[Phần
II]
-oOo-
11.
Bửa cơm cuối cùng của Ðức Phật Tổ Gotama: Nấm hay
thịt lợn?
Danh từ "Sukara-Maddava"
xuất hiện mười hai lần trong toàn bộ Tam tạng Kinh điển
tiếng Pàli [24]. Từ này được gặp sáu lần trong kinh Ðại
Bát Níp-bàn (Mahaparinibbana sutta) thuộc tạng kinh Trường
bộ (Dìgha Nikàya) và sáu lần nữa trong kinh Cunda (Cunda
sutta) thuộc kinh tạng Tiểu bộ (Khuddaka Nikàya). Hai kinh văn
này đề cập cùng một sự kiện là gia chủ Cunda, một
thợ vàng giàu sang mời và cúng dường Ðức Phật tổ
Gotama món sukara-maddava. Thực phẩm này là bữa ăn cuối cùng
của Ðức Phật trước khi ngài nhập vô dư Níp- bàn
(Mahaparinibbana).
Gần đây, có người đã dịch
danh từ sukara-madava thành "một loại nấm mà lợn thích
ăn" hay "một loại nấm mọc dưới đất bị lợn
dẫm chân" hay "một loại nấm mọc ở nơi mà heo
ở" [25]. Không biết chính xác ai là người đầu tiên
đã dịch danh từ này như thế, nhưng tin chắc là bản
dịch này sẽ được những người ăn chay hoàn toàn ủng
hộ [26]. Từ rất lâu họ đã thể hiện nhiều phương pháp
khác nhau để chứng minh Ðức Phật ăn chay. Bản dịch này
nên thẩm xét lại kỹ hơn.
Trong quyển kinh chú giải Trường
bộ (Sumaígalavilasini) của trưởng lão Buddhaghosa [27] viết
rằng những gì được gọi là sukara-maddava là "thịt
lợn loại cao cấp, trong lứa vừa phải - không quá già mà
cũng không quá non - mềm và được phục vụ ngoài thị thành
cho mọi người tiêu dùng (pavattamamsa)". Trưởng lão
Dhammapala, tác giả quyển chú giải Paramatthadipani thuộc
Tiểu bộ kinh, có cùng quan niệm như vậy [28]. Ngoài ra trưởng
lão Buddhadatta viết quyển Mathuratthavilasini - chú giải bộ
Buddhavamsa (Phật sử) thuộc Tiểu bộ - cũng tuyên bố rằng
một trong ba mươi điểm tương đồng của chư vị Chánh Ðẳng
Chánh Giác (sammasambuddhasa) là: bữa ăn cuối cùng của ngài
trước khi Níp-bàn là "thịt thú vật" (parinibbànadivasemaư
sarasa-bhojanaư). Trong Tam tạng Thái Lan và Miến Ðiện (đã
dịch sang tiếng Anh) thì danh từ sukara-maddava được dịch là
"thịt heo mềm" [29].
Nếu nguồn gốc của từ ngữ đã
được thẩm định, thì giá trị của bản dịch không nên
nghi ngờ nữa. Thuật ngữ sukara-maddava được phân chia làm
hai từ: "sukara" và "maddava". Trong từ điển
Pàli được biên soạn do Robert Caesar Childers, và trong quyển
thuật ngữ Pàli do Dines Anderson biên soạn, cũng như trong
quyển Pàli-Anh, do trưởng lão Buddhadatta biên soạn thì danh
từ sukara được dịch là "lợn" mà tính từ maddava
được dịch là "mềm". Như vậy căn cứ vào nguồn
gốc của từ ngữ, thuật ngữ sukara-maddava thật sự không
có liên hệ gì đến bất kỳ loài "nấm" nào cả.
Cũng nên biết rằng, gia chủ
Cunda là một Phật tử [30]. Ông biết Ðức Phật Gotama sức
khỏe bị suy yếu. Ông cố ý nấu món sukara-maddava này,
với lòng mong muốn là món ăn này sẽ gia tăng sức khỏe
cho ngài. Cunda lẽ nào dám liều cúng dường bậc đạo sư
một món nấm, mà đã biết rằng là "có thể" nguy
hại [31], và theo như các nhà dinh dưỡng học, có thể gây
sự yếu ớt, nhiều độc tố và lẫn cái chết nữa. Vả
lại, nấm là thực phẩm có rất ít chất dinh dưỡng để
sử dụng cho việc tăng lực [32]. Nói một cách khác, nấm
không có nhiều chất dinh dưỡng bằng bắp cải, cho nên
rất dại khờ mới nghĩ rằng nó sẽ làm gia tăng sức
khỏe. Cũng nên biết rằng, cái chết của Ðức Phật thật
sự không phải chết vì dùng sukara, thịt lợn
(sukara-maddava), do gia chủ Cunda cúng dường - như nhiều người
lầm tưởng - mà vì cơ thể của ngài đã cạn kiệt và vì
cuộc đời của Thế Tôn đến lúc phải ra đi. Ba tháng trước,
ngài đã quyết định nhập diệt vào ngày trăng tròn tháng
tư âm lịch (vesakha). Sự việc này như đã được ghi lại
trong kinh Ðại Níp bàn (Mahàparinibbàna) và kinh Cunda, Ðức
Phật Gotama không bao giờ nói rằng thịt lợn (sukara-maddava)
do gia chủ Cunda cúng có độc tố [33]. Ngài chỉ nói là
trong thế giới này không có ai dù là Bà la môn, đạo sĩ,
trời, ma vương hay Phạm thiên nào có thể tiêu hóa
(jirapeti) thực phẩm đó, ngoại trừ Như Lai. Ngài Nagasena và
Buddhaghosa đã chú giải là khi thịt lợn (sukara-maddava) được
nấu, có nhiều vị chư thiên thêm gia vị cực bổ vào, lý
do là các vị nghĩ rằng đây là bữa cơm cuối cùng của Ðức
Phật Gotama. Nhận biết được điều này, Ðức Phật gọi
gia chủ Cunda đừng có cúng dường món thịt lợn chứa gia
vị cực bổ này cho chư Tỳ khưu tháp tùng theo ngài, bởi vì
nó có lẽ "quá liều" đối với chư vị mà chỉ có
đức Như Lai mới có thể thọ dụng được. Như vậy việc
dịch thuật ngữ sukara-maddava thành nấm và đoán chừng
rằng cái chết của Ðức Phật là do độc tố của nấm thì
thật sự không đúng.
Ðiều này thực sự không quan
trọng và người Phật tử không nên sử dụng vấn đề này
để tranh luận. Cho dù "sukara-maddava" có thật sự là
nấm hay không, thì không thể nào sử dụng thuật ngữ trên
để làm cứ điểm cho việc biện hộ ăn chay. Loại thực
phẩm mà Ðức Phật dùng không thể dựa vào bữa ăn cuối
cùng của Ðức Thế Tôn. Nhiều nguồn kinh điển Tam tạng
quả quyết cho là Ðức Phật đã có thái độ của ngài
về việc ăn chay, và ngài đã áp dụng ăn chay cho chư vị
đệ tử.
[Ðầu
trang]
12.
Một vị Bồ-tát phải thực hành việc ăn chay không?
Một số người nói rằng, ý tưởng
hình thành việc ăn chay là do Bồ Tát Sĩ Ðạt Ða khổ
hạnh sáu năm ở chốn rừng già Uruvela, bởi vì lúc đó ngài
chỉ dùng trái cây thôi, không ăn cá hay thịt. Thật sự đây
là một sự lầm lẫn - nếu không muốn nói đây là chuyện
bịa đặt. Ngài khổ hạnh chỉ vì hành động bất thiện
của Ngài trong kiếp quá khứ, đó là Ngài nhục mạ Ðức
Phật Ca Diếp (Kassapa). Như vậy thực sự khổ hạnh không có
hàm ý là Bồ Tát luyện tập tâm bác ái. Việc ăn chay không
phải là một trong những hạnh tu pháp độ (paramita) do chư
vị Bồ Tát tu tập. Vả lại, những pháp độ của ngài
phải hoàn thành trước khi Bồ Tát tái sinh lên cõi trời
Ðâu suất (Tusita) nơi mà Bồ Tát đợi lúc thích hợp để
giáng trần.
[Ðầu
trang]
13.
Việc thực hành ăn chay do các tu sĩ
Ðức Phật Gotama không bao giờ yêu
cầu hay cấm các tu sĩ ăn chay. Nếu tu sĩ nào cảm thấy
hoan hỉ, chấp thuận và thoải mái trong việc ăn chay, thì
tự do mà ăn. Tuy nhiên việc ăn chay không nên tu tập chỉ vì
các giáo điều khác nhau do chính Ðức Phật cấm chế và cũng
không nên tu tập một cách mù quáng và mê tín, vì việc ăn
chay không có cơ sở trên mặt giáo lý. Giới luật cấm các
tu sĩ hỏi xin bất cứ thực phẩm nào từ thí chủ - ngoại
trừ bị bệnh - một thầy Tỳ khưu ăn chay không được
chỉ dẫn cho thí chủ chuẩn bị thực phẩm đặc biệt mà
không có dung chứa cá hoặc thịt. Vị ấy phải thọ nhận
bất cứ lễ phẩm cúng dường nào của đàn-na dâng cúng.
Nếu không, vị ấy không phải là Tỳ khưu để cúng dường
(subharo).
Sự khó khăn trong việc tìm kiếm
thực phẩm chay không phải là vấn đề cho sự vi phạm
của bất cứ luật lệ chính nào khác. Vị Tỳ khưu nên
hiểu và ý thức rằng luật nào là căn bản, và luật nào
là kém quan trọng; luật nào phải ưu tiên gìn giữ và
luật nào chỉ phụ thuộc thôi.
Lại nữa, thầy Tỳ khưu không nên
khoe khoang với người khác hoặc đại chúng là mình không
ăn cá, thịt. Vị ấy phải biết an lạc cho chính mình.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, mục đích chính của các
giới luật là tu tập, kiểm điểm chính mình, không có
cống cao ngã mạn, khoe khoang hay ích kỷ. Nói khác hơn, ăn
chay phải được tu tập không vì đó mà xem thường, lỗi
phải hay nhạo báng những Tỳ khưu không ăn chay [34], hay vì
mục tiêu nào khác không phù hợp pháp luật - như Ðề Bà
Ðạt Ða (Devadatta) đã làm, ông là một trong những người
ăn chay đầu tiên. Nếu không, vị Tỳ khưu ăn chay sẽ không
làm giảm bớt, mà trái lại còn tăng thêm phiền não cho mình.
Vả lại, vị Tỳ khưu ăn chay
phải ý thức rằng ăn chay chỉ là việc thực tập và không
nên tuân theo một cách mù quáng. Nếu như coi thường điểm
chính yếu này, vị ấy sẽ không thể đạt được sự
thanh tịnh hay giác ngộ. Thậm chí đạo quả thấp nhất, Tu
đà huờn (Sotapanna), cũng không bao giờ thành tựu được vì
vị đó tự mình dính mắc mình vào các giới luật và
giới cấm thủ (sìlabbataparàmàsa).
Ðối với những Tỳ khưu, việc
thực hành ăn chay đôi khi là một cảm nhận vui thích. Có
một Tỳ khưu nói với đệ tử của mình là thầy sẽ ăn
chay vài tháng thôi. Vì theo giới luật, Tỳ khưu không được
từ chối bất cứ thực phẩm nào đã dâng cúng cho mình -
ngoại trừ nó trái với pháp và luật. Vị đó nhận, nhưng
không ăn thực phẩm có dung chứa cá và thịt.
Một ngày nọ, có thể cho là ngày
bất hạnh, một đệ tử hỏi Tỳ khưu: "Thưa ngài, ngài
có biết là thực phẩm người nọ cúng dường, mà ngài
vừa ăn có thịt không?" Gặp phải câu hỏi lắc léo này,
Tỳ khưu im lặng một lát. Tuy nhiên vì ngài sáng trí, nên
ngài lấy lại điềm tỉnh, tìm ra câu giải đáp với ba tiêu
chuẩn được dùng thịt. Ngài nói: "Này ..., tôi không
thấy, nghe hay nghi ngờ thực phẩm đó có thịt. Nếu tôi
biết trước, dĩ nhiên tôi sẽ không ăn". Câu trả lời
này được chấp nhận bằng một nụ cười và cái gật đầu
nhẹ giống như cậu bé đã bị cha khiển trách.
Ðiều khác nhau giữa ăn chay và
tam tịnh nhục ví như thanh gươm và vỏ kiếm. Tam tịnh
nhục có thể so sánh với thanh kiếm, còn ăn chay giống như
bao kiếm. Trong điều kiện an toàn, người ta có thể thưởng
thức và khoe khoang vẻ đẹp của bao kiếm có cẩn và trang
trí ngọc ngà trong khi đó lưỡi kiếm thì có thể quên lãng
trong bao. Tuy nhiên trong hoàn cảnh nguy cấp, thanh kiếm có
thể được sử dụng để tự vệ và hữu ích hơn bao
kiếm nhiều.
Từ ví dụ trên, chúng ta thực
sự biết thực hành ăn chay là một điều kiện khó khăn,
đặc biệt đối với những ai không nấu ăn giỏi. Ví dụ
người tu khó phân biệt được đậu hủ chiên với dầu
dừa và đậu hủ chiên với mỡ lợn. Thiên nhiên không có
ưu đãi tỉ giác của con người giống như thú vật. Nhưng
giả sử vị ấy đã có khả năng đặc biệt như vậy, thì
vị xuất gia đó sẽ đối diện một số khó khăn, đặc
biệt là trong điều kiện giao tế. Chắc chắn điều đó không
phù hợp cho bậc xuất gia ngửi thực phẩm nhiều lần khi mình
sắp sửa ăn.
[Ðầu
trang]
14.
Người cư sĩ thực hành việc ăn chay
Khác biệt với những người
xuất gia, người cư sĩ sẽ không gặp nhiều khó khăn trong
việc ăn chay bởi vì họ có thể, chọn lựa và nấu nướng
cho chính mình, sử dụng hương vị nào họ muốn. Một khó
khăn nữa có thể đương đầu là để ngăn chặn không cho
côn trùng rơi vào thực phẩm. Nếu việc này xảy ra, họ
sẽ rơi vào tình trạng nghi hoặc bởi vì không có thánh điển
nào chứng minh rõ cho người cư sĩ là thực phẩm đó vẫn
còn là thực phẩm nguyên chất hay không. Căn cứ trên mặt
luận lý, thực phẩm này không thể được coi là thanh
tịnh nữa. Tuy nhiên, nếu thực phẩm được cho là món ăn
không còn là chay, thì không người nào thành công trong
việc thực hành ăn chay thanh tịnh! Có bất cứ thực phẩm
nào mà chưa từng bị xác chết của côn trùng làm ô uế
hay đụng chạm vào? Câu hỏi này được người tại gia
trả lời: Nếu gạo, bột mì và những món khác bị pha
tạp với xác chết côn trùng thì được xem là thực phẩm
chay hay không? Nếu rau trái và những sản phẩm nông nghiệp
khác có dung chứa sâu bọ, côn trùng hay trứng của nó thì
có được cho là thực phẩm chay hay không? Ðậu hủ do
những người khác cầm tay mà tay người đó vừa mới cầm
thịt thì đậu hủ đó còn là thực phẩm chay hay không?
Cho đến nay chưa có tiêu chuẩn nào
để giải tỏa sự thắc mắc này. Cho nên sự thành tựu
trong việc ăn chay vẫn còn hoài nghi [35].
[Ðầu
trang]
15.
Ăn chay trong thời đại mới
Không có phủ nhận rằng thời đại
hôm nay con người cần phải có, và thậm chí bắt buộc
phải có những nhu cầu sống cơ bản như quần áo, thực
phẩm, chỗ ngụ và thuốc men, được sản xuất ở những
nhà máy và được buôn bán ngoài chợ. Hiện nay trong những
sản phẩm đó có nhiều loại được làm bằng nguyên liệu
lấy từ nguồn gốc động vật. Thậm chí những thứ vật
dụng dùng hàng ngày, được phục vụ mọi nơi, cũng không
tránh khỏi chúng. Những nhà quan sát học nói rằng kem đánh
răng Colgate, xà bông Camay, Palmolive bán ở thị trường Los
Angeles, Hoa Kỳ có dung chứa mỡ lợn [35].
Theo quan niệm thực tế này,
thời nay người ta có thể ăn chay một cách nghiêm túc được
không? Nếu có thể, người ta sẽ đánh răng bằng bột;
tắm bằng đá sông thay cho xà bông, hay nói khác hơn là người
ta trở về lối sống nguyên thủy. Một lối sống khoan dung
hơn, là không biết tới nguyên liệu hay những thành tố
của sản phẩm do nhà máy sản xuất. Giá như không có xương
động vật vào trong kem đánh răng, xà phòng, nước tương,
dầu ăn... nên xem xét các sản phẩm cho phép, không chế
tạo bằng bất cứ bộ phận nào của thú vật! Tuy nhiên
nếu chọn lối sống này thì nên trả lời câu hỏi: "Cách
sống này có thích nghi với tinh thần ăn chay ngày xưa không?"
[Ðầu
trang]
16.
Việc ăn chay hay Bát giới: Một sự lựa chọn tùy duyên
Vì cả hai đều liên quan đến cái
ăn, sự ăn chay thì thường nối tiếp với tám giới
(Atthasila), giới thứ sáu là không dùng thực phẩm phi
thời. Hầu hết những tu sĩ Ðại thừa ăn chay mà không gìn
giữ giới luật này theo giới luật của hệ Pàli tạng thì
điều này sẽ phạm tác ác (paccittiya) [36].
Dường như là hai giới luật đó
được xem như là có thể thay đổi cho nhau, hoặc chọn
lựa tùy duyên. Theo sự lý giải: "Ai cảm thấy ăn chay
thoải mái thì cứ ăn chay, còn ai hoan hỉ giữ giới thứ sáu
thì cứ gìn giữ. Dù sao đi nữa cả hai đều có chiều hướng
phát huy đức hạnh như được thấy trong pháp của Ðức
Phật" [37].
Thật sự lời lý luận này không
phù hợp với giáo lý chơn truyền của Ðức Phật tổ
Gotama. Tối thiểu lời lý luận này cũng soi sáng sự ngang
bằng giáo lý của Ðức Phật và kiến nghị việc không ăn
cá, thịt của Devadatta.
Việc đối chiếu ăn chay với điều
giới luật thứ sáu của bát giới là một điều không phù
hợp, khác với vị trí không chính thống của ăn chay. Tám
giới chính thức do Ðức Phật Gotama dạy như là phương
tiện sinh thiên hoặc thanh tịnh hóa. Cho nên người nào thay
thế giới thứ sáu với điều ăn chay là một điều không
thận trọng lắm. Chắc chắn còn nhiều người vẫn chưa
hiểu giới luật thứ sáu.
Giới luật thật sự không chỉ là
quy luật về oai nghi tế hạnh, mà còn là truyền thống tu
tập của chư Phật, chư Tỳ khưu và người tại gia cư sĩ
nhiều thời đại qua. Sau khi Tỳ khưu vi phạm, Ðức Phật
mới cấm giới luật. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là
giới luật không được biết đến trong một hình thức nào
khác trước đó. Một Tỳ khưu phạm luật chỉ là một động
cơ chính để đức Bổn Sư bắt đầu cấm chế chính thức
giới luật. Vì lý do trên, chắc chắn không đúng khi quả
quyết là những giới luật là do Ðức Phật Gotama thiết
lập theo ý muốn riêng tư và sở thích của ngài. Như thế,
sự sửa đổi giới thứ sáu của bát giới do những nhà tu
Ðại thừa không những ám chỉ việc tổn hại trong việc hành
trì giới này, mà còn có nghĩa đánh mất truyền thống đã
được chư Phật chế định!
Người ta quan niệm là lợi ích
của giới thứ sáu trong bát giới là chỉ để thực hành
việc điều độ trong sự ăn uống, kỳ dư, không còn lợi
ích nào khác nữa. Dĩ nhiên cách nói như vậy thì chưa đúng.
Ngoài lợi ích tiến bộ tâm linh, gìn giữ giới thứ sáu cũng
duy trì sức khỏe tốt. Thực tập giới thứ sáu, cũng được
gọi là "nhịn đói với nước trái cây" [38]. Trong
danh từ y dược học hiện đại cho biết là hữu ích cho
sức khỏe ở nhiều nước đã phát triển: Mỹ, Ðức,
Thụy Sĩ, Nga.
Viện nghiên cứu y học nổi
tiếng thế giới, Karolinska ở thủ đô của Thụy Ðiển
giới thiệu nó như là một phương pháp chữa bệnh có kết
quả. Lúc nhịn ăn thân thể không thu nhận protein và mỡ,
cho nên nó thiêu đốt và tiêu hóa đi các tế bào của nó
trong quy trình cho là "sự tiêu hóa". Nhờ sự chọn
lựa và tiêu hóa đi những tế bào không tốt, già nua hay
chết chóc, thân thể tự tống cặn bã và độc tố mà nó
đã dung chứa. Bác sĩ Otto Buchinger gọi phương pháp nhịn ăn
này là "xả cặn bã, đốt cháy rác rến". Trong giai
đoạn kiêng ăn, ống dẫn đồ ăn, gan và thận có lẽ
hoạt động có kết quả hơn, vì chúng tạm ngưng việc xử
lý thực phẩm mới, chỉ còn sự đào thải cặn bã và hoán
chuyển độc tố loại trừ ra khỏi thân thể. Ðồng thời,
sự cấu tạo tế bào mới đang gia tăng nhanh không ngại thân
thể thiếu protein trong lúc nhịn ăn, bởi vì chất protein
trong thân thể là trạng thái sinh động, có lẽ liên hồi tái
tổng hợp và tái thực hiện cho các điều kiện khác của
thân thể [39].
Một số nhà khoa học hiện nay có
thể chứng minh rằng thân thể có thể tiêu hóa, chế tạo
và tiếp thu những chất dinh dưỡng có kết quả hơn vào sáng
sớm. Do đó, buổi sáng là thời điểm tốt nhất cho loài
người, loài thú để ăn (ngoại trừ thú ăn đêm) mà ban đêm
là thời điểm tốt nhất cho việc nghĩ ngơi. Cho nên nếu
ai ép buộc bao tử, ruột và những cơ quan tiêu hóa khác làm
việc cả ngày lẫn đêm thì nguy hại cho thân thể.
[Ðầu
trang]
17.
Ăn chay và sức khỏe
Những lợi ích tôn giáo về
việc ăn chay đã được đề cập đến trong những phần trước.
Bây giờ chủ đề cuối cùng để thảo luận là ăn chay và
kết quả của nó về sức khỏe thân thể. Có một ý kiến
cho là ăn chay sẽ có sức khỏe và mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên
cũng có ý kiến đối lập cho là ăn cá và thịt sẽ mạnh
mẽ và khỏe hơn. Ý kiến nào đúng hơn? Không có câu trả
lời xác định cho câu hỏi này.
Nói một cách khác, dù ăn chay hay
ăn mặn, ăn cách nào có lợi ích cho sức khỏe thì tùy
thuộc vào từng cá nhân. Ðối với người bị một số
bệnh như: dị ứng, căng thẳng thần kinh, bệnh tim... hay người
có chất cholesterol cao thì ăn chay (chính xác hơn là ăn kiêng)
có thể thật sự lợi ích cho sức khỏe của họ. Tuy nhiên
đối với trẻ em ăn chay chắc chắn sẽ cản trở sự phát
triển cơ thể của chúng, đặc biệt là sự phát triển
bộ não. Dung lượng protein trong những sản phẩm nông
nghiệp luôn luôn không thể thay thế nhu cầu protein động
vật của cơ thể. Ðiều đó cũng nên hiểu rằng cá và
thịt dung chứa những chất dinh dưỡng ít có trong cây rau
hoặc trái, ví dụ vitamin B12. Vitamin B12 không thể sản
xuất một cách tổng hợp là có lợi ích cho việc hệ
thống và thay đổi những tế bào mới. Ngoài chứng bệnh
thiếu máu, không có đủ vitamin B12 có thể gây nên sự
mệt mỏi thần kinh, và thiệt hại bộ não. Những triệu
chứng là tê liệt, rối loạn thần kinh và hoang tưởng.
Nếu không điều trị sớm, kết quả sẽ là suy giảm tâm
thức thường xuyên và bại xụi [40].
Chắc chắn là tuyệt đối không
ăn cá thịt dẫn đến việc ảnh hưởng xấu cho sức
khỏe. Nếu không, vì sao những hội sức khỏe đề cao
thực phẩm cá, thịt và sữa. Một số người ăn chay ở phương
Tây cho dùng sữa, trứng và cả cá nước ngọt, e rằng ăn
chay quá khe khắc có thể tổn hại cho sức khỏe. Như thế,
có thể kết luận là ăn chay chỉ phù hợp cho ai vấp phải
một số bệnh nào đó, ai tiêu thụ chất dinh dưỡng quá
mức, hay người lao động nhẹ, bởi vì họ không cần
thiết nhận nhiều protein động vật hay những chất dinh dưỡng
khác có dung chứa từ cá và thịt. Trái lại, trẻ thơ, người
kém chất dinh dưỡng hoặc người làm việc nhiều mà sự
tiêu thụ chất protein của động vật và những chất bổ
khác trong cá, thịt, sữa được đòi hỏi với số lượng
lớn, không nên cố ăn chay, ngoại trừ xét thấy có lợi
cho sức khỏe.
[Ðầu
trang]
18.
Tóm lược
Sau khi xem xét những lời dạy đã
được trình bày trong quyển sách này, bây giờ độc giả có
thể trả lời đúng câu hỏi: "Quý vị là người ăn động
vật hay thực vật?" Câu trả lời là phải phù hợp
với giáo pháp, lời dạy nguyên thủy của Ðức Phật, là
ăn thế nào cũng được. Người tu chân chính không để
mắc mứu trong điều khó xử về ăn chay. Tấm gương thận
trọng của Ðức Phật là việc hướng dẫn tốt để đối
diện cũng như khắc phục những vấn đề ăn chay.
Người tu không nên cho mình là người
ăn thịt; dường như mình là người bán hàng cho những nhà
sản xuất thực phẩm làm bằng cá, thịt; cố làm giàu có
qua việc bán thịt và vô tình biện minh cho việc giết thú
lấy thịt bán. Nhưng người tu cũng không nên cho mình là người
ăn chay, truyền bá cho việc ăn chay, thu hút người khác
sống theo cách sống của mình một cách u mê. Người tu là
người có "lối sống độc nhất" trong sự cung
ứng điều kiện thực phẩm của mình.
Như vậy để trả lời câu hỏi
cho chủ đề của quyển sách này, người tu hành phải nói
thẳng thắng: "Tôi không phải là người ăn động vật
mà cũng không phải là người ăn thực vật! Tôi là người
ăn bất cứ thực phẩm nào phù hợp giáo pháp, lời dạy
của bậc giác ngộ".
[Ðầu
trang]
Lời
bạt
Ðọc cuốn sách "Vấn đề
ẩm thực trong Phật giáo," chúng ta thấy ý nghĩa của
sự tu hành là gì? Phương pháp để đạt được cứu cánh
(Niết Bàn) của người tu Phật ra sao? Hành giả tu Phật sai
mục tiêu lý tưởng sẽ không đạt được kết quả tốt
đẹp, công phu hành đạo nó sẽ thành tự đầu độc và di
hại đến tư tưởng bản thân và quần chúng.
Cho nên tôi nhận thấy cuốn sách
bàn về vấn đề ẩm thực này rất có ý nghĩa thời sự
đối với những người mong muốn giật được đạo hơn là
tự hành chánh đạo. Ðiển hình như một số tiêu đề mà
nội dung cuốn sách đã nêu như:
1. Vấn đề ăn chay, ăn mặn đã
có lắm ý tưởng mâu thuẫn nhau. Tu sĩ Phật giáo Nam Tông căn
cứ theo luật Phật buộc người xuất gia phải sống bằng
thức ăn đi trì bình khất thực. Các tu sĩ không hề dám đề
ra những cao kiến trên Phật để canh tân giáo phái. Các tu
sĩ không được có của riêng, ngoài tam y và quả bát. Các
triết gia Hy Lạp thì đề cao thuyết ăn chay. Ngày nay các tu
sĩ Việt Nam phái Bắc Tông cũng đề quyết hạnh ăn chay.
2. Người thì có ý hướng lệch
lạc tiếc nuối theo học thuyết chay lạt và đi xa hơn là
khuyên "Nên ăn chay vì nó là yếu tố có được sự
thanh tịnh". Họ cho rằng ăn chay sẽ đạt được mục
tiêu. Ðiều này chính là điểm khác nhau với phái Nam Tông.
Ðức Phật đã thuyết giáo rằng: "Có giới mới có định,
có định mới có tuệ."
3. Ăn chay có thay đổi được tánh
nết không? Một vị Bồ Tát, Phật có thực hành việc ăn
chay không? Ăn chay có đảm bảo sức khỏe cho mọi người
không?
Tác giả cuốn sách có nghiên
cứu chính chắn, có kết hợp các ngành khoa học xã hội, Tôn
giáo học, ngành y học... và được dịch giả Tỳ kheo Thích
Thiện Minh phiên dịch khá chính xác, vạch rõ được ý nghĩa
của bản chính. Theo tôi vấn đề này hoàn toàn phù hợp
với lời Phật dạy là sống nhờ thiên hạ và vì thiên
hạ. Tôi rất hy vọng cuốn sách nhỏ bé này sớm ra đời,
để phần nào khai thông được những tư tưởng xa lạ phi
Phật tánh của một số người chưa hiểu được bản thân
phải làm gì để đạt được cứu cánh của người tu
Phật.
Tiến sĩ Thái
Văn Chải
[Ðầu
trang]
Chú
thích:
[1] Theo quyển "Bách Khoa Thế
Giới", phần Tổ chức kinh doanh, Chicago
[2] John Blofeld là tác giả viết
kinh điển Phật Giáo Ðại Thừa nổi danh, dường như ông
đã xem thường sự kiện lịch sử trong khi đó ông đã tuyên
bố sai lầm: "Những quyển sách cổ ở Ấn Ðộ cho
thấy rằng việc ăn chay không được biết đến trong suốt
thời gian Phật giáo truyền bá trên đất nước này".
Chính những nhà học giả Ấn Ðộ giáo thừa nhận rằng ăn
chay cũng được tìm thấy từ Phật giáo.
[3] So sánh điều này với lời
dạy của kinh thánh trong Matthew XV, 10-19 có đoạn như sau:
"Không có thứ gì ăn vào hay nhả ra mà làm cho người
ta nhơ bẩn, nhưng con người nhơ bẩn là vì ác ý, sát
hại, tà dâm, gian tham, trộm cắp..."
[4] Ðiều quan trọng để hiểu là
thuật ngữ "vanijja" trong ngữ cảnh này chỉ liên
quan đến hành động buôn bán, chứ không liên quan đến
việc mua sắm.
[5] Bị vô minh áp chế và vì nhân
duyên cũng như những cá tính tự nhiên; loài thú không thể
nâng cao sự tiến bộ, phát huy sự hiểu biết hoặc làm tăng
trưởng tính khôn ngoan được.
[6] "Người Phật tử tin gì?",
Kuala Lumpur. Hội truyền bá Phật giáo, năm 1973, trang 78.
[7] Luật Ðại Thừa của Tỳ khưu
Yen Kiat, xuất bản năm 1960, trang 60.
[8] Kinh Lăng Nghiêm (Surangamasutra )
do Charles Luk dịch, London ấn hành năm 1966, trang 153.
[9] Kinh Lăng Già (Lankavatarasutra)
do Daisetz Teitaro Suzuki dịch, London ấn hành năm 1973, trang
211-221
[10] Luật Ðại Thừa (Mahàyànavinaya)
do Tỳ khưu Yen Kiat biên soạn, Bangkok ấn hành năm 1960, trang
60.
[11] Trường Bộ, Trung Bộ, Tương
Ưng Tăng Chi, Tiểu bộ kinh.
[12] Trường A Hàm, Trung A Hàm,
Kinh Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm (Dirghagama, madhyamagama,
Samyuktagama, Ekotta-rikagama)
[13] Giới luật của Tỳ khưu, do
Charles Si Prebish, New York ấn hành năm 1975, trang 80.
[14] Giới này so sánh với Giới
Bổn của Trưởng Lão Bộ đã được công bố nó tương
đương điều thứ bốn mươi trong Giới Bổn của nền
tảng Nhất Thiết Hữu Bộ.
[15] Trong phân biệt kinh
"Suttavibhanga" (Luật tạng Vinaya pitaka) có nói đến
Trưởng Lão A La Hán Tỳ khưu Ni Uppalavanna đã cúng dường
bữa ăn nấu bằng thịt cho Ðức Phật Gotama.
[16] Kinh Quán Tưởng, Bangkok ấn hành
năm 1975, trang 263.
[17] Người Trung Hoa tin rằng linh
hồn của người chết còn quanh quẩn trong nhà của họ
nhiều ngày trước khi đi tái sinh. Trái lại với niềm tin này,
kinh điển A Tỳ Ðàm (Abhidhamma) giải thích rằng ngay khi tâm
tử (cuti - citta) là tâm tái sinh (patisandhi citta).
[18] Paramatthajotika được biên
soạn do Phra Saddhammajotika, Bangkok ấn hành, Phật lịch 2526 và
quyển Abhidhammattha-sangaha do Vannasiddhi tóm lượt, Bangkok ấn
hành, Phật lịch 2530.
[19] Xem lại WFB, tập 21, bài số
1, từ tháng giêng đến tháng 5, năm 1984, trang 83.
[20] Ðèn cầy cao cấp có chứa
chất mỡ.
[21] Trong quyển kinh Lăng Già, ngay
cả mật ong thì cũng được xem là thực phẩm thích hợp
cho những người tu theo Ðại Thừa.
[22] Thậm chí có những người ăn
chay được biết họ thành lập cơ sở sản xuất dây nịt
da hoặc hãng xưởng làm giày. Có lẽ họ quan niệm rằng
chỉ không ăn cá thịt thì đủ để tha tội cho họ từ
tội giết hàng loạt loài thú vô tội.
[23] Nguồn tài liệu này là của
Ngài Pannavaro
[24] Thuật ngữ này cũng được
thấy trong quyển Mi Tiên vấn đáp (Milinda panha) - kinh điển
Pàli có nêu chi tiết cuộc tranh luận giữa Vua Milinda và Ðại
đức Nagasena.
[25] Trong kinh Ðại Níp Bàn và
kinh Mi Tiên vấn đáp, giáo sư Rhys Davids đã dịch thuật
ngữ này là thịt heo mềm. Nhưng I.B.Horner trong bản dịch Mi
Tiên vấn đáp của bà thì thuật ngữ này được dịch là
"nấm đen ăn được".
[26] Trong kinh điển Trung Hoa
thuật ngữ này được dịch là loài nấm.
[27] Ông là nhà chú giải kinh điển
Pàli nổi tiếng sống khoảng thế kỷ thứ V sau Tây lịch.
[28] Chú giải kinh tạng Pàli xưa
và quan trọng nhất được ghi lại ở Tích Lan là do công
lao của Ngài Malinda, con trai vua Asoka.
[29] Tam Tạng kinh điển Tích Lan,
thuật ngữ này được duy trì trong hình thức Nguyên thủy,
không có dịch ra.
[30] Nhà chú giải nói rằng
thiện nam Cunda đã đạt được đạo quả Tu Ðà Hườn.
[31] Trong quyển Bách Khoa Thế
Giới, người ta viết rằng chỉ có những nhà sinh vật
học thì mới tỉ mỉ và nghiêm nhặt để phân biệt giữa
loài nấm có độc và không độc. Thực tế cho thấy là
nấm ăn được đôi khi tương tự với nấm không ăn được
ở hình dáng, mùi vị và màu sắc.
[32] Hầu hết các loài nấm người
ta cho biết là: hơn 90% là nước, dưới 30% là chất protein,
dưới 5% là chất carbohydrate, dưới 1% là chất béo và
khoảng 1% là chất khoáng cũng như Vitamin.
[33] Giả sử là Sukara-maddava có
chứa chất độc, nhân gây bệnh tật hay cái chết của Ðức
Phật, thì chắc chắn bát cơm đó sẽ không được công
bố là sự cúng dường có nhiều phước báu tương đương
với nàng Sujata cúng dường bữa ăn trước khi Ngài thành đạo.
[34] Ở Thái Lan, có vị lãnh tụ
giáo phái tà đạo "Santi Asoke" tên là Bodhiraksa, ông
thích phê bình ai ăn cá thịt thì người đó sẽ giống như
dạ xoa (yakkha), ma quỷ (mara).
[35] Tạp chí Tempo hàng tuần, số
41, năm thứ 15, ra ngày 7.11.1985
[36] Ở kinh Ba La Ðề Mộc Xoa
của tạng Sanskrit, những người theo Bộ phái Ðại Chúng
Bộ (Mahasanghika) thì vẫn còn gìn giữ giới luật này.
[37] U. Tedjo Joewono trong nhan đề
"thực phẩm" ở tạp chí Svaradhamma, số 9 từ tháng
10 đến tháng 11, năm 1985.
[38] Phương cách ăn ngọ của
Phật giáo có thể so sánh với phương pháp "nhịn ăn
với nước trái cây" do những nhà khoa học giới
thiệu. Các vị Tỳ khưu được Ðức Phật cho phép dùng nước
trái cây sau giờ ngọ vì nước trái cây có lượng vitamin
cần thiết cho cơ thể hàng ngày. Cách ăn này thì lợi ích
và tốt hơn đối với việc "nhịn ăn hoàn toàn" như
đã luyện tập bởi một số tôn giáo khác mà thậm chí
họ còn ngăn cấm uống nước nữa.
[39] Thông tin này đã bắt nguồn
từ "việc nhịn ăn với nước trái cây: phương pháp
quan trọng đối với sức khỏe và tuổi thọ" trong
quyển sách "How to get well", một cuốn sách đã bán
chạy nhất do Tiến sĩ Paavo Airola viết.
[40] Trong quyển sách hàng năm nói
về chất dinh dưỡng do John D. Kirschmann, Lavon J. Dunne, Hoa
kỳ ấn hành năm 1984.
[Ðầu
trang]
Chân thành cám ơn Tỳ kheo
Thiện Minh đã gửi tặng ấn bản điện tử (Bình Anson,
12/99). |