không đạt được kết quả tốt 
        đẹp, công phu hành đạo nó sẽ thành tự đầu độc và di 
        hại đến tư tưởng bản thân và quần chúng. 
        Cho nên tôi nhận thấy cuốn sách 
        bàn về vấn đề ẩm thực này rất có ý nghĩa thời sự 
        đối với những người mong muốn giật được đạo hơn là 
        tự hành chánh đạo. Ðiển hình như một số tiêu đề mà 
        nội dung cuốn sách đã nêu như: 
        1. Vấn đề ăn chay, ăn mặn đã 
        có lắm ý tưởng mâu thuẫn nhau. Tu sĩ Phật giáo Nam Tông căn 
        cứ theo luật Phật buộc người xuất gia phải sống bằng 
        thức ăn đi trì bình khất thực. Các tu sĩ không hề dám đề 
        ra những cao kiến trên Phật để canh tân giáo phái. Các tu 
        sĩ không được có của riêng, ngoài tam y và quả bát. Các 
        triết gia Hy Lạp thì đề cao thuyết ăn chay. Ngày nay các tu 
        sĩ Việt Nam phái Bắc Tông cũng đề quyết hạnh ăn chay. 
        2. Người thì có ý hướng lệch 
        lạc tiếc nuối theo học thuyết chay lạt và đi xa hơn là 
        khuyên "Nên ăn chay vì nó là yếu tố có được sự 
        thanh tịnh". Họ cho rằng ăn chay sẽ đạt được mục 
        tiêu. Ðiều này chính là điểm khác nhau với phái Nam Tông. 
        Ðức Phật đã thuyết giáo rằng: "Có giới mới có định, 
        có định mới có tuệ." 
        3. Ăn chay có thay đổi được tánh 
        nết không? Một vị Bồ Tát, Phật có thực hành việc ăn 
        chay không? Ăn chay có đảm bảo sức khỏe cho mọi người 
        không? 
        Tác giả cuốn sách có nghiên 
        cứu chính chắn, có kết hợp các ngành khoa học xã hội, Tôn 
        giáo học, ngành y học... và được dịch giả Tỳ kheo Thích 
        Thiện Minh phiên dịch khá chính xác, vạch rõ được ý nghĩa 
        của bản chính. Theo tôi vấn đề này hoàn toàn phù hợp 
        với lời Phật dạy là sống nhờ thiên hạ và vì thiên 
        hạ. Tôi rất hy vọng cuốn sách nhỏ bé này sớm ra đời, 
        để phần nào khai thông được những tư tưởng xa lạ phi 
        Phật tánh của một số người chưa hiểu được bản thân 
        phải làm gì để đạt được cứu cánh của người tu 
        Phật. 
        Tiến sĩ Thái 
        Văn Chải 
        [Ðầu 
        trang] 
         
        
        Chú 
        thích: 
        [1] Theo quyển "Bách Khoa Thế 
        Giới", phần Tổ chức kinh doanh, Chicago 
        [2] John Blofeld là tác giả viết 
        kinh điển Phật Giáo Ðại Thừa nổi danh, dường như ông 
        đã xem thường sự kiện lịch sử trong khi đó ông đã tuyên 
        bố sai lầm: "Những quyển sách cổ ở Ấn Ðộ cho 
        thấy rằng việc ăn chay không được biết đến trong suốt 
        thời gian Phật giáo truyền bá trên đất nước này". 
        Chính những nhà học giả Ấn Ðộ giáo thừa nhận rằng ăn 
        chay cũng được tìm thấy từ Phật giáo. 
        [3] So sánh điều này với lời 
        dạy của kinh thánh trong Matthew XV, 10-19 có đoạn như sau: 
        "Không có thứ gì ăn vào hay nhả ra mà làm cho người 
        ta nhơ bẩn, nhưng con người nhơ bẩn là vì ác ý, sát 
        hại, tà dâm, gian tham, trộm cắp..." 
        [4] Ðiều quan trọng để hiểu là 
        thuật ngữ "vanijja" trong ngữ cảnh này chỉ liên 
        quan đến hành động buôn bán, chứ không liên quan đến 
        việc mua sắm. 
        [5] Bị vô minh áp chế và vì nhân 
        duyên cũng như những cá tính tự nhiên; loài thú không thể 
        nâng cao sự tiến bộ, phát huy sự hiểu biết hoặc làm tăng 
        trưởng tính khôn ngoan được. 
        [6] "Người Phật tử tin gì?", 
        Kuala Lumpur. Hội truyền bá Phật giáo, năm 1973, trang 78. 
        [7] Luật Ðại Thừa của Tỳ khưu 
        Yen Kiat, xuất bản năm 1960, trang 60. 
        [8] Kinh Lăng Nghiêm (Surangamasutra ) 
        do Charles Luk dịch, London ấn hành năm 1966, trang 153. 
        [9] Kinh Lăng Già (Lankavatarasutra) 
        do Daisetz Teitaro Suzuki dịch, London ấn hành năm 1973, trang 
        211-221 
        [10] Luật Ðại Thừa (Mahàyànavinaya) 
        do Tỳ khưu Yen Kiat biên soạn, Bangkok ấn hành năm 1960, trang 
        60. 
        [11] Trường Bộ, Trung Bộ, Tương 
        Ưng Tăng Chi, Tiểu bộ kinh. 
        [12] Trường A Hàm, Trung A Hàm, 
        Kinh Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm (Dirghagama, madhyamagama, 
        Samyuktagama, Ekotta-rikagama) 
        [13] Giới luật của Tỳ khưu, do 
        Charles Si Prebish, New York ấn hành năm 1975, trang 80. 
        [14] Giới này so sánh với Giới 
        Bổn của Trưởng Lão Bộ đã được công bố nó tương 
        đương điều thứ bốn mươi trong Giới Bổn của nền 
        tảng Nhất Thiết Hữu Bộ. 
        [15] Trong phân biệt kinh 
        "Suttavibhanga" (Luật tạng Vinaya pitaka) có nói đến 
        Trưởng Lão A La Hán Tỳ khưu Ni Uppalavanna đã cúng dường 
        bữa ăn nấu bằng thịt cho Ðức Phật Gotama. 
        [16] Kinh Quán Tưởng, Bangkok ấn hành 
        năm 1975, trang 263. 
        [17] Người Trung Hoa tin rằng linh 
        hồn của người chết còn quanh quẩn trong nhà của họ 
        nhiều ngày trước khi đi tái sinh. Trái lại với niềm tin này, 
        kinh điển A Tỳ Ðàm (Abhidhamma) giải thích rằng ngay khi tâm 
        tử (cuti - citta) là tâm tái sinh (patisandhi citta). 
        [18] Paramatthajotika được biên 
        soạn do Phra Saddhammajotika, Bangkok ấn hành, Phật lịch 2526 và 
        quyển Abhidhammattha-sangaha do Vannasiddhi tóm lượt, Bangkok ấn 
        hành, Phật lịch 2530. 
        [19] Xem lại WFB, tập 21, bài số 
        1, từ tháng giêng đến tháng 5, năm 1984, trang 83. 
        [20] Ðèn cầy cao cấp có chứa 
        chất mỡ. 
        [21] Trong quyển kinh Lăng Già, ngay 
        cả mật ong thì cũng được xem là thực phẩm thích hợp 
        cho những người tu theo Ðại Thừa. 
        [22] Thậm chí có những người ăn 
        chay được biết họ thành lập cơ sở sản xuất dây nịt 
        da hoặc hãng xưởng làm giày. Có lẽ họ quan niệm rằng 
        chỉ không ăn cá thịt thì đủ để tha tội cho họ từ 
        tội giết hàng loạt loài thú vô tội. 
        [23] Nguồn tài liệu này là của 
        Ngài Pannavaro 
        [24] Thuật ngữ này cũng được 
        thấy trong quyển Mi Tiên vấn đáp (Milinda panha) - kinh điển 
        Pàli có nêu chi tiết cuộc tranh luận giữa Vua Milinda và Ðại 
        đức Nagasena. 
        [25] Trong kinh Ðại Níp Bàn và 
        kinh Mi Tiên vấn đáp, giáo sư Rhys Davids đã dịch thuật 
        ngữ này là thịt heo mềm. Nhưng I.B.Horner trong bản dịch Mi 
        Tiên vấn đáp của bà thì thuật ngữ này được dịch là 
        "nấm đen ăn được". 
        [26] Trong kinh điển Trung Hoa 
        thuật ngữ này được dịch là loài nấm. 
        [27] Ông là nhà chú giải kinh điển 
        Pàli nổi tiếng sống khoảng thế kỷ thứ V sau Tây lịch. 
        [28] Chú giải kinh tạng Pàli xưa 
        và quan trọng nhất được ghi lại ở Tích Lan là do công 
        lao của Ngài Malinda, con trai vua Asoka. 
        [29] Tam Tạng kinh điển Tích Lan, 
        thuật ngữ này được duy trì trong hình thức Nguyên thủy, 
        không có dịch ra. 
        [30] Nhà chú giải nói rằng 
        thiện nam Cunda đã đạt được đạo quả Tu Ðà Hườn. 
        [31] Trong quyển Bách Khoa Thế 
        Giới, người ta viết rằng chỉ có những nhà sinh vật 
        học thì mới tỉ mỉ và nghiêm nhặt để phân biệt giữa 
        loài nấm có độc và không độc. Thực tế cho thấy là 
        nấm ăn được đôi khi tương tự với nấm không ăn được 
        ở hình dáng, mùi vị và màu sắc. 
        [32] Hầu hết các loài nấm người 
        ta cho biết là: hơn 90% là nước, dưới 30% là chất protein, 
        dưới 5% là chất carbohydrate, dưới 1% là chất béo và 
        khoảng 1% là chất khoáng cũng như Vitamin. 
        [33] Giả sử là Sukara-maddava có 
        chứa chất độc, nhân gây bệnh tật hay cái chết của Ðức 
        Phật, thì chắc chắn bát cơm đó sẽ không được công 
        bố là sự cúng dường có nhiều phước báu tương đương 
        với nàng Sujata cúng dường bữa ăn trước khi Ngài thành đạo. 
        [34] Ở Thái Lan, có vị lãnh tụ 
        giáo phái tà đạo "Santi Asoke" tên là Bodhiraksa, ông 
        thích phê bình ai ăn cá thịt thì người đó sẽ giống như 
        dạ xoa (yakkha), ma quỷ (mara). 
        [35] Tạp chí Tempo hàng tuần, số 
        41, năm thứ 15, ra ngày 7.11.1985 
        [36] Ở kinh Ba La Ðề Mộc Xoa 
        của tạng Sanskrit, những người theo Bộ phái Ðại Chúng 
        Bộ (Mahasanghika) thì vẫn còn gìn giữ giới luật này. 
        [37] U. Tedjo Joewono trong nhan đề 
        "thực phẩm" ở tạp chí Svaradhamma, số 9 từ tháng 
        10 đến tháng 11, năm 1985. 
        [38] Phương cách ăn ngọ của 
        Phật giáo có thể so sánh với phương pháp "nhịn ăn 
        với nước trái cây" do những nhà khoa học giới 
        thiệu. Các vị Tỳ khưu được Ðức Phật cho phép dùng nước 
        trái cây sau giờ ngọ vì nước trái cây có lượng vitamin 
        cần thiết cho cơ thể hàng ngày. Cách ăn này thì lợi ích 
        và tốt hơn đối với việc "nhịn ăn hoàn toàn" như 
        đã luyện tập bởi một số tôn giáo khác mà thậm chí 
        họ còn ngăn cấm uống nước nữa. 
        [39] Thông tin này đã bắt nguồn 
        từ "việc nhịn ăn với nước trái cây: phương pháp 
        quan trọng đối với sức khỏe và tuổi thọ" trong 
        quyển sách "How to get well", một cuốn sách đã bán 
        chạy nhất do Tiến sĩ Paavo Airola viết. 
        [40] Trong quyển sách hàng năm nói 
        về chất dinh dưỡng do John D. Kirschmann, Lavon J. Dunne, Hoa 
        kỳ ấn hành năm 1984. 
        [Ðầu 
        trang] 
         
        Chân thành cám ơn Tỳ kheo 
        Thiện Minh đã gửi tặng ấn bản điện tử (Bình Anson, 
        12/99).  |