Lời
giới thiệu
Mạnh Tử nói "Kiếm ký sanh
bất nhẩn thực kỳ nhục", nên "Quân tử bất
nhập trú phòng". Tuy có quan niệm như vậy, nhưng các nhà
Nho đâu có ăn chay, có lẽ gần giống quan điểm "Tam
Tịnh Nhục" của Phật giáo?
Thành thật mà nói: tục lệ ăn
chay do các tu sĩ Phật giáo về sau xu hướng theo Bà La Môn
(Ấn Ðộ giáo) ở Ấn Ðộ và Ðạo Tiên ở Trung Quốc để
dễ thu hút tín đồ của họ, như ngài Huệ Năng nói:
"Muốn toan lo độ thế
Phương tiện phải sẵn sàng
Chớ để người nghi hoặc
Tánh họ mới minh quang"
Giòng Thiền Tào Khê Trung Quốc và
giòng Thiền Trúc Lâm Việt Nam, các vị tổ cũng không quá
cố chấp tập quán ăn chay. Một số nước Phật giáo Ðại
Thừa như Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bổn v.v...họ cũng không
bảo thủ tục ăn chay, với họ thì "quân tử ưu đạo
bất ưu thực" cũng như người Việt Nam thường nói
"ăn để sống chớ không phải sống để ăn"; hay là
"tham lam sân hận không chừa, bo bo mà giữ tương dưa ít
gì!"; hoặc "uổng ngật mê chay nan liễu đạo,
khống đồ xướng niệm đạo nan thành!"
Riêng tôi thì "không chê đồ
chay, nhưng không chấp nhận thành kiến ăn chay", có lẽ
ảnh hưởng tinh thần Bát nhã "cá thịt nhưng không
phải là cá thịt" (nếu lúc ăn có chánh niệm tỉnh giác,
thấy các vật thực vốn là nguyên chất đất, nước,
lửa, gió...), "tuy không phải cá thịt nhưng là cá
thịt" (bởi khi ăn các món chay mà hình thức lẫn tên
gọi đều là đồ mặn như thịt quay, cá kho v.v...đồ chay
mà tâm mặn). Vì vậy mới bị người ta phê bình là "ăn
mặn nói ngay, ăn chay nói dối"
Soạn giả cũng như dịch giả
tập sách này chắc chắn không có ý chỉ trích, xuyên tạc
người ăn chay, chỉ muốn biện minh vấn đề ăn chay không
phải là một trong tám muôn bốn ngàn Pháp môn của đức
Phật Gotama mà chỉ là "giáo ngoại biệt truyền" thôi!
Với tinh thần phá chấp, tôi xin
trân trọng giới thiệu tập sách "Vấn đề ẩm thực
trong Phật giáo" do Tỳ Kheo Thích Thiện Minh dịch, đến
chư Phật tử đọc và suy gẩm.
Biên Hòa ngày
20-6-99
Thượng Tọa Giác Chánh
Trưởng Ban Văn Hóa Phật Giáo, Tỉnh Hội Ðồng Nai
[Phần
I]
-oOo-
1.
Bối cảnh ăn chay - Quan niệm và cách cư xử của Ðức Phật
Thuật ngữ tiếng Anh
"Vegetarianism", nghĩa là chủ nghĩa ăn chay đã ra đời
lần đầu tiên vào năm 1847 [1]. Nhưng trong thực tế ý niệm
về ăn chay đã có từ ngàn xưa. Từ bỏ việc ăn cá thịt
được người ta tìm thấy trong học thuyết của triết gia Hy
Lạp Pythagoras, về sau Plato, Epicurus, Plutarch và những nhà
triết học khác tiếp tục kế thừa. Trong Jambudvipa (Ấn Ðộ
trong thời kỳ Ðức Phật tổ Gotama), những tín đồ của
Kỳ Na giáo được sự hướng dẫn bởi Mahavira, được hiểu
như là những nhà đạo sĩ tuyệt đối thực hành phương pháp
ăn chay [2]. Trong số những người đệ tử của Ðức Phật,
Devadatta là người chính thức đề cao việc ăn chay. Cùng
với bốn người bạn đồng tu khác, Devadatta cố gắng đề
xuất năm giáo điều khổ hạnh cho các tu sĩ của Tăng đoàn,
một trong năm giáo điều đó là tu sĩ tuyệt đối không được
ăn cá thịt. Trong việc đề xuất này, Ðức Phật tổ Gotama
dạy rằng những Tỳ khưu nào cảm thấy an lạc trong việc ăn
chay thì cứ ăn. Tuy nhiên ngài từ chối để phê chuẩn hay áp
dụng giới luật này cho các Tỳ khưu một cách cưỡng ép.
Từ những lời khẳng định được
Ðức Phật tổ Gotama dạy, rõ ràng là ăn chay thực sự không
phải là một phần chính yếu của pháp luật. Ăn chay là
việc không quan trọng và không cần thiết lắm. Ăn chay không
làm cho con người thanh tịnh, trong sạch và đạt đến giác
ngộ Níp-bàn được. Nói một cách khác, dù có ăn chay hay không,
người ta vẫn có cơ hội và có khả năng thành đạt sự
thanh tịnh và giác ngộ thực sự.
Ðức Phật tổ Gotama đã nhiều
lần gặp phải những vấn đề về ăn chay. Nigandha Nathaputta
- cũng được gọi là Mahavira - vị lãnh đạo Kỳ Na giáo đã
thường xuyên nhạo báng ngài. Các đệ tử của Mahavira thảo
luận vấn đề này trong hang động: "Này các bạn - Ðạo
sĩ Nathaputta nói - Sa môn Gotama ăn thịt đã được chuẩn bị
riêng cho ông ta, với đôi mắt mở". Nghe như vậy, Ðức
Phật dạy: "Ðây không phải là lần đầu, môn đệ
Nathaputta đã nhạo báng Như Lai ăn thịt mà việc ăn thịt này
do chính Như Lai làm; trong quá khứ ông ta đã nhạo báng Như
Lai nhiều lần rồi".
Sau đó ngài kể cho chư vị nghe
một câu chuyện tiền kiếp (Telovada jataka). Vào thời khi vua
Brahma-datta ở Benares, đức Bồ Tát sinh ra trong một gia đình
Bà la môn khi trưởng thành ngài chọn đời sống xuất gia.
Từ Himalaya ngài bay xuống trần tìm muối và đồ gia vị, sau
đó đi khất thực trong thành phố. Một người giàu có
chuẩn bị kế hoạch để phá hại Bồ Tát, cho nên người
ấy thỉnh ngài về nhà và phục vụ ngài bữa ăn có cá. Sau
bữa ăn người đó ngồi xuống một bên và nói: "Thực
phẩm này làm được là tôi cố ý cho ngài ăn, bằng cách là
giết thú sống. Tội lỗi này không phải của tôi mà là
của ngài!" Và người đàn ông ấy nói lên câu thứ
nhất: "Người ác sát sinh, nấu nướng và cho ăn, ngài ăn
bữa cơm đó cho nên ngài có tội". Nghe sự việc này, đức
Bồ-Tát đọc câu thứ hai: "Người ác có thể giết vợ
và con đem cho người khác; tuy nhiên, nếu người thánh thiện
ăn thì không có tội" [3]. Vì vậy có thể nói rằng ai sát
sinh thì có tội, nhưng người ăn thì không. Chư Tỳ khưu được
phép độ bất cứ loại thực phẩm nào theo tập tục quốc
độ của mình, miễn là không ăn vì tham đắm hay ác ý.
Một vị Phật tổ không có quyền
ngăn cản bất kỳ ai đó sát sinh. Một người có thể làm
bất cứ điều gì mình mong muốn, nhưng người ấy sẽ chịu
trọng trách và gánh chịu nghiệp quả của mình. Rất nhiều
lần, Ðức Phật tổ Gotama dạy rằng sát sinh là hành động
bất thiện (akusala - kamma) sẽ gây nhân đau khổ. Cũng như
nghề bán thịt cá (mamsa - vanijja) [4] là một trong năm nghề
cấm đối với người Phật tử tại gia. Do đó người Phật
tử tại gia đã có tâm hỉ xả rồi (upekkha), họ luôn có tâm
từ bi đối với sinh linh. Bất kỳ hành động nào họ làm -
thiện hay ác - họ sẽ là người thừa hưởng.
Quan niệm và cách cư xử của Ðức
Phật tổ Gotama đối với vấn đề ăn chay biểu lộ được
trí tuệ của một bậc vĩ nhân. Sau khi xét đoán Sa môn Gotama
một cách khách quan, y sĩ Jìvakakomarabhacca không do dự trở thành
một đệ tử của Ðức Phật. Có một lần Jìvaka viếng thăm
bậc đạo sư. Sau khi đảnh lễ và ngồi một nơi thích hợp
ông nói:
-- Bạch Ðức Thế Tôn, đây là
những điều con đã nghe như vầy: "Người ta sát sinh cố
ý cho sa môn Gotama và sa môn Gotama dùng thịt này một cách
cố tình". Thưa ngài, những người đó nói như thế có
đúng chân lý không?
Sa môn Gotama trả lời:
-- Họ nói không đúng chân lý,
bởi vì Như Lai đã dạy có ba trường hợp không được ăn
thịt cá. Này Jìvaka, đó là thấy, nghe và nghi (người cố ý
sát sinh cho mình ăn). Nhưng này Jìvaka, ngoài ba trường hợp
trên, Như Lai nói có thể dùng được.
Hơn nữa, bất cứ ở nơi nào các
tu sĩ trong pháp và luật này luôn luôn tu tập hạnh từ, bi,
hỷ, xả cho tất cả chúng sinh xa gần và không có oan trái
lẫn nhau. Nếu thí chủ mời chư vị dùng bữa, chư vị nhận
một cách chánh niệm bất cứ món gì. Chư vị không bao giờ
nghĩ đồ ăn của thí chủ này ngon hay không ngon. Chư vị không
bao giờ mong đợi sẽ được thí chủ cúng dường đồ ăn
ngon. Chư vị thọ lãnh món ăn cúng dường nhưng không có tham
đắm mà quán tưởng thực phẩm cúng dường và chuyên cần
tu tập giải thoát.
Rồi Sa môn Gotama hỏi:
--Này Jìvaka ông nghĩ sao? Lúc đó
chư vị thọ lãnh thực phẩm không phạm luật chứ?
Jìvaka đáp:
--Ðúng như vậy, thưa ngài. Tôi
được nghe như thế này: "Vững chãi trong tình thân hữu
là cao thượng. Ngài là điểm tựa bởi vì ngài vững chãi
trong tình thân hữu".
Ðức Phật cũng giải thích rằng
ai cố tình sát sinh cho Như Lai hoặc đệ tử của Như Lai là
có tội trong năm cách. Người ấy có tội khi nói: "Hãy
đi bắt sinh vật này hay sinh vật nọ"; người ấy có
tội khi con vật bị đau và bị bắt. Người ấy có tội khi
nói: "Ði giết con vật đó"; người ấy có tội khi
con vật này bị giết đau đớn và khổ sở; và có tội khi
người này mang đến cúng dường cho Như Lai và đệ tử của
Như Lai.
Dựa vào lời dạy của Ðức
Phật, có thể kết luận rằng, bất kỳ thú vật nào bị
giết (do mình hay người khác) rồi đem dâng cúng (udissa -
mamsa) làm thực phẩm thì điều đó là không được phép đối
với một tu sĩ, nhưng trái lại thịt hay cá do tín đồ mua
ở chợ, bán ở nơi công cộng cho mọi người tiêu thụ
(pavatta - mamsa) thì thực phẩm đó được Ðức Phật cho phép
và tu sĩ có thể dùng được.
[Ðầu trang]
2.
Quan niệm Phật giáo Nam tông về thú vật và chủ nghĩa ăn
chay
Phật giáo Nam tông thừa nhận thú
vật là chúng sinh có tri giác. Thú vật không những chỉ có
thân thể (rùpa) và bản năng, mà còn có chức năng của tâm
như cảm thọ (vedana), tưởng (sanna), hành (sankhàra) và thức
(vinnàna) [5]. Ðể chứng minh một cách có khoa học rằng bản
năng của thú vật chỉ do trực giác thúc đẩy là một điều
rất khó; những bản năng như nhận dạng được đồng
loại, chăm sóc con cái, chọn nơi trú ẩn an toàn, nhớ con
đường trở về tổ, biết sự chết, biết vui khi được
chủ yêu thương và biết trung thành với chủ. Trong thực tế
người ta sẽ nói, ai cho rằng thú vật chỉ có bản năng thì
người đó chỉ dùng bản năng hơn là dùng tri giác của một
con người. Thú vật không chỉ sống một kiếp mà sống
nhiều kiếp, sau kiếp sống hiện tiền, còn đi tái sinh kiếp
khác.
Thú vật không phải là những sinh
vật thấp hèn hay bị đọa đày để loài người đối đãi
độc ác. Tàn sát thú vật để cúng tế các vị thần linh
khao khát máu hoang tưởng của các tôn giáo sơ khai là một
việc làm phạm tội sát sinh. Xa hơn nữa Phật giáo truyền
thống không bao giờ cho phép giết thú vật làm thực phẩm tiêu
thụ hay phục vụ cho bất kỳ mục đích nào khác.
Cũng cần thiết để hiểu rằng thú
vật không được tạo ra cho loài người. Tiến sĩ K.Sri
Dhammananda, một nhà lãnh đạo Phật giáo Nguyên thủy Tích
Lan, một vị giảng sư (dhammaduta) ở Malaysia nhiều năm qua đã
tuyên bố: "Nếu chúng ta tin tưởng rằng thú vật được
tạo ra cho con người thì cũng có lý do cho rằng con người
tạo ra cho loài thú bởi vì có loài thú ăn thịt người."
[6].
Tuy nhiên Phật giáo truyền thống
không đồng tình với quan điểm là giết thú vật có thể
được ngăn chặn bằng phương cách phát động một cuộc
phản đối mang hình thức là ăn chay. Phương pháp hữu hiệu
để làm giảm thiểu việc sát sinh là phổ biến cho mọi người
hiểu biết về lời dạy của Ðức Phật. Chỉ có cách này
họ mới thật sự hiểu biết giá trị của sự sống rất
quan trọng cho loài người và thú vật. Ðiều này có nghĩa là
tất cả chúng sinh đều có quyền sống. Loài thú cũng thích
yên vui và không muốn khổ đau. Mạng sống của loài thú không
thể nào bị hủy hoại bằng bất cứ lý do gì - như vậy đáp
ứng lòng mong mỏi của loài người. Nhờ hiểu biết đúng đắn
như vậy, người ta sẽ không giết thú vật cho việc tiêu
thụ cá nhân hay bán ngoài chợ.
Như vậy mạng sống của loài thú
được cứu nguy chứ không phải bằng cách cấm ăn thịt hay
xem thịt là dơ bẩn, mà bằng phương cách đề cập đến giá
trị của sự sống, đấu tranh cho quyền sống cơ bản của
loài thú. Thật vậy phương pháp thực hiện của Phật giáo
truyền thống trong việc đối phó tình trạng giết thú vật
được xem là giải pháp trực tiếp tối ưu. Ðiều này hoàn
toàn khác hẳn, từ giải pháp được đặt ra và áp dụng
bởi những người ăn chay, có thể được xem như là một phương
pháp không có hiệu quả, một người bảo vệ mạng sống loài
thú bằng hình thức.
[Ðầu trang]
3.
Quan niệm Phật giáo Bắc tông về việc ăn chay
Nhiều người cho rằng ăn chay là
một phần không thể tách rời của tư tưởng Phật giáo Ðại
thừa. Một điều giới luật về việc thực hành ăn chay được
ghi rõ trong kinh Bồ-Tát giới: "Một Tỳ khưu ăn thịt
từ con thú sống là một điều tội lỗi" [7].
Ðặc biệt trong kinh Níp-bàn (của
Ðại thừa), được tìm thấy một lời dạy mạnh mẽ: "Ăn
cá, thịt là phá vỡ hạt giống từ bi".
Trong kinh Phạm võng (Brahmajàla
sutra) của tạng Sanskrit cũng dạy tương đương: "Một môn
đệ của Ðức Phật không nên cố ý ăn cá, thịt của bất
cứ loại chúng sinh nào vì nếu hành động như vậy, vị đó
đánh mất lòng từ bi, giới hạnh và hạt giống giác ngộ.
Ðiều đó cũng là nguyên nhân làm cho các sinh vật gặp người
đó sẽ xa lánh. Do đó chư Bồ-Tát xa lánh việc ăn cá, thịt
của bất kỳ sinh vật nào. Việc ăn cá, thịt là cội nguồn
của tội lỗi vô biên".
Bộ kinh Lăng-nghiêm (Surangama sutra)
phê bình nghiêm túc về việc ăn cá, thịt: "Sau khi Như
Lai nhập Níp-bàn, thời mạt pháp, ma quỷ sẽ lộng hành
khắp thế giới, và sẽ khoe khoang là chúng ăn thịt để đạt
giác ngộ. Này Ananda! Như Lai cho phép chư Tỳ khưu ăn năm
loại thịt thanh tịnh, là sản phẩm của năng lực phi phàm
của Như Lai chứ không phải là thú bị giết chết. Này Bà
la môn, sống nơi cây trái không mọc được vì quá ẩm và oi
bức và vì toàn sỏi đá, Như Lai sẽ dùng năng lực phi phàm
của tình thương để trợ cấp cho các ngươi ăn thịt ảo tưởng
để cho các ngươi qua cơn đói khát. Vậy thì, sau khi Như Lai
Níp-bàn, các người ăn cá, thịt chúng sinh mà còn dám tự
nhận là đệ tử của Như Lai sao? Các người phải biết
rằng những ai ăn cá, thịt, dù tâm trí họ mở mang và thực
chứng được định tâm thì cũng chỉ là ma quỉ to lớn mà
sau kiếp này sẽ bị sinh tử luân hồi và không thể nào là
môn đệ của Như Lai. Họ sẽ ăn thịt và giết nhau liên
tục; làm sao họ có thể thoát khỏi vòng tam giới này được"
[8].
Hơn nữa, trong kinh Lăng-già
(Lankavatara sutra) có một chương đặc biệt thảo luận về
vấn đề ăn cá, thịt. Ðây là cuộc đàm thoại với vị
Bồ-Tát tên là Mahamati. Một phần của cuộc đàm thoại được
ghi lại như sau: "Này Mahamati, không đúng khi cho rằng
thịt là thực phẩm thích hợp và được phép cho các Tỳ khưu
khi thú không bị giết hại do chính người ấy, khi người
ấy không ra lệnh giết, khi thực phẩm đó không dành riêng
cho người ấy. Thêm nữa, này Mahamati, có thể có người u mê
trong đời sau, bắt đầu công việc xuất gia theo giáo lý
của Như Lai, được xem như là đệ tử của ta, mặc áo cà
sa như là một biểu hiện, tuy nhiên người đó trong tư duy
bị ô nhiễm bởi những lý thuyết sai sót. Họ có thể nói
về những điều khác biệt nhau mà họ lấy trong giới luật
của họ, do bị si mê bởi quan niệm về linh hồn cá thể, do
ảnh hưởng thèm khát hương vị thịt, họ đúc kết lại
những phương pháp luận khác nhau để biện minh cho việc ăn
cá, thịt. Vả lại, chính họ bịa ra một giới luật mười
điều học về thịt thú vật được tìm thấy đã chết
rồi. Tuy nhiên, trong quyển kinh này với bất cứ hình thức
ăn cá, thịt nào, mọi lúc, mọi nơi đều bị nghiêm cấm vô
điều kiện và tuyệt đối không cho tất cả... Không có
loại thịt nào được xem là thanh tịnh ở ba cách: không cố
ý, không đòi hỏi, và không xúi giục, cho nên ngăn cấm ăn cá
thịt. Tuyệt đối không ăn cá, thịt, dù ai có nói vấn đề
tam tịnh nhục: thấy, nghe và nghi; những nhà lý luận sinh ra
trong gia đình ăn cá thịt thì không hiểu điều này." [9]
Chống đối việc ăn cá, thịt và
khuyên ăn chay được tìm thấy trong những bản kinh bằng
tiếng Sanskrit khác, đó là quyển Hastokakshya, Mahamegha, Nirvana
và Anglimalika. Tuy nhiên những bản kinh này không có phần nào
tương đương trong Tam tạng Giáo điển được chấp thuận
của Phật giáo Truyền thống (Theravàda).
Nơi đây, vấn đề được nghiên
cứu là nguồn kinh điển nào đáng tin tưởng hơn? Nguồn kinh
điển đó có được xem là nguyên thủy hay không? Phật giáo
Nguyên thủy có loại bỏ một số đoạn kinh sách nào không?
Hay đó là những điều Phật giáo Ðại thừa thêm vào? Kinh và
giới luật đó có thật sự được Ðức Phật dạy và
thiết lập hay không? Phật giáo Ðại thừa và Phật giáo Nguyên
thủy vẫn cho là quan niệm của các kinh văn của tông phái mình
là nguyên thủy. Cần tìm hiểu vấn đề này thật sâu sắc hơn
mà không thiên vị Therevàda hay Mahayàna. Phương pháp tìm
hiểu chính xác nhất là nghiên cứu giá trị kinh và luật
bằng chứng tích lịch sử.
Trong kinh Bồ-Tát giới (Bodhisattva
sutra) do ngài Kumarajiva (Cưu-ma-la-thập) dịch, có năm mươi tám
điều luật, được phân chia làm hai loại. Mười điều tội
nặng (garukapatti), trong đó bốn điều giới luật đầu tiên
thì tương đương với bốn điều giới bất cộng trụ
(parajika) trong luật tạng Pàli. Tội nhẹ (lahukapatti) có bốn
mươi tám điều, trong đó điều giới luật thứ ba đề cập
đến ăn chay. Ðiều được phân tích thêm là giới luật
thứ tám của phần tội nhẹ có viết: "Một Tỳ khưu mà
nói xấu hay lên án Phật pháp Ðại thừa (Mahayàna) thì vi
phạm một tội nhẹ" [10].
Sự xuất hiện danh từ "Ðại
thừa" trong điều luật có vẻ hơi kỳ dị rõ rệt.
"Trong việc nghiên cứu lịch sử về danh từ Ðại thừa
và Tiểu thừa (Mahayàna and Hìnayàna) và Phật giáo gốc của
Ðại thừa", giảng viên Ryukan Kimura ở trường đại
học Calcutta, khoa lịch sử và văn hóa cổ Ấn Ðộ, kết
luận rằng danh từ Ðại thừa không được biết đến trong
cộng đồng của Phật giáo thời Ðức Phật tổ Gotama còn
sinh tiền. Theo Pàli tạng Nikàya [11] và Hán tạng Agama [12] là
những tạng đáng tin tưởng nhất về tính chất nguyên
thủy, không tìm thấy được danh từ Ðại thừa.
Danh từ Ðại thừa xuất hiện
lần đầu sau đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai,
khoảng một trăm năm sau khi Thế Tôn Níp bàn, là hậu quả
của sự chia rẽ trong Tăng già. Những người thuộc phái Ðại
chúng bộ tức giận và bị gọi là "Tỳ khưu xấu" và
"đệ tử tà giáo" bởi những người theo phái Trưởng
lão bộ, trung thành với giáo lý của Ðức Phật Gotama. Chư
vị tìm một danh từ mới cho phái của mình để duy trì và
xiển dương ý kiến, quan niệm và chân lý của họ, cũng như
châm biếm các bộ phái khác. Một số danh từ như Bồ Tát
thừa (Bodhisattvayana), Phật thừa (Buddhayana), A la hán thừa
(Arahatyàna), Thinh văn thừa (Sravakayàna), Thiên thừa (Dviyàna)
đã được họ áp dụng trong một thời gian tương đối
ngắn. Nhưng dường như họ không thỏa mãn với những danh
từ này bởi vì tất cả đều là chi tiết, duy nhất có thể
chỉ ra những sự khác nhau trong những khía cạnh nào đó.
Họ cần một danh từ mà sẽ tích hợp, đại diện và bao trùm
những ý kiến, quan niệm và giáo điều khác như một đoàn
thể. Cuối cùng họ mới chọn danh từ Ðại thừa (Mahayàna),
cổ xe lớn, dành cho phái của họ và danh từ Tiểu thừa (Hìnayàna),
cổ xe nhỏ, dành cho những tông phái khác.
Từ thời điểm đó cho đến thời
luận sư Long Thọ (Nagarjuna), thế kỷ thứ hai sau công nguyên,
danh từ Ðại thừa và Tiểu thừa chỉ được sử dụng để
ám chỉ những sự khác nhau về giáo lý cơ bản - như được
dùng trong kinh Diệu pháp liên hoa (Saddharmapundarika sutra). Thời
điểm Long Thọ trở về sau, danh từ này chịu một sự thay
đổi có ý nghĩa, nó không những đề cập đến sự khác
nhau về giáo lý căn bản, mà còn nói đến sự khác nhau về
trường phái - như được viết trong kinh Bát nhã ba la mật đa
(Prajnaparamitta sutra). Không những phái Trưởng lão bộ (Theravàda)
và Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) được xếp loại là
Tiểu thừa mà còn phái Ðại chúng bộ (Mahàsanghika), tiền thân
của phái Ðại thừa, cũng bị cho là Tiểu thừa nữa.
Từ những sự phân tích trên, rõ ràng
rằng danh từ Ðại thừa thật sự không được biết đến
trong cộng đồng Phật giáo cho đến sau này. Trở lại bài
viết này với câu hỏi: Vì sao danh từ Ðại thừa mới có,
lại xuất hiện trong một điều luật của kinh Bồ Tát
giới? Chắc chắn là người ta không thể trả lời, nhưng người
ta kết luận rằng, danh từ này mới thêm vào.
Ðiểm kế tiếp để xem xét là:
khi nào họ không cảm thấy "có tội" gì về việc gán
danh từ Ðại thừa và dọa nạt những ai hạ thấp và chống
đối lại giáo lý của họ, họ có cảm thấy "có
tội" về việc gài một giới luật mới là việc ăn chay
vào trong kinh Bồ Tát giới và lạm dụng danh nghĩa của Ðức
Phật như một người cấm chế điều luật đó? Về danh xưng
Bồ Tát giới trong quyển sách này thì không phù hợp cho
lắm. Tất cả các giới được đặt ra ở đó, là những giáo
điều dành cho các thầy Tỳ khưu. Trong trường hợp này, người
biên soạn quyển Bồ Tát giới có thể được xem là dẹp qua
một bên sự kiện là chư Bồ Tát không luôn luôn sinh ra làm
người, nhưng có thể sinh ra làm các loài khác như súc sinh.
Nếu như giới luật trong kinh Bồ Tát giới được áp dụng
cho chư vị Bồ Tát sinh ra trong bất kỳ thế giới nào, thì
sự thực hành sẽ chắc chắn dị thường và buồn cười
lắm. Mà nếu cho Bồ Tát giới là giáo điều áp dụng đặc
biệt cho một vị Bồ Tát chào đời như là một Tỳ khưu, thì
việc sử dụng thuật ngữ "Bồ Tát" của quyển kinh
này có thể được xem là không chuẩn lắm.
Chư vị Tỳ khưu thời của Ðức
Phật và cả chính Ngài nữa, có dùng cá thịt hay không, điều
đó rất dễ để chứng minh bằng sự kiện lịch sử. Trong
quyển luật tạng Pratimoksa sutra bằng tiếng Sanskrit của phái
Ðại chúng bộ (Mahàsanghika), tiền thân của phái Ðại thừa
(Mahàyàna), tư tưởng Phật giáo, trong giới luật thứ ba mươi
chín của Paccattika [13] có một điều luật sau: "Tỳ khưu
nào không bệnh mà hỏi xin hay thọ lãnh thực phẩm, được
cho là ngon, để mình ăn, thì phạm tội ác". Những thứ
thực phẩm được xem ngon (pranitasammatanibho janani) như là
sữa, bơ, dầu, mật ong, mật mía, cá và thịt [14]. Một cách
chính xác, điều luật này hàm ý là một Tỳ khưu bị bệnh
có thể hỏi xin cá hay thịt, còn một Tỳ khưu không bệnh cũng
có thể dùng cá và thịt, miễn là Tỳ khưu đó không tự mình
hỏi xin. Như vậy, tin chắc rằng thịt và cá là thực phẩm
được phép dùng và phổ thông cho các Tỳ khưu trong thời
của Ðức Phật [15 ].
Một nhà nghiên cứu Phật giáo
nổi tiếng người Nhật, Daisetz Teitaro Suzuki, đã nói đến
trong lời giới thiệu bản dịch của kinh Lăng-già (Lankavatara
sutra) và cũng nói đến trong quyển sách chú giải của ông ta
"Nghiên cứu kinh Lăng già" rằng chương thứ tám của
quyển kinh, "Về việc ăn cá thịt", là được cho thêm
vào sau này, giống như chương đầu, kể lại cuộc đàm
thoại với Ravana - một nhà vua trong thần thoại Ấn Ðộ giáo.
Chắc chắn chương thứ tám này đã được thêm vào trong
quyển kinh. Chương này cũng đã được sửa đổi nhiều
lần. Việc ăn cá thịt chắc chắn đã được thừa nhận
trong tín đồ Phật tử thời kinh Lăng-già đã được biên
soạn. Rõ ràng Ðức Phật không cấm họ ăn cá thịt, nếu như
con vật đó không do chính họ giết. Ðiều này gây ra những
lời phê bình không hay của các tôn giáo khác. Do đó giới
Phật giáo bị bất mãn với lời phê bình này, điều đó
dẫn đến một sự nỗ lực mới là cấm ăn cá thịt trong phái
Ðại thừa. Hơn nữa, kinh Lăng-già, là tập hợp những điều
được nối lại với nhau một cách không có phương pháp, và
không phải là lời thuyết giảng trực tiếp của Ðức
Phật, mà được biên soạn ra sau khi Ðức Thế Tôn viên
tịch.
Dựa trên những kết quả nghiên
cứu của ngài D.T. Suzuki - như đã kết luận ở trên, tạp chí
Pancaran Dhamma Matrodevi, Indonesia, viết: "Nếu quyển kinh nào
thuộc Tam tạng Kinh điển, thì quyển đó đúng là lời
thuyết giảng của Ðức Phật, như quyển kinh Lăng-già".
Ðây là câu nói thiếu tế nhị, không dựa trên sự kiện
lịch sử, mà chỉ là đức tin mù quáng và là sự nỗ lực
ngây ngô để thống nhất Phật giáo. Trong quyển Dipavamsa nói
thẳng rằng các tu sĩ lạc hướng của phái Vajjiputtaka,
những người thành lập giáo phái Ðại thừa, họ không
hiểu đúng ý nghĩa của giáo pháp thuần túy của Ðức
Phật, đã tự ý lượt bớt một phần khá quan trọng trong
kinh và luật và biên soạn kinh và luật mới (giả). Ðiều đó
cho thấy rằng Phật tử Indonesia ngày nay không tuân hành theo
lời dạy của Tỳ khưu Narada: "Ðừng có tin tưởng rằng
một quyển kinh bắt đầu bằng một câu giả tạo 'Như vầy
tôi nghe, một thời Ðức Phật ngụ ở thành Xá Vệ
(Sravasti)...'. Ðây là những lời thuyết giảng của Ngài. Ðối
với một số tôn giáo, viết một cụm từ như vậy cũng dễ
như viết tiểu thuyết, và gài những quyển kinh mới vào
trong Tam tạng dễ như đặt một quyển sách mới vào trong
kệ sách thư viện vậy".
[Ðầu trang]
4.
Ăn chay và sự thanh tịnh
Thực hành việc ăn chay thường
được cho là một yếu tố để có được sự thanh tịnh. Người
xa lánh việc ăn cá, thịt được xem như là người thánh
thiện. Sự thanh tịnh có thể đạt được dễ dàng không?
Chắc chắn là không! Sự thanh tịnh tùy thuộc vào tâm của
con người, chứ không tùy thuộc điều gì bên ngoài. Sự
thanh tịnh của một người có thể được đánh giá bằng
"sự hạn chế và đoạn trừ lòng ham muốn thực
phẩm", chứ không quan niệm từ thực phẩm mà người đó
ăn.
Trong kinh Amagandha sutta thuộc Tiểu
bộ kinh (Khuddaka Nikaya) có ghi rằng: "Không phải là không
ăn cá thịt, hoặc các hình thức bề ngoài, hay nghi lễ, mà làm
thanh tịnh một người, không thành kính tin tưởng nơi giáo lý".
Ðiều này căn cứ trên lời dạy của Ðức Phật Kassapa cho
Tỳ khưu Tissa. Nếu chỉ vì ăn thực vật, rau trái mà được
xem là thanh tịnh, thì dê, ngựa, bò cũng thanh tịnh từ lúc
mới chào đời!
Một lời nói có ý nghĩa tương
đương được Ðức Phật tổ Gotama nói cho dân chúng thành
Jambudvipa vì họ tin tưởng rằng tắm ở những con sông (như
sông Hằng) sẽ làm cho con người rửa sạch lòng tham muốn,
tội lỗi và đau khổ. Ngài dạy: "Nếu nước dòng sông có
thể rửa sạch lòng ham muốn, tội lỗi và khổ đau, thì tin
chắc rằng tất cả loài rùa, cá, tôm, cua sống trong dòng sông
được coi là linh thiêng, đã được đoạn trừ tham muốn,
tội lỗi và đau khổ từ lâu lắm rồi".
[Ðầu trang]
5.
Thịt cá nấu chín có còn sự sống không?
Hiện tại, nếu có người nào
hỏi điều khác nhau cơ bản giữa tu sĩ Nguyên thủy và tu sĩ
Ðại thừa là ở chỗ nào, người ta sẽ trả lời ngay: là
tu sĩ Ðại Thừa không ăn cá thịt, còn các tu sĩ Nguyên
Thủy tự do ăn bất cứ món gì mà các vị muốn. Câu trả
lời này chắc chắn là sai lầm và không có căn cứ. Nói như
vậy chẳng khác nào tu sĩ Nguyên thủy là người sát sinh thú
vật.
Trong kinh Quán tưởng thực phẩm
(Catuppaccaya paccavekkhana patha) [16] dạy năm điều luật mà
bậc xuất gia cần phải biết đến về thực phẩm cúng dường.
Trước khi thọ lãnh, bậc xuất gia phải biết thực phẩm cúng
dường chỉ là vật chất (dhatuso), ghê tởm (patikkulato), giả
tạo (nissato), không có sự sống (nijjivo), và là hư vô
(sunno). Trong khi ăn và sau khi ăn bậc xuất gia phải quán năm
điều này.
Ðối với tu sĩ Nguyên thủy, không
có sự khác nhau giữa cá thịt và rau trái. Hai loại thực
phẩm này có cùng chức năng, là để nuôi mạng sống, góp
phần làm cho đời sống thanh cao, duy trì sức khỏe tốt, làm
hết cơn đói, dừng cơn đau đớn, và làm cho đời sống
nhẹ nhàng hơn. Thực phẩm không nên dùng để vui thích, mê
hoặc, làm cho thân mập mạp và đẹp đẽ.
Cá thịt nấu chín là loại thực
phẩm được Ðức Phật tổ Gotama cho phép các tu sĩ thọ
dụng. Lý do là cá thịt nấu chín không còn sinh vật sống
nữa. Ngay khi thú vật chết, tâm thức này sự sống tâm linh
không sinh khởi và hiện hữu trong nó. Chỉ có người nào
cố chấp vào bản ngã vĩnh hằng mới có thể phân biệt được
cá và thịt nấu chín với con thú còn sống. Người không có
ý niệm minh bạch về thân tâm, và không thể nào thực thi
được sự trong sạch cho mình.
Nên giải thích thêm ở đây là
trong Phật giáo không có tin tưởng rằng thịt thú vật đã
chết có chứa đựng những sự rung cảm huyền ảo mà sẽ làm
cho người ăn thịt trở nên mắc các chứng bệnh thần kinh,
ưu phiền và lo âu. Ðây là niềm tin sai lầm dựa trên các tôn
giáo cổ xưa ở Ấn Ðộ [17]. Sự giận hờn (patigha) hay sân
hận (dosa) là một trong năm mươi hai tâm sở (cetasika) không
thể nào phát sinh trong những sinh vật chết. Mà cũng không có
tâm sở nào tồn tại, độc lập, không thể nào đi quanh
quẩn hay thế vào bất cứ hình thể vật chất nào.
[Ðầu trang]
6. Tâm
Từ là nền tảng của sự ăn chay
Hầu hết những người ăn chay
trong Phật giáo đều nói rằng họ không ăn cá thịt là để
huân tập tâm Từ bi (metta-karuna). Lời phát biểu này phải
được nghiên cứu lại dựa trên giáo lý thuần túy của Ðức
Phật. Nhiều kinh sách về Vi diệu pháp (Abhidhamma) [18] định
nghĩa tâm Từ bi như sau: "Có tình thương với chúng sinh
đang khổ và sẽ khổ đau". Vì cá thịt đã nấu chín
rồi thì không được xem là thú sống nên không một ai có tâm
từ bi trên món cá thịt đó. Cũng như không thể có tâm Từ
bi cho cây, cỏ, bàn, ghế và những thứ không phải là sinh
vật sống khác. Nên biết thêm nữa là, tâm Từ bi không thể
nào tu tập trong cõi trời vô sắc (arupa - bhumi) được, vì cõi
trời đó không có hình thể của chúng sinh bằng thân tứ đại.
Thấy chúng sinh đang đau khổ và
sẽ khổ là một nguyên nhân trực tiếp của tâm từ bi
(dukkhabhibhutanam anathabha-vadassana padatthana). Như vậy, sự
hiện diện của "chúng sinh" như là đối tượng, là
điều kiện chính cho sự phát triển tâm từ bi. Cũng nên
hiểu rằng việc biểu lộ tâm từ bi thường được đi kèm
theo với ý muốn, lòng mong mỏi và sự nỗ lực để cứu
vớt một sinh linh thoát khỏi đau khổ
(dukkhapanayana-karapavattilakkhana). Trong trường hợp này, không
ai có thể cứu khổ cho sinh linh đã chết bằng cách không ăn
nó. Dù có ăn thịt hay không, thú vật đã chết rồi thì sẽ
không sống lại được.
Mục đích cơ bản của tất cả giáo
pháp Ðức Phật là cứu vớt chính mình và những sinh linh khác.
Sự đau khổ đang hiện có hay sẽ có trong tương lai; chứ không
cứu vớt sự đau khổ đã qua; vì đau khổ đã qua thì không
thể nào sửa lại được.
Lúc còn là Bồ Tát (Bodhisatta), Ðức
Phật tổ Gotama sinh làm con cò. Một hôm, cò thấy một con cá
đang nổi trên mặt nước. Vì tưởng cá đã chết, cò mổ nó.
Khi thấy cá quẫy đuôi, cò thả cá ra ngay. Bởi vì cò chỉ
ăn cá đã chết. Khi Bồ Tát sinh làm cò, cọp và những thú
vật ăn thịt khác; ngài có thể tự chịu đựng chỉ ăn rau
trái hay sao? Ăn cá chết không có nghĩa là Bồ Tát không có tâm
từ bi.
Trong "Từ điển tôn giáo so sánh"
của Tiến sĩ Trevor O.Ling, mục "Thực phẩm", ông có
viết: "...Trong hàng tín đồ của Phật giáo, giết sinh
linh là một việc làm tội lỗi được nhấn mạnh (vì nó là
chúng sinh có cảm xúc), còn việc ăn sinh linh chết thì không
có tội. Nghiệp bất thiện đến với người giết chứ không
đến với người ăn, khác với quan niệm của Ấn Ðộ giáo,
họ quan niệm việc ăn cá thịt cũng có nghiệp quả
xấu". Có sự khác nhau giữa sự giết thú sống và ăn
thịt. Như vậy, tâm Từ bi thật sự không có liên quan gì đến
việc ăn chay hay ăn mặn.
[Ðầu trang]
7.
Trách nhiệm pháp lý gián tiếp
Trong "Golden Drum" - một
tạp chí đã phát ngôn cho phái Ðại thừa ở phương Tây đang
bào chữa cho việc ăn chay, tạp chí số 14, tác giả Sagaramati
viết trong tựa đề "Những người con Phật có ăn thịt,
cá không?": --"Ðể nói rằng việc ăn thịt không có
liên quan đạo đức gì với hành động giết hại hung bạo và
kinh khủng do nó cảm thấy, thì đây là sự vô tình, vô
cảm, là điều phi lý. Mặc dù không tự tay mình giết hay
nhờ kẻ khác giết, thì người ấy cũng không thoát khỏi
hậu quả cho việc giết hại. Kẻ giết thú vật không riêng
cho mình mà cho chợ búa tiêu thụ. Nếu không có người ăn
thịt, thì sẽ không có điểm giết thú ngoại trừ việc
giết đó phục vụ cho chính người giết. Do đó nếu một ai
quyết định ăn thịt, thì người ấy cũng quyết định trở
thành những người tiêu thụ của thị trường. Và nếu một
ai trở thành một phần tử của thị trường, người ấy có
liên hệ với nhu cầu mà người giết đáp ứng. Có một sự
liên hệ rất rõ giữa người ăn thịt và hành động giết
hại, giữa lòng ham muốn vị thịt và sự đau đớn thật
sự của thú bị giết".
Cùng một cách nói, John Blofeld - tác
giả nổi tiếng các kinh sách Ðại thừa - viết trong lời
tựa của quyển "Luật Ðại thừa" (Mahayàna vinaya) do
Tỳ khưu Yen Kiat biên soạn: "Trong thời điểm hiện đại,
đặc biệt thú vật ít khi được giết cho những cá nhân; nhưng
rõ ràng rằng, tất cả chúng ta thật sự có trách nhiệm cho
cái chết của chúng, vì những người đồ tể chỉ đáp
ứng thịt theo thị hiếu của chúng ta. Như vậy, trong điều
kiện hiện nay, hình như không hợp lý tí nào cho các tu sĩ nói
là họ có thể ăn thịt vì họ không biết việc thú vật
bị giết".
Thoáng qua, lời viết hình như có lý
và hợp thời. Tuy nhiên, nếu lối lý luận như vậy được
áp dụng đúng mức, thì những người ăn chay sẽ không thoát
khỏi hậu quả và sự liên hệ của việc sát hại. Ðối
với lúc này, họ có thể "rao giảng" về việc phát
huy tâm từ và tâm bi, bởi vì họ chưa bao giờ thấy tận
mắt tiến trình trồng, cấy và thu hoạch rau trái và những
sản phẩm nông nghiệp khác. Nếu những nông sản nói được,
có lẽ chúng sẽ nói về sự đau đớn của loài giun đất, và
những loại côn trùng khác mà thân thể của chúng bị đứt
nát do bởi cuốc và thuổng; về tiếng kêu rên của chuột đồng
bị đứt đầu vì cày và xới, về tiếng than thở của côn
trùng chịu đựng thuốc độc DDT; và nhiều điều cảm kích
và đau xót khác! Chắc chắn, thiên nhiên không sẵn sàng làm
cho các sản phẩm nông nghiệp biết làm chứng hoặc có thể
nói và đòi quyền công bằng đối với những kẻ ăn chay.
Những tiếng kêu rên, than thở đó vẫn còn bị coi là những
tiếng kêu vô vọng trong cánh đồng hoang dã. Ðiều này nên
hỏi lại, phải chăng chỉ có thú vật mới thừa hưởng lòng
từ bi, bác ái; còn sự sống của giun đất, côn trùng,
chuột đồng thì bị thờ ơ quên lãng hay sao? Nếu người ăn
chay nghĩ: "Thú vật sẽ hạnh phúc vô cùng nếu trên đời
này không có người ăn mặn", thì cũng sẽ công bằng,
nếu người ăn mặn nghĩ: "Bò sát, chuột và côn trùng
sẽ sung sướng vô cùng nếu trên đời này không có người
ăn chay (thực vật)". Chắc chúng sẽ mở tiệc liên hoan
trên cánh đồng lúa!
[Ðầu trang]
8.
Ăn chay có thể thay đổi tánh nết không?
Có một số người nói rằng ăn
chay có thể thay đổi tâm tánh con người. Ðây là ý tưởng
cho rằng loài thú ăn thịt, độc ác, hung dữ hơn loài thú ăn
cây cỏ. Như vậy, câu hỏi được đặt ra là: Lối sống
của loài thú đem so sánh với lối sống của loài người có
hoàn toàn khác nhau không? Trong thực tế không thể so sánh
được vì nhiều người ăn thịt mà tánh lại lương thiện,
khiêm cung, lịch sự thành kính và ái mộ tôn giáo.
Geoffrey Bell là nhân viên của hội
y tế thế giới và tổ chức lương nông, thừa nhận một cách
thành thật: "Một người Eskimo có lẽ mãi mãi là người
ăn thịt, có thể là Phật tử tốt hơn tôi, mặc dù tôi ăn
chay!"
Mọi người ai cũng hiểu Adolph
Hitler, nhân vật sáng lập Ðảng Quốc Xã Ðức, là con người
tuyệt đối ăn chay [19], nhưng với lối sống như vậy, Hitler
phải chịu trách nhiệm và hậu quả cho cuộc tàn sát lớn
nhất thế giới. Một câu hỏi được đặt ra: Thú vật cần
lòng từ bi hơn con người không?
Từ ví dụ trên, có thể kết
luận rằng: Khi đánh giá lòng từ bi và bác ái; hay sự hung
dữ, độc ác của một người mà chỉ dựa trên những gì người
ấy ăn là sự đánh giá thiếu thận trọng. Từ sự liên quan
trên, ông Jim Brower nói: "Nếu sự thật việc ăn thịt
mang lại cho con người sự hung dữ, thì người Eskimo chắc
chắn là người có tiếng tăm độc ác và Ấn Ðộ có nhiều
người ăn chay chắc chắn sẽ là quốc gia bình yên nhất
thế giới!". Không hẳn là vậy! Nếu nói việc ăn chay có
thể thay đổi tánh tình một con người thì đó là một lời
nói phiến diện, không căn cứ, không minh chứng.
[Ðầu trang]
9.
Ăn chay có thể làm giảm mức sát hại không?
Nhiều người đã nói rằng người
ăn chay cảm thấy đau buồn khi họ trông thấy, lắng nghe, hay
tưởng tượng việc giết thú để dùng làm thực phẩm. Cảm
giác buồn đau này sẽ thôi thúc họ kiên quyết không ngừng
việc thực hành ăn chay. Lời nói này có thật sự đúng hay
không? Vấn đề này vẫn còn tranh luận.
Thật sự nếu người ăn chay cảm
thấy đau buồn, khi nghĩ đến chúng sinh bị giết, thì ít
nhất họ cũng ngại ngùng khi sử dụng những bộ phận thân
thể thú cho những mục đích khác. Nói một cách khác, khi người
ta đã quyết định tránh xa bất kỳ thực phẩm nào làm
bằng cá thịt, thì những người đó cũng nên quyết định
tránh xa bất kỳ thực phẩm nào khác được làm từ thú
vật! Tuy nhiên điều đó dường như không phải vậy. Dễ dàng
tìm thấy một cái trống (làm bằng da thú), những ngọn nến
(có mỡ thú vật) [20] trong những tu viện Ðại thừa và không
khó tìm thấy những tu sĩ Ðại thừa ăn chay mà dùng mật ong
(được ép ra từ tổ ong mà trứng và ấu trùng của nó
phải chết đi) [21], các vị cũng mặc áo lụa (làm bằng tơ
tằm có thể lấy được bằng cách hơ nóng hay luộc kén) và
rất dễ dàng tìm thấy người ăn chay sử dụng thắt lưng,
giày bằng da [22], và những đồ dùng khác được làm bằng
thú vật. Người ăn chay kiên quyết cũng nên tránh sử dụng
thuốc vì việc nghiên cứu tạo ra thuốc làm nguy hại hoặc
giết hại mạng sống của những con thú được thực hiện
cho việc làm thí nghiệm.
Nếu cho rằng người ăn mặn (cá
thịt) có thể làm gia tăng mức sát hại, thì cũng cần nên
nghi vấn lại rằng: sử dụng những đồ dùng nói trên không
có cùng những nghiệp lực sao? Giả sử tại thời điểm này,
những người Phật tử ăn chay ủy nhiệm cho đức Ðạt Lại
Lạt Ma thứ 14 (Tendzin Gyatso) công năng ưu việt, điều đó có
nghĩa là "không hề sai trái" tương tự như Ðức Giáo
Hoàng của Công giáo, lúc đó ngài có thể tuyên bố về đạo
đức, học thuyết ý niệm, và bất cứ những gì liên hệ đến
chân lý mà ngài muốn đề cập. Một lối tự do và an toàn,
ngài có thể quả quyết: "vì một số lý do thích đáng mà
không nên đề cập ở đây, tôi thông báo rằng chỉ ăn mặn
mới làm tăng mức sát sinh, còn sử dụng các vật dụng thú
vật khác thì không, và các vật dụng đó được cho phép
sử dụng nữa!"
Thế nhưng, giả sử ngài có năng
lực ưu việt đó, Ðức Ðạt Lại Lạt Ma sẽ tư duy nhiều
lần trước khi phán như vậy. Lý do đơn giản là ngài không
thường ăn chay! Ngài kiêng cử ăn tôm bởi vì ngài bị dị
ứng [23]. Việc đề xuất ăn chay ở khắp mọi nơi nhằm làm
giảm bớt mức sát sinh hại vật chỉ là một "phương án
chưa hoàn hảo". Sự thật chỉ là một ảo tưởng.
[Ðầu trang]
10.
Chủ nghĩa ăn chay và thịt nhân tạo
Việc tinh tiến trong sự thực hành
và quảng cáo lối sống của họ, đa số những người ăn
chay hết sức cố gắng tạo một loại thực phẩm mới lạ mà
chưa từng có trước đây, đó là "thịt nhân tạo".
Thịt nhân tạo này được làm bằng bột mì và nhiều loại
gia vị khác, mùi vị hơi giống thịt tự nhiên - thậm chí
việc nấu nướng thịt nhân tạo còn khó hơn việc nấu nướng
thịt bình thường.
Mặc dù phương pháp làm rất tốn
công và đắc tiền, ý niệm về sản phẩm thịt nhân tạo
rất hấp dẫn và lôi cuốn nhiều người ăn chay hoặc không
ăn chay. Những nhà hàng phục vụ những món ăn này bỗng nhiên
xuất hiện nhiều trong những thành phố lớn trên thế giới.
Thậm chí những tạp chí Phật giáo ở Indonesia đã nhanh chóng
đăng những công thức dạy nấu ăn với thực phẩm đồ
chay, như gà rang đậu, thịt heo quay.
Nhiều câu hỏi được đặt ra cho
người ăn chay là thích thú và ăn ngon miệng đối với thịt
nhân tạo không? Quan niệm và thực hành về việc sản xuất
thịt nhân tạo có liên hệ với tôn giáo ra sao? Nếu thực
phẩm ăn là thịt nhân tạo, thì sự trong sạch đạt được
cũng không phải sự trong sạch nhân tạo sao? Có phải thực
tập như thế chẳng khác nào tẩy một vết dơ tâm trí bằng
phương tiện tạo nên một vết dơ tâm trí khác có đáng kinh
tởm hơn không? Như vậy điều này có phải là đạo đức
cực kỳ giả hay không nhỉ?
Dựa trên sự tính toán đã đo lường
được, khẩu vị của người ăn chay chắc chắn không kém hơn
khẩu vị của người ăn mặn. Lòng ham muốn và phiền não thì
không bao giờ tránh được. Thật sự một người ăn chay
một thời gian lâu dài có thể đoạn trừ hay quên lãng lòng
ham muốn thực phẩm mặn. Tuy nhiên, điều đó không bảo đảm
là lòng tham muốn đó sẽ không thay đổi vật thể của nó
cho loại thực phẩm khác, thực phẩm chay - ý thức rằng ham
muốn thực vật, rau, trái và những sản phẩm nông nghiệp khác
là điều tốt đẹp. Như thế lòng ham muốn thật sự không
thể đoạn trừ được chỉ bằng sự thay thế hay di chuyển
vật thể. Mà lòng ham muốn chỉ có thể đoạn trừ bằng cách
tiêu diệt cội nguồn của nó.
[Ðầu trang] |