| Lời 
        giới thiệu
         Mạnh Tử nói "Kiếm ký sanh 
        bất nhẩn thực kỳ nhục", nên "Quân tử bất 
        nhập trú phòng". Tuy có quan niệm như vậy, nhưng các nhà 
        Nho đâu có ăn chay, có lẽ gần giống quan điểm "Tam 
        Tịnh Nhục" của Phật giáo? 
        Thành thật mà nói: tục lệ ăn 
        chay do các tu sĩ Phật giáo về sau xu hướng theo Bà La Môn 
        (Ấn Ðộ giáo) ở Ấn Ðộ và Ðạo Tiên ở Trung Quốc để 
        dễ thu hút tín đồ của họ, như ngài Huệ Năng nói: 
        
          "Muốn toan lo độ thế 
          Phương tiện phải sẵn sàng 
          Chớ để người nghi hoặc 
          Tánh họ mới minh quang" 
         
        Giòng Thiền Tào Khê Trung Quốc và 
        giòng Thiền Trúc Lâm Việt Nam, các vị tổ cũng không quá 
        cố chấp tập quán ăn chay. Một số nước Phật giáo Ðại 
        Thừa như Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bổn v.v...họ cũng không 
        bảo thủ tục ăn chay, với họ thì "quân tử ưu đạo 
        bất ưu thực" cũng như người Việt Nam thường nói 
        "ăn để sống chớ không phải sống để ăn"; hay là 
        "tham lam sân hận không chừa, bo bo mà giữ tương dưa ít 
        gì!"; hoặc "uổng ngật mê chay nan liễu đạo, 
        khống đồ xướng niệm đạo nan thành!" 
        Riêng tôi thì "không chê đồ 
        chay, nhưng không chấp nhận thành kiến ăn chay", có lẽ 
        ảnh hưởng tinh thần Bát nhã "cá thịt nhưng không 
        phải là cá thịt" (nếu lúc ăn có chánh niệm tỉnh giác, 
        thấy các vật thực vốn là nguyên chất đất, nước, 
        lửa, gió...), "tuy không phải cá thịt nhưng là cá 
        thịt" (bởi khi ăn các món chay mà hình thức lẫn tên 
        gọi đều là đồ mặn như thịt quay, cá kho v.v...đồ chay 
        mà tâm mặn). Vì vậy mới bị người ta phê bình là "ăn 
        mặn nói ngay, ăn chay nói dối" 
        Soạn giả cũng như dịch giả 
        tập sách này chắc chắn không có ý chỉ trích, xuyên tạc 
        người ăn chay, chỉ muốn biện minh vấn đề ăn chay không 
        phải là một trong tám muôn bốn ngàn Pháp môn của đức 
        Phật Gotama mà chỉ là "giáo ngoại biệt truyền" thôi! 
        Với tinh thần phá chấp, tôi xin 
        trân trọng giới thiệu tập sách "Vấn đề ẩm thực 
        trong Phật giáo" do Tỳ Kheo Thích Thiện Minh dịch, đến 
        chư Phật tử đọc và suy gẩm. 
        Biên Hòa ngày 
        20-6-99 
        Thượng Tọa Giác Chánh 
        Trưởng Ban Văn Hóa Phật Giáo, Tỉnh Hội Ðồng Nai 
         
        [Phần 
        I] 
        -oOo- 
      
      1. 
      Bối cảnh ăn chay - Quan niệm và cách cư xử của Ðức Phật 
      Thuật ngữ tiếng Anh 
      "Vegetarianism", nghĩa là chủ nghĩa ăn chay đã ra đời 
      lần đầu tiên vào năm 1847 [1]. Nhưng trong thực tế ý niệm 
      về ăn chay đã có từ ngàn xưa. Từ bỏ việc ăn cá thịt 
      được người ta tìm thấy trong học thuyết của triết gia Hy 
      Lạp Pythagoras, về sau Plato, Epicurus, Plutarch và những nhà 
      triết học khác tiếp tục kế thừa. Trong Jambudvipa (Ấn Ðộ 
      trong thời kỳ Ðức Phật tổ Gotama), những tín đồ của 
      Kỳ Na giáo được sự hướng dẫn bởi Mahavira, được hiểu 
      như là những nhà đạo sĩ tuyệt đối thực hành phương pháp 
      ăn chay [2]. Trong số những người đệ tử của Ðức Phật, 
      Devadatta là người chính thức đề cao việc ăn chay. Cùng 
      với bốn người bạn đồng tu khác, Devadatta cố gắng đề 
      xuất năm giáo điều khổ hạnh cho các tu sĩ của Tăng đoàn, 
      một trong năm giáo điều đó là tu sĩ tuyệt đối không được 
      ăn cá thịt. Trong việc đề xuất này, Ðức Phật tổ Gotama 
      dạy rằng những Tỳ khưu nào cảm thấy an lạc trong việc ăn 
      chay thì cứ ăn. Tuy nhiên ngài từ chối để phê chuẩn hay áp 
      dụng giới luật này cho các Tỳ khưu một cách cưỡng ép. 
      Từ những lời khẳng định được 
      Ðức Phật tổ Gotama dạy, rõ ràng là ăn chay thực sự không 
      phải là một phần chính yếu của pháp luật. Ăn chay là 
      việc không quan trọng và không cần thiết lắm. Ăn chay không 
      làm cho con người thanh tịnh, trong sạch và đạt đến giác 
      ngộ Níp-bàn được. Nói một cách khác, dù có ăn chay hay không, 
      người ta vẫn có cơ hội và có khả năng thành đạt sự 
      thanh tịnh và giác ngộ thực sự. 
      Ðức Phật tổ Gotama đã nhiều 
      lần gặp phải những vấn đề về ăn chay. Nigandha Nathaputta 
      - cũng được gọi là Mahavira - vị lãnh đạo Kỳ Na giáo đã 
      thường xuyên nhạo báng ngài. Các đệ tử của Mahavira thảo 
      luận vấn đề này trong hang động: "Này các bạn - Ðạo 
      sĩ Nathaputta nói - Sa môn Gotama ăn thịt đã được chuẩn bị 
      riêng cho ông ta, với đôi mắt mở". Nghe như vậy, Ðức 
      Phật dạy: "Ðây không phải là lần đầu, môn đệ 
      Nathaputta đã nhạo báng Như Lai ăn thịt mà việc ăn thịt này 
      do chính Như Lai làm; trong quá khứ ông ta đã nhạo báng Như 
      Lai nhiều lần rồi". 
      Sau đó ngài kể cho chư vị nghe 
      một câu chuyện tiền kiếp (Telovada jataka). Vào thời khi vua 
      Brahma-datta ở Benares, đức Bồ Tát sinh ra trong một gia đình 
      Bà la môn khi trưởng thành ngài chọn đời sống xuất gia. 
      Từ Himalaya ngài bay xuống trần tìm muối và đồ gia vị, sau 
      đó đi khất thực trong thành phố. Một người giàu có 
      chuẩn bị kế hoạch để phá hại Bồ Tát, cho nên người 
      ấy thỉnh ngài về nhà và phục vụ ngài bữa ăn có cá. Sau 
      bữa ăn người đó ngồi xuống một bên và nói: "Thực 
      phẩm này làm được là tôi cố ý cho ngài ăn, bằng cách là 
      giết thú sống. Tội lỗi này không phải của tôi mà là 
      của ngài!" Và người đàn ông ấy nói lên câu thứ 
      nhất: "Người ác sát sinh, nấu nướng và cho ăn, ngài ăn 
      bữa cơm đó cho nên ngài có tội". Nghe sự việc này, đức 
      Bồ-Tát đọc câu thứ hai: "Người ác có thể giết vợ 
      và con đem cho người khác; tuy nhiên, nếu người thánh thiện 
      ăn thì không có tội" [3]. Vì vậy có thể nói rằng ai sát 
      sinh thì có tội, nhưng người ăn thì không. Chư Tỳ khưu được 
      phép độ bất cứ loại thực phẩm nào theo tập tục quốc 
      độ của mình, miễn là không ăn vì tham đắm hay ác ý. 
      Một vị Phật tổ không có quyền 
      ngăn cản bất kỳ ai đó sát sinh. Một người có thể làm 
      bất cứ điều gì mình mong muốn, nhưng người ấy sẽ chịu 
      trọng trách và gánh chịu nghiệp quả của mình. Rất nhiều 
      lần, Ðức Phật tổ Gotama dạy rằng sát sinh là hành động 
      bất thiện (akusala - kamma) sẽ gây nhân đau khổ. Cũng như 
      nghề bán thịt cá (mamsa - vanijja) [4] là một trong năm nghề 
      cấm đối với người Phật tử tại gia. Do đó người Phật 
      tử tại gia đã có tâm hỉ xả rồi (upekkha), họ luôn có tâm 
      từ bi đối với sinh linh. Bất kỳ hành động nào họ làm - 
      thiện hay ác - họ sẽ là người thừa hưởng. 
      Quan niệm và cách cư xử của Ðức 
      Phật tổ Gotama đối với vấn đề ăn chay biểu lộ được 
      trí tuệ của một bậc vĩ nhân. Sau khi xét đoán Sa môn Gotama 
      một cách khách quan, y sĩ Jìvakakomarabhacca không do dự trở thành 
      một đệ tử của Ðức Phật. Có một lần Jìvaka viếng thăm 
      bậc đạo sư. Sau khi đảnh lễ và ngồi một nơi thích hợp 
      ông nói: 
      -- Bạch Ðức Thế Tôn, đây là 
      những điều con đã nghe như vầy: "Người ta sát sinh cố 
      ý cho sa môn Gotama và sa môn Gotama dùng thịt này một cách 
      cố tình". Thưa ngài, những người đó nói như thế có 
      đúng chân lý không? 
      Sa môn Gotama trả lời: 
      -- Họ nói không đúng chân lý, 
      bởi vì Như Lai đã dạy có ba trường hợp không được ăn 
      thịt cá. Này Jìvaka, đó là thấy, nghe và nghi (người cố ý 
      sát sinh cho mình ăn). Nhưng này Jìvaka, ngoài ba trường hợp 
      trên, Như Lai nói có thể dùng được. 
      Hơn nữa, bất cứ ở nơi nào các 
      tu sĩ trong pháp và luật này luôn luôn tu tập hạnh từ, bi, 
      hỷ, xả cho tất cả chúng sinh xa gần và không có oan trái 
      lẫn nhau. Nếu thí chủ mời chư vị dùng bữa, chư vị nhận 
      một cách chánh niệm bất cứ món gì. Chư vị không bao giờ 
      nghĩ đồ ăn của thí chủ này ngon hay không ngon. Chư vị không 
      bao giờ mong đợi sẽ được thí chủ cúng dường đồ ăn 
      ngon. Chư vị thọ lãnh món ăn cúng dường nhưng không có tham 
      đắm mà quán tưởng thực phẩm cúng dường và chuyên cần 
      tu tập giải thoát. 
      Rồi Sa môn Gotama hỏi: 
      --Này Jìvaka ông nghĩ sao? Lúc đó 
      chư vị thọ lãnh thực phẩm không phạm luật chứ? 
      Jìvaka đáp: 
      --Ðúng như vậy, thưa ngài. Tôi 
      được nghe như thế này: "Vững chãi trong tình thân hữu 
      là cao thượng. Ngài là điểm tựa bởi vì ngài vững chãi 
      trong tình thân hữu". 
      Ðức Phật cũng giải thích rằng 
      ai cố tình sát sinh cho Như Lai hoặc đệ tử của Như Lai là 
      có tội trong năm cách. Người ấy có tội khi nói: "Hãy 
      đi bắt sinh vật này hay sinh vật nọ"; người ấy có 
      tội khi con vật bị đau và bị bắt. Người ấy có tội khi 
      nói: "Ði giết con vật đó"; người ấy có tội khi 
      con vật này bị giết đau đớn và khổ sở; và có tội khi 
      người này mang đến cúng dường cho Như Lai và đệ tử của 
      Như Lai. 
      Dựa vào lời dạy của Ðức 
      Phật, có thể kết luận rằng, bất kỳ thú vật nào bị 
      giết (do mình hay người khác) rồi đem dâng cúng (udissa - 
      mamsa) làm thực phẩm thì điều đó là không được phép đối 
      với một tu sĩ, nhưng trái lại thịt hay cá do tín đồ mua 
      ở chợ, bán ở nơi công cộng cho mọi người tiêu thụ 
      (pavatta - mamsa) thì thực phẩm đó được Ðức Phật cho phép 
      và tu sĩ có thể dùng được. 
      [Ðầu trang] 
      2. 
      Quan niệm Phật giáo Nam tông về thú vật và chủ nghĩa ăn 
      chay 
      Phật giáo Nam tông thừa nhận thú 
      vật là chúng sinh có tri giác. Thú vật không những chỉ có 
      thân thể (rùpa) và bản năng, mà còn có chức năng của tâm 
      như cảm thọ (vedana), tưởng (sanna), hành (sankhàra) và thức 
      (vinnàna) [5]. Ðể chứng minh một cách có khoa học rằng bản 
      năng của thú vật chỉ do trực giác thúc đẩy là một điều 
      rất khó; những bản năng như nhận dạng được đồng 
      loại, chăm sóc con cái, chọn nơi trú ẩn an toàn, nhớ con 
      đường trở về tổ, biết sự chết, biết vui khi được 
      chủ yêu thương và biết trung thành với chủ. Trong thực tế 
      người ta sẽ nói, ai cho rằng thú vật chỉ có bản năng thì 
      người đó chỉ dùng bản năng hơn là dùng tri giác của một 
      con người. Thú vật không chỉ sống một kiếp mà sống 
      nhiều kiếp, sau kiếp sống hiện tiền, còn đi tái sinh kiếp 
      khác. 
      Thú vật không phải là những sinh 
      vật thấp hèn hay bị đọa đày để loài người đối đãi 
      độc ác. Tàn sát thú vật để cúng tế các vị thần linh 
      khao khát máu hoang tưởng của các tôn giáo sơ khai là một 
      việc làm phạm tội sát sinh. Xa hơn nữa Phật giáo truyền 
      thống không bao giờ cho phép giết thú vật làm thực phẩm tiêu 
      thụ hay phục vụ cho bất kỳ mục đích nào khác. 
      Cũng cần thiết để hiểu rằng thú 
      vật không được tạo ra cho loài người. Tiến sĩ K.Sri 
      Dhammananda, một nhà lãnh đạo Phật giáo Nguyên thủy Tích 
      Lan, một vị giảng sư (dhammaduta) ở Malaysia nhiều năm qua đã 
      tuyên bố: "Nếu chúng ta tin tưởng rằng thú vật được 
      tạo ra cho con người thì cũng có lý do cho rằng con người 
      tạo ra cho loài thú bởi vì có loài thú ăn thịt người." 
      [6]. 
      Tuy nhiên Phật giáo truyền thống 
      không đồng tình với quan điểm là giết thú vật có thể 
      được ngăn chặn bằng phương cách phát động một cuộc 
      phản đối mang hình thức là ăn chay. Phương pháp hữu hiệu 
      để làm giảm thiểu việc sát sinh là phổ biến cho mọi người 
      hiểu biết về lời dạy của Ðức Phật. Chỉ có cách này 
      họ mới thật sự hiểu biết giá trị của sự sống rất 
      quan trọng cho loài người và thú vật. Ðiều này có nghĩa là 
      tất cả chúng sinh đều có quyền sống. Loài thú cũng thích 
      yên vui và không muốn khổ đau. Mạng sống của loài thú không 
      thể nào bị hủy hoại bằng bất cứ lý do gì - như vậy đáp 
      ứng lòng mong mỏi của loài người. Nhờ hiểu biết đúng đắn 
      như vậy, người ta sẽ không giết thú vật cho việc tiêu 
      thụ cá nhân hay bán ngoài chợ. 
      Như vậy mạng sống của loài thú 
      được cứu nguy chứ không phải bằng cách cấm ăn thịt hay 
      xem thịt là dơ bẩn, mà bằng phương cách đề cập đến giá 
      trị của sự sống, đấu tranh cho quyền sống cơ bản của 
      loài thú. Thật vậy phương pháp thực hiện của Phật giáo 
      truyền thống trong việc đối phó tình trạng giết thú vật 
      được xem là giải pháp trực tiếp tối ưu. Ðiều này hoàn 
      toàn khác hẳn, từ giải pháp được đặt ra và áp dụng 
      bởi những người ăn chay, có thể được xem như là một phương 
      pháp không có hiệu quả, một người bảo vệ mạng sống loài 
      thú bằng hình thức. 
      [Ðầu trang] 
      3. 
      Quan niệm Phật giáo Bắc tông về việc ăn chay 
      Nhiều người cho rằng ăn chay là 
      một phần không thể tách rời của tư tưởng Phật giáo Ðại 
      thừa. Một điều giới luật về việc thực hành ăn chay được 
      ghi rõ trong kinh Bồ-Tát giới: "Một Tỳ khưu ăn thịt 
      từ con thú sống là một điều tội lỗi" [7]. 
      Ðặc biệt trong kinh Níp-bàn (của 
      Ðại thừa), được tìm thấy một lời dạy mạnh mẽ: "Ăn 
      cá, thịt là phá vỡ hạt giống từ bi". 
      Trong kinh Phạm võng (Brahmajàla 
      sutra) của tạng Sanskrit cũng dạy tương đương: "Một môn 
      đệ của Ðức Phật không nên cố ý ăn cá, thịt của bất 
      cứ loại chúng sinh nào vì nếu hành động như vậy, vị đó 
      đánh mất lòng từ bi, giới hạnh và hạt giống giác ngộ. 
      Ðiều đó cũng là nguyên nhân làm cho các sinh vật gặp người 
      đó sẽ xa lánh. Do đó chư Bồ-Tát xa lánh việc ăn cá, thịt 
      của bất kỳ sinh vật nào. Việc ăn cá, thịt là cội nguồn 
      của tội lỗi vô biên". 
      Bộ kinh Lăng-nghiêm (Surangama sutra) 
      phê bình nghiêm túc về việc ăn cá, thịt: "Sau khi Như 
      Lai nhập Níp-bàn, thời mạt pháp, ma quỷ sẽ lộng hành 
      khắp thế giới, và sẽ khoe khoang là chúng ăn thịt để đạt 
      giác ngộ. Này Ananda! Như Lai cho phép chư Tỳ khưu ăn năm 
      loại thịt thanh tịnh, là sản phẩm của năng lực phi phàm 
      của Như Lai chứ không phải là thú bị giết chết. Này Bà 
      la môn, sống nơi cây trái không mọc được vì quá ẩm và oi 
      bức và vì toàn sỏi đá, Như Lai sẽ dùng năng lực phi phàm 
      của tình thương để trợ cấp cho các ngươi ăn thịt ảo tưởng 
      để cho các ngươi qua cơn đói khát. Vậy thì, sau khi Như Lai 
      Níp-bàn, các người ăn cá, thịt chúng sinh mà còn dám tự 
      nhận là đệ tử của Như Lai sao? Các người phải biết 
      rằng những ai ăn cá, thịt, dù tâm trí họ mở mang và thực 
      chứng được định tâm thì cũng chỉ là ma quỉ to lớn mà 
      sau kiếp này sẽ bị sinh tử luân hồi và không thể nào là 
      môn đệ của Như Lai. Họ sẽ ăn thịt và giết nhau liên 
      tục; làm sao họ có thể thoát khỏi vòng tam giới này được" 
      [8]. 
      Hơn nữa, trong kinh Lăng-già 
      (Lankavatara sutra) có một chương đặc biệt thảo luận về 
      vấn đề ăn cá, thịt. Ðây là cuộc đàm thoại với vị 
      Bồ-Tát tên là Mahamati. Một phần của cuộc đàm thoại được 
      ghi lại như sau: "Này Mahamati, không đúng khi cho rằng 
      thịt là thực phẩm thích hợp và được phép cho các Tỳ khưu 
      khi thú không bị giết hại do chính người ấy, khi người 
      ấy không ra lệnh giết, khi thực phẩm đó không dành riêng 
      cho người ấy. Thêm nữa, này Mahamati, có thể có người u mê 
      trong đời sau, bắt đầu công việc xuất gia theo giáo lý 
      của Như Lai, được xem như là đệ tử của ta, mặc áo cà 
      sa như là một biểu hiện, tuy nhiên người đó trong tư duy 
      bị ô nhiễm bởi những lý thuyết sai sót. Họ có thể nói 
      về những điều khác biệt nhau mà họ lấy trong giới luật 
      của họ, do bị si mê bởi quan niệm về linh hồn cá thể, do 
      ảnh hưởng thèm khát hương vị thịt, họ đúc kết lại 
      những phương pháp luận khác nhau để biện minh cho việc ăn 
      cá, thịt. Vả lại, chính họ bịa ra một giới luật mười 
      điều học về thịt thú vật được tìm thấy đã chết 
      rồi. Tuy nhiên, trong quyển kinh này với bất cứ hình thức 
      ăn cá, thịt nào, mọi lúc, mọi nơi đều bị nghiêm cấm vô 
      điều kiện và tuyệt đối không cho tất cả... Không có 
      loại thịt nào được xem là thanh tịnh ở ba cách: không cố 
      ý, không đòi hỏi, và không xúi giục, cho nên ngăn cấm ăn cá 
      thịt. Tuyệt đối không ăn cá, thịt, dù ai có nói vấn đề 
      tam tịnh nhục: thấy, nghe và nghi; những nhà lý luận sinh ra 
      trong gia đình ăn cá thịt thì không hiểu điều này." [9] 
      Chống đối việc ăn cá, thịt và 
      khuyên ăn chay được tìm thấy trong những bản kinh bằng 
      tiếng Sanskrit khác, đó là quyển Hastokakshya, Mahamegha, Nirvana 
      và Anglimalika. Tuy nhiên những bản kinh này không có phần nào 
      tương đương trong Tam tạng Giáo điển được chấp thuận 
      của Phật giáo Truyền thống (Theravàda). 
      Nơi đây, vấn đề được nghiên 
      cứu là nguồn kinh điển nào đáng tin tưởng hơn? Nguồn kinh 
      điển đó có được xem là nguyên thủy hay không? Phật giáo 
      Nguyên thủy có loại bỏ một số đoạn kinh sách nào không? 
      Hay đó là những điều Phật giáo Ðại thừa thêm vào? Kinh và 
      giới luật đó có thật sự được Ðức Phật dạy và 
      thiết lập hay không? Phật giáo Ðại thừa và Phật giáo Nguyên 
      thủy vẫn cho là quan niệm của các kinh văn của tông phái mình 
      là nguyên thủy. Cần tìm hiểu vấn đề này thật sâu sắc hơn 
      mà không thiên vị Therevàda hay Mahayàna. Phương pháp tìm 
      hiểu chính xác nhất là nghiên cứu giá trị kinh và luật 
      bằng chứng tích lịch sử. 
      Trong kinh Bồ-Tát giới (Bodhisattva 
      sutra) do ngài Kumarajiva (Cưu-ma-la-thập) dịch, có năm mươi tám 
      điều luật, được phân chia làm hai loại. Mười điều tội 
      nặng (garukapatti), trong đó bốn điều giới luật đầu tiên 
      thì tương đương với bốn điều giới bất cộng trụ 
      (parajika) trong luật tạng Pàli. Tội nhẹ (lahukapatti) có bốn 
      mươi tám điều, trong đó điều giới luật thứ ba đề cập 
      đến ăn chay. Ðiều được phân tích thêm là giới luật 
      thứ tám của phần tội nhẹ có viết: "Một Tỳ khưu mà 
      nói xấu hay lên án Phật pháp Ðại thừa (Mahayàna) thì vi 
      phạm một tội nhẹ" [10]. 
      Sự xuất hiện danh từ "Ðại 
      thừa" trong điều luật có vẻ hơi kỳ dị rõ rệt. 
      "Trong việc nghiên cứu lịch sử về danh từ Ðại thừa 
      và Tiểu thừa (Mahayàna and Hìnayàna) và Phật giáo gốc của 
      Ðại thừa", giảng viên Ryukan Kimura ở trường đại 
      học Calcutta, khoa lịch sử và văn hóa cổ Ấn Ðộ, kết 
      luận rằng danh từ Ðại thừa không được biết đến trong 
      cộng đồng của Phật giáo thời Ðức Phật tổ Gotama còn 
      sinh tiền. Theo Pàli tạng Nikàya [11] và Hán tạng Agama [12] là 
      những tạng đáng tin tưởng nhất về tính chất nguyên 
      thủy, không tìm thấy được danh từ Ðại thừa. 
      Danh từ Ðại thừa xuất hiện 
      lần đầu sau đại hội kết tập kinh điển lần thứ hai, 
      khoảng một trăm năm sau khi Thế Tôn Níp bàn, là hậu quả 
      của sự chia rẽ trong Tăng già. Những người thuộc phái Ðại 
      chúng bộ tức giận và bị gọi là "Tỳ khưu xấu" và 
      "đệ tử tà giáo" bởi những người theo phái Trưởng 
      lão bộ, trung thành với giáo lý của Ðức Phật Gotama. Chư 
      vị tìm một danh từ mới cho phái của mình để duy trì và 
      xiển dương ý kiến, quan niệm và chân lý của họ, cũng như 
      châm biếm các bộ phái khác. Một số danh từ như Bồ Tát 
      thừa (Bodhisattvayana), Phật thừa (Buddhayana), A la hán thừa 
      (Arahatyàna), Thinh văn thừa (Sravakayàna), Thiên thừa (Dviyàna) 
      đã được họ áp dụng trong một thời gian tương đối 
      ngắn. Nhưng dường như họ không thỏa mãn với những danh 
      từ này bởi vì tất cả đều là chi tiết, duy nhất có thể 
      chỉ ra những sự khác nhau trong những khía cạnh nào đó. 
      Họ cần một danh từ mà sẽ tích hợp, đại diện và bao trùm 
      những ý kiến, quan niệm và giáo điều khác như một đoàn 
      thể. Cuối cùng họ mới chọn danh từ Ðại thừa (Mahayàna), 
      cổ xe lớn, dành cho phái của họ và danh từ Tiểu thừa (Hìnayàna), 
      cổ xe nhỏ, dành cho những tông phái khác. 
      Từ thời điểm đó cho đến thời 
      luận sư Long Thọ (Nagarjuna), thế kỷ thứ hai sau công nguyên, 
      danh từ Ðại thừa và Tiểu thừa chỉ được sử dụng để 
      ám chỉ những sự khác nhau về giáo lý cơ bản - như được 
      dùng trong kinh Diệu pháp liên hoa (Saddharmapundarika sutra). Thời 
      điểm Long Thọ trở về sau, danh từ này chịu một sự thay 
      đổi có ý nghĩa, nó không những đề cập đến sự khác 
      nhau về giáo lý căn bản, mà còn nói đến sự khác nhau về 
      trường phái - như được viết trong kinh Bát nhã ba la mật đa 
      (Prajnaparamitta sutra). Không những phái Trưởng lão bộ (Theravàda) 
      và Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) được xếp loại là 
      Tiểu thừa mà còn phái Ðại chúng bộ (Mahàsanghika), tiền thân 
      của phái Ðại thừa, cũng bị cho là Tiểu thừa nữa. 
      Từ những sự phân tích trên, rõ ràng 
      rằng danh từ Ðại thừa thật sự không được biết đến 
      trong cộng đồng Phật giáo cho đến sau này. Trở lại bài 
      viết này với câu hỏi: Vì sao danh từ Ðại thừa mới có, 
      lại xuất hiện trong một điều luật của kinh Bồ Tát 
      giới? Chắc chắn là người ta không thể trả lời, nhưng người 
      ta kết luận rằng, danh từ này mới thêm vào. 
      Ðiểm kế tiếp để xem xét là: 
      khi nào họ không cảm thấy "có tội" gì về việc gán 
      danh từ Ðại thừa và dọa nạt những ai hạ thấp và chống 
      đối lại giáo lý của họ, họ có cảm thấy "có 
      tội" về việc gài một giới luật mới là việc ăn chay 
      vào trong kinh Bồ Tát giới và lạm dụng danh nghĩa của Ðức 
      Phật như một người cấm chế điều luật đó? Về danh xưng 
      Bồ Tát giới trong quyển sách này thì không phù hợp cho 
      lắm. Tất cả các giới được đặt ra ở đó, là những giáo 
      điều dành cho các thầy Tỳ khưu. Trong trường hợp này, người 
      biên soạn quyển Bồ Tát giới có thể được xem là dẹp qua 
      một bên sự kiện là chư Bồ Tát không luôn luôn sinh ra làm 
      người, nhưng có thể sinh ra làm các loài khác như súc sinh. 
      Nếu như giới luật trong kinh Bồ Tát giới được áp dụng 
      cho chư vị Bồ Tát sinh ra trong bất kỳ thế giới nào, thì 
      sự thực hành sẽ chắc chắn dị thường và buồn cười 
      lắm. Mà nếu cho Bồ Tát giới là giáo điều áp dụng đặc 
      biệt cho một vị Bồ Tát chào đời như là một Tỳ khưu, thì 
      việc sử dụng thuật ngữ "Bồ Tát" của quyển kinh 
      này có thể được xem là không chuẩn lắm. 
      Chư vị Tỳ khưu thời của Ðức 
      Phật và cả chính Ngài nữa, có dùng cá thịt hay không, điều 
      đó rất dễ để chứng minh bằng sự kiện lịch sử. Trong 
      quyển luật tạng Pratimoksa sutra bằng tiếng Sanskrit của phái 
      Ðại chúng bộ (Mahàsanghika), tiền thân của phái Ðại thừa 
      (Mahàyàna), tư tưởng Phật giáo, trong giới luật thứ ba mươi 
      chín của Paccattika [13] có một điều luật sau: "Tỳ khưu 
      nào không bệnh mà hỏi xin hay thọ lãnh thực phẩm, được 
      cho là ngon, để mình ăn, thì phạm tội ác". Những thứ 
      thực phẩm được xem ngon (pranitasammatanibho janani) như là 
      sữa, bơ, dầu, mật ong, mật mía, cá và thịt [14]. Một cách 
      chính xác, điều luật này hàm ý là một Tỳ khưu bị bệnh 
      có thể hỏi xin cá hay thịt, còn một Tỳ khưu không bệnh cũng 
      có thể dùng cá và thịt, miễn là Tỳ khưu đó không tự mình 
      hỏi xin. Như vậy, tin chắc rằng thịt và cá là thực phẩm 
      được phép dùng và phổ thông cho các Tỳ khưu trong thời 
      của Ðức Phật [15 ]. 
      Một nhà nghiên cứu Phật giáo 
      nổi tiếng người Nhật, Daisetz Teitaro Suzuki, đã nói đến 
      trong lời giới thiệu bản dịch của kinh Lăng-già (Lankavatara 
      sutra) và cũng nói đến trong quyển sách chú giải của ông ta 
      "Nghiên cứu kinh Lăng già" rằng chương thứ tám của 
      quyển kinh, "Về việc ăn cá thịt", là được cho thêm 
      vào sau này, giống như chương đầu, kể lại cuộc đàm 
      thoại với Ravana - một nhà vua trong thần thoại Ấn Ðộ giáo. 
      Chắc chắn chương thứ tám này đã được thêm vào trong 
      quyển kinh. Chương này cũng đã được sửa đổi nhiều 
      lần. Việc ăn cá thịt chắc chắn đã được thừa nhận 
      trong tín đồ Phật tử thời kinh Lăng-già đã được biên 
      soạn. Rõ ràng Ðức Phật không cấm họ ăn cá thịt, nếu như 
      con vật đó không do chính họ giết. Ðiều này gây ra những 
      lời phê bình không hay của các tôn giáo khác. Do đó giới 
      Phật giáo bị bất mãn với lời phê bình này, điều đó 
      dẫn đến một sự nỗ lực mới là cấm ăn cá thịt trong phái 
      Ðại thừa. Hơn nữa, kinh Lăng-già, là tập hợp những điều 
      được nối lại với nhau một cách không có phương pháp, và 
      không phải là lời thuyết giảng trực tiếp của Ðức 
      Phật, mà được biên soạn ra sau khi Ðức Thế Tôn viên 
      tịch. 
      Dựa trên những kết quả nghiên 
      cứu của ngài D.T. Suzuki - như đã kết luận ở trên, tạp chí 
      Pancaran Dhamma Matrodevi, Indonesia, viết: "Nếu quyển kinh nào 
      thuộc Tam tạng Kinh điển, thì quyển đó đúng là lời 
      thuyết giảng của Ðức Phật, như quyển kinh Lăng-già". 
      Ðây là câu nói thiếu tế nhị, không dựa trên sự kiện 
      lịch sử, mà chỉ là đức tin mù quáng và là sự nỗ lực 
      ngây ngô để thống nhất Phật giáo. Trong quyển Dipavamsa nói 
      thẳng rằng các tu sĩ lạc hướng của phái Vajjiputtaka, 
      những người thành lập giáo phái Ðại thừa, họ không 
      hiểu đúng ý nghĩa của giáo pháp thuần túy của Ðức 
      Phật, đã tự ý lượt bớt một phần khá quan trọng trong 
      kinh và luật và biên soạn kinh và luật mới (giả). Ðiều đó 
      cho thấy rằng Phật tử Indonesia ngày nay không tuân hành theo 
      lời dạy của Tỳ khưu Narada: "Ðừng có tin tưởng rằng 
      một quyển kinh bắt đầu bằng một câu giả tạo 'Như vầy 
      tôi nghe, một thời Ðức Phật ngụ ở thành Xá Vệ 
      (Sravasti)...'. Ðây là những lời thuyết giảng của Ngài. Ðối 
      với một số tôn giáo, viết một cụm từ như vậy cũng dễ 
      như viết tiểu thuyết, và gài những quyển kinh mới vào 
      trong Tam tạng dễ như đặt một quyển sách mới vào trong 
      kệ sách thư viện vậy". 
      [Ðầu trang] 
      
      4. 
      Ăn chay và sự thanh tịnh 
      Thực hành việc ăn chay thường 
      được cho là một yếu tố để có được sự thanh tịnh. Người 
      xa lánh việc ăn cá, thịt được xem như là người thánh 
      thiện. Sự thanh tịnh có thể đạt được dễ dàng không? 
      Chắc chắn là không! Sự thanh tịnh tùy thuộc vào tâm của 
      con người, chứ không tùy thuộc điều gì bên ngoài. Sự 
      thanh tịnh của một người có thể được đánh giá bằng 
      "sự hạn chế và đoạn trừ lòng ham muốn thực 
      phẩm", chứ không quan niệm từ thực phẩm mà người đó 
      ăn. 
      Trong kinh Amagandha sutta thuộc Tiểu 
      bộ kinh (Khuddaka Nikaya) có ghi rằng: "Không phải là không 
      ăn cá thịt, hoặc các hình thức bề ngoài, hay nghi lễ, mà làm 
      thanh tịnh một người, không thành kính tin tưởng nơi giáo lý". 
      Ðiều này căn cứ trên lời dạy của Ðức Phật Kassapa cho 
      Tỳ khưu Tissa. Nếu chỉ vì ăn thực vật, rau trái mà được 
      xem là thanh tịnh, thì dê, ngựa, bò cũng thanh tịnh từ lúc 
      mới chào đời! 
      Một lời nói có ý nghĩa tương 
      đương được Ðức Phật tổ Gotama nói cho dân chúng thành 
      Jambudvipa vì họ tin tưởng rằng tắm ở những con sông (như 
      sông Hằng) sẽ làm cho con người rửa sạch lòng tham muốn, 
      tội lỗi và đau khổ. Ngài dạy: "Nếu nước dòng sông có 
      thể rửa sạch lòng ham muốn, tội lỗi và khổ đau, thì tin 
      chắc rằng tất cả loài rùa, cá, tôm, cua sống trong dòng sông 
      được coi là linh thiêng, đã được đoạn trừ tham muốn, 
      tội lỗi và đau khổ từ lâu lắm rồi". 
      [Ðầu trang] 
      
      5. 
      Thịt cá nấu chín có còn sự sống không? 
      Hiện tại, nếu có người nào 
      hỏi điều khác nhau cơ bản giữa tu sĩ Nguyên thủy và tu sĩ 
      Ðại thừa là ở chỗ nào, người ta sẽ trả lời ngay: là 
      tu sĩ Ðại Thừa không ăn cá thịt, còn các tu sĩ Nguyên 
      Thủy tự do ăn bất cứ món gì mà các vị muốn. Câu trả 
      lời này chắc chắn là sai lầm và không có căn cứ. Nói như 
      vậy chẳng khác nào tu sĩ Nguyên thủy là người sát sinh thú 
      vật. 
      Trong kinh Quán tưởng thực phẩm 
      (Catuppaccaya paccavekkhana patha) [16] dạy năm điều luật mà 
      bậc xuất gia cần phải biết đến về thực phẩm cúng dường. 
      Trước khi thọ lãnh, bậc xuất gia phải biết thực phẩm cúng 
      dường chỉ là vật chất (dhatuso), ghê tởm (patikkulato), giả 
      tạo (nissato), không có sự sống (nijjivo), và là hư vô 
      (sunno). Trong khi ăn và sau khi ăn bậc xuất gia phải quán năm 
      điều này. 
      Ðối với tu sĩ Nguyên thủy, không 
      có sự khác nhau giữa cá thịt và rau trái. Hai loại thực 
      phẩm này có cùng chức năng, là để nuôi mạng sống, góp 
      phần làm cho đời sống thanh cao, duy trì sức khỏe tốt, làm 
      hết cơn đói, dừng cơn đau đớn, và làm cho đời sống 
      nhẹ nhàng hơn. Thực phẩm không nên dùng để vui thích, mê 
      hoặc, làm cho thân mập mạp và đẹp đẽ. 
      Cá thịt nấu chín là loại thực 
      phẩm được Ðức Phật tổ Gotama cho phép các tu sĩ thọ 
      dụng. Lý do là cá thịt nấu chín không còn sinh vật sống 
      nữa. Ngay khi thú vật chết, tâm thức này sự sống tâm linh 
      không sinh khởi và hiện hữu trong nó. Chỉ có người nào 
      cố chấp vào bản ngã vĩnh hằng mới có thể phân biệt được 
      cá và thịt nấu chín với con thú còn sống. Người không có 
      ý niệm minh bạch về thân tâm, và không thể nào thực thi 
      được sự trong sạch cho mình. 
      Nên giải thích thêm ở đây là 
      trong Phật giáo không có tin tưởng rằng thịt thú vật đã 
      chết có chứa đựng những sự rung cảm huyền ảo mà sẽ làm 
      cho người ăn thịt trở nên mắc các chứng bệnh thần kinh, 
      ưu phiền và lo âu. Ðây là niềm tin sai lầm dựa trên các tôn 
      giáo cổ xưa ở Ấn Ðộ [17]. Sự giận hờn (patigha) hay sân 
      hận (dosa) là một trong năm mươi hai tâm sở (cetasika) không 
      thể nào phát sinh trong những sinh vật chết. Mà cũng không có 
      tâm sở nào tồn tại, độc lập, không thể nào đi quanh 
      quẩn hay thế vào bất cứ hình thể vật chất nào. 
      [Ðầu trang] 
      
      6. Tâm 
      Từ là nền tảng của sự ăn chay 
      Hầu hết những người ăn chay 
      trong Phật giáo đều nói rằng họ không ăn cá thịt là để 
      huân tập tâm Từ bi (metta-karuna). Lời phát biểu này phải 
      được nghiên cứu lại dựa trên giáo lý thuần túy của Ðức 
      Phật. Nhiều kinh sách về Vi diệu pháp (Abhidhamma) [18] định 
      nghĩa tâm Từ bi như sau: "Có tình thương với chúng sinh 
      đang khổ và sẽ khổ đau". Vì cá thịt đã nấu chín 
      rồi thì không được xem là thú sống nên không một ai có tâm 
      từ bi trên món cá thịt đó. Cũng như không thể có tâm Từ 
      bi cho cây, cỏ, bàn, ghế và những thứ không phải là sinh 
      vật sống khác. Nên biết thêm nữa là, tâm Từ bi không thể 
      nào tu tập trong cõi trời vô sắc (arupa - bhumi) được, vì cõi 
      trời đó không có hình thể của chúng sinh bằng thân tứ đại. 
      Thấy chúng sinh đang đau khổ và 
      sẽ khổ là một nguyên nhân trực tiếp của tâm từ bi 
      (dukkhabhibhutanam anathabha-vadassana padatthana). Như vậy, sự 
      hiện diện của "chúng sinh" như là đối tượng, là 
      điều kiện chính cho sự phát triển tâm từ bi. Cũng nên 
      hiểu rằng việc biểu lộ tâm từ bi thường được đi kèm 
      theo với ý muốn, lòng mong mỏi và sự nỗ lực để cứu 
      vớt một sinh linh thoát khỏi đau khổ 
      (dukkhapanayana-karapavattilakkhana). Trong trường hợp này, không 
      ai có thể cứu khổ cho sinh linh đã chết bằng cách không ăn 
      nó. Dù có ăn thịt hay không, thú vật đã chết rồi thì sẽ 
      không sống lại được. 
      Mục đích cơ bản của tất cả giáo 
      pháp Ðức Phật là cứu vớt chính mình và những sinh linh khác. 
      Sự đau khổ đang hiện có hay sẽ có trong tương lai; chứ không 
      cứu vớt sự đau khổ đã qua; vì đau khổ đã qua thì không 
      thể nào sửa lại được. 
      Lúc còn là Bồ Tát (Bodhisatta), Ðức 
      Phật tổ Gotama sinh làm con cò. Một hôm, cò thấy một con cá 
      đang nổi trên mặt nước. Vì tưởng cá đã chết, cò mổ nó. 
      Khi thấy cá quẫy đuôi, cò thả cá ra ngay. Bởi vì cò chỉ 
      ăn cá đã chết. Khi Bồ Tát sinh làm cò, cọp và những thú 
      vật ăn thịt khác; ngài có thể tự chịu đựng chỉ ăn rau 
      trái hay sao? Ăn cá chết không có nghĩa là Bồ Tát không có tâm 
      từ bi. 
      Trong "Từ điển tôn giáo so sánh" 
      của Tiến sĩ Trevor O.Ling, mục "Thực phẩm", ông có 
      viết: "...Trong hàng tín đồ của Phật giáo, giết sinh 
      linh là một việc làm tội lỗi được nhấn mạnh (vì nó là 
      chúng sinh có cảm xúc), còn việc ăn sinh linh chết thì không 
      có tội. Nghiệp bất thiện đến với người giết chứ không 
      đến với người ăn, khác với quan niệm của Ấn Ðộ giáo, 
      họ quan niệm việc ăn cá thịt cũng có nghiệp quả 
      xấu". Có sự khác nhau giữa sự giết thú sống và ăn 
      thịt. Như vậy, tâm Từ bi thật sự không có liên quan gì đến 
      việc ăn chay hay ăn mặn. 
      [Ðầu trang] 
      
      7. 
      Trách nhiệm pháp lý gián tiếp 
      Trong "Golden Drum" - một 
      tạp chí đã phát ngôn cho phái Ðại thừa ở phương Tây đang 
      bào chữa cho việc ăn chay, tạp chí số 14, tác giả Sagaramati 
      viết trong tựa đề "Những người con Phật có ăn thịt, 
      cá không?": --"Ðể nói rằng việc ăn thịt không có 
      liên quan đạo đức gì với hành động giết hại hung bạo và 
      kinh khủng do nó cảm thấy, thì đây là sự vô tình, vô 
      cảm, là điều phi lý. Mặc dù không tự tay mình giết hay 
      nhờ kẻ khác giết, thì người ấy cũng không thoát khỏi 
      hậu quả cho việc giết hại. Kẻ giết thú vật không riêng 
      cho mình mà cho chợ búa tiêu thụ. Nếu không có người ăn 
      thịt, thì sẽ không có điểm giết thú ngoại trừ việc 
      giết đó phục vụ cho chính người giết. Do đó nếu một ai 
      quyết định ăn thịt, thì người ấy cũng quyết định trở 
      thành những người tiêu thụ của thị trường. Và nếu một 
      ai trở thành một phần tử của thị trường, người ấy có 
      liên hệ với nhu cầu mà người giết đáp ứng. Có một sự 
      liên hệ rất rõ giữa người ăn thịt và hành động giết 
      hại, giữa lòng ham muốn vị thịt và sự đau đớn thật 
      sự của thú bị giết". 
      Cùng một cách nói, John Blofeld - tác 
      giả nổi tiếng các kinh sách Ðại thừa - viết trong lời 
      tựa của quyển "Luật Ðại thừa" (Mahayàna vinaya) do 
      Tỳ khưu Yen Kiat biên soạn: "Trong thời điểm hiện đại, 
      đặc biệt thú vật ít khi được giết cho những cá nhân; nhưng 
      rõ ràng rằng, tất cả chúng ta thật sự có trách nhiệm cho 
      cái chết của chúng, vì những người đồ tể chỉ đáp 
      ứng thịt theo thị hiếu của chúng ta. Như vậy, trong điều 
      kiện hiện nay, hình như không hợp lý tí nào cho các tu sĩ nói 
      là họ có thể ăn thịt vì họ không biết việc thú vật 
      bị giết". 
      Thoáng qua, lời viết hình như có lý 
      và hợp thời. Tuy nhiên, nếu lối lý luận như vậy được 
      áp dụng đúng mức, thì những người ăn chay sẽ không thoát 
      khỏi hậu quả và sự liên hệ của việc sát hại. Ðối 
      với lúc này, họ có thể "rao giảng" về việc phát 
      huy tâm từ và tâm bi, bởi vì họ chưa bao giờ thấy tận 
      mắt tiến trình trồng, cấy và thu hoạch rau trái và những 
      sản phẩm nông nghiệp khác. Nếu những nông sản nói được, 
      có lẽ chúng sẽ nói về sự đau đớn của loài giun đất, và 
      những loại côn trùng khác mà thân thể của chúng bị đứt 
      nát do bởi cuốc và thuổng; về tiếng kêu rên của chuột đồng 
      bị đứt đầu vì cày và xới, về tiếng than thở của côn 
      trùng chịu đựng thuốc độc DDT; và nhiều điều cảm kích 
      và đau xót khác! Chắc chắn, thiên nhiên không sẵn sàng làm 
      cho các sản phẩm nông nghiệp biết làm chứng hoặc có thể 
      nói và đòi quyền công bằng đối với những kẻ ăn chay. 
      Những tiếng kêu rên, than thở đó vẫn còn bị coi là những 
      tiếng kêu vô vọng trong cánh đồng hoang dã. Ðiều này nên 
      hỏi lại, phải chăng chỉ có thú vật mới thừa hưởng lòng 
      từ bi, bác ái; còn sự sống của giun đất, côn trùng, 
      chuột đồng thì bị thờ ơ quên lãng hay sao? Nếu người ăn 
      chay nghĩ: "Thú vật sẽ hạnh phúc vô cùng nếu trên đời 
      này không có người ăn mặn", thì cũng sẽ công bằng, 
      nếu người ăn mặn nghĩ: "Bò sát, chuột và côn trùng 
      sẽ sung sướng vô cùng nếu trên đời này không có người 
      ăn chay (thực vật)". Chắc chúng sẽ mở tiệc liên hoan 
      trên cánh đồng lúa! 
      [Ðầu trang] 
      
      8. 
      Ăn chay có thể thay đổi tánh nết không? 
      Có một số người nói rằng ăn 
      chay có thể thay đổi tâm tánh con người. Ðây là ý tưởng 
      cho rằng loài thú ăn thịt, độc ác, hung dữ hơn loài thú ăn 
      cây cỏ. Như vậy, câu hỏi được đặt ra là: Lối sống 
      của loài thú đem so sánh với lối sống của loài người có 
      hoàn toàn khác nhau không? Trong thực tế không thể so sánh 
      được vì nhiều người ăn thịt mà tánh lại lương thiện, 
      khiêm cung, lịch sự thành kính và ái mộ tôn giáo. 
      Geoffrey Bell là nhân viên của hội 
      y tế thế giới và tổ chức lương nông, thừa nhận một cách 
      thành thật: "Một người Eskimo có lẽ mãi mãi là người 
      ăn thịt, có thể là Phật tử tốt hơn tôi, mặc dù tôi ăn 
      chay!" 
      Mọi người ai cũng hiểu Adolph 
      Hitler, nhân vật sáng lập Ðảng Quốc Xã Ðức, là con người 
      tuyệt đối ăn chay [19], nhưng với lối sống như vậy, Hitler 
      phải chịu trách nhiệm và hậu quả cho cuộc tàn sát lớn 
      nhất thế giới. Một câu hỏi được đặt ra: Thú vật cần 
      lòng từ bi hơn con người không? 
      Từ ví dụ trên, có thể kết 
      luận rằng: Khi đánh giá lòng từ bi và bác ái; hay sự hung 
      dữ, độc ác của một người mà chỉ dựa trên những gì người 
      ấy ăn là sự đánh giá thiếu thận trọng. Từ sự liên quan 
      trên, ông Jim Brower nói: "Nếu sự thật việc ăn thịt 
      mang lại cho con người sự hung dữ, thì người Eskimo chắc 
      chắn là người có tiếng tăm độc ác và Ấn Ðộ có nhiều 
      người ăn chay chắc chắn sẽ là quốc gia bình yên nhất 
      thế giới!". Không hẳn là vậy! Nếu nói việc ăn chay có 
      thể thay đổi tánh tình một con người thì đó là một lời 
      nói phiến diện, không căn cứ, không minh chứng. 
      [Ðầu trang] 
      
      9. 
      Ăn chay có thể làm giảm mức sát hại không? 
      Nhiều người đã nói rằng người 
      ăn chay cảm thấy đau buồn khi họ trông thấy, lắng nghe, hay 
      tưởng tượng việc giết thú để dùng làm thực phẩm. Cảm 
      giác buồn đau này sẽ thôi thúc họ kiên quyết không ngừng 
      việc thực hành ăn chay. Lời nói này có thật sự đúng hay 
      không? Vấn đề này vẫn còn tranh luận. 
      Thật sự nếu người ăn chay cảm 
      thấy đau buồn, khi nghĩ đến chúng sinh bị giết, thì ít 
      nhất họ cũng ngại ngùng khi sử dụng những bộ phận thân 
      thể thú cho những mục đích khác. Nói một cách khác, khi người 
      ta đã quyết định tránh xa bất kỳ thực phẩm nào làm 
      bằng cá thịt, thì những người đó cũng nên quyết định 
      tránh xa bất kỳ thực phẩm nào khác được làm từ thú 
      vật! Tuy nhiên điều đó dường như không phải vậy. Dễ dàng 
      tìm thấy một cái trống (làm bằng da thú), những ngọn nến 
      (có mỡ thú vật) [20] trong những tu viện Ðại thừa và không 
      khó tìm thấy những tu sĩ Ðại thừa ăn chay mà dùng mật ong 
      (được ép ra từ tổ ong mà trứng và ấu trùng của nó 
      phải chết đi) [21], các vị cũng mặc áo lụa (làm bằng tơ 
      tằm có thể lấy được bằng cách hơ nóng hay luộc kén) và 
      rất dễ dàng tìm thấy người ăn chay sử dụng thắt lưng, 
      giày bằng da [22], và những đồ dùng khác được làm bằng 
      thú vật. Người ăn chay kiên quyết cũng nên tránh sử dụng 
      thuốc vì việc nghiên cứu tạo ra thuốc làm nguy hại hoặc 
      giết hại mạng sống của những con thú được thực hiện 
      cho việc làm thí nghiệm. 
      Nếu cho rằng người ăn mặn (cá 
      thịt) có thể làm gia tăng mức sát hại, thì cũng cần nên 
      nghi vấn lại rằng: sử dụng những đồ dùng nói trên không 
      có cùng những nghiệp lực sao? Giả sử tại thời điểm này, 
      những người Phật tử ăn chay ủy nhiệm cho đức Ðạt Lại 
      Lạt Ma thứ 14 (Tendzin Gyatso) công năng ưu việt, điều đó có 
      nghĩa là "không hề sai trái" tương tự như Ðức Giáo 
      Hoàng của Công giáo, lúc đó ngài có thể tuyên bố về đạo 
      đức, học thuyết ý niệm, và bất cứ những gì liên hệ đến 
      chân lý mà ngài muốn đề cập. Một lối tự do và an toàn, 
      ngài có thể quả quyết: "vì một số lý do thích đáng mà 
      không nên đề cập ở đây, tôi thông báo rằng chỉ ăn mặn 
      mới làm tăng mức sát sinh, còn sử dụng các vật dụng thú 
      vật khác thì không, và các vật dụng đó được cho phép 
      sử dụng nữa!" 
      Thế nhưng, giả sử ngài có năng 
      lực ưu việt đó, Ðức Ðạt Lại Lạt Ma sẽ tư duy nhiều 
      lần trước khi phán như vậy. Lý do đơn giản là ngài không 
      thường ăn chay! Ngài kiêng cử ăn tôm bởi vì ngài bị dị 
      ứng [23]. Việc đề xuất ăn chay ở khắp mọi nơi nhằm làm 
      giảm bớt mức sát sinh hại vật chỉ là một "phương án 
      chưa hoàn hảo". Sự thật chỉ là một ảo tưởng. 
      [Ðầu trang] 
      
      10. 
      Chủ nghĩa ăn chay và thịt nhân tạo 
      Việc tinh tiến trong sự thực hành 
      và quảng cáo lối sống của họ, đa số những người ăn 
      chay hết sức cố gắng tạo một loại thực phẩm mới lạ mà 
      chưa từng có trước đây, đó là "thịt nhân tạo". 
      Thịt nhân tạo này được làm bằng bột mì và nhiều loại 
      gia vị khác, mùi vị hơi giống thịt tự nhiên - thậm chí 
      việc nấu nướng thịt nhân tạo còn khó hơn việc nấu nướng 
      thịt bình thường. 
      Mặc dù phương pháp làm rất tốn 
      công và đắc tiền, ý niệm về sản phẩm thịt nhân tạo 
      rất hấp dẫn và lôi cuốn nhiều người ăn chay hoặc không 
      ăn chay. Những nhà hàng phục vụ những món ăn này bỗng nhiên 
      xuất hiện nhiều trong những thành phố lớn trên thế giới. 
      Thậm chí những tạp chí Phật giáo ở Indonesia đã nhanh chóng 
      đăng những công thức dạy nấu ăn với thực phẩm đồ 
      chay, như gà rang đậu, thịt heo quay. 
      Nhiều câu hỏi được đặt ra cho 
      người ăn chay là thích thú và ăn ngon miệng đối với thịt 
      nhân tạo không? Quan niệm và thực hành về việc sản xuất 
      thịt nhân tạo có liên hệ với tôn giáo ra sao? Nếu thực 
      phẩm ăn là thịt nhân tạo, thì sự trong sạch đạt được 
      cũng không phải sự trong sạch nhân tạo sao? Có phải thực 
      tập như thế chẳng khác nào tẩy một vết dơ tâm trí bằng 
      phương tiện tạo nên một vết dơ tâm trí khác có đáng kinh 
      tởm hơn không? Như vậy điều này có phải là đạo đức 
      cực kỳ giả hay không nhỉ? 
      Dựa trên sự tính toán đã đo lường 
      được, khẩu vị của người ăn chay chắc chắn không kém hơn 
      khẩu vị của người ăn mặn. Lòng ham muốn và phiền não thì 
      không bao giờ tránh được. Thật sự một người ăn chay 
      một thời gian lâu dài có thể đoạn trừ hay quên lãng lòng 
      ham muốn thực phẩm mặn. Tuy nhiên, điều đó không bảo đảm 
      là lòng tham muốn đó sẽ không thay đổi vật thể của nó 
      cho loại thực phẩm khác, thực phẩm chay - ý thức rằng ham 
      muốn thực vật, rau, trái và những sản phẩm nông nghiệp khác 
      là điều tốt đẹp. Như thế lòng ham muốn thật sự không 
      thể đoạn trừ được chỉ bằng sự thay thế hay di chuyển 
      vật thể. Mà lòng ham muốn chỉ có thể đoạn trừ bằng cách 
      tiêu diệt cội nguồn của nó. 
      [Ðầu trang]  |