BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Quà Tặng Cuộc
Đời
Tự Truyện Của Một Tỳ Kheo Ni Người Tây Phương
Ni Sư Ayya Khema
Dịch từ tiếng Anh: Diệu Liên Lý Thu Linh
Chương 10 Con Đường Của Riêng TôiNhư một hồ nước sâu Từ đền của ngài Ramana Maharshi, chúng tôi tiếp tục lái đến thành phố Pondicherry, là một thuộc địa cũ của Pháp. Đây là nơi có ngôi đền của ngài Sri Aurobindo. Chúng tôi đã được nghe ngài Sri Aurobindo, là một nhà thông thái đã từng sống ở đó. Lúc chúng tôi đến đó, ông cũng đã tịch. Một phụ nữ Pháp đang coi sóc ngôi đền, bà là người thân của ngài Sri Aurobindo, và được mọi người gọi là "Mẹ". Đền Sri Aurobindo rộng mênh mông, to gần bằng một thành phố. Khắp nơi đều có những ngôi nhà trong đó mọi hoạt động đều là để phổ biến giáo lý của ngài Sri Aurobindo. Chúng tôi mướn một căn phòng ở trong đền. Người Ấn Độ coi Mẹ là một thánh nữ, điều mà ở Ấn Độ người ta rất dễ dàng được tôn xưng. Dân chúng ở đây có nhu cầu thần thánh hóa mọi chuyện. Tuy nhiên, người Mẹ này tỏ ra là một người rất đặc biệt. Cậu bé Jeffrey và Mẹ kết thân nhau nhanh chóng. Mỗi ngày cậu bé đều tìm đến với Mẹ. Quả là một điều lạ. Mẹ sống khép kín. Ai đến cũng phải báo trước mới được vào. Vậy mà cậu bé mỗi ngày đều trèo lên nơi ở của Mẹ để chuyện trò với bà. Có lẽ bà Mẹ cũng không phiền, vì bà cũng có con. Một trong những người con của bà là một kiến trúc sư, người đã thiết kế một trong những tòa nhà ở tại đền. Giáo lý của ngài Sri Aurobindo đối với tôi có vẻ phức tạp quá. Trong khi, những gì bà Mẹ truyền dạy cho chúng tôi rất đơn giản, thẳng vào vấn đề. Tôi cảm thấy những điều bà dạy gần gủi với mình hơn. Ngoài ra bà cũng dạy tu thiền. Ở đây có một trường học rất đặc biệt, đến nỗi chúng tôi dự định gửi Jeffrey đến học. Ở trường đó, người ta dạy cả những vấn đề thuộc về tâm linh. Nhưng Jeffrey không muốn đi học, vì cậu bé không muốn phải xa cha mẹ. Sân trường rộng mênh mông. Ban đêm chúng tôi thường tụ hợp ở đây dưới bầu trời đầy sao. Ban ngày, trời oi bức không chịu nỗi. Chúng tôi đang ở vào tháng tư, tháng nóng nhất ở Ấn Độ. Nhưng ban đêm thì rất dễ chịu -không khí mát mẻ, trời trong đầy sao. Mẹ hướng dẫn chúng tôi tọa thiền qua máy phóng thanh. Tôi tập làm theo, và cảm thấy ngay lập tức, cách tu này rất thích hợp cho tôi. Những lời chỉ dẫn của bà Mẹ gần giống như trong Phật giáo. Từ lúc đó, tôi bắt đầu tọa thiền. Đến nay là ba mươi bốn năm. Ngay lập tức tôi biết đây là con đường mình đã đi tìm kiếm. Từ giờ tôi có thể áp dụng phương pháp tu thiền để soi rọi lại mình. Mẹ cũng ban cho chúng tôi những lời giáo huấn thực tế, rõ ràng, cởi mở giúp chúng tôi sống hòa hợp với nhau hơn. Sau này bà Mẹ đã thành lập ra một ngôi làng quốc tế, Aurovillie, cho mọi người trên thế giới muốn hướng đến một cuộc sống tâm linh đều có thể tụ họp lại đây. Nhớ đến Bà, lòng tôi tràn đầy sự biết ơn. Chúng tôi đã sống với bà được vài tháng. Đối với tôi, Bà là cánh cửa dẫn đến con đường đạo của tôi. Những lời chỉ dẫn rõ ràng, đơn giản của bà đã giúp tôi biết phải làm gì. Không có nghĩa là những lời của ngài Sri Aurobindo không rõ ràng. (Thực ra, ông chưa hề viết gì, những lời ông nói sau này được người ta viết lại). Nhưng ông ở một trình độ gần giác ngộ, một bước quá xa, một con số quá lớn đối với tôi. Ngược lại, bà Mẹ nói về những chuyện xảy ra cho chúng tôi hằng ngày. Sau những ngày ở lại đền Sri Aurobindo, chúng tôi lại tiếp tục lái xe vòng quanh Ấn Độ. Qua đó, có hai kỷ niệm vẫn còn ghi dấu ấn trong tâm trí tôi. Lúc đó chúng tôi đang ở Calcutta. Chúng tôi đậu xe van trong sân của Câu Lạc bộ Xe Hơi để ngủ qua đêm. Có một người đàn ông thường ngồi bán cam ở góc đường. Tôi bảo Jeff: "Đây con lấy năm rubi ra mua một bịt cam". Cậu bé đi, và không thấy trở lại. Càng lúc càng lâu. Cả tôi và Gerd đều chạy đi tìm cậu bé. Có lẽ Jeff đã hiểu lầm tôi mà chạy ra chợ. Trời bắt đầu tối. Lại một cơn ác mộng giống như ở Iquitos. Nhưng ở Calcutta, chúng tôi càng thêm lo, vì ở đây trẻ con thường bị bắt cóc -bị làm cho tàn tật- rồi được huấn luyện để đi ăn xin, sống trong những gia đình chuyên ăn xin. Đó là những lời đồn đại, tôi không biết có đúng không. Dầu gì, chúng tôi cũng rất đổi lo lắng. Khi không thể tìm ra cậu bé, chúng tôi trở lại Câu Lạc Bộ Xe Hơi báo cho họ biết đứa trẻ đã bị thất lạc. Câu lạc bộ lập tức kêu gọi tất cả những người lái xe gắn máy để chạy đi tìm khắp mọi ngõ ngách. Giữa lúc họ sắp khởi hành, thì Jeff lững thững đi về với một bịch cam trong tay. Chúng tôi tra vấn cậu bé: "Trời đất, con đi đâu vậy?" Jeff trả lời bằng cách kể cho chúng tôi nghe câu chuyện dưới đây. Sau khi mua cam xong, Jeff thấy một người đàn ông dẫn bò đi ngang qua. Ong vắt sữa bò ngay giữa phố, rồi gõ cửa từng nhà, bán cho các bà nội trợ sữa tươi nguyên trong bình. Thế là Jeff đi theo người đàn ông để coi. Sau hồi lâu, cậu bé xin phép được giúp ông vắt sữa bò. Tốt lắm, được ngay, người đàn ông trả lời. Thế là Jeff đi với người đàn ông và con bò từ nhà này qua nhà khác. Ban đầu nó được phép kiềm giữ con bò. Sau, nó được phép vắt sữa. Rồi được phép mang sữa đến từng nhà. Rốt cuộc đã bốn tiếng đồng hồ qua đi, mà cậu bé cũng không hay. Qua chuyện này, tôi quyết định phải dứt bỏ lòng lo lắng cho con, lúc nào cũng nghĩ về con trong đầu tôi. Vì những việc này làm tôi không còn an tâm để vui sống với con. Người mẹ nào, dầu con còn nhỏ hay đã trưởng thành, đều hiểu điều này. Lúc nào bạn cũng sống trong sự lo lắng. Tôi muốn dứt bỏ những phiền não này. Tọa thiền, theo tôi, là cách để thực hiện điều đó. Dầu không phải ngay lập tức, nhưng tôi hy vọng một ngày nào đó tôi có thể thực hiện được. Vì thế mong rằng người đọc không hiểu lầm rằng tôi không yêu thương con cái tôi. Tôi thương chúng hết lòng, cho đến tận ngày hôm nay. Tuy nhiên, tôi hiểu là sự bám víu, lòng sợ hãi chỉ đem lại những ảnh hưởng tiêu cực cho tình thương của tôi. Các con tôi không thuộc về sở hữu của tôi, chúng tự làm chủ mình. Tôi không phải là người canh giữ chúng, cũng như ngược lại. Chúng tôi có liên hệ với nhau, chứ không phải bị cột chặt vào nhau, đó là sự khác biệt. Những kinh nghiệm tôi thâu lượm được trong suốt cuộc hành trình dài đăng đẳng này đã trang bị cho tôi rất nhiều trong cuộc hành trình về tâm linh. Nếu không có chuyến đi với Gerd và Jeff, hẳn là tôi sẽ khó thể hiểu được chính mình. Có lẽ tôi sẽ mãi chui rúc trong căn nhà nhỏ bé xinh xắn của tôi ở San Diego, sẽ làm tròn bổn phận hằng ngày của tôi, và có lẽ dù ba mươi lăm tuổi hay bảy mươi, tôi cũng sẽ chẳng thay đổi nhiều. Tôi sẽ chẳng bao giờ biết được những giới hạn của mình, để có thể vượt qua. Kỷ niệm đáng nhớ thứ hai đối với Ấn Độ là ở một công viên nơi chúng tôi dừng chân nghỉ qua đêm. Lúc đó tôi đang ngồi trước xe, ngó mông lung, bỗng tôi thấy một người mặc đồ trắng, ra vẻ là một tu sĩ người Ấn Độ. Phía sau là một cái đuôi tóc đen bện vào nhau. Tôi nhìn ông, rồi bảo với Gerd: "Anh nhìn kìa. Đó là một người Tây phương!" Cách người Tây phương đi hoàn toàn khác với người Ấn Độ, và vóc dáng của họ cũng khác. Tôi bảo: "Hãy mời ông ta đến dùng trà". Gerd chạy theo người ấy và mời ông về nhà. Đó là một tu sĩ người Úc, pháp danh là Narikutti. Ong rất vui được mời đến xe. Chúng tôi có cái bếp nhỏ để nấu trà đãi khách. Narikutti đi quá giang xe chúng tôi một đoạn đường. Ong giảng cho chúng tôi về thần bí học của Ấn Độ, dựa vào những hình ảnh của các vị thần được vẽ hay được tạc tượng ở những ngôi đền chúng tôi đã viếng thăm. Miền nam Ấn Độ có rất nhiều những ngôi đền hoành tráng, mà phần lớn đều có hình voi. Chúng tôi được biết tên và truyền thuyết về những vị thần như Shiva, Ganesha và Hanuman, nhưng phải thú thật là tôi không phải loại người thích thờ các thần thánh. Tôi chỉ thấy các câu chuyện thú vị, và chúng giúp cho tôi phần nào hiểu về tư duy của người Ấn Độ, chỉ thế thôi. Narikutti cùng với chúng tôi đến Sri Lanka. Sau đó ông trở về lại Ấn Độ, và sống suốt đời trong một hang đá, trên sườn núi Arunachala, kế bên đền của ngài Ramana Maharshi. Ông đã mất lâu rồi, dù ông chỉ lớn hơn tôi đôi, ba tuổi. Sau lần gặp gỡ đó, chúng tôi vẫn liên lạc thư từ với ông. Tôi coi ông là một trong những người thầy của chúng tôi. Có ba người chúng tôi cảm thấy mang ơn rất nhiều, vì họ đã dẫn dắt chúng tôi đến con đường đạo: Ramana Maharshi, bà Mẹ và Narikutti. Chúng tôi ở Ấn Độ khoảng một năm. Thời gian đó, khoảng những năm sáu mươi, có rất ít người du lịch nước ngoài ở Ấn Độ, nên gặp ai chúng tôi cũng dễ dàng kết bạn. Hơn nữa, chúng tôi luôn có thể giúp đỡ họ một cách thiết thực, vì chúng tôi có rất nhiếu thuốc men. Từ Ấn Độ, chúng tôi lấy phà qua Sri Lanka, rồi du lịch khắp nơi. Đúng là một thiên đường. Ở đâu cũng yên tĩnh, ở đâu người dân cũng tươi cười tiếp đón chúng tôi, tặng cho chúng tôi dừa, chuối; chúng tôi có thể đi tắm biển, xem đủ loại cá với những màu sắc rực rỡ. Sau này, tôi thành lập một ni viện ở Sri Lanka, nhưng đó là chuyện mãi sau này. Từ đó, chúng tôi đi thuyền qua Thái Lan -ngẫm nghĩ lại, đúng là càng ngày tôi càng đến gần với Phật giáo hơn. Tất cả những gì chúng tôi thấy ở Bangkok cũng như các thành phố khác ở Thái Lan, đều là những kỳ quan, đáng ngưỡng mộ. Những pho tượng Phật trang nghiêm, các đồ trang trí bằng vàng, tượng Đức Phật được khắc từ một tảng đá quý -tất cả mọi thứ đều quá sức tưởng tượng. Và biết bao nhiêu ngôi chùa lộng lẫy khiến người ta không thể không ngắm nhìn. Chúng tôi quen được một vài vị sư người Thái nói được tiếng Anh, để hỏi họ về Phật giáo. Những điều họ giải thích cho tôi, tựu trung lại cũng chỉ là những hình thức lễ bái, chứ không phải là những vấn đề tôi quan tâm, như là người ta phải sống như thế nào. Từ Thái Lan, chúng tôi qua Campuchia. Ở đó chúng tôi mượn xe đạp để đi thám hiểm Angkor Wat, nơi có những ngôi chùa hoành tráng đã được người Khmer xây dựng rất lâu đời, và đã được các nhà khảo cổ tình cờ khám phá ra. Các ngôi chùa hoang vắng, gần như không có ai ngoài chúng tôi ra. Sự tĩnh lặng, thần bí của nơi này, các tượng Phật, các hình đá chạm khắc những thánh nữ nhảy múa, gây ấn tượng mạnh đối với chúng tôi. Trước khi được khám phá, các ngôi tháp, những hình tượng đều bị rừng rậm che khuất. Các dây leo cắm sâu rể vào những vết nứt. Ở một số chỗ, các ngôi tháp vẫn được giữ nguyên trong rừng rậm. Dưới những tàn cây, những dây leo đan chằn chịt rễ, người ta tìm thấy các pho tượng cổ, và trên hết tất cả là sự tĩnh lặng mênh mông. Ở thủ đô Pnom Penh, chúng tôi lại có thêm một kỷ niệm đáng nhớ. Ở đó có một chợ chim, chim được bán trong các lồng, mà người mua lập tức thả chúng ra để tạo thiện nghiệp. Ngay sau đó, các tay bán chim, lại bắt chúng lại, bỏ vào lồng bán tiếp. Chúng tôi thấy điều đó quá lạ lùng, đến nổi Jeff không cầm được nước mắt. Địa danh kế tiếp là Việt Nam. Mới nhìn vào, Saigon vẫn đầy quyến rũ, như không hề có dấu vết của cuộc chiến tranh đã trở nên khốc liệt ở miền Nam. Nhưng sự có mặt của nhiều phóng viên ngoại quốc ngồi quanh quẩn trong các khách sạn, lại gợi nhớ đến điều đó. Saigon đã không còn là một nơi hoàn toàn yên bình cho du khách. Do đó chúng tôi quyết định lên tàu, nhắm đến Singapore. Ở Singapore, chúng tôi bán chiếc xe van Land Rover, đáp tàu về Freemantle, Úc. Đó là chiếc tàu của một người Hà Lan, trên đó chỉ có đủ phòng cho mười hai khách. Nhưng Jeff được phép xuống tàu, làm người khách thứ mười ba. Cậu bé được ở riêng một cabin, làm cậu rất thích. Chúng tôi được ở cabin của chủ tàu, có đủ cả phòng khách, phòng ngủ và phòng tắm. Người đầu bếp còn nấu cả các món chay cho chúng tôi -trong khi đó là một chuyến tàu buôn chở thịt đông lạnh. Dọc đường chúng tôi ghé vào rất nhiều nơi, kể cả Indonesia và Timor. Chúng tôi được lên bờ, ngắm nhìn các bến cảng, và các khu vực quanh đó. Chúng tôi dừng chân một tuần lễ ở Darwin, hải cảng ở cực bắc của nước Úc. Đó là một cuộc hành trình dễ chịu, khoan khoái, nhàn nhã. Cuối cùng chúng tôi cũng đến Freemantle, hải cảng của thành phố Perth. Chúng tôi xuống tàu. Đó là vào tháng tám, là mùa đông ở Úc. Vì không chuẩn bị, chúng tôi đành đứng trong cái lạnh cóng người. Từ Perth, chúng tôi lại đi đến Sydney, tìm lại được tất cả hành lý ký gửi trước đó, và cả chiếc xe Jeep. Sau đó chúng tôi lái xe Jeep về Queensland ở miền đông, nơi năm năm về trước chúng tôi thích nhất. Chúng tôi mua được một nông trại ở gần Brisbane, thủ đô của Queensland. Khí hậu ở đó rất dễ chịu. Nông trại có diện tích khoảng bảy mươi hai hecta. Quang cảnh chung quanh có núi đồi, thung lũng, cánh đồng và một khu rừng nhiệt đới nguyên thủy, trong đó đầy những hoa lan dại, các loại cây leo và cây cọ. Nông trại còn có một hồ nhỏ, chúng tôi có thể bơi lội hay ra đó hóng mát. Trên nông trại có một ngôi nhà, với điện, điện thoại, một garage bỏ hoang và một chuồng ngựa. Khi người chủ nhà này tự nhiên bỏ đi đâu mất, mọi thứ trở thành sở hữu của ngân hàng. Chủ nhà đã khánh tận. Ngân hàng đòi ba ngàn bảng Anh. Chúng tôi trả hai ngàn, họ cũng vui vẻ nhận ngay. Tính ra chỉ có $2,700 đô Úc cho hai trăm công đất và một ngôi nhà! Đó là một nơi thật lý tưởng. Chúng tôi không phải lo lắng gì. Chủ các nông trại lân cận cũng rất tử tế, đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong những ngày đầu vì cả hai chúng tôi đều là dân thành phố, có biết gì về nông nghiệp đâu. Phần lớn các nông trại chung quanh đều nuôi bò sữa. Chúng tôi suy nghĩ tìm cách sử dụng các cánh đồng của mình vào chuyện khác. Cách nào, cỏ cũng dùng để nuôi gia súc. Nhưng chúng tôi không muốn nuôi, để rồi phải giết chúng. Vì thế chúng tôi quyết định nuôi ngựa giống Shetland, đâu có ai giết ngựa Shetland. Chúng tôi dự định sau này sẽ bán lại cho các gia đình có con thích cưỡi ngựa. "Tôi có một nông trại ở châu Phi". Đó là câu mở đầu trong quyển tiểu thuyết rất nổi tiếng của nhà văn Isak Dinesen. Tôi và Gerd thì có một nông trại ở Úc. Nông trại của chúng tôi là một trong những nông trại thiên nhiên đầu tiên trong khu vực. Chúng tôi trồng các thực vật thiên nhiên, hoàn toàn không dùng thuốc trừ sâu hay bất cứ thuốc gì. Điều đó đòi hỏi bao công sức. Chúng tôi thu hoạch được rất nhiều, đủ để dùng, nên mỗi năm chỉ tốn khoảng một trăm đô la cho thực phẩm. Chúng tôi chỉ phải mua gạo, nho khô và đường cát vàng. Nhưng thường chúng tôi trao đổi hoa mầu thặng dư để lấy những thứ mình cần. Dần dần nông trại thiên nhiên của chúng tôi được nhiều người biết đến, vì Gerd cũng có viết một số bài về nơi này. Nhiều thanh niên nam nữ kéo đến thăm viếng trại. Gerd là người rất năng động (cho đến ngày nay vẫn thế). Trên mảnh đất của chúng tôi, anh đã trồng đến năm trăm loại cây trái khác nhau; ngoài ra anh còn trồng cây vân sam (để làm giấy) và cây xương rồng. Tất cả có hơn hai mươi ngàn loại cây giống, có thể mang đến nguồn lợi tức cho chúng tôi trong tương lai. Các chú ngựa Shetland rất dễ thương. Không có gì đáng yêu hơn một chú ngựa con vừa lọt lòng mẹ, trông như một con chó xù to. Ngoài ra chúng tôi còn nuôi ngựa để cưỡi. Jeffrey có một con ngựa cái rất ngoan, tên là Flicka, chú bé thường ngồi trên mình Flicka đi dạo quanh trại. Flicka được huấn luyện rất thuần, đến nỗi hình như bạn có thể biểu nó làm gì nó cũng làm. Nhưng có lần nó bị kinh động vì một cái lá rơi ngay trước mặt hay gì đó, mà nó bất thình lình dừng lại giữa lúc đang sãi chân, làm Jeff té xuống đất. Tôi đang đứng ở cửa số nhìn xuống. Cậu bé ngã ngữa, không ngồi dậy được. Lúc đó tôi nghĩ rằng: có lẽ nó đã chết. Ngay lúc đó tôi cảm thấy hình như tôi chấp nhận cái chết hay bất cứ điều gì xảy ra cho con tôi. Khoảng một phút sau, nó tỉnh lại, và bắt đầu la khóc; lúc đó tôi biết là nó chưa chết. Nó chỉ bị té bật ngữa, và bất tỉnh giây lát. Đối với tôi, đó là dấu hiệu đầu tiên của việc xả ly đối với con cái. Lần đầu tiên tôi có thể coi Jeffrey và Irene (con gái tôi, vẫn đang sinh sống ở San Diego) là những người tôi thương yêu, nhưng không phải là một bộ phận không thể tách rời khỏi tôi. Nói thế, không có nghĩa đó là dấu hiệu tôi không còn thương yêu chúng, trái lại là khác. Tôi vẫn thương yêu chúng, nhưng không phải bằng tình thương sợ sệt, âu lo, mà tự trong trái tim tôi, một tình thương yêu vô điều kiện, không đòi hỏi gì ở chúng. Tình thương của tôi dành cho chúng, không chỉ lúc chúng còn sống, không chỉ vì chúng phải sống theo cách tôi muốn; chúng phải tùy thuộc vào tôi, chúng phải mang ơn tôi hay phải cư xử thế này, thế nọ. Tất cả đều không thành vấn đề nữa. Đức Phật có một người con trai tên Rahula (La Hầu La), có nghĩa là "sự ràng buộc". Vì Đức Phật biết đứa con là một sự ràng buộc trong tâm ta, nên đã đặt tên đó cho con. Tôi đã hai lần kinh nghiệm tương tự như thế ở Iquitos và Calcutta. Ngoài ra việc tôi để Irene lại nhà, vì cô bé không muốn cùng đi với chúng tôi, cũng không phải là một yếu tố nhỏ. Tất cả đều không phải là việc dễ xử cho tôi. Tôi luôn bị dằn vặt vì không được ở gần con gái. Phải trải qua một thời gian dài trước khi tôi có thể nói: Chúng hiện hữu, chúng là con tôi, tôi yêu chúng vô hạn, nhưng tôi cũng phải chấp nhận cái chết của chúng. Không có thái độ buông xả này, ta khó thể có tình yêu thương thanh thản. Tình thương của ta sẽ đầy lo âu, sợ hãi mất mát. Không dễ gì đoạn diệt được lòng sợ hãi, nhưng vào cái ngày khi Jeff bị té ngựa, tôi đã làm được điều đó. -ooOoo- Chưong 11 Bắt Đầu Cuộc Sống Nơi Tu ViệnSức khỏe là gia sản to lớn nhất Trên trang trại chúng tôi có một ngôi nhà nhỏ, nằm dưới những tàng cây to nên bên trong nhà không khí rất thoáng mát. Các gia đình trong vùng thường chứa sữa bò vắt trong những căn nhà như thế này, cho đến khi thuận tiện họ mới đến lấy đi. Lúc đó, chưa có tủ lạnh. Căn nhà chứa sữa của chúng tôi để trống vì chúng tôi không có nuôi bò sữa. Sau nhiều suy nghĩ, chúng tôi biến nơi đó thành một ngôi nhà thờ nhỏ, một ngôi nhà thờ cho mọi tôn giáo, vì cho tới lúc đó, chúng tôi cũng chưa biết phải theo tôn giáo nào. Các món quà lưu niệm từ những đất nước chúng tôi đã đặt chân đến giờ được trưng bày trong ngôi nhà thờ này. Từ các vị thần của Ấn Độ giáo đến các tượng Phật, hay các tượng thờ của các dân tộc thiểu số. Từ các đồ cổ vật cho đến các đồ dùng trong các buổi lễ của người Do Thái, các loại đèn, chân đèn cầy cũng được trưng bày ra. Trang trại của chúng tôi được gọi là Shalom, tiếng Do Thái có nghĩa là "Hòa Bình". Nơi đây đúng là một nơi yên tĩnh. Chúng tôi vẫn ngồi thiền hằng ngày trong ngôi đền nhỏ đó. Ở trang trại có rất nhiều việc phải làm. Tôi luôn bận rộn vỡ đất, nhỏ cỏ, khiêng đất đá. Tôi thường lo sợ cho sự an toàn của chúng tôi vì ở Shalom thường bị nạn cháy rừng. Một lần có trận cháy rừng tràn xuống đồi vào thung lũng của chúng tôi. Chỉ có những ai đã từng chữa cháy bằng các xô nước mới hiểu được sự cực nhọc và nỗi lo sợ của con người trong những trường hợp như thế. Có cả trăm người hàng xóm đến giúp, chúng tôi mới không bị cháy nhà, cháy cây cối hay gia súc. Chúng tôi nhốt tất cả dê, ngựa vào nhà, và nhờ nhân viên phòng chữa cháy trông hộ. Trong khi cây trái và cả cánh đồng cỏ thì hoàn toàn nhờ vào những xẻng, xô, bao tải của láng giềng và trí thông minh của người nông dân. Phụ nữ thì trèo lên các đồi cao mang bánh mì, thức uống đến cho cánh đàn ông. Sau sáu giờ sống trong sợ hãi, lo lắng, mệt mỏi, khói cay, sức nóng ngột ngạt, chúng tôi đã đẩy lùi được hiểm nguy. Nhưng sau đó chúng tôi phải luân phiên canh chừng cháy suốt trong hai ngày, vì mùa hè ở đây rất dễ sinh ra cháy rừng. Ở Úc, khí hậu rất khắc nghiệt. Người gọi mưa là bão. Vì mỗi cơn mưa đều nhanh chóng trở thành bão. Mỗi năm ít nhất một lần đều có bão lũ ở Queensland, cuốn trôi các mái nhà. Mái nhà của tôi chưa bị thổi mất, nhưng tôi đã từng chứng kiến những thân cây to bị nước cuốn phăng qua các đồi núi, tấp vào khu vườn nhà chúng tôi. Ban đầu, các cơn bão này đều làm tôi sợ. Nhưng dần dần tôi cũng quen đi, không còn cảm thấy hoàn toàn bất lực như lúc đầu. Trang trại của chúng tôi ở chỗ hơi hẻo lánh. Người láng giềng gần nhất cũng xa hơn kílômét. Lớn lên ở thành thị, tôi không hề biết đến những tai hoạ này. Chúng đã làm khổ tôi. Ngoài ra ở Úc cũng có nhiều loại rắn độc khiến tôi không yên tâm chút nào. Phải mãi về sau, tôi mới chấp nhận được chúng cũng là một phần của đời sống thiên nhiên trên trang trại. Đôi khi tôi cũng hồi tưởng về ngôi nhà ở San Diego, về những ngày sống như một người nội trợ, trong một cuộc sống bình thường. Dầu tôi không bao giờ mơ ước trở lại cuộc sống đó, nhưng cuộc sống rày đây mai đó, cuộc sống luôn gần với những bất trắc, hiểm nguy, xa lạ, cũng đòi hỏi ở tôi rất nhiều sự thích ứng. Giờ, nhìn lại, tôi có thể nói rằng trong những lúc hiểm nguy, sợ hãi, người ta chỉ có thể chống trả lại sự sợ hãi bằng cách tìm nguyên nhân tạo tác ra nó. Nếu không thể làm thế, ta sẽ không bao giờ biết được sức mạnh của mình, mà trên phương diện tinh thần thì sức mạnh đó vô bờ bến. Tôi đã rèn luyện được lòng tự tin mãnh liệt. Tôi đã biết con người dầu ở nơi đâu, ngôn ngữ là gì, cũng đều giống nhau. Ai cũng muốn được hạnh phúc, nhưng không mấy ai tìm được hạnh phúc. Điều đó là sự thật không chối cãi được. Cuộc đời là một quá trình của xả ly. Đó là những điều tôi nhận thức được ở thời điểm đó. Tôi không tin rằng, tôi có thể hoàn thành quá trình đó nếu không có những chuyến đi mở rộng tầm mắt của tôi. Tôi không tin rằng tôi có thể trụ lại ở trang trại này dài lâu, nếu tôi đi từ San Diego thẳng đến đây. Ở Shalom, chúng tôi nuôi gà, một đôi công, bảy con dê, hai con ngựa cưỡi, chó mèo và hai mươi lăm con ngựa Shetland. Về ăn uống, chúng tôi theo đúng cách hướng dẫn trong các sách về sức khoẻ. Do đó, chúng tôi không uống cà-phê, trà đậm -chỉ uống nước nấu từ các dược thảo, do chính chúng tôi phơi khô, và dùng rất ít đường. Thay vào đó, chúng tôi dùng mật ong nuôi trong vườn. Dùng sữa và bơ làm từ sữa dê, ăn rau quả do chính chúng tôi trồng, chuối cũng từ vườn nhà, ngũ cốc cũng hoàn toàn không bị phun thuốc trừ sâu hay bất cứ thứ thuốc độc hại nào. Dầu vậy, tôi vẫn bị bịnh thiếu máu. Lúc đầu, tôi hoàn toàn không biết mình bị bịnh gì. Tôi chỉ cảm thấy mệt mỏi, nặng nề, không còn sức lực để trèo lên các cầu thang nhà. Bác sĩ xem bịnh, nói ngay rằng tôi quá xanh. Ong bảo là tôi bị bịnh thiếu máu mãn tính, giải thích rằng căn bịnh đó không thể chữa khỏi. Người ta cứ phải chích vitamin B12 suốt đời. Tôi không hài lòng lắm vì lời chẩn đoán này. Tôi hãy còn trẻ, và không bao giờ tưởng tượng mình có thể mắc những căn bịnh mãn tính. Tôi tự chữa trị mình bằng cách bắt đầu ba tháng tuyệt thực, chỉ uống ròng nước nho. Có nghĩa là cơ thể của tôi không chứa gì hơn là nước trái cây, hoặc vài trái nho đen. Tôi đã biết về cách chữa trị này qua một quyền sách tôi đã đọc. Cách chữa trị này thật hiệu nghiệm. Sau một thời gian, lượng máu của tôi đã trở lại bình thường, và giữ được mãi như thế cho đến ngày nay. Sau lần giải phẩu ung thư ba năm trước đây, độ máu tôi có hơi bất thường, nhưng sau đó, tôi lại làm nó trở lại bình thường. Giờ tôi sống cũng như tôi đã sống, hết sức giản dị, tự nhiên, tránh ăn thịt, là điều quá dễ dàng cho tôi. Một ngày kia, có một tu sĩ Phật giáo đến viếng trang trại của chúng tôi. Ong là người Anh, có tên là Phra Khantipalo. Ong không có nhà cửa, nên chúng tôi mời ông đến tá túc với chúng tôi. Chúng tôi để ông ở tạm trong phòng dành cho khách quen, trong lúc Gerd và ông dựng một cái chòi gỗ, gọi là kuti, cho ông ở giữa rừng trên phần đất của chúng tôi. Được ở cạnh bên ông, chúng tôi đã học được rất nhiều điều. Khi Phra Khantipalo giảng cho chúng tôi về giáo lý của Đức Phật, tôi bỗng nhận ra: những điều đó tôi có thể hiểu và thực hành được. Thí dụ về năm giới. Không được sát sanh; Không trộm cắp; Không nói dối hay nói lời ác độc; Không uống rượu hay sử dụng ma túy; Không tà dâm. Người ta có thể thực hành những điều ngược lại: thương yêu, độ lượng, tín cẩn và trung thành; chánh ngữ và chánh niệm. Đây là lần đầu tiên tôi được nghe những điều mà tôi có thể nói là rất gần gủi, tôi có thể hiểu được ngay, không cần phải suy nghĩ gì. Tôi biết đó là chân lý, biết tôi phải làm gì để thực hiện chúng. Đây là con đường tâm linh thực sự chỉ cho ta biết phải thay đổi như thế nào để đạt được sự thanh tịnh nội tâm. Tôi tổ chức những buổi học để vị tu sĩ này có thể giảng cho tất cả những ai muốn nghe. Ngoài ra tôi cũng mới nhiều vị thầy khác tham dự nữa. Hai chúng tôi tiếp tục lãnh hội nhiều điều từ thầy Phra Khantipalo. Đối với tôi, đây là một dịp may lớn, giúp tôi tìm ra hướng đi cho mình. Tôi luôn suy tư về điều đó. Tôi thấy rất rõ rằng dù cho cuộc sống của chúng tôi lành mạnh, trong sạch, hữu ích, nó cũng không mang lại cho tôi niềm hạnh phúc, sự bình an mà tôi luôn kiếm tìm. Jeffrey đã được mười tám tuổi, đã dọn về thủ đô Brisbane để theo học trường đại học ở đó. Con trai tôi cũng muốn trở thành một kỹ sư điện giống như Gerd, nhưng sau hai năm, nó đã chuyển qua học vi tính. Vì Jeffrey học rất giỏi, nên chính phủ đài thọ tất cả tiền chi phí ăn học của cậu. Một ngày kia, tôi quyết định bay qua Mỹ, viếng thăm thiền viện San Francisco. Rồi từ đó tôi đến Tassajara, một nơi rất đẹp trong thung lũng ở phía bên kia dãy núi Carmel, dọc theo bãi biển California. Nơi đó có các suối nước nóng và một cái hồ trên núi lớn. Tôi đã ở đó khoảng ba tháng để học hỏi về thiền Phật giáo. Thật là một khoảng thời gian tuyệt vời. Tôi không phải trả một chi phí nào, vì tôi làm việc ở đó. Công việc của tôi là giữ cho các buồng tắm được sạch sẻ. Do đó tôi có thể tắm suối nước nóng tùy thích, lúc nào cũng được. Chỉ có điều ở đây tôi không được nghe Phra Khantipalo giảng về Phật pháp. Thiền Phật giáo dựa vào những giáo lý được truyền từ các vị Thiền sư qua bao nhiêu thế kỷ. Thiền được truyền đến Trung Hoa vào thế kỷ thứ sáu, sau đó, vào thế kỷ thứ mười hai, thiền có mặt ở Nhật bản. Và ở đâu thiền cũng được phát triển mà vẫn hoà hợp với văn hóa của Trung quốc cũng như Nhật bản. Điều đó cũng đã xảy ra với Phật giáo Tây tạng, Phật giáo vẫn phát triển theo văn hóa của Tây tạng. Tôi theo Phật giáo Nguyên Thủy, tuân theo những lời dạy của Đức Phật từ hơn 2500 trước đây. Chúng tôi rất mong là Phật giáo sẽ được phát triển ở Tây phương để nó trở thành tự nhiên, bình thường. Phật giáo có thể đóng góp vào việc làm giàu thêm đời sống tôn giáo ở châu Au, mà vần không đàn áp những tôn giáo hiện hành. Khi trở về Úc, tôi có cảm tưởng rằng Gerd không bằng lòng việc tôi đi vắng quá lâu. Dầu gì chúng tôi cũng lại sum họp, và tôi có bao điều để tâm sự với anh. Suy cho cũng, anh cũng rất thích Phật giáo. Tôi chắc rằng anh cũng mong ước tôi đã tìm được con đường đi đúng. Nhưng lúc đó tôi không hề biết rằng anh không có nỗi say mê tìm hiểu về Phật giáo sâu xa, quyết liệt như tôi. Sau này, tôi mới hiểu sự vắng mặt của tôi khiến anh hiểu lầm là tôi không ủng hộ mô hình nông nghiệp thiên nhiên của anh. Nhưng lúc đầu, tôi không hề để ý đến những vấn đề này. Trang trại của chúng tôi, ngôi đền nhỏ và cái kuti (thất) trong rừng đã lôi cuốn nhiều vị thầy khác. Họ đến, nói pháp và dạy chúng tôi nhiều phương pháp tọa thiền. Tôi lại bay sang Burma. Vào những ngày đó, du khách chỉ được phép ở đó bảy ngày. Sau đó bạn phải ra khỏi xứ, và trở lại với một thông hành mới. Tôi đã phải làm như thế đến ba lần. Ba lần bảy ngày tôi tham thiền ở một trung tâm thiền dưới sự hướng dẫn của các đệ tử của ngài U Bha Khin, là một cư sĩ. U Bha Khin là bộ trưởng tài chánh của chính phủ Burma. Ong có chính sách là chỉ những ai đã qua một khóa tu thiền với ông, mới được phép làm việc với ông. Theo chỗ tôi biết, nhờ chính sách này, mà bộ tài chánh đã làm rất tốt nhiệm vụ của mình. Từ Burma, tôi quay trở về nhà. Nhưng từ đó trở đi, tôi càng vắng nhà thường hơn. Khi thì tôi tham dự các khóa thiền lúc lại tự mình tổ chức. Đến một lúc, các vị thầy của tôi bảo rằng chính tôi cũng có thể dạy thiền cho nhiều người khác trên trang trại. Chúng tôi nới rộng nhà để xe ra để nhiều người có thể tham dự hơn. Tôi dự định đến tháng tư, Gerd và tôi sẽ dạy chung một khóa. Gerd đã gửi giấy mời. Anh đã có ý định sẽ dạy yoga cho những người tham dự. Nhưng bốn tuần trước ngày khai mạc, tôi lại đi về phía nam nước Úc để tổ chức một khóa thiền khác. Khi tôi trở về, Jeffrey đứng đợi tôi ở nhà ga xe lửa. Tôi hỏi: "Ba con đâu?" Nó trả lời: "Có lá thư đây". Tôi không tin những điều xảy ra trước mắt là sự thực. Trong thư, Gerd bảo là anh phải ra đi. Anh tin rằng tôi sẽ tiến xa hơn trong thế giới tâm linh, nếu như không có anh ở bên cạnh. Ngày nay, tôi thấy rằng anh đã nói đúng. Tôi luôn nghĩ là chúng tôi có thể cùng đi trên một con đường với nhau, và đúng, chúng tôi cũng đã đi với nhau một đoạn đường khá dài. Nhưng anh không thể dâng hiến tất cả cho con đường đạo như tôi. Lúc đó, tôi chỉ biết sợ hãi và giận dữ. Vì tôi phải làm gì đây với một trang trại mênh mông, hai mươi lăm con ngựa, máy móc -tất cả những của cải, tài sản của chúng tôi. Gerd không mang theo một thứ gì. Anh chỉ ra đi với chiếc balô trên lưng. Có thể cuộc sống ở thôn quê quá nhàn rỗi đối với anh. Chúng tôi đã xây dựng nên cơ ngơi ở đây, đã đổ bao mồ hôi để tất cả được như ngày nay. Tất cả đã vào nền nếp, không cần phải thay đổi gì, không cần phải làm gì thêm nữa. Có lẽ đó là lý do đã khiến Gerd không còn tìm thấy hứng thú ở lại nơi đây. Anh đã từng và vẫn còn đến ngày nay, mang tinh thần của người khai hoang. Chúng tôi đã sống trên trang trại này tổng cộng được mười bốn năm. Đứng ở sân ga, với lá thư trong tay, ngay trong những giây phút đó tôi đã thấy rõ ràng tôi không thể tự mình điều khiển trang trại. Và thực tế điều đó đã nhanh chóng được chứng minh. Bắt đầu là, tôi không biết sử dụng các máy móc. Thí dụ, tôi không biết sửa máy bơm để bơm nước từ ngoài suối vào nhà. Jeffrey thì đi học ở Brisbane. Cuối tuần con tôi cũng về để giúp tôi, nhưng nó không quen với công việc ở trang trại, nên rất khó nhọc cho nó. Tôi quyết định bán trang trại. Nhưng cũng không phải là việc dễ làm ở thời điểm đó. Người ta không mua bất động sản vì kinh tế đang gặp khó khăn. Không ai có tiền nhiều. Tôi bèn bán trước đàn ngựa. Cũng may là có người mua ngay. Nhưng bạn cũng phải biết cách chuyên chở ngựa đi. Tôi chỉ biết cách làm trên lý thuyết, còn thực tế Gerd là người luôn đảm trách những việc này. Kết quả là tôi đã bị ngựa đá. Đúng là khó chuyên chở ngựa trên những chiếc xe kéo. Sau đó tôi bán những thứ tài sản giá trị khác với giá rẻ, để có thể thanh toán mọi thứ nhanh chóng. Những gì không bán được, tôi vứt đi. Trong lúc hỗn độn đó, tôi đã vứt đi những giấy tờ mà sau này tôi rất cần. Cuối cùng có một nhóm người thích đời sống thiên nhiên, đã tụ lại thành câu lạc bộ. Câu lạc bộ này muốn mua lại trang trại của tôi -với một số tiền đặt cọc. Tôi phải làm hợp đồng coi như tôi cũng là một thành viên trong tổ chức, chỉ như thế công việc mua bán mới tạm yên. Tôi vào ở một tu viện Phật giáo ở Sydney, nơi thầy Phra Khantipalo đang tu. Ở đó có nhà cho các cư sĩ ở. Mỗi hai tuần, tôi phải trở lại trang trại để thu xếp một số công việc ở đó. Đó là điều không thể tránh khỏi, vì các thành viên câu lạc bộ không biết điều hành công việc ở trang trại. Tuy họ thích trở về sống với thiên nhiên, nhưng họ không muốn phải bỏ công chăm sóc thiên nhiên. Vì thế nhiều cây trái vườn tược bị hư hỏng, kể cả vườn hồng tuyệt đẹp của chúng tôi. Thầy Phra Khantipalo nhờ tôi giúp trong việc thuyết pháp. Lần đầu tiên tôi giảng pháp một mình ở trang trại -trong căn nhà để xe mà tôi và Gerd đã sửa rộng ra. Có khoảng mười người đến dự, tôi hướng dẫn họ cách tọa thiền. Tôi rất vui mừng vì đã có thể đem lại lợi ích cho người khác. Gerd có viết thư cho Jeff, báo tin anh đang ở Do Thái. Nhưng anh không dừng chân lại đó lâu. Sau đó, anh đã đi khá nhiều nơi. Giờ anh làm chủ bốn mẫu đất ở Nepal, có hàng trăm cây trồng. Trong khoảng nữa năm đó, tôi phải đương đầu với nhiều vấn đề, khiến tôi cảm thấy phiền não, khổ đau. Một buổi sáng kia, sau khi thức dậy, mọi việc bỗng vỡ oà ra, như thể trước đây có tấm màn chắn che trước mắt tôi. Thật kỳ quặc, tôi nhận ra chính tôi là người tự làm khổ mình. Tôi chỉ cần nói (hay nghĩ): tất cả mọi việc hiện hữu như chúng phải hiện hữu, nên dù chúng có thế nào cũng được. Ngay lúc đó, tôi bỏ qua được hết tất cả bao nhiêu chuyện chất chứa trong lòng khiến tôi đau khổ, chán nản. Nói cách khác, tôi đã vượt ra khỏi những tình cảm tiêu cực của mình. Từ đó đến nay, tôi chưa bao giờ tự làm khổ mình như thế nữa. Và tôi đã có thể, cho đến ngày nay, có khả năng giải thích cho người khác hiểu được phương pháp thực hành này. Nhưng còn việc họ có thực hành được không, còn tùy thuộc vào sức mạnh tinh thần của họ. Cuối cùng tôi cũng bán được trang trại Shalom của mình. Chúng tôi -câu lạc bộ và tôi- cũng được ít tiền. Chí ít thôi, vì chúng tôi bán không được giá. Dầu gì, bao nhiêu lo âu của tôi đều đã qua đi. Như thế là tôi phải dọn đến Sydney. Thầy Phra Khantipalo muốn xây dựng một tu viện ở trong rừng. Tôi có ít tiền do bán được trang trại, cộng với gia tài của mẹ tôi- người đã mất năm ngoái- để lại. Tôi bỏ hết cả tiền vào việc lập tu viện, Wat Buddha Dhamma. Thầy Phra Khantipalo và tôi, sau nhiều tháng kiếm tìm, đã chọn được một nơi thích hợp ở giữa một công viên quốc gia -bảy mươi hecta, gần bằng diện tích trang trại Shalom. Thầy Phra Khantipalo làm trụ trì. Tôi coi quản lý, sắp xếp công việc. Và cả hai chúng tôi đều làm nhiệm vụ giảng dạy. Dần dần nhiều dãy nhà được xây lên, trong đó có một thiền đường. Một cái thất (kuti) dễ thương được cất cho tôi trên triền núi. Lần lần có nhiều kuti khác cũng được cất lên dành cho những người thích theo đuổi cuộc sống tâm linh, để tìm được sự an bình cho tâm hồn. Có khá nhiều người đến ủng hộ để Wat Buddha Dhamma có thể được duy trì. Tất cả mọi người đều đóng góp vào kinh phí xây dựng. Đến nay, tu viện này đã có mặt hơn hai mươi năm rồi. Lúc đầu chỉ có Phra Khantipalo và tôi là thành viên trong hội đồng quản trị. Ngày nay chúng tôi có cả thảy là bốn thành viên. Một trong các đệ tử của tôi, đại diện cho tôi. Từ đó trở đi, giáo lý của Đức Phật dẫn dắt cuộc đời tôi. Theo giáo lý này, ta cần phải thực hiện bốn điểm chính, như sau: - Không cho phép những tư tưởng xấu ác chưa dấy khởi được phát khởi -nói cách khác là tránh xa chúng. - Không duy trì những tư tưởng ác xấu, khi chúng đã dấy khởi -nói cách khác là làm chủ chúng. - Hãy phát khởi những ý nghĩ thiện chưa dấy khởi -nói cách khác là tìm cách phát khởi các thiện ý. - Hãy làm lớn mạnh hơn nữa những tư tuởng thiện đã được dấy khởi -nói cách khác là duy trì, phát triển chúng. Tránh xa, làm chủ, phát khởi, duy trì: đây là cửa ngỏ đưa đến cuộc sống tâm linh. Điều đó có nghĩa là ta phải luôn kiểm soát và làm chủ tư tưởng của ta. Nếu chúng là các tư tưởng xấu ác, tiêu cực, sân hận, bực tức, ta cần phải biết là chúng chỉ mang đến cho ta đau khổ, phiền não. Bằng phương pháp tọa thiền, ta dần thay thế chúng bằng những tư tưởng tìch cực, thương yêu, giúp đỡ. Nhưng điều này không phải có thể dễ dàng thực hiện ngay. Không đơn giản như thế. Ta cần phải thực hành những phương pháp này. Trong quá trình chuyển đổi, ta cần phải đi từng bước. Phải dần bỏ các tư tưởng tiêu cực, và thay thế chúng bằng những tư tưởng thiện: Hãy nghĩ đến một cánh đồng đầy bông hoa, một mảng âm nhạc ru hồn. Hay bạn có thể nghĩ đến những người bạn thương yêu. Như thế, bạn có thể hướng tâm mình đến những điều có thể đem lại niềm vui cho tâm bạn, tình cảm bạn. Khi đã thực hiện được những điều này, bạn có thể trở lại với tư tưởng ban đầu và cố gắng chuyển đổi chúng. Nếu bạn thấy bực tức, sân hận với ai, hãy nghĩ đến những tánh tốt khác của họ. Muốn thấu hiểu được giáo lý của Đức Phật, cũng như trong quá trình phát triển tâm linh, ta cần phải thực hành được những điều trên. Ngay từ lúc chưa có được sự hiểu biết thấu đáo về Phật pháp, tôi vẫn nhận thức được điều đó. Tôi tự biết rằng việc mình tự làm khổ mình là một hành động điên rồ, nhưng hình như ai cũng dễ dàng mắc phải. Trong những ngày còn sống ở Thượng Hải, ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, tôi đã tranh đấu với bản thân, để tận trong thâm tâm, tôi không còn lòng thù hận họ, mà có thể hàn gắn với đất nước Đức với người Đức. Tôi đã nghĩ rằng những tư tưởng hận thù không có lợi ích gì hơn là những đám mây đen che phủ cuộc đời tôi. Sau này tôi tìm thấy những điều tôi đã mơ hồ nghĩ đến được giải thích rõ ràng trong các kinh điển của Đức Phật. Bốn yếu tố (Tứ Chánh Cần) quan trọng trên nằm trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo đưa ta đến Giác Ngộ giải thoát. Không có khóa tu nào, bài giảng nào, mà tôi không lồng vào đó những lời dạy chí thiết này. Một khi bạn đã thực hành nhuần nhuyễn, chúng trở thành thói quen khiến ta không bao giờ để các tư tưởng xấu ác có thể dấy khởi. Ta xa lánh chúng. Không có nghĩa là ta đè nén chúng. Hiện nay nhiều người lập luận rằng: Ta không nên đè nén gì cả, ta cần phải để mọi thứ trong ta tuôn tràn. Đó là cách suy nghĩ của nhiều người. Nhưng ở đây không phải là vấn đề của đè nén, mà là xa lánh, tránh xa. Trong mỗi con người đều có cái tốt, cái xấu. Nếu ta chỉ vun trồng cho cái tốt, thì một ngày kia cái xấu sẽ biến mất. Một khía cạnh quan trọng nữa trong giáo lý của Đức Phật là thái độ xả ly. Con đường đưa đến việc thực hành xả ly nằm trong năm điều sau. Mỗi ngày ta cần quán tưởng về chúng: - Tôi cũng sẽ bị hoại diệt, không thể trốn tránh điều đó. - Tôi cũng sẽ bị bịnh hoạn, không thể trốn tránh điều đó. - Tôi cũng sẽ chết đi, không thể trốn tránh điều đó. - Tất cả mọi thứ tôi sở hữu, thương yêu, đều sẽ đổi thay, hoại diệt. - Tôi làm chủ nghiệp của mình, là kẻ thừa hưởng nghiệp do mình tạo ra, dù là tốt hay xấu. "Tất cả mọi thứ tôi sở hữu, thương yêu đều thay đổi" rất đúng khi áp dụng vào các mối liên hệ cha mẹ, con cái hay vợ chồng. Con cái từ lúc ta sinh chúng ra, chúng đã không ngừng thay đổi. Rồi chúng có thể biến khỏi đời ta bất cứ lúc nào. Các liên hệ giữa những người yêu nhau cũng thế. Rõ ràng không có ai trong chúng ta nghĩ là con cái hay người ta thương thuộc sở hữu của mình. Tuy nhiên tình cảm ta thì nghĩ như thế về họ, và luôn muốn ràng buộc họ. Vì thế đã có nhiều vấn đề về tình cảm xảy ra trong các gia đình. Chúng ta muốn điều khiển người thân của mình. Chúng ta nghĩ là mình có thể quyết định việc phát triển của con cái, có thể quyết định những gì con cái mình phải làm hay không nên làm. Chúng ta không những muốn sở hữu con cái hay người thương, mà còn muốn họ phải sống theo ý ta muốn, làm theo những điều ta đòi hỏi, mong đợi ở họ. Nhưng tất cả đều là hoài công. Chúng ta phải thực tập xả ly nếu ta muốn được sống và thương yêu trong sự tự do. Đức Phật đã nói, thân này không thuộc ta, thì làm sao người khác có thể là ta? Mỗi người tự tạo nghiệp cho mình. Ở đây tôi muốn giải thích thêm về một phần trong giáo lý của Đức Phật, có liên quan trực tiếp đến tôi -và như tôi biết qua kinh nghiệm- cũng liên quan đến rất nhiều người khác. Tình yêu cao thượng không đòi hỏi sự sở hữu, mà chỉ có ban phát rộng rãi. Qua thời gian, tôi càng thấm thía với những điều này sâu xa hơn. Vào năm 1979 tôi quyết định xuất gia. Cho đến thời điểm đó, tôi đã khá từng trải, để nhận thấy rằng tất cả mọi thứ trên cõi này đều không thể mang đến hạnh phúc cho ta. Trong các cuộc hành trình, tôi đã hiểu rằng sự tĩnh lặng, an bình không phải do những thắng cảnh tuyệt vời trên trái đất mang đến cho ta. Chúng chỉ có thể được tìm thấy trong trái tim ta. Giờ tôi đã sẳn sàng để dâng hiến cuộc đời mình cho lý tưởng cao đẹp nhất. -ooOoo- Chương 12 Ilse Trở Thành Ayya Khema Được sinh làm người là khó, -- Kinh Pháp Cú - 182 Tôi đã quay trở lại quãng đời quá khứ để tả cho độc giả những đoạn đường khúc khủy tôi đã đi qua, trước khi tìm được con đường đạo. Trước khi biết đến Phật giáo, tôi đã đi tìm con đường trong chính tôn giáo của mình. Tôi đã sinh ra là người Do Thái, nên dù không được giáo huấn trong ý nghĩa của một tôn giáo chính thống, tôi vẫn có những mối liên hệ với Do Thái, với tín ngưỡng Do Thái. Khi bạn sinh ra làm người Do Thái, bạn không thể chối bỏ nguồn gốc Do Thái của mình. Tôi nghĩ điều đó không liên quan gì đến tín ngưỡng. Đó chỉ là một cảm giác về chủng tộc. Theo bản năng, khi tiếp chuyện với ai, tôi có thể đoán biết người đó có phải là người Do Thái không. Có một 'cung cách' tiêu biểu nào đó khiến người ta dễ nhận biết nhau. Năm Jeff được mười ba tuổi, tôi đem con đến gặp thầy rabbi (thầy tu trong đạo Do Thái). Ở tuổi đó, con trai phải làm lễ Bar Mitzvah, để bước vào tuổi trưởng thành. Gerd, chồng tôi đã lớn lên trong truyền thống Do Thái, tự giới thiệu mình bằng tên trong đạo Do Thái. Tôi hoàn toàn không biết mình có tên Do Thái hay không. Thầy Rabbi nhìn tôi rất lâu, hỏi: "Vậy cô không phải là người Do Thái sao?" Gerd trả lời: "Dĩ nhiên cô ấy là người Do Thái rồi. Chỉ có điều cô ấy không được giáo dục về điều đó". Rồi họ nhanh chóng tìm cho tôi một cái tên. Tôi hoàn toàn không có hiểu biết gì về vấn đề này. Sau đó tôi bỏ một khoảng thời gian tìm tòi, học hỏi về những kiến thức tôi đã thiếu sót. Tôi đã đọc rất nhiều sách, thí dụ như Zohar và những sách khác về Kabbalah. Nhưng tôi không hiểu gì nhiều. Hình như họ ở một cung bậc mà tôi không với tới. Rồi khi chúng tôi về sống ở Shalom, tôi được biết về một tổ chức quốc tế, có tên là Chabad dạy về Thần Bí (Hasidism) trong đạo Do Thái. Trụ sở của họ được đặt ở Sydney, Úc. Tôi đã đến tìm vị thầy phụ trách ở đó. Ong là một giáo sư toán ở đại học Sydney, có vợ và sáu con. Mỗi tối ông đều giảng kinh sách tại nhà riêng. Tôi đã đến nghe ông, và hiểu rằng để có thể bước vào những giáo lý huyền bí này, trước hết người ta cần phải biết tiếng Hebrew. Tôi thuộc lòng một số bài kinh chủ yếu, nhưng không biết tiếng Hebrew, nói gì đến việc đọc. Bên cạnh đó, tôi còn phải chấp nhận lối sống theo đạo chính thống. Có nghĩa là nếp sống trong gia đình phải theo các điều luật kosher, mà tôi không biết đến những điều căn bản, cho nên điều đó là không tưởng. Và điều thứ ba đòi hỏi tôi phải là nam giới. Coi như trong trường hợp của tôi, không thể xảy ra rồi. Nói rõ lại, là nữ giới, tôi chỉ được phép lắng nghe, chứ không thể tham dự vào. Tôi cũng có viết thư cho Gershom Scholem, người được coi là tiếng nói của Kabbalah, mà tôi có đọc qua sách của ông. Gershom từng là giáo sư ở Đại học Hebrew ở Jerusalem, nhưng ông đã nghĩ hưu, hiện sống tại Thụy điển. Tôi nhờ ông làm nhịp cầu để tôi có thể hiểu được Kabbalah và Zohar. Ông lập tức hồi âm cho tôi biết là gần ba mươi năm về trước đã có những trường dạy về các giáo lý này ở ngoài Jerusalem. Trường có tên là Beth El (Nhà của Chúa), nhưng trường này bị đóng cửa vì thiếu thầy, thiếu trò. Đó là lúc tôi bỏ không theo đuổi con đường này nữa. Gần đây, tôi tình cờ đọc được một cuốn sách rất thú vị, tựa là Người Do Thái Bên Cánh Sen (The Jew In The Lotus). Cuốn sách kể lại một cuộc gặp gỡ ở Dharamsala, là nơi trú ngụ của Đức Đạt lai Lạt Ma trong lúc lưu vong. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mời một phái đoàn người Do Thái gồm các thầy Rabbi và các nhà lãnh đạo của những đoàn thể tôn giáo Do Thái đến thăm hỏi. Ngài muốn tìm hiểu tại sao người Do Thái có thể duy trì được dân tộc tính và tôn giáo qua hai ngàn năm lưu vong. Đó là câu hỏi người Tây tạng rất muốn được trả lời. Điều làm tôi cảm động nhất là phần diễn tả buổi gặp gỡ giữa những người tham dự hội thảo và khoảng chục người Do Thái đã xuất gia làm tăng ni theo truyền thống Tây tạng. Các vị tăng ni này hiện đang tu học, và sinh sống tại Dharamsala. Tất cả đều có cùng câu chuyện để kể như tôi đã kể. Nghĩa là họ đã tìm hiểu, đào sâu vào những khía cạnh thần bí của chính tôn giáo họ, nhưng không tìm được sự đồng cảm, do đó họ đã tìm đến với Phật giáo, với tất cả lòng tin của họ. Quyết định xuất gia tu theo Phật giáo không phải là điều dễ dàng đối với tôi. Trước khi dứt khoát hẳn, tôi đã tham dự một khóa an cư ba tháng trong một tu viện ở Thái Lan. Trong những tháng tám, chín và mười, trời mưa liên miên ở Ấn Độ. Và ở Thái Lan, mưa rất lớn. Khóa an cư bao giờ cũng bắt đầu vào một ngày rằm, do đó ngày theo dương lịch mỗi năm lại nhích thêm một chút. Đức Phật ngày xưa dành những tháng này cho các tăng ni được ở lại trong chùa, chuyên tâm tu học, tham thiền. Đồ vật thực sẽ được mang đến cúng dường cho họ tại chùa. Lý do rất thực tiễn và đáng ngưỡng mộ. Vì thời đó, Đức Thế Tôn có rất nhiều đệ tử, hằng ngày phải băng qua những cánh đồng để đi khất thực ở từng nhà. Vào mùa mưa, người nông dân đến thưa cùng Phật rằng các vị tăng ni khi đi qua các ruộng đồng đã dẫm lên các gốc mạ non, ẩn mình dưới nước, nên khó thấy. Và cuộc sống của họ tùy thuộc vào sự lớn mạnh của cây lúa. Đức Phật quyết định không để việc này tiếp tục xảy ra. Cách tốt nhất là giữ họ ở lại trong các tu viện. Từ đó sinh ra lệ an cư vào mùa mưa, kéo dài cho đến ngày nay. Ở Tây phương, thời điểm an cư được thay đổi cho phù hợp với khí hậu ở mỗi xứ sở. Chúng tôi thường an cư vào mùa đông, khi có tuyết đá rơi phủ, đó cũng là lúc ta nên ở trong nhà hơn đi ra ngoài. Thế là tôi đã đến Thái Lan trong ba tháng, ở trong một tu viện nằm giữa một rừng cây rất đẹp. Ở đó có một vị pháp sư được nhiều người biết đến qua tên Tan Ajahn Singtong. Mẹ của Sư đã hơn tám mươi tuổi sống cùng với các sư cô ở khu vực dành cho ni giới. Mỗi ngày Sư đều đến viếng thăm mẹ và giảng pháp, có người dịch lại những bài giảng đó cho tôi. Tôi cố học tiếng Thái, nhưng tôi không thể nào quen được với các âm ngữ như tiếng nhạc của họ, nên đành bó tay. Đó là một ngôn ngữ bằng thanh âm. Cùng một chữ nhưng có thể có năm dấu nhấn khác nhau, tạo nên năm nghĩa khác nhau. Tôi hoàn toàn không thể phân biệt được chúng. Đối với nhiều người, thì việc đó không khó khăn gì. Tôi còn nhớ vài kỷ niệm về chuyến tu học này. Trước hết là ngồi kiết già trên sàn gỗ để tọa thiền, không có gối thiền. Những thứ này phải tập mới quen, nên tôi cũng phải mất một thời gian mới làm được. Một việc nữa, đã gây ấn tượng lạ trong tôi, là được thấy các Phật tử trong vùng, hằng ngày mang rất nhiều thức ăn đến tu viện cúng dường, để tỏ lòng thành kính với Đức Phật và tăng chúng. Đó là một trong những phong tục tôi không chấp nhận ở những tu viện do tôi thành lập sau này. Đức Phật đã tuyên bố Người không muốn tạo ra một tôn giáo thực phẩm, hẳn là phải có lý do. Ngoài ra tôi cũng không chấp nhận được một số phong tục khác ở Thái Lan. Nhưng tôi cũng phải làm kẻ bàng quang, đứng nhìn các ni ở Thái Lan chỉ giữ những vị trí phụ cần. Họ không được gọi là sư cô, mà là "những phụ nữ áo trắng". Tôi không cảm thấy hào hứng lắm về những chuyện này. Nửa khóa an cư còn lại, tôi đến ở một tu viện khác trong rừng, nơi trưởng lão Tan Ajahn Mahabova sinh sống, tôi được nghe nói, Ngài là người đã được Giác Ngộ. Cả hai vị Tan Ajahn Singtong và Tan Ajahn Mahabova đều là những vị thầy đáng kính. Tôi mang ơn họ rất nhiều. Có câu chuyện được kể về họ như sau. Khi nhà vua Bhumipol của Thái Lan làm lễ mừng thọ sáu mươi tuổi, nhà vua mời những vị tăng nổi tiếng trong nước đến dự, trong đó có hai thầy. Trưởng lão Tan Ajahn Mahabova trả lời, "Nếu nhà vua muốn gặp tôi, thì mời ngài đến đây". Trong khi thầy Tan Ajahn Singtong nhận lời mời, cùng với chín vị tăng khác, lên máy bay do nhà vua gửi đến chở họ đi. Máy bay rớt, tất cả hành khách đều tử nạn. Chuyện đó xảy ra mười năm sau khi tôi đến Thái Lan. Thời gian tu tập ở hai tu viện đã để lại cho tôi nhiều kỷ niệm sâu xa. Ở cả hai nơi, tôi đều được nghe Pháp bằng những bài dịch khá tốt. Nhưng sự khó khăn về ngôn ngữ và vai trò phụ thuộc của ni giới, khiến tôi chẳng thiết muốn được trở thành một sư cô ở đó. Tôi đã từng thấy nhiều vị ni phải bỏ cả buổi sáng để lo cơm nước cho các tăng mỗi ngày! Tôi đã phải nấu ăn cho gia đình tôi hơn ba mươi năm rồi, vì thế đó chẳng phải là một hình ảnh tương lai hấp dẫn cho tôi. Trở về Úc, tôi thưa với thầy Phra Khantipalo, "Con muốn trở thành một sư cô, nhưng không phải ở Thái Lan". Tôi đã chọn một nơi khác -đó là Sri Lanka. Tôi vẫn còn nhớ đến vẻ đẹp của xứ sở mà chúng tôi đã một lần du lịch qua đó -giống như những cảnh thiên đáng! Và vì Sri Lanka từng là thuộc địa của Anh hơn một trăm năm, nên rất nhiều người nơi đó có thể nói được tiếng Anh. Ở đây, tôi muốn trở lại lý do vì sao tôi muốn xuất gia. Lúc này tôi đã năm mươi lăm tuổi, đã đi khắp nơi trên thế giới. Tôi đã có con, có cháu. Tôi đã có mái ấm gia đình. Đã có tài sản. Tôi đã từng rơi vào cảnh nghèo khổ, rồi cũng có lúc làm người giàu có. Tôi đã từng làm chủ một trang trại, với những con ngựa Shetland. Tôi đã từng sống ở những đô thị lớn của Mỹ, cũng như đã lang thang sống trong chiếc xe van, ngủ trên giường xếp, ăn uống ở những bếp cắm trại. Tôi đã từng là thư ký ngân hàng, là cô giáo của con trai tôi. Nghĩa là không ít thì nhiều tôi đã từng trải qua tất cả. Cuộc đời còn gì cho tôi nữa? Cuộc sống không thể mang lại cho con người sự bình an và hạnh phúc nội tâm, vì tất cả mọi thứ trên đời đều vô thường. Tất cả những gì tôi vừa kể đã là quá khứ, đã qua đi. Tất cả những gì tôi kể lại ở đây chỉ còn là ký ức, và còn nhiều thứ mà tôi không thể nhớ đến nữa. Tất cả đều biến mất trong dòng chảy của thời gian. Tôi đã sống một cuộc đời đầy biến động. Không phải do sự sắp đặt của tôi, tất cả mọi việc đều tự nó đến. Tôi còn tìm kiếm gì nữa ngoài chính bản thân tôi? Đã tới lúc để giã từ đời sống thế tục. Nói như thế có vẻ như tôi đang quay lưng lại với cuộc đời, dĩ nhiên là tôi cũng đã từng nhiều lần làm như thế. Nhưng không ai có thể hoàn toàn xa lánh cuộc đời. Một khi ta còn có thân, ta còn phải sống trong thế giới này. Ta còn phải nuôi dưỡng thân, phải tiếp xúc, phải chuyện trò với người khác. Hơn thế nữa: khi tôi thuyết pháp, các đệ tử đến nghe, mang theo với họ những chuyện của thế giới bên ngoài. Khi nói ‘từ giã cuộc sống thế tục", tôi chỉ có ý nói là tôi sẽ bước sang một lối rẽ mới, sống một cuộc đời mới, để làm người quan sát, kẻ đứng ngoài hơn là người chạy đuổi theo các ái dục. Những việc này không phải dễ thực hiện lúc đầu, nhưng dần dần qua thực tập, ta sẽ thấy dễ dàng hơn. Người đứng ngoài sẽ dễ thông cảm, thương yêu đối với mọi người quanh mình, nhưng không để mình bị cuốn theo tình cảm, hay số phận của họ. Có một danh từ rất đẹp: lòng thương cảm. Có nghĩa là lúc ban đầu, ta rất dễ đồng cảm với những người có các tình cảm đam mê luyến ái. Nhưng mục đích của Phật pháp là để hủy diệt các tình cảm này. Vì lòng luyến ái thường đưa ta đến thù hận, tham lam. Các vị pháp sư luôn cố gắng truyền đạt những điều này đến với các đệ tử của mình, và trong quá trình giảng dạy, chính họ cũng được nghiền ngẫm thêm những bài học thâm thúy này. Vì nếu như trong khi thuyết giảng, bạn tự biết mình vẫn đang thực hành những điều mình giảng, thì người ta mới coi như bạn là người có tu chứng. Chỉ có như thế, bạn mới cảm hóa được người khác. Họ cần phải biết khi bạn nói, bạn nói về những điều tự thân bạn cũng đã kinh qua. Bạn không phải chỉ nói theo sách mà truyền đạt từ trái tim của mình. Vì thế việc tôi quyết định xuất gia, chỉ là con đường tôi phải đi để tự phát triển. Giờ nhìn lại, tôi thấy chính quá khứ của tôi đã dẫn dắt tôi vào con đường này. Những kinh nghiệm bản thân đã giúp tôi có thể xả bỏ những sợ hãi cho riêng mình, cho đồng loại. Tôi nhận thấy rằng tôi có thể đương đầu với mọi nghịch cảnh trong đời, dù đó là ở vùng Amazon hay ở trên tầng cao Hunza. Bạn có thể vượt qua tất cả nếu bạn biết thuận theo dòng chảy. Tôi đã rèn cơ thể tôi có thể chịu đựng sự khổ cực. Đối với tôi, đó là một tiến bộ vượt bực. Vì trong thời thơ ấu, tôi luôn được sống trong nhung lụa. Ở Thượng Hải, cha mẹ tôi cũng cố giữ nếp sống cũ cho tôi. Lớn lên, tôi sống ở Mỹ, cũng sung sướng nhàn hạ ở đô thị, trong một ngôi nhà khang trang. Nhưng rồi cuộc sống sung sướng đó cũng chấm dứt. Tôi đã phải ngủ nhiều đêm trên bãi biển đầy muổi, phải qua sông trên những con thuyền làm bằng thân cây, dưới cái nắng đốt da. Trên đoạn đường đi từ Java đến Sumatra, chúng tôi đi trên một chiếc tàu là tàu chở các dây cáp, trên đó không có chỗ để nằm ngồi. Tôi phải đánh giấc trên những tấm ván gỗ. Tôi không tiếc nuối đời sống sung sướng của mình, vì tôi thấy có nó cũng được, mà không có cũng được. Đó là một quá trình tự khám phá mình, một sự buông xả mọi điều kiện vật chất bên ngoài. Bù lại, nó mang đến cho ta biết bao tự do nội tại; nó khiến tôi nhận ra rằng những khía cạnh của đời sống tâm linh mới quan trọng hơn nhiều. Thế là tôi bay qua Sri Lanka. Thầy Phra Khantipalo trao cho tôi lá thư giới thiệu mà Thầy viết cho Hoà thượng Nyanaponika Thera, một trong những vị sư nổi tiếng ở Sri Lanka. Hoà thượng sống trong một cái thất nhỏ ở ngoại ô Kandy. Hòa thượng Nyanaponika Thera là một người Đức, gốc Do Thái, đã xuất gia từ năm 1935. Vì có chung một hoàn cảnh, chúng tôi cảm thấy rất dễ hoà hợp. Ngài là một vị thầy đáng kính, hòa nhã với mọi người, là một thiền sư, một học giả, đã dịch nhiều kinh sách Phật giáo từ tiếng Pali. Tiếng Pali được sử dụng trong các kinh tạng của Đức Phật, trong các giới luật của tăng đoàn và Vi Diệu Pháp. Đó là một ngôn ngữ của thời xa xưa, và không có mẫu tự riêng. Những lời dạy của Đức Phật được viết lại lần đầu tiên có lẽ vào khoảng hai trăm năm mươi sau khi Ngài nhập diệt, trên lá các cây cọ dùng mẫu tự Sinhalese. Ở Sri Lanka có một tu viện vẫn tiếp tục sao chép từ các lá này qua những lá mới, vì chúng rất dễ hư hoại. Lúc nào họ cũng phải có một pho đầy đủ tất cả các kinh tạng Pali của Đức Phật trên lá. Ở Ngôi Nhà Phật (Buddha-Haus) ở Allgau, chúng tôi có bộ kinh tạng Pali bằng tiếng Anh và tiếng Đức trong thư viện. Tôi biết rất ít tiếng Pali. Hòa thượng Nyanaponika Thera bảo là có thể xuống tóc cho tôi xuất gia bất cứ lúc nào ở trong thất của người, nhưng làm như thế không trang trọng, không có ý nghĩa, vì thế Ngài viết thư giới thiệu tôi cho Hoà thượng Narada Thera, là trưởng ban hoằng pháp ở một ngôi chùa lớn ở Colombo. Với lá thư giới thiệu trong tay, tôi phải lấy xe buýt đi Colombo, một chuyến đi dài và không kém phần nguy hiểm hơn những chuyến xe buýt tôi đã đi ở Nam Mỹ trước đây. Tôi đến ra mắt Hoà thượng Narada Thera. Hòa thượng định ngày xuất gia cho tôi vào một ngày trong tháng bảy, năm 1979. Sau đó Hòa thượng trao tận tay tôi những quyển sách kinh bằng tiếng Pali, mà tôi phải học. Phần lớn các kinh tôi đã thuộc lòng. Số còn lại phải học không có là bao. Ngoài ra Hòa thượng còn cho tôi địa chỉ nơi may y cho các ni. Không thể mua các y may sẳn. Chiếc y của tôi do một người thợ may nữ may bằng thứ vải dạ màu vàng. Y của tôi gồm có một chiếc sà rong quấn quanh lưng, buộc bằng dây nịt, và một chiếc áo jacket nhỏ. Bên ngoài lại có thêm phần áo trên, giống như chiếc áo dạ nâu tôi đang mặc, để cho thích hợp với khí hậu ở Đức. Vải may chiếc y đầu tiên của tôi bằng vải thật mỏng, vì khí hậu ở Sri Lanka nóng không chịu nổi. Hoà thượng Narada Thera hỏi tôi muốn lấy pháp hiệu gì Dhammadinna hay Khema. Tôi quyết định khá nhanh chóng. Khema chỉ có hai âm, rất dễ cho người Tây phương nhớ. Sau này, khi tôi đã qua một thời gian nghiên cứu, học hỏi, tôi mới biết trong thời Đức Phật còn tại thế, Khema là một vị trưởng lão ni đã được Đức Phật khen là 'đầy trí tuệ". Ban đầu, bà là vợ của một vì vua, một người đàn bà rất tự mãn về sắc đẹp của mình. Bà không hề để ý đến những lời thuyết giảng của Đức Phật, trong đó Đức Phật luôn nhấn mạnh rằng sắc đẹp bên ngoài không có nghĩa lý gì. Dầu vậy, bà vẫn đến nghe Đức Phật thuyết pháp. Đức Phật khiến bà nhìn thấy hình ảnh một người đàn bà còn đẹp hơn bà nhiều. Rồi Đức Phật cho bà thấy người đàn bà đẹp đó trở nên già nua, mất hết sắc đẹp, dần dần cho đến lúc chết. Lúc đó, hoàng hậu Khema nhận ra rằng sắc đẹp không có nghĩa gì cả. Ngày hôm sau, bà xuất gia đi tu, và dần được Giác Ngộ. Đó là một trong những câu chuyện nổi tiếng vào thời Đức Phật. Nhưng tôi không hề biết đến câu chuyện này khi chọn cái tên đó. Các vị tăng thường có phẩm chức trước tên của họ như là Phra, Tan hay Ajahn. Trước tên của tôi là "Ayya". Ayya là tiếng Pali, được dùng để gọi các vị nữ tu từ thới Đức Phật. Tất cả các ni Tây phương theo Nguyên Thủy kể từ sau tôi đều được gọi là Ayya. Và tôi đã trở thành Ayya Khema như thế. Trước khi tôi đến chùa để làm lễ xuất gia, các sư cô đã cắt tóc tôi. Lúc đó tóc tôi dài và rất dày. Theo nghi lễ, người được xuống tóc sẽ cầm lấy một nhúm tóc của mình. Họ phải cầm mảnh tóc đó trong tay, và nghĩ rằng chỉ vài phút trước đây, mảnh tóc này là "của tôi". Và giờ nó chỉ là một thứ dơ bẩn, đáng được vứt vào thùng rác. Tôi vẫn nhớ là lúc đó tôi hoàn toàn không có một cảm giác gì về việc đó. Không ân hận, không có gì cả. Buổi lễ bắt đầu. Trong bộ y vàng, tôi đi băng qua sân đến từng ngôi tháp nhỏ. Tôi tưởng là tôi hoa mắt: Cả sân chùa đầy nghẹt người. Có đến sáu hay bảy trăm người. Tôi hỏi Hòa thượng Narada Thera, họ làm gì ở đây. Ngài bảo: "Tôi đã mời tất cả mọi người đến". Đúng vậy, ông đã mời tất cả mọi người quen biết, tất cả ai muốn đến dự, tất cả những ai nói tiếng Anh. Tôi quá đổi sợ hãi, đến nỗi quên tất cả tiếng Pali. Tôi không thể nhớ được tôi phải nói câu gì. Hòa thượng Narada Thera phải xướng từng câu từng chữ, và tôi lập lại theo Thầy từng câu từng chữ. Buổi lễ xuất gia diễn ra khá nhanh chóng. Chưa đầy mười phút. Sau đó người xuất gia phải lễ Đức Phật, thầy mình và tất cả các vị tăng có mặt. Khi tất cả mọi nghi lễ đã xong xuôi, một nhóm khoảng gần hai mươi cô gái áo trắng tiến lại phía tôi. Mỗi người mang tặng tôi một món quà: bàn chải răng, khăn tay, khăn mặt, một quyển thành ngữ. Tôi bị choáng ngợp bởi mọi thứ. Các cô thiếu nữ này chúc mừng tôi. Các vị khách chúc mừng tôi. Sự chúc tụng kéo dài hằng giờ. Tôi nói cảm ơn không biết bao nhiêu lần. Các vị tăng ni theo truyền thống không nói cảm ơn. Nhưng tôi vẫn chưa quên được thói quen này. Tôi đã được giáo dục như thế, tôi sẽ còn tiếp tục nói Cảm ơn như thế. Lý do khiến các vị tăng ni không nói lời Cảm ơn khi nhận cúng dường từ các cư sĩ, vì chính người cúng dường cho các vị tăng ni sẽ được thọ hưởng phước báu rất lớn. Do đó người cúng dường phải cảm ơn các vị tăng ni cho họ cơ hội được cúng dường, chứ không phải người thọ lãnh vật cúng dường. Cuối buổi chúc tụng, tôi đứng dậy, lúc đó một tu sĩ người Tây phương tiến về phía tôi. Tên thầy là Sumedha. Trước khi xuất gia, đến sống ở Sri Lanka, thầy từng là một họa sĩ rất nổi tiếng ở Thụy sĩ . Thầy nói: "Có thể nói là trước đây bà chỉ có tình cảm (với Phật giáo), giờ bà đã coi Phật giáo là gia đình". Tôi biết Thầy muốn ám chỉ về sự liên hệ giữa tôi và Phật giáo. Tôi nghĩ đó là một cách diễn tả rất chính xác về sự xuất gia của tôi. Giờ nhiệm vụ duy nhất trong đời tôi là làm một vị ni, từ giờ sự hiện hữu của tôi là ở trong vai trò một người ni. Có nghĩa là tôi không chỉ đọc về giáo lý của Đức Phật, mà còn phải học thuộc một số kinh điển, và từng bước thực hành chúng. Từ đó, tôi lại tham gia vào công việc giảng dạy, khiến tôi phải đi cùng khắp thế giới. Ngày nay có hàng ngàn Phật tử đã được biết đến những kinh nghiệm tu tập của tôi qua sách vở, băng cassette, hay qua các bài giảng, và chúng đã phần nào đem lại lợi ích cho cuộc sống của họ. Sống độc thân là một trong những giới luật quan trọng của người xuất gia. Là một sa di, tôi phải giữ mười giới luật. Trong đó có năm giới tôi đã từng được nghe từ thầy Phra Khantipalo -chỉ có cái khác là giới thứ ba trở thành giới sống đời độc thân- cộng với những giới sau đây: - Không ăn phi thời - Không nhảy múa, ca hát hay dự các cuộc biễu diễn đó. - Không đeo trang sức, thoa nước hoa; không dùng mỹ phẩm - Không ngủ trên giường cao nệm ấm - Không kinh doanh để làm lợi cho bản thân. Bắt đầu từ thế kỷ thứ mười chín, ở Sri Lanka chỉ có các sa di ni. Để giải thích về điều này, tôi cần đi ngược dòng lịch sử một chút. Theo truyền thống, một vị ni chỉ được coi là đã hoàn toàn thọ đại giới - được lên hàng tỳ kheo ni (bhikkhuni), sau khi vị ấy đã được chấp nhận vào ni đoàn bởi các vị tỳ kheo khác. Nhưng ni đoàn của tỳ kheo ni đã không còn hàng ngàn năm về trước. Hàng ngàn vị ni đã được nhắc nhở tới trong các kinh điển cổ xưa. Họ từng sống trong các tu viện to lớn. Rồi bỗng nhiên tất cả đếu biến mất. Lúc đó là thời kỳ chiến tranh giữa Tamils và Singhalee, có lẽ các vị ni dễ bị nguy hiểm hơn, có thể họ đã bị tàn sát hay bị chết đói. Vì bất cứ lý do gì, họ đã không còn có mặt ở đây. Do đó, vì không có các vị tỳ kheo ni nữa, nên tôi không được trở thành tỳ kheo ni ở Sri Lanka, mà chỉ là sadi ni. Sau này tôi mới thọ đại giới ở California. Có các ni theo thiền tông, có ni theo Phật giáo Tây tạng, có ni theo Phật giáo nguyên thủy. Tôi theo Phật giáo Nguyên thủy (Theravada), là tông phái rất thích hợp cho tôi. Phật giáo Nguyên thủy là Phật giáo cơ bản. Các nước Thái Lan, Sri Lanka, Burma và Campuchia theo Phật giáo nguyên thủy. Tông phái này dựa vào những lời dạy từ chính Đức Phật, và chính đặc tính này đã khiến tôi hướng về Phật giáo từ những ngày đầu. Sau khi xuất gia, tôi đến một tu viện trung tâm, chuyên về thiền, ở Kanduboda, cách Colombo khoảng nửa tiếng. Tôi cần sự yên tĩnh, an bình. Tôi dọn vào một phòng nhỏ, chỉ có giường, ghế và một bàn ngủ. Ở đây có điện, có buồng tắm chung cho mọi người. Giờ thức chúng mỗi ngày là bốn giờ sáng. Với cái nóng ở Sri Lanka, phải dậy sớm không thành vấn đề. Buổi sáng không khí mát mẻ, dễ chịu, bầu trời quang đãng. Tôi còn nhớ buổi sáng đầu tiên của mình ở đó. Trong lúc toạ thiền, tôi thấy một hình ảnh hiện ra trong tâm mình. Đó là một sư cô, có lẽ là người Singhalese, và tôi không hiểu sao, tôi tự nghĩ đó là hình ảnh của mình. Tôi đang đứng ở một ngôi tháp chờ đợi một vị tăng, tôi còn nhớ rõ ràng như thế, và vị ấy cũng xuất hiện. Đó là một ngôi tháp to ở trong cánh rừng. Tôi còn nhớ các chi tiết hết sức rõ ràng. Từ những hình ảnh này, tôi đi đến kết luận, có thể tôi đã từng là người xuất gia. Vậy thì giờ tôi càng thêm quyết chí tiếp tục con đường mình đã bắt đầu trong các tiền kiếp. Những hình ảnh đó gây ấn tượng mãnh liệt trong tôi. Một ngày kia, tôi kể cho vị trụ trì nghe về những gì mình đã thấy, tả về ngôi tháp rất chi tiết. Thầy trụ trì bảo: "Con có thể đi thăm ngôi tháp đó; nó ở trong một cánh rừng trong vùng Anuradhapura. Từ những gì con đã tả, con sẽ tìm thấy nó dễ dàng". Và tôi đã thực sự tìm ra được ngôi tháp đó. Đúng y như tôi đã thấy trong lúc ngôi thiền đến từng chi tiết. Tôi rất thích cái thất của mình. Ở trong đó, tôi có thể ngồi thiền rất yên. Một ngày kia, có một phụ nữ đến thăm tôi. Bà mời tôi đến dự một cuộc họp mặt của các vị ni người Singhalese, và nhờ tôi tổ chức họ lại. Tôi rất muốn đi, nhưng tôi chỉ mới xuất gia được vài ngày, tôi có tư cách gì để đảm nhiệm vai trò đó? Người khách bảo tôi là các sư cô không có khả năng tự tổ chức. Họ cần được tổ chức lại để ni giới có tiếng nói hơn trong giáo hội. Điều đó sẽ giúp ni giới đòi hỏi được quyền đi học, được có chỗ ở thỏa đáng hơn. Cho đến lúc đó, ni giới ở đây không được coi trọng, quyền lợi của họ rất ít ỏi. Thế là tôi tham dự vào cuộc họp đó. Chỉ có một người nói được tiếng Anh. Qua người thông dịch viên, tôi mạnh dạn đề đạt những kiến nghị của mình. Tôi cũng không biết là những đề nghị này có được thực hiện không. Nhưng tôi coi đó là một nghĩa vụ phải ủng hộ, nâng đở các bạn ni ở đó với những kiến thức chúng tôi có được từ phương Tây. Trong một trường hợp khác, tôi đã thành công. Qua một phụ nữ tích cực, giờ đã thành bạn của tôi, tôi được biết đến một tu viện ở Madiwela, ngoại thành của Colombo. Danh từ "tu viện" đã là một phóng đại cho nơi chốn này. Đó chỉ là một căn nhà nhỏ xíu, không có cả nhà bếp, dành cho các vị ni. Tôi đã đóng góp giúp họ xây được một thiền đường, một phòng đọc sách, và hai phòng ngủ. Và tôi đã dọn vào ở một trong hai phòng đó. Chúng tôi cũng xây cả nhà bếp -công việc đó được các người thợ xây dựng Singhalese không nói được một chữ tiếng Anh đảm nhiệm. Hướng dẫn được họ làm theo ý mình muốn không phải là chuyện dễ dàng. Chúng tôi còn lo cả việc mời các pháp sư đến dạy, vì thiền đường còn có thể dùng làm phòng học. Một tấm bảng ghi công đức với tên tôi được đặt lên tường, rồi còn có lễ khánh thành rất vui, với các em bé đến ca hát, nhảy múa, và với sự tham dự của nhiều sư cô. Tôi dành mỗi ngày chủ nhật thứ hai trong tháng để làm ngày tọa thiền cho những người nói tiếng Anh trong vùng. Họ luôn đến rất đông, tham dự đủ hết các chương trình trong ngày. Tôi chỉ dẫn họ cách tọa thiền và tại sao phải tọa thiền. Họ tự mang theo đồ ăn trưa, các sư cô chỉ phục vụ trà. Qua những hoạt động này, tôi được quen biết với nhiều phụ nữ Singhalese, có nhiều người cho đến giờ vẫn còn giữ liên lạc với tôi. Có người hằng năm vẫn viết thư thăm hỏi, có người viết thường xuyên hơn. Lúc thọ giới xuất gia, tôi đã làm bà ngoại. Cháu ngoại trai tôi tên là Matthew, sinh năm 1973. Lúc đó Jeffrey cũng đã hoàn tất chương trình đại học, và đang sống chung với Susan, sau hai người đã kết hôn. Trong thời gian tôi làm sadi, Jeffrey đã tìm được việc làm ở Anh, làm kỷ thuật viên vi tính cho Đại học Norfolk. Khi tôi rời Sri Lanka để trở về Úc, tôi ghé qua Norfolk thăm con. Đường hàng không đã giúp khoảng cách giữa con người hình như gần lại. Trên đường trở lại, tôi ghé qua Ấn Độ, vì tôi muốn đến Bombay thăm Sri Nisargadatta Maharaj, một vị học giả với tiệm bán thuốc lá nhỏ của ông. Tôi đã nghe nói những bài thuyết giảng của ông rất hữu ích. Dầu có địa chỉ của ông, tôi không chắc rằng mình có thể tìm gặp được ông. Cuối cùng tôi đến một con đường nơi mọi người không cần đợi tôi hỏi, đã chỉ tay về phía một ngôi nhà nhỏ tồi tàn. Tầng dưới nhà ở mặt đường là một tiệm nhỏ mở cửa bán thuốc lá, đồ ngọt. Người đàn bà tôi gặp cũng không nói một lời, chỉ tay về phía cầu thang dẫn lên lầu. Trong căn phòng nhỏ, đầy các vị khách Tây phương, Nisargadatta Maharaj ngồi trên một tấm đệm nhỏ, với hai người thông dịch viên ở bên cạnh. Tôi vừa kiếm được một chỗ ngồi xuống trên sàn nhà, là Sri Nisargatta bắt đầu đặt câu hỏi nhắm vào tôi. Điều đó làm tôi khá bối rối. Tôi đến để được nghe những lời trí tuệ của ông, không phải để nói về tôi trước mặt bao nhiêu người. Nhưng ông không để tôi yên. Ông hỏi tên, hỏi quê quán, hỏi ai là bổn sư của tôi, kinh nghiệm tu tập của tôi, vân vân. Cuối cùng ông bảo là tôi đã đi đúng đường, nhưng chưa đạt được Giác Ngộ. Sau tôi biết là với các vị khách mới đến, ông đều đối xử như thế cả. Tôi đến nghe ông suốt một tuần, nhưng nhận thấy cách trình bày của ông quá khó hiểu. Ngẫm nghĩ lại, tôi thấy là ông quá tự tin về những hiểu biết của mình, nên chìm đắm trong sự hiểu biết của mình, thật khó xếp ông vào hàng đã Giác Ngộ. Ong đã mất ba năm sau lần gặp gở đó, lúc ông đã hơn tám mươi. Trở về lâm tự viện ở Úc, tôi đã giúp thầy Phra Khantipalo trong các công việc tổ chức và giảng dạy thường ngày. Một biến cố quan trọng ở Wat Buddha Dhamma đã làm tôi nhớ mãi. Đó là một buổi tối đầy trăng, chúng tôi đang chuẩn bị để ngồi thiền suốt đêm như thường lệ. Lúc đang ngồi trong thiền đường, tôi bỗng cảm thấy mỏi mệt, chán nản, càng lúc càng tăng. Chúng tôi đã ngồi suốt bốn tiếng, đã tụng kinh, đã nghe pháp của thầy Phra Khantipalo, lúc đó là khoảng nửa đêm. Tôi bỗng nhớ lại những gì tôi đã đọc về các cảnh giới thiền trong kinh Phật. Tôi đã tu chứng được sơ thiền, một loại thiền định đem lại niềm vui, an lạc, và thanh tịnh, mà tôi khá quen thuộc. Nhưng tôi chưa từng kinh qua các cảnh vô sắc giới, mà cũng chẳng có ai có thể giải thích hay thuyết giảng về chúng. Bỗng tôi muốn thử đạt được các cảnh vô sắc giới, không còn hình tướng, không còn tưởng cũng không phải là không có tưởng nữa. Và lạ kỳ thay, với mức độ định tôi đã có, giúp tôi dễ dàng đi vào càc cảnh giới đó. Giờ thì sự mệt mỏi, chán nản đã qua đi, tôi lại tiếp tục tọa thiền trong niềm hoan hỉ cho đến sáu giờ sáng hôm sau. Tôi tiếp tục tọa thiền cách đó cho đến năm 1983, khi tôi được gặp Hoà Thượng Nannarama Thera, người khẳng định rằng tôi đã thực hành đúng và khuyên tôi nên truyền bá lối tọa thiền này ở Tây phương. Tôi lại bị lôi kéo về Sri Landa. Tôi cảm thấy ở đó có nhiều cơ hội để thực hiện những điều lợi ích. Tôi muốn giúp đở các sư cô bản xứ để họ có thể tự vươn lên, ủng hộ họ, đóng góp ý kiến giúp họ có thể thoát ra bóng tối họ đang sống. Những người phụ nữ tôi đã gặp ở Madewela muốn giúp tôi thực hiện giấc mộng này. Một ngày kia, tôi được mời đến Polgasduwa. Đó là một hòn đảo ở hồ Ratgama, phía nam Sri Lanka, nơi đó đã có các vị tăng đang sống. Hòa thượng Nyanatiloka Thera, người Đức đầu tiên tu theo Phật giáo, đã thành lập tự viện trên đảo này vào năm 1911, và trụ trì ở đó. Đại đức Nyanaponika Thera là đệ tử của ngài. Ngoài ra còn có một vị tăng nổi tiếng khác, cũng là người Đức, ngài Lama Govinda cũng từng sống ở đó một thời gian. Hầu như tất cả các vị tăng Tây phương đều có mặt trên hòn đảo đó. Trong chuyến tôi đến viếng thăm, vị trụ trì yêu cầu tôi tổ chức khóa tu thiền cho các đệ tử của ngài, vì ngài không muốn tự mình làm việc đó, mà muốn nhờ tôi đảm trách. Tuy nhiên trước khi việc đó có thể thực hiện, người ta bảo là các tăng không được phép nghe một người ni giảng dạy. Người ni không được phép dạy các tăng. Do đó chỉ có các cư sĩ tham dự khóa giảng của tôi. Nhưng các bài giảng của tôi được thâu băng, và các tăng được phép nghe các băng đó. Các cư sĩ tham dự khóa tu học là dayakas. Đó là tiếng Singhalese dùng để chỉ các thí chủ, hay người cúng dường tiền bạc, thực phẩm, thuốc men để chăm lo cho tự viện cũng như các tu sĩ ở đó. Một trong những vị thí chủ này có ông Arthur de Silva. Người này và vợ là chủ một quán ăn trên bờ hồ, phía bên kia đảo. Họ là một cặp vợ chồng rất tử tế, dễ thương. Giờ cả hai người đều đã không còn tại thế. Một ngày kia Arthur đề nghị một điều mà trước đó chính tôi cũng đã nghĩ đến. Tôi đã để ý thấy ở không xa đảo của các tăng, trong cùng một hồ, có một đảo khác nữa. Trước đó tôi đã nghĩ nếu các tăng đã ở đảo này, các ni có thể ở đảo kia. Lúc này Arthur lại hỏi tôi có nghĩ đến việc xây một ni viện trên đảo thứ hai không. Tôi hỏi lại ông: "Thế ông có nghĩ là tôi nên ở trong ni viện đó không?" Ông trả lời: "Dĩ nhiên rồi. Tôi sẽ thiết kế, mướn người, quản lý thợ xây dựng và mua vật liệu. Tôi sẽ kêu gọi người ta phát tâm". Đó là khởi đầu của sự hợp tác giữa hai chúng tôi, một sự hợp tác tốt đẹp mang đến cho cả hai chúng tôi nhiều lợi ích, cho đến ngày ông mất vào năm 1989. -ooOoo- Chương 13 Đảo Của Các Ni Người đã làm
điều tốt Tôi muốn được nói đôi lời để tưởng niệm người mà không có ông dự tính xây dựng một ni viện trên đảo của tôi sẽ không bao giờ thành hiện thực. Đó là ông Arthur de Silva ở Dodanduwa. Rất ít khi ta được gặp một người như ông Arthur de Silva. Là người Singhalese có tổ tiên là người Portugese, ông nói tiếng Anh rất lưu loát. Dốc hết sức mình vào việc xây dựng ni viện, ông đã nói rằng trước giờ lâm chung, ông sẽ rất mãn nguyện vì đã được đóng góp công sức vào đó. Ong đã mua từng cây đinh, con ốc, rồi chuyên chở mọi thứ đến đảo trên chiếc thuyền do ông làm bằng thân cây to. Ong mướn thợ, và trong suốt thời gian xây dựng, ông đôn đốc họ làm việc, không để lãng phí vật liệu. Đó là một việc không phải dễ làm ở Á châu. Trong thời gian đó, tôi chu du khắp nơi thuyết giảng, mở khóa tu, đến mọi miền ở Úc, Phi Châu, Indonesia, Mỹ, và lần đầu tiên ở Đức. Được đồng tiền cúng dường nào tôi đều gửi về cho Arthur de Silva. Tôi xin kể ở đây câu chuyện của lần gặp gở định mệnh trong thời gian tôi đang ở Bali. Ở đó có một ngôi chùa rất đẹp, do một vị đại đức trụ trì. Ông yêu cầu tôi mở khóa tu cho các du khách. Vì có rất nhiều người khi thăm viếng chùa, đã có yêu cầu như thế. Tôi đồng ý, thế là vị trụ trì dán bản thông báo về khóa tu ở khắp nơi. Kết quả là có bảy người ghi tên tham dự: năm người Đức và hai người Mỹ. Ngôi chùa rất đẹp. Cuộc đời của Đức Phật được chạm trổ tỉ mỉ trên các cánh cửa gỗ. Quanh chùa có các suối nước trong mát, có những tảng đá hình người lạ lẫm, quanh năm đầy hoa cỏ nhiệt đới. Bên trong chánh điện là một bức tượng của Đức Phật đẹp đẻ, nguy nga tôi chưa từng thấy ở nơi nào khác. Trong bảy ngày, tôi giảng dạy bằng tiếng Anh. Vào tuần thứ hai, tôi nhận thấy hình như trong các học viên, có người không hiểu tôi nói gì. Thì ra anh ta là người Đức, tên là Charlie. Tôi chỉ biết có thế. Khi được hỏi có hiểu tôi nói gì không, anh thú nhận: "Thưa không", vì anh không biết tiếng Anh. Sau đó, buổi sáng tôi giảng bằng tiếng Anh, buổi tối bằng tiếng Đức. Tôi còn nhớ, trong tuần lễ đó, sức khỏe tôi không được tốt. Tôi bị bịnh gì đó mà không ăn uống được. Nhưng vì không muốn các học viên phải thất vọng, tôi cố gắng tiếp tục dạy. Cuối cùng, lòng say mê học hỏi của họ cũng an ủi tôi phần nào. Charlie và người bạn của anh tỏ ra rất chăm chú, ham hiểu biết. Các học viên khác còn có khi bỏ học, chứ Charlie và Norbert lúc nào cũng có mặt. Sau khi hai người Mỹ có việc phải về sớm, tôi hoàn tất chương trình học bằng tiếng Đức. Cuộc gặp gở với Charlie và Norbert mang lại nhiều ý nghĩa cho những ngày cuối đời của tôi. Norbert là em của thầy Nyanabodhi, người đã trú ngụ tại thiền viện Ngôi Nhà Phật (Buddha-Haus) ở Allgau với chúng tôi từ những ngày đầu thành lập. Tôi được biết thầy qua Norbert, dưới thế danh là Roland. Không có hai anh em họ và Charlie, tu viện Buddha-Haus đã không thể thành hình. Họ chính là những người đã khuyên tôi rời bỏ Sri Lanka để trở về Đức. Họ đã giúp tôi trong việc xây dựng tu viện, hiện giờ thì cả Norbert và Charlie đều dạy ở trung tâm thành phố Munich. Thầy Nyanabodhi là trụ trì ở lâm tự viện của chúng tôi. Nhưng giờ hãy trở lại chuyện xây cất ni viện và ngài Arthur de Silva. Ong vào số từng xu tiền bạc tôi gửi cho ông, Tôi thì không quan tâm đến những chuyện ấy vì tôi tin tưởng ông tuyệt đối. Nhưng ông không thay đổi, vẫn làm đầy đủ bổn phận, vẫn chú tâm đến sự chính xác của từng con số. Ong đã tự vẽ bản đồ xây dựng, và dĩ nhiên, không giống như tôi, ông có thể điều khiển những người thợ xây dựng bằng ngôn ngữ của họ. Từ lúc mới biết nhau, chúng tôi đã hợp ý như thể chúng tôi đã biết nhau tự bao giờ. Ngay các vị khách đến thăm ni viện cũng nhận thấy là chúng tôi có thể hiểu ý nhau rất nhanh. Có lẽ trong một kiếp nào đó chúng tôi cũng đã có duyên gặp gỡ. Sáu cái thất (kuti) được xây trên đảo -dành riêng cho các sư cô. Tất cả đều rất đẹp: Trong mỗi thất có một giường lớn, một phòng tắm và một ngôi vườn nhỏ có tường bao bọc. Ngõ vào thất được che bằng một mái hiên nên vào mùa mưa không bị ướt khi bước ra ngoài. Tôi chọn được một nơi khuất nhất, rất ưng ý trên đảo để xây thất. Trên mặt đất có một hòn đá to, phẳng. Chúng tôi dự định sẽ xây thất quanh hòn đá, để tôi có thể dùng hòn đá làm chỗ ngồi thiền. Tất cả đã được xây dựng theo đúng như thế. Sau đó Arthur de Silva báo tin cho tôi: "Ni Sư có thể đến rồi". Thế là tôi bay từ Úc, là nơi tôi đang có mặt ở thời điểm đó, đến Sri Lanka. Các sư cô cùng dọn vào ni viện với tôi đều là người Đức. Mọi thứ vẫn còn bề bộn lắm. Nhà bếp, phòng ăn vẫn chưa có. Chúng tôi phải nấu ở bếp đặt ngoài trời, rất ư không thuận lợi. An uống cũng ngoài trời. Chung quanh chúng tôi các công trình xây dựng vẫn được tiếp tục. Một tòa nhà rất lớn đang được xây trong đó có nhà bếp, phòng ăn, thư viện, một hành lang nhỏ và một kho chứa đồ, cũng là chỗ ngủ của người đầu bếp. Quanh nhà, theo kiến trúc thời thuộc địa, là một hàng hiên che mát. Tòa nhà vẫn còn y nguyên cho đến ngày nay. Chúng tôi đặt những chậu hoa dọc theo hàng hiên, để làm tăng theo vẻ mỹ quan cho tòa nhà. Và để thêm hoàn hảo, tôi cho làm một hồ sen trong khuôn viên chùa. Tôi rất thích hoa sen. Ở Đức, không có sen, tôi thay bằng hoa huệ nước. Cả hai loại hoa đều cùng họ, và rất giống nhau. Hình ảnh của hoa sen gắn liền với Đức Phật. Người ta thường tạo dựng các hình tượng Đức Phật ngồi trên tòa sen, vì đặc tính của hoa sen là trong sạch, không nhiễm ô. Nước rơi trên các cánh hoa sen đều chảy xuống thành hạt, nên không làm ướt cánh hoa. Ngoài ra hoa sen còn được dùng làm biểu tượng cho sự thành đạo, vì tuy hoa mọc trong bùn, nhưng cánh và hoa vươn lên cao, không nhiễm ô uế. Sau các đệ tử người Đức, có một phụ nữ người Singhalese tìm đến tu viện của chúng tôi. Trước đây cô đã là đệ tử của tôi. Giờ cô muốn được thọ giới xuất gia ở trên đảo. Nhân dịp đó, tôi mời cả các tăng ở đảo láng giềng và mời tất cả các cư sĩ trong vùng đến dự. Có hơn hai ngàn người tất cả. Không thể ngờ nhiều người đến vậy, tôi tự nghĩ không biết hòn đảo có bị chìm xuống không dưới sức nặng của bấy nhiêu người. Cũng may là việc đó đã không xảy ra. Dĩ nhiên là các cô gái mặc áo trắng cũng có mang quà đến. Vị sư cô đó giờ là người kế thừa tôi làm trụ trì ở ni viện đó. Sư cô làm rất tốt bổn phận được trao phó. Tôi rất mãn nguyện được biết rằng cả hai tu viện, một ở Úc mà tôi đã thành lập cùng với đại đức Phra Khantipalo, và một ở Sri Lanka vẫn tiếp tục trường tồn dù không có tôi. Đó cũng là điều tôi mong mỏi sẽ xảy ra ở tu viện Buddha-Haus ở Allgau -dù không có tôi- đây vẫn là nơi mọi người sẽ tụ đến để niệm hồng danh Phật. Suy cho cùng, tôi không biết mình còn sống được bao lâu nữa. Các đệ tử thì mong tôi có thể ở với họ lâu hơn. Lúc bắt đầu, chỉ có chúng tôi -vài sư cô- sống trên đảo, nhưng dần dần người ta biết đến ni viện nhiều hơn. Có lẽ cũng nhờ tôi đã đi hoằng pháp khắp nơi trên thế giới, ngươi ta biết đến tôi nhiều hơn, nên ni viện ở Sri Lanka này cũng dần được biết đến. Chúng tôi xây một nhà khách sáu phòng, mỗi phòng có thể chứa hai người. Nếu cần, chúng tôi cũng có thể đặt thêm giường trong mỗi phòng. Nghĩa là chúng tôi có chỗ cho mười tám khách tạm trú cùng một lúc. Trong sáu thất còn lại, tôi và ba sư cô khác ở. Có hai thất được dành cho các nữ cư sĩ nào muốn đến ở để tu học theo Phật giáo. Nhiều vị, trong đó có cả người Đức, ở đến một năm rưởi, nhưng cũng có người chỉ ở một đôi ngày. Sau này, tôi chỉ cho phép những người ở ít nhất là ba tháng được ở; nếu không nơi này biến thành một nhà ga. Nhiều người ra vào liên tục khiến chúng tôi không kiểm soát nổi. Ngoài ra ở ngắn quá, cũng khó thể thiết lập một chương trình tu học cho riêng họ. Mặc dầu thời tiết nóng bức, chương trình tu học của chúng tôi cũng đầy kín. Tuy nhiên cũng có một số việc phải du di vì thời tiết, nếu không chắc khó có ai chịu nổi. Mỗi sáng chúng tôi thức dậy lúc bốn giờ, tụng kinh bằng tiếng Pali và tiếng Anh, rồi tọa thiền, sau đó dùng điểm tâm. Luôn có một người nấu ăn ở đó để giúp đở chúng tôi, ngoài ra các cư sĩ tạm trú cũng thay nhau phụ giúp trong bếp. Sau đó chúng tôi làm việc vài tiếng trước khi dùng bữa ngọ, vì chúng tôi có xuất bản một tờ tin. Ngoài ra, dĩ nhiên là còn phải làm các công việc dọn dẹp trong tu viện, tưới hoa, nhổ cỏ. Thư viện cũng cần được sắp xếp lại, phải làm bìa cho các sách, phải trả lời thư từ - nghĩa là lúc nào cũng không thiếu việc cho chúng tôi làm, và trong khí hậu nóng bức đó, mọi công việc đều đòi hỏi một sự cố gắng. Sau khi thọ trai, tôi giảng về các giới luật trong tăng đoàn, luật tỳ ni. Những người nữ ở với chúng tôi được gọi là Anagarikas, có nghĩa là những người tu trong một thời gian ngắn. Cho dù sau này họ có rời bỏ cuộc sống ở tu viện, các giới luật này cũng rất hữu ích cho họ. Tôi cố gắng làm cho việc giảng dạy được hấp dẫn bằng cách xen vào các giới luật là những câu chuyện giải thích tại sao Đức Phật đã chế ra chúng. Vì lúc ban đầu khi Đức Phật nhận các đệ tử, thì chưa có luật lệ gì cả. Họ là những vị đã tu chứng, nên không cần luật lệ gì. Chỉ có sau này, khi hàng ngàn đệ tử xuất gia với Đức Phật, lúc đó các giới luật mới trở nên cần thiết. Buổi chiều, các sư cô được tự do -có thể nghỉ ngơi, ngồi thiền dưới các gốc cây, đọc sách hay viết lách. Đến tối, tôi lại giảng pháp. Từ các bài giảng này, gom góp lại được ba quyển sách nhỏ. Quyển đầu tiên được gọi là Be An Island Unto Yourself (Hải Đảo Tự Thân), bằng tiếng Anh, vì tôi giảng bằng tiếng Anh. Tôi in sách bằng tiền cúng dường và đem phát không cho mọi người. Đó là quyển sách đầu tiên của tôi, đến nay sách vẫn còn được tái bản, cả ở đây bằng tiếng Đức. Dĩ nhiên giờ thì tôi không thể phát không được nữa, vì chi phí in ấn rất cao. Cho tới giờ này đã có hai mươi lăm quyển sách được hình thành dựa vào các bài giảng của tôi. Sách được viết bằng tiếng Anh và Đức và đã được dịch ra bảy thứ tiếng. Thời khóa biểu hằng ngày trên đảo được giử rất chặt chẻ. Khi hai mươi phụ nữ, đôi khi hơn nữa, sống với nhau, cần phải có luật lệ. Ngay cả với những luật lệ như thế, cũng không phải dễ dàng để hoà hợp mọi người với nhau, vì mỗi người một cá tính, một quan điểm riêng biệt. Đa số các sư cô là người Tây phương. Các vị người Singhalese nhiều khi không bằng lòng cách làm việc của họ. Cũng dễ hiểu, vì họ đến từ hai nền văn hóa khác nhau. Arthur de Silva giống như một thiên thần bảo hộ, luôn giúp đở tôi rất đắc lực. Tất cả các khách vãng lai đều tụ tập ở nhà ông. Từ đó, ông lo thuyền vận chuyển họ đến đảo. Ong để tâm nghe nghóng các yêu cầu, phê bình của mọi người và cố gắng trong khả năng của mình đáp ứng các yêu cầu đó. Khi Jeffrey và vợ là Susan đến đảo thăm tôi, chúng đã ở nhà ông bà De Silva và được họ chiều chuộng hết mức. Vị trụ trì bên tăng viện trên đảo láng giềng giống như một người cha của chúng tôi. Mỗi ngày Sư đều đi thuyền qua đảo xem chúng tôi có cần giúp đở gì không. Sư thường mang đến cho chúng tôi nào là chuối, dừa và các loại trái cây khác, cũng như rau cải, gạo -nghĩa là tất cả những gì mà các Phật tử cúng dường bên đảo của các tăng có dư, Sư đều chia sẻ với chúng tôi. Một sinh hoạt trong đời sống tu hành của chúng tôi là pindapat, đi trì bát. Đây là một phong tục truyền thống của các tăng ni từ thời Đức Phật còn tại thế. Phong tục này rất thịnh hành ở các lâm tự viện bên Thái Lan. Ở Sri Lanka phong tục này hầu như đã bị bãi bỏ, có lẽ vì người ta đồng hóa hình thức trì bát khất thực với đi xin ăn. Mỗi tuần chúng tôi đi thuyền qua đất liền để đi khất thực -các sư cô đi trước và các học giới nữ (anagarikas) theo sau- vào trong làng. Nhiều người đứng trước cửa nhà chờ chúng tôi đến. Họ mang đồ cúng dường đã được chuẩn bị, bỏ vào các bát khất thực, chúng tôi dừng lại và nâng cao bát trước mặt họ. Chúng tôi thường được nhiều gạo quá đến nổi các cô học giới nữ phải bỏ vào bao mang theo. Lần đầu tiên chúng tôi đi trì bát, nhiều phụ nữ, già cũng như trẻ đều ra bỏ thức ăn vào bát cho chúng tôi. Họ khóc và bảo rất mang ơn chúng tôi đã tạo cơ hội cho họ được cúng dường. Được tiếp xúc với tăng ni đối với các phụ nữ này là được tiếp cận với Phật giáo. Đó là lý do chính tại sao tôi phát huy truyền thống này. Nhưng chúng tôi quyết định không đi mỗi ngày, vì dân chúng ở đây rất nghèo; thật là không phải khi họ còn phải chia sẻ phần ít ỏi đó -lại là những thứ ngon nhất, tươi nhất của họ- cho chúng tôi mỗi ngày. Có bốn làng dân ở quanh khu hồ. Chúng tôi luân phiên đến từng làng, nên mỗi làng chúng tôi chỉ đến mười hai lần trong một năm. Kể ra không nhiều lắm, nhất là khi họ rất vui mừng tiếp đón, cúng dường khi chúng tôi đến khất thực. Theo truyền thống, đi khất thực phải đi bằng chân không. Đôi khi đi cả trên nhựa đường nóng có thể khiến chân phỏng hay đi trên những con đường làng đầy đá sỏi cũng không phải là chuyện dễ dàng. Tôi không chỉ muốn được dân địa phương chấp nhận, mà còn muốn đem lại chút hạnh phúc trong cuộc sống khó khăn của họ, cuộc sống với bao công việc tay chân nặng nhọc. Với ý nghĩ đó, mỗi chủ nhật cuối tháng tôi thường đến thăm ngôi làng đã cúng dường cho chúng tôi suốt tháng đó để tặng cho họ một thời pháp, với sư cô người Singhalese làm thông dịch viên. Chúng tôi thực hiện việc này theo truyền thống như trong thời Đức Phật tại thế. Chúng tôi ngồi dưới gốc cây to, chờ mọi người đến. Dân làng lũ lượt kéo đến cùng với con cái, người thân. Lúc nào cũng ồn ào, lại còn có những người bán dạo cũng đi theo, rồi trẻ em, gia súc, vân vân. Tôi đã giảng về những điều rất đời thường thí dụ -phải đối xử với hàng xóm láng giềng, với vợ chồng như thế nào, vì có rất nhiều xung đột trong những làng này. Ở trên đảo, chúng tôi cũng nghe rất nhiều về những chuyện xung đột của họ. Tập họp họ lại ở đây để nói về những việc này là một việc rất tốt. Qua họ, tôi muốn nói lời cảm ơn về sự ủng hộ, chấp nhận tôi ở Sri Lanka. Một ngày kia, tôi được báo tin là ngài thủ tướng Sri Lanka muốn thăm tu viện và học tu thiền với chúng tôi. Chuẩn bị cuộc đón tiếp này đòi hỏi rất nhiều công lao, rất nhiều việc phải làm. Con đường xuyên qua làng dẫn đến bờ hồ được trải đá, các biễu ngữ được giăng khắp nơi, và các hộ vệ của ngài thủ tướng phải đến trước một ngày hầu giữ cho hòn đảo của chúng tôi được hoàn toàn an toàn. Họ xét từng gốc cây, bụi cỏ để xem có ai núp sau đó không. Rồi thì ngài Premadasa cùng với phu nhân và một số người tháp tùng cùng đến đảo, nơi chúng tôi đang chờ đón ông ở bến đò. Ong yêu cầu được dẫn đến thất của tôi, rồi đến thiền đường đế bắt đầu buổi tọa thiền. Ong dự định sẽ ở lại đây hai ngày. Sau khi tôi đã cố gắng giải thích một số điều với ông về thiền, chúng tôi ngồi thiền được khoảng hai mươi phút, một cận vệ của ông vội vã bước vào và báo rằng Ngài Premadasa phải trở về Colombo ngay lập tức, vì có cuộc tranh chấp nội bộ ở quốc hội. Vậy là kết thúc buổi tọa thiền, kết thúc sự tu học. Vài năm sau, Ngài Premadasa được bầu làm tổng thống của Sri Lanka, và sau một thời gian ngắn ở địa vị, ông đã bị ám sát bởi một trái bom của bọn khủng bố. Khi không có mặt ở tu viện, tôi đi thuyết pháp khắp nơi trên thế giới. Thứ nhất là vì chúng tôi cần tiền cúng dường từ những buổi thuyết pháp đó để bảo trì tu viện trên đảo. Tuy nhiên, sau một thời gian, tôi cảm thấy muốn được trở về tu viện, xa rời mọi hoạt động một khoảng thời gian. Tôi muốn được nhập thất, chỉ một mình khoảng ba tháng. Những người Singhalese, bạn của tôi, có một đồn điền chuối trong rừng. Trên đồn điền có một ngôi nhà cũ, đã xuống cấp rất nhiều, nhưng vẫn còn có thể che nắng che mưa. Và thế là tôi đã đến ở nơi đấy suốt ba tháng một mình. Các bạn của tôi đã sắp xếp cho tôi một người giúp việc người Tamil. Anh ta không biết tiếng Anh, tôi không biết tiếng Tamil, nên chúng tôi luôn im lặng. Tôi chỉ biết một chữ Nước, để nhờ anh mang đến khi cần. Họ còn muốn mướn cho tôi cả đầu bếp, nhưng tôi đã bác bỏ ý kiến đó. Chỉ tạo thêm phiền phức. Người giúp việc cũng có thể vào làng mua trứng, bánh mì, cà chua và dưa leo cho tôi. Thế là quá đủ. Tôi không cần phải có thức ăn nóng sốt mỗi ngày. Các bạn tôi cũng cung cấp cho tôi rất nhiều trà vì đây là đồn điền trà của họ, ngoài ra còn có rất nhiều chuối, dừa, và thơm. Những thứ này lúc nào cũng có. Tôi lập một thời khóa biểu cho riêng mình và dành nhiều thì giờ cho việc tọa thiền. Thời gian này tôi coi như đang được nghỉ phép, vì đây là lần đầu, tôi không phải lo cho ai cả. Thời điểm này qua sự giới thiệu của một vị sư khác, tôi đã được gặp vị lão hòa thượng, người Singhalese, người đã tạo nhiều ảnh hưởng lớn đối với tôi. Không ai hiểu về thiền bằng ông. Vào lúc đó ở Sri Lanka, người ta còn rất xa lạ với việc phát triển tu thiền, nhưng qua thời gian cũng có nhiều thay đổi tích cực, nhờ vào ảnh hưởng của các sư cô người Tây phương, mà tôi có lẽ cũng có góp phần vào đó. Vị đại lão hòa thượng Nannarama Thera, là trụ trì một lâm tự viện nằm giữa rừng. Khi được nghe nhiều câu chuyện liên quan đến Ngài, tôi quyết tâm phải tham kiến người. Lần đầu tiên tôi được gặp Hòa thượng ở nhà một Phật tử ở Colombo. Ngài đang ở đó trị bịnh. Lần diện kiến đầu tiên đó vào năm 1983 là một kỷ niệm khó thể quên đối với tôi. Tuy nhiên vì bất đồng ngôn ngữ, chúng tôi không thể trao đổi trực tiếp, may mà một vị sư trẻ, là thị giả của Ngài có thể nói tiếng Anh lưu loát. Tôi ngồi trên sàn, đối diện Hoà thượng Nannarama Thera, rồi bắt đầu kể cho Ngài nghe về những kinh nghiệm tu thiền của tôi. Tôi đã vào được định từ nhiều năm nay, nhưng chưa tìm được ai để có thể chia sẻ những kinh nghiệm này, cũng như để người đó có thể bảo với tôi là phương pháp tu tập của tôi là đúng. Cuối cùng tôi mới tìm gặp được người ấy. Sau vài phút, trong khi Hoà thượng đang chăm chú lắng nghe, tôi bỗng sực nhớ rằng Ngài không biết tôi là ai, hẳn là tôi cần phải thưa lại là tôi đã hành thiền hơn hai mươi năm nay. Nếu không e rằng Hoà thượng sẽ nghĩ là tôi đã vọng tưởng hay những điều tôi tu chứng là do tình cờ. Sau khi vị sư trẻ thông dịch lại với Hoà thượng điều đó, Ngài phá ra cười và nói gì đó với vị sư trẻ. Người này quay sang tôi dịch: "À, bà ấy đã tu thiền hơn hai mươi năm! Đúng hơn là hai mươi kiếp!" Tôi lại tiếp tục câu chuyện của mình. Lúc đến định thứ tám, tôi không biết phải trình bày lại như thế nào, nên tôi thưa là tôi sẽ thực hiện ngay điều đó hơn là trình bày sai. Thế là tôi chú tâm thiền định và đi từ định thứ nhất đến thứ tám, qua từng giai đoạn một, trong vòng chỉ vài phút. Khi tôi mở mắt ra, tôi nhìn thấy Hoà thượng Nannarama Thera nhìn tôi vừa ngạc nhiên vừa tán thán. Sau đó tôi tả lại những cảm giác ở định thứ tám. Nói chung, việc diễn tả cũng ngắn thôi, vì ở trạng thái định này tâm hoàn toàn lắng đọng. Hoà thượng Nannarama Thera xác định là tôi đã hành thiền đúng phương pháp và diễn tả các trạng thái thiền định rất chính xác. Sau đó Hòa thượng bảo rằng bổn phận của tôi là phải trở về truyền lại cho phương Tây những phương pháp thiền định này, sợ rằng những phương pháp này sẽ bị thất truyền. Tôi đã khắc sâu những lời dạy của Ngài. Tôi đã truyền dạy các phương pháp tu thiền từ nhiều năm nay. Lúc đầu, tôi hơi do dự khi đem truyền dạy phương pháp tu không được phổ biến này cho đại chúng, nhưng tôi nhận ra rằng càng ngày các đệ tử của tôi càng đạt được nhiều kết quả trong thiền định. Vì thế, tôi càng giải thích cho họ cặn kẻ thêm. Ngày nay các vị đệ tử này đóng góp rất nhiều vào tất cả các khóa tu thiền của tôi. Sau này, tôi thường phải đi hơn sáu tiếng đồng hồ để đến thăm lão Hòa thượng Nannarama Thera ở lâm tự viện để trao đổi, tiếp nhận thêm sức mạnh và sự hướng dẫn của Ngài. Lúc nào tôi cũng được Ngài tiếp đón nồng hậu. Ngài luôn nhớ về lần gặp gở đầu tiên với tôi, nhất là lúc tôi nhập định thứ tám để trình kiến giải với Ngài. Ngài đã viết một quyển sách được dịch từ tiếng Singhalese sang tiếng Anh. Một quyển sách mỏng thôi, nhưng Ngài diễn tả toàn bộ con đường của giáo lý Đức Phật -từ lúc khởi đầu cho đến ngày Giác Ngộ. Tôi mang quyển sách đó theo tôi trong ba tháng ở đồn điền chuối để học tập. Khi có điều thắc mắc, tôi đánh dấu vào quyển sách. Sau ba tháng nhập thất, tôi tìm đến lão Hòa thượng Nannarama Thera tham vấn với Ngài từng câu, từng chữ trong sách. Sau đó, tôi đã dịch quyển sách ra tiếng Đức. Phần dịch thuật của quyền sách được coi là món quà cho sinh nhật năm tôi bảy mươi tuổi. Ba tháng nhập thất một mình rất hữu ích cho tôi. Khi ra thất, tôi cảm thấy như có thêm sức mạnh -sẳn sàng để chia sẻ những gì tôi gặt hái được với bất cứ ai muốn nghe. Cho đến ngày hôm nay, tôi như vẫn còn nghe những âm thanh của núi rừng văng vẳng bên tai; tiếng vượn kêu, tiếng chim, tiếng gió lướt trên những cành lá chuối. Nhưng cũng có những lúc không gian hoàn toàn yên ắng, lúc bình minh và hoàng hôn. Tôi thường tản bộ trong rừng để quán niệm thiên nhiên là một phần của tôi. Vì xét cho cùng, chúng ta có khác gì thiên nhiên. Thí dụ, tôi dạy về tứ đại: đất, nước, gió và lửa, những thành phần căn bản cấu tạo nên con người, mà cũng cấu tạo nên thiên nhiên. Và khi ta đứng giữa thiên nhiên, không để bất cứ điều gì làm bận lòng ta, đó là lúc tốt nhất để cảm thấy ta hoàn toàn liên hệ với thiên nhiên, ta không khác gì với ngoại cảnh quanh ta. Cứ mỗi năm qua, hòn đảo của chúng tôi càng trở nên tốt đẹp hơn. Lúc bắt đầu nó chỉ là một khu rừng, với rắn và chuột. Chúng tôi tạo nên những lối đi, các khu vườn. Diện tích đảo không rộng rãi mấy. Chiều dài của cả đảo chỉ khoảng chừng nửa kílo mét, chiều ngang chừng một phần tư kílo mét. Nhưng chúng tôi chỉ cần có thế, chỉ có điều lúc đầu các cô không quen với đời sống ở nơi hẻo lánh này. Đi đâu cũng phải cần đến thuyền. Lúc đầu chúng tôi có một chiếc tam bản chèo bằng tay. Sau một gia đình người Đức cúng dường một số tiền khá lớn, nên chúng tôi mua được một mô-tơ để chạy đò. Thật là tiện lợi, dầu rằng chúng tôi cũng phải học bảo trì và chạy máy mô-tơ. Điều khó khăn nữa là việc tìm người giúp việc và người nấu bếp, nhất là những người biết tiếng Anh. Phần lớn dân bản xứ không thích sống trên đảo, giữa những người phụ nữ nước ngoài. Cuối cùng tôi tìm được một phụ nữ rất thích giúp việc cho chúng tôi và đã ở với chúng tôi cho đến mãi sau nầy. Sau đó bà vẫn thư từ cho tôi một thời gian dài. Cuộc sống của chúng tôi trên đảo coi cũng thơ mộng, nhưng cũng rất vất vả. Chúng tôi phải chịu đựng sức nóng như thiêu đốt, muỗi mòng và những kỷ luật tôi bắt mọi người phải tuân theo triệt để. Tôi biết cuộc sống ở đây đều giúp ích cho hầu hết mọi người. Thí dụ, có người giờ sống ở Stuttgart, trở thành thư ký cho trung tâm Buddha-Haus. Một phụ nữ Hà Lan, giờ sống và làm việc ở trung tâm Wat Buddha Dhamma ở Úc. Bà là Giám đốc của Trung tâm. Tôi cũng giao cho bà nhiệm vụ giảng dạy, và bà đã chấp hành công việc này rất tốt, với tất cả tấm lòng. Tôi vẫn còn giữ mối liên lạc với các phụ nữ đã sống với tôi trên đảo. Nhiều người sau này tổ chức những khóa tu do tôi hướng dẫn ở các thành phố nơi họ sống. Càng ngày việc hoằng pháp càng trở thành mục đích của đời tôi. Tôi vẫn còn nhớ khóa tu đầu tiên tôi phụ trách ở Ao. Lúc đó tôi vừa từ Sri Lanka đến. Chỉ có bảy người ghi tên cho khóa tu học, người ta hỏi tôi như thế có tiến hành không. Tôi đáp: "Có chứ". Lần sau khi tôi mở khóa khác, có đến hai mươi lăm người ghi tên. Ở Thụy Sĩ, hồi đó khi tôi thuyết giảng chỉ có mười hai người đến dự. Ngày nay hằng trăm người tham dự. Lúc ban đầu bao giờ cũng thế. Tôi đã đi hóa đạo ở Thụy Sĩ, Anh, Hà Lan và Đan Mạch. Đã thuyết giảng ở Nam Phi, nơi có một trung tâm Phật giáo rất tráng lệ. Và dĩ nhiên là tôi cũng trở về Úc và Mỹ để thuyết giảng. Tiền cúng dường ở khắp nơi, tôi dùng cho việc bảo quản, duy trì ni viện trên đảo. Nhờ thế mọi việc cũng ổn. Năm 1987 là một năm có nhiều sự kiện đáng ghi nhớ đối với tôi. Việc đầu tiên là tôi được mời tham dự cùng với phái đoàn từ Sri Lanka đến Liên Hiệp Quốc ở Nữu Ước để diễn thuyết. Hầu hết đại diện các nước nhỏ đều đến, nhưng đại diện của các cường quốc lại vắng mặt. Mỹ và Nga không có đại diện. Lúc đó bức màn sắt chưa được cởi bỏ. Tôi nói về sự bình an trong trái tim của mọi người như là một điều kiện tất yếu để mang lại hoà bình trên thế giới. Những người hiện diện trong buổi lễ hôm đó hình như không nghĩ rằng tôn giáo và chính trị có thể đi đôi với nhau. Họ đặt khá nhiều câu hỏi sau bài nói chuyện của tôi. Vào thời của Đức Phật, Ngài đã thuyết giảng cho các vị vua chúa và các quan đại thần. Ngày nay điều đó vẫn còn là một việc khó làm. Cuối buổi lễ, tôi được tặng một huy chương vì hòa bình, khiến tôi rất vui. Sự kiện thứ hai trong năm đó là đại hội Quốc tế dành cho các vị ni Phật giáo ở Bodh Gaya, Ấn Độ. Đức Đạt Lai Lạt Ma chủ trì đại hội này. Đầy là lần đầu tiên một đại hội như thế được thành hình, và tôi là một trong ba phụ nữ đã tổ chức đại hội này. Hai vị kia, là một sư cô người Mỹ theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và một nữ giáo sư người Thái. Chúng tôi đã thành lập nên Sakyadhita (Các Nữ Đệ Tử của Đức Phật), một tổ chức quốc tế dành cho các nữ tu và cư sĩ. Kể từ đó, gần như hằng năm tổ chức này đều tổ chức đại hội, cũng như đem lại nhiều chuyển đổi tốt đẹp cho các vị ni, giúp họ thoát khỏi một số áp lực nặng nề mà họ phải gánh chịu trước đó, nhất là ở Á châu. Đáng kể nhất là tổ chức này đã tạo điều kiện để các nữ Phật tử trên ba mươi nước trên thể giới có thể gặp gở, giao lưu. Chúng tôi đã học hỏi lẫn nhau và về nhau. Một khía cạnh khác nữa là tổ chức này hoàn toàn ủng hộ việc phụ nữ muốn được thọ giới tỳ kheo ni (bhikkhunis). Năm 1988 lại đánh dấu một sự kiện quan trọng khác. Tôi đã bay sang California để tham dự lễ thọ đại giới tỳ kheo ni ở Chùa Tây Lai ở thành phố Los Angeles. Đó là lần đầu tiên một buổi lễ như thế được tổ chức ở Tây phương, hơn nữa nó lại được tổ chức hoàn toàn theo truyền thống với cả hai giới tăng ni chứng kiến. Có nghĩa là chúng tôi được sự chứng minh của các vị hòa thượng và các ni sư. Hai trăm năm mươi vị ni Trung Hoa, năm mươi vị Tăng và mười hai ni người Tây phương đã đến thọ giới tại đại giới đàn này. Chùa Tây Lai được xây theo kiến trúc của Cấm Thành (Forbidden Palace) ở Bắc Kinh, đã có nhiều buổi họp diễn ra ở sân trong của chùa. Theo một bảng thông báo dán trên tường, người ta được biết là chùa Tây Lai cũng vừa được xây dựng xong với phí tổn gần hai mươi lăm triệu Mỹ kim. Chương trình học tập rất gắt gao, kỷ luật như trong quân đội, hầu như tất cả đều bằng Hán văn. Tuy nhiên chúng tôi được tiếp đãi rất chu đáo, mọi thứ đều được chu cấp từ nơi ở, thức ăn cho đến cả y áo. Nếu ban quản lý chùa Tây Lai sắp xếp để có thêm các sư cô người Tây phương tham gia, có lẽ tốt hơn, vì chỉ có một sư cô nói được tiếng Anh, trong khi mục đích của chùa là để truyền bá Phật pháp rộng rãi ở Tây phương. Sau bốn tuần lễ được huân tập mỗi ngày, với rất nhiều giờ mỗi ngày, ngày đại giới đàn cuối cùng cũng đến. Đối với các ni, thì là cả buổi sáng và buổi tối, vì chúng tôi phải thọ đại giới hai lần -một lần do mười vị lão hòa thượng hướng dẫn, các vị này đã xuất gia ít nhất là ba mươi năm; và sau đó bởi mười trưởng lão ni, các vị ni đã có hơn hai mươi năm tu tập. Buổi lễ đã được kết thúc tốt đẹp, dầu rằng suốt buổi lễ các tăng ni người Tây phương chỉ lờ mờ đoán chuyện gì đã xảy ra, vì chẳng có ai dịch lại. Chúng tôi chỉ nắm được phần chủ yếu. Tôi rất mừng là buổi lễ đã chấm dứt, vì cả thân thể tôi đau nhừ. Một chuyện thú vị tôi vẫn còn nhớ. Ở Trung Hoa và ở Đài Loan, các tăng ni đều bắt buộc phải ăn chay trường. Nhưng mỗi ngày ở chùa đều có bao nhiêu thực vật. Bữa thì có gà, bữa cá, lúc khác là gan. Cho tới một ngày tôi thu hết can đảm để hỏi sư cô nói tiếng Anh rằng tại sao các món chay không được dọn lên. Cô nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên và bảo tất cả thức ăn đều là chay. Khi tôi hỏi cô vậy chứ sao có cá, có gà, thì cô cười. Rồi cô giải thích là tất cả đều làm bằng đậu nành được chở từ Đài Loan đến mỗi ngày, vì các thư’ này không có ở Tây phương. Trước khi trở lại ni viện ở đảo, tôi ghé thăm Irene một thời gian, vì tôi không được gặp con gái khá lâu rồi. Cả tôi và con gái đều rất sung sướng được gặp lại nhau. Tôi cũng có một kỷ niệm đáng nhớ trong lần gặp gở đó. Con gái tôi, Irene đã hỏi tại sao tôi xuất gia. Nó có thể hiểu nếu tôi chỉ theo Phật giáo, nhưng tại sao phải xuất gia? Tôi hỏi lại con rằng; Vào những ngày chủ nhật khi con cùng với chồng đi nhà thờ con có vui không. Nó thưa vâng. Tôi bảo là tôi muốn được có cảm giác an lạc đó mỗi ngày, nên tôi xuất gia. Câu trả lời đó khiến con gái tôi không thắc mắc gì thêm nữa. Lúc đó tôi đã có thêm một đứa cháu ngọai, và câu chuyện sau đây liên quan đến đứa trẻ đó. Irene muốn có thêm một con gái, đồng thời cũng muốn nhận nuôi một đứa trẻ mồ côi. Do đó Irene và chồng là Ronny đã làm đơn xin bão lãnh một em bé mồ côi, người Đại Hàn. Nhưng đã lâu mà chưa nhận được tin trả lời. Trong thời gian tôi thăm viếng hai vợ chồng, lại có thư báo là đã có một em bé Đại Hàn cho họ, còn có cả ảnh đính kèm. Chỉ nhìn bức ảnh, tôi có thể thấy rõ ràng đó là một em bé bị tâm thần, và tôi cũng biết rõ là con gái tôi Irene khó thể lo lắng cho một đứa trẻ như thế. May mà lúc đó tôi cũng dự định sẽ bay sang Đại Hàn để viếng thăm một sư cô người Úc, là bạn của tôi, vì thế tôi nhận trách nhiệm đi gặp cháu bé. Nhờ bạn tôi nói được tiếng Đại Hàn nên tôi có thể giải thích với văn phòng lo việc bảo lãnh con nuôi rằng con tôi không thể nhận em bé đó, và họ nên tìm một em bé khác thay thế. Lúc đầu chúng tôi cũng gặp khó khăn với họ, nhưng cuối cùng cũng được kết quả. Thế là hai tháng sau Amy Jung Ah được gửi theo người bảo mẫu đến phi trường Los Angeles. Amy không nói được tiếng Anh nào. Cô bé đã được năm tuổi và đã sống trong cô nhi viện từ lúc mới sinh ra. Cô bé vừa kháu khỉnh, lại rất ngoan, không lâu là cháu có thể nói được tiếng Anh. Giờ thì cô bé đã được mười bảy tuổi, đang học năm cuối và được xếp vào loại học sinh giỏi ở một trường trung học. Cô lội như ráy, có rất nhiều bạn bè và năm nay sẽ là lần đầu tiên cô đến thăm bà ngoại. Cô bé đã viết thư nhờ tôi tổ chức chuyến viếng thăm trại tập trung, vì đó là đề tài cô nghiên cứu ở trường. Ngoài ra, cô cũng muốn viếng thăm lâu đãi của Hoàng đế Ludwig. Không may, có bao biến động đã xảy ra ở Sri Lanka. Những cuộc tấn công bằng bơm và các cuộc truy tìm quân khủng bố khiến cuộc sống ở xứ sở này càng trở nên khó khăn. Thí dụ, xe buýt thường hay bị đặt bom đến nổi không ai dám đi xe buýt nữa. Nhiều bưu điện bị phá hoại. Thư từ bị thất lạc, thông tin gián đoạn. Trong lúc tôi phải tùy thuộc vào hệ thống bưu chính rất nhiều. Điều tệ hại nhất là tôi không thể tiếp nhận nhiều phụ nữ ở khắp nơi trên thế giới muốn đến tu học ở ni viện trên đảo. Vì tôi phải chịu trách nhiệm cho sự an toàn của họ. Tôi không thể mạo hiểm làm chuyện đó trong tình hình bất ổn như thế. Vì thế tôi khuyên họ không nên đến. Và như thế là công việc hoằng pháp của tôi bị gián đoạn. Một trở ngại khác nữa là ngay chính các đệ tử người Singhalese của tôi, cũng không dám ra khỏi nhà. Con đường từ nhà họ đến đảo cũng rất nguy hiểm. Rồi một việc khủng khiếp đã xảy ra. Người bạn là chủ đồn điền, cũng là người bảo trợ tôi, đã bị nhóm khủng bố bắt và thiêu sống. Nhưng không chỉ có thể, còn có sự ra đi vĩnh viễn của Arthur de Silva. Năm 1988, khi tôi sửa sọan lên đường đi California, tôi có cảm tưởng rất mạnh mẽ là tôi sẽ không bao giờ gặp lại Arthur de Silva nữa. Và thật thế, khi tôi trở lại, ông đã mất. Ong bị bịnh tiểu đường mà ăn uống không kiêng cữ lắm. Một ngày kia ông bị ngã và tắt thở. Năm 1989, theo yêu cầu của các đệ tử người Đức, tôi quyết định rời bỏ Sri Lanka, cái chết của Arthur de Silva cũng là một yếu tố khiến tôi cảm thấy chắc chắn là tôi không còn có duyên ở lại đó nữa. -ooOoo- Chương 14 Ngôi Nhà Phật Ở Allgau Ví như sống đặng trăm năm Vào mùa xuân năm 1989, từ Sri Lanka, tôi đặt chân xuống phi trường Munich. Charlie, người đệ tử không biết nói tiếng Anh ở Bali của tôi, ra đón. Sau đó chúng tôi đi xe về Uttenbuhl. Trời đang mưa, lạnh giá. Uttenbuhl là một ngôi làng nhỏ với chỉ năm mái nhà, nằm giữa một cánh đồng xanh mướt. Vào mùa xuân, các dòng nước do tuyết tan từ trên núi rừng đổ xuống đầy đường xá, ngõ ngách. Ngôi nhà nằm kế bên căn nhà cuối cùng cạnh rừng, có cây lê già trong vườn, là nơi trú ngụ mới của tôi. Tôi rất yêu thích ngôi nhà đó. Nhờ vào tiền đóng góp ủng hộ mà chúng tôi có thể mua được ngôi nhà đó, và từ tháng hai người ta đã bắt tay vào việc sửa chữa, nâng cấp ngôi nhà. Tất cả các công trình xây dựng, sửa chữa đều do các đệ tử của tôi phụ trách. Họ cúng dường công sức, không chịu nhận thù lao. Charlie là huấn luyện viên môn tennis ở Munich; Roland ở Rosenheim, là nhà thiết kế nội thất, kiêm luôn chuyên viên làm các kệ tủ, và tạo cây cảnh; Gudrun dạy thể hình và khiêu vũ ở miền bắc nước Đức; Heinz, thương gia ở Munich; và Norbert, em của Roland, cũng là đệ tử của tôi từ lúc ở Bali, cùng thời với Charlie -các đệ tử này đã góp sức giúp tôi từ những ngày đầu. Tôi vẫn còn nhớ ngày tôi đặt chân đến đó rất rõ ràng. Mọi thứ vẫn còn hỗn độn -sách vở, hành lý, thùng hàng- chúng tôi phải thức đến bốn giờ sáng để xếp đặt mọi thứ đâu vào đấy. Các bạn trẻ đều ngạc nhiên trước năng lực làm việc của tôi. Chúng tôi hoàn tất công trình sửa chữa ngôi nhà với sự tiếp sức của những người thợ chuyên môn trong một thời gian ngắn đến không ngờ. Tôi đến đó vào tháng tư. Tháng năm tôi đã có thể bắt đầu khai giảng khóa học đầu tiên. Nếu tôi nhớ không lầm, có khoảng hai mươi học viên tất cả. Chỉ ít phút trước khi học viên đầu tiên bước vào lớp, chúng tôi vẫn còn tranh thủ treo nốt các bức tranh trong phòng và ngoài hành lang. Rồi thở phào nhẹ nhỏm, chúng tôi có thể xếp các dụng cụ lại một bên để bắt đầu. Mỗi tối thứ tư tôi đều tổ chức gặp mặt (open house), tiếp đón mọi người muốn đến tham quan, tìm hiểu Phật giáo. Truyền thống này vẫn được tiếp tục cho đến ngày nay. Tôi thường nói một thời Pháp, sau đó chúng tôi ngồi thiền. Ngày thứ tư đầu tiên có khoảng năm người đến tham dự. Giờ thì có khoảng từ sáu mươi đến chín mươi người thường xuyên đến vào các tối thứ tư -là con số cao nhất chúng tôi có thể chứa trong thiền đường. Sau buổi tọa thiền, chúng tôi dùng trà với khách. Đây là khoảng thời gian người ta thường dùng để trò chuyện, tâm sự, giãi bày mọi thắc mắc trong tâm tư. Có thời gian, vì thiếu chỗ, tôi không thể tổ chức các khóa tu học ở trung tâm Buddha-Haus (Ngôi Nhà Phật), mà phải sử dụng các tu viện Thiên Chúa Giáo. Ở Buddha-Haus, chúng tôi chỉ có chỗ ngủ cho khoảng ba mươi người, khiến cho nhiều người phải ghi tên chờ đợi khá lâu, vì thường chúng tôi có đến hơn hai trăm người ghi tên học. Các tu viện Thiên Chúa Giáo tiếp đón chúng tôi rất nồng hậu. Chúng tôi trả tiền ăn, tiền phòng cho họ, và giữ sự 'im lặng là vàng'. Ngoài ra, các thầy tu ở đây cũng rất muốn tìm hiểu công việc làm của chúng tôi. Ở tu viện St. Albert ở Walberberg bei Koln, có vị thầy sắp trở thành cha dòng, tham dự tất cả các buổi giảng của tôi. Ở Niederaltaich trong các cánh rừng Bavarian, chính cha xứ cũng tham gia ngồi thiền. Ong đã học thiền ở một thiền viện Nhật Bản, và đã viết nhiều sách về thiền và việc cầu nguyện. Ong vui vẻ kể đã có nhiều thầy dòng quan sát các buổi thiền hành của chúng tôi và nói rằng họ cũng muốn tham gia. Tôi nghĩ là các hành lang trong các tu viện cổ kính này có lẽ trước đây đã được sử dụng cho các mục đích tương tự. Tôi rất quan tâm về việc phát triển và duy trì những cuộc đối thoại có tính cách hòa đồng tôn giáo như thế này. Tôi không quan niệm phải coi Phật giáo như là phương tiện duy nhất dẫn đến giải thóat. Tôi muốn chứng tỏ với dân Đức rằng ta có thể đi đến con đường tâm linh bằng chính tôn giáo của mình, và muốn giúp họ tìm được sự bình an sâu lắng trong tâm hồn. Tôi cảm thấy có bổn phận phải hướng dẫn người Tây phương đi trên con đường các thầy tôi đã dẫn dắt tôi đi. Đứng trên phương diện này, tôi có nhiều lợi thế vì tiếng Đức cũng như tiếng Anh đều như tiếng mẹ đẻ của tôi, vì tôi đã sử dụng cả hai từ thời thơ ấu. Phần lớn năng lực tôi dồn vào những năm hoạt động ở Sri Lanka và ở Đức vì tôi có cảm tưởng mình không còn nhiều thời gian. Từ năm 1983 tôi đã khám phá ra mình bị ung thư. Khi cảm thấy có một cục u trong ngực, tôi đã đi khám bác sĩ ở Úc. Bà bác sĩ sau khi làm khám nghiệm cho biết kết quả: bướu ác tính. Lúc đó chúng tôi chỉ vừa bắt tay xây dựng ni viện trên đảo ở hồ Ratgama. Tôi nóng lòng muốn hoàn thành công trình, và cũng cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh, không đau ốm gì. Tôi bảo với bà bác sĩ là tôi không muốn phẫu thuật, vì tôi không muốn bị kéo vào quỹ đạo trị bịnh ở các bịnh viện, mà một khi đã sa vào, người ta khó thể thoát ra. Tôi còn nhớ rất rõ là bà bác sĩ đã nhìn tôi rất lâu, rồi bảo rằng mẹ của bà cũng bị ung thư ngực, và cũng đã chọn quyết định giống như tôi. Mẹ bà đã sống mười lăm năm với căn bịnh, mà không giải phẫu. Hai tháng sau cùng bà mới trở bịnh, rồi ra đi. Tôi bảo nếu được thế càng tốt. Tôi rất muốn được như người mẹ ấy. Những năm tháng sau đó, căn bịnh chỉ đem lại cho tôi cái cảm giác khẩn trương -trong tiếng Pali là samvega - mà Đức Phật vẫn khuyên ta nên có. Phải gấp rút, khẩn trương tu tập vì không ai biết được mình sẽ sống bao lâu. Và khi bạn mang trong mình căn bịnh ung thư, bạn càng thấy rõ điều này hơn. Mỗi người đều mang bản án tử hình. Không có ai sống mãi trên đời. Chỉ có điều ta thường không nghĩ đến bản án đó, để sống như thể thời gian sống của ta bất tận. Cảm giác khẩn trương này thúc đẩy tôi phải hoàn thành công trình xây ni viện trên đảo, để con số phụ nữ được có điều kiện tu học trong hoàn cảnh thuận lợi được nâng cao. Tôi cũng muốn viết thật nhiều sách để dân Đức được biết đến giáo lý của Đức Phật càng nhiều càng tốt. Lúc trẻ, tôi đã ao ước có một ngày viết được một đại tác phẩm. Tôi đã mơ mộng đến ngày cầm quyển tiểu thuyết nổi tiếng đó trong tay. Tôi chẳng bao giờ có cơ hội viết quyển tiểu thuyết đó, nhưng đến giờ thì tôi đã xuất bản hơn hai mươi lăm đầu sách, và việc tôi ký tên tặng sách không còn mới mẻ gì. Nhưng tôi hạnh phúc không kém, vì qua những quyển sách này, Phật pháp đã được truyền bá đến bao nhiêu người. Đức Phật đã không gọi các lý thuyết của mình là Phật giáo (Buddhism) nhưng Ngài gọi là Pháp (Dharma), có nghĩa là "luật thiên nhiên" hay "sự thật tuyệt đối". Ngày nào còn sống, tôi còn muốn được tiếp tục giảng Pháp. Tôi muốn giúp đở tất cả những ai muốn quay vào tìm hiểu chính mình, được biết đến thiền. Có rất nhiều tầng tâm thức hoàn toàn khác với những tâm thức ta thường biết. Qua đó, ta có thể hiểu về tôn giáo ở một mức độ sâu xa mà người ta chỉ có thể đến được qua thiền định. Những người đến nghe tôi giảng, những người đến dự các buổi, các khóa tu của tôi không cần phải là, hay phải trở thành Phật tử. Đức Phật chẳng bao giờ dùng danh từ đó. Ngài chỉ nói chúng ta là các hành giả, những người thực hành với trí tuệ. Dầu bạn là người theo Kitô giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Do Thái hay An Độ giáo, không thành vấn đề đối với tôi. Tôi không phân loại người ta theo tôn giáo, vì như thế chỉ làm cho con người thêm chia rẽ nhau hơn. Nếu chúng ta còn suy nghĩ: "Tôi là thế này, anh là thế khác", thì chúng ta vẫn còn chia rẽ, xa cách nhau. Đó là sự chọn lựa sai lầm. Thực tế là chúng ta cùng chung trong một đại gia đình nhân loại. Đức Phật chỉ có một mục đích: là chỉ cho tất cả chúng sanh biết làm thế nào để được hoàn toàn hạnh phúc. Ngài không bao giờ tìm kiếm đệ tử hay tín đồ. Đó cũng là phương pháp của tôi. Dầu người tìm đến với tôi có bảo họ là Thiên Chúa hay vô thần, không quan trọng. Chỉ cần họ có ý hướng muốn tìm về con đường nội tâm, tôi sẽ giúp họ tìm ra những gì thật sự ẩn chứa bên trong con người của tất cả chúng ta -sự bình an thực sự, chân hạnh phúc. Tôn giáo không gắn chặt với các phong tục văn hóa hay xã hội của một quốc gia. Những phong tục đó đôi khi cũng hữu ích cho con người, nhưng chúng không phải là tính chất của tôn giáo. Tôn giáo là sự khám phá nội tâm, để đáp ứng cho nhu cầu muốn tìm đến chân thiện mỹ trong mỗi chúng ta. Tôi đã đọc nhiều về sự thần bí của Thiên Chúa Giáo trong thời đại trung cổ, nhất là các tác giả như Meister Eckhart, Johannes Tauler, Heinrich Seuse, Teresa of Avila, Francisco de Osuna. Nhất là những lời giáo huấn của Teresa đối với các vị nữ tu trong quyển Lâu Đài Nội Tại (The Interior Castle) đã gây ấn tượng sâu đậm đối với tôi, vì trong đó bà đã diễn tả những trạng thái giống như thiền định mà tôi cũng từng thuyết giảng -chỉ có khác là bà diễn tả bằng cách riêng của mình, theo những viễn ảnh được phác họa trong Thiên Chúa giáo. Tôi đã hai lần thuyết giảng ở Tổ chức Eckhart ở Anh, dựa trên những điểm chung có thể tìm thấy trong giáo lý của Đức Phật và trong những bài thánh kinh của Meister Eckhart. Tôi nghĩ rằng việc tôi trở lại Đức là một yếu tố rất quan trọng. Cuộc hành trình cuộc đời của tôi đã bắt đầu từ đây và tôi đã trở về đây trong những ngày cuối đời. Nhưng cuộc hành trình của nội tâm thì lại theo một con đường hoàn toàn khác. Tôi đã bắt đầu giống như bao người bình thường khác, cũng theo đuổi những mục đích sống như mọi người khác. Nghề nghiệp, gia đình và con cái. Những âu lo, hy vọng, sợ hãi -cuộc đời tôi không thiếu thứ gì cả. Nhưng ở cuối của cuộc hành trình nội tâm, tôi đã đến được bến của sự bình an, hạnh phúc. Tôi rất vui mừng là tôi đã có thể truyền đạt lại phần nào những gì tôi đã khám phá. Tôi đã chứng minh cho chín đệ tử của tôi ở Đức được phép giảng dạy hầu lưu truyền các phương pháp thiền định, để chúng không bị mai một. Ngoài ra tôi cũng chứng minh cho bốn người khác làm công tác đó ở Úc và một ở Mỹ. Một năm sau ngày tôi đến Buddha-Haus, Charlie trở về Munich, lập gia đình và trở về với công việc làm huấn luyện viên tennis. Gudrun, sau gần tám năm làm thư ký ở Buddha-Haus, cũng đã ra đi. Những người mới lại đến thay thế: Traudel, tốt nghiệp môn Toán, là một chuyên viên vi tính đã phụ trách phần kế toán, ngân sách, các catalog, xếp chữ và in ấn các sách của tôi ngay tại phòng phát hành của chúng tôi. Về vấn đề nấu nướng, chúng tôi cũng có người tiếp tay tại Buddha-Haus. Chúng tôi ăn chay và không đòi hỏi gì. Mọi thức ăn đều đơn giản, vệ sinh và được nấu bằng tất cả tấm lòng. Chúng tôi giống như một đơn vị kinh doanh nhỏ, rất cần có tổ chức. Phải có người trả lời điện thoại, thư tín, đặt hàng. Công tác vệ sinh ở Trung tâm được các thiền sinh hay các khách vãng lai giúp tay. Buổi sáng luôn có một giờ "làm việc vì người khác" trong thời khắc dành cho mục đích này. Tiền cúng dường, tiền học phí, tiền bán băng (thu trong các buổi nói chuyện của tôi) và sách là nguồn thu nhập nuôi sống chúng tôi cũng như trang trải việc in ấn. Tất cả mọi người tham gia cuộc sống chung ở đây đều đã từ bỏ tiền của, sở hữu cá nhân. Cũng từ nguồn tiền trên chúng tôi trang trải bảo hiểm y tế và tiền dằn túi cho mỗi người. Tổ chức của chúng tôi thật là đa đoan. Cũng may tôi có chút năng khiếu và nhiều kinh nghiệm trong lãnh vực này. Trong các tu viện hay trung tâm Phật giáo, trật tự phải được tôn trọng triệt để. Người ta khó có thể giử đầu óc thảnh thơi dành cho việc tu tập, nếu như quanh họ mọi thứ đều lung tung, lộn xộn. Hơn nữa, ngoại cảnh quanh ta là tấm gương phản chiếu tâm hồn ta. Roland, nhà thiết kế nội thất ở Rosenheim, người đã thiết lập các hệ thống chất thải cũng như nhiều thứ khác nữa ở trung tâm; người đã thiết kế các bìa sách của tôi ở Đức, từ những ngày đầu tiên đã nêu tấm gương ở Buddha Haus. Năm 1993, anh quyết định xuất gia. Tôi làm lễ thọ giới cho anh cùng với một tu sĩ người Ấn Độ, ở Ladakh đến viếng thăm chỗ chúng tôi. Tôi dịch bài kinh đọc ở lễ thọ giới sang tiếng Đức, và cũng tụng nguyên bản tiếng Pali. Thật là một buổi lễ cảm động. Tất cả mọi người trong gia đình Roland đều đến tham dự. Từ ngày đó trở đi, Roland được gọi là Nyanabodhi. Thầy là vị tăng người Đức đầu tiên được thọ giới ở ngay nước Đức. Năm 1993 cũng là năm tôi phải trải qua cuộc giải phẩu cam go. Khối u trong ngực tôi cang ngày càng lớn đã vỡ ra, khiến tôi rất đau nhức, và nó lại chảy máu luôn. Trước khi giải phẩu, tôi đã cố gắng làm xong hết những dự định của mình. Và để không lưu lại những ác cảm hay khó khăn cho ai, tôi đã viết thư cho tất cả những người mà tôi đã có sự bất đồng dù lớn hay nhỏ, dù là mới đây hay đã từ lâu. Tôi xin lỗi mọi người về những lỗi vô tình hay cố ý, nói rõ cho họ hiểu là tôi vẫn nghĩ về họ với tình thương yêu. Tôi làm tất cả để không còn gì vướng mắc cho sự ra đi nhẹ nhàng của mình. Hai ngày sau khi giải phẩu, có lúc tôi có cảm giác như sự sống của tôi bị bào mòn, hay đúng hơn nó chạy xuống gót chân tôi và tan đi. Tôi hoàn toàn sẳn sàng chờ đón cái chết, sẳn sàng ra đi, bằng lòng để buông bỏ tất cả. Có bao nhiêu tấm thiệp, bao bó hoa do các đệ tử của tôi gửi vào, nói lên tình cảm của họ dành cho tôi, đồng thời nói rằng chỉ sự có mặt của tôi bên họ là đủ, tôi không cần phải làm gì nữa cả. Tôi rất cảm kích trước những lời đó nói, chúng truyền thêm sức mạnh cho tôi. Sự thường xuyên thăm viếng của các bác sĩ, sự tận tụy chăm sóc của các cô y tá đối với tôi, nói lên những cố gắng của họ để cứu tôi sống. Lúc đó, tôi thấy mình cần sống vì những người đó. Trái với mọi điều lo sợ, tôi bình phục nhanh chóng. Sau đó, tôi phải thêm ba lần giải phẩu nữa, lần cuối cùng vào tháng 11 năm 1995. Trong cuộc giải phẩu đó đã có một việc lạ lùng xảy ra. Dầu lúc đó tôi đã được làm hôn mê, tôi bỗng nghe một bác sĩ nào đó la lên: "Trời ơi, phải làm điều gì đó nhanh lên!" Tôi cảm thấy như ông ở trước mặt tôi, dầu hai mắt tôi nhắm nghiền. Tôi nhìn thấy ông cố gắng trong tuyệt vọng để chích mủi kim vào gân tay tôi, và trong tình trạng đó, ông càng luống cuống thêm. Tôi cố gắng truyền cho ông sự bình tĩnh. Các bác sĩ khác đứng quanh tôi tỏ vẻ bực bội, điều đó càng khiến vị bác sĩ gây mê thêm mất bình tĩnh. Sau đó ông chuyển sang tay phải của tôi, tìm được một đường gân có thể tiêm kim vào, ông thở phào. Điều đó chứng tỏ là mạch máu của tôi đã xuống rất thấp. Tôi nghe ai đó nói "tám mươi trên năm mươi" , con số đe dọa tính mạng người. Tôi cũng hoàn toàn cảm nhận được thân thể mình, nằm đó bất động, đồng thời tâm thức tôi như đã tách rời thân tôi, để nhìn xuống mọi thứ bằng con mắt quan sát. Tâm tôi rất bình tĩnh. Tôi chỉ cảm thấy tội nghiệp cho các vị bác sĩ, và tôi cố gắng giúp họ tìm lại được bình tĩnh. Kể từ đó, những gì tôi đã trải qua, những gì tôi tiếp tục trải qua là quà tặng của cuộc đời. Đáng lý ra cuộc đời tôi đã phải chấm dứt, vậy mà tôi vẫn còn đây thêm một thời gian nữa, giờ đã là bốn năm hơn, để có thể hoàn thành thêm một số công việc -rõ ràng đó là một món quà to lớn. Tôi sử dụng thời gian còn lại của tôi rất chọn lọc; tôi chỉ làm những việc đối với tôi là quan trọng và hữu ích. Điều đó không có nghĩa là tôi cho phép mình được thụ hưởng những sung sướng. Nhưng tôi chỉ làm những gì để giúp tôi và người khác thêm sức mạnh nội tại, những gì mang lại niềm vui, đem lại lợi ích. Năm 1993, chúng tôi được báo đài biết đến. Đầu tiên là Zweites Deutsches Rundfunk, một đài truyền hình lớn ở Đức mời tôi nói chuyện. Sau đó một bài báo trên trang ba của tờ Suddeutschen Zeitung, một tờ báo lớn ở miền Nam nước Đức lại nói về chúng tôi, rồi hình ảnh của tôi được phát trên nhiều đài, nhiều buổi nói chuyện được phát thanh, vân vân. Đặc biệt là một cú điện thoại của con gái bác tài xế của tôi thời thơ ấu. Cô đã xem chương trình về tôi trên truyền hình, và gần té xỉu như thấy hình của ba cô trên màn ảnh. Sau đó cô cũng ghi tên học một khóa tu thiền với tôi. Điều làm tôi vui nhất là cô còn nhớ cha mẹ tôi. Ngoài cô ra, chắc không còn ai ở Đức biết đến họ. Cô nhớ về cha mẹ tôi như những người rộng lượng, luôn sẳn sàng giúp đở người khác. Nhưng điều trọng đại nhất mà các chương trình truyền hình này đã tạo được là mang đến một luồng gió Phật pháp tươi mát, nguyên thủy cho phương Tây, dầu đã hơn hai mươi ngàn năm đã qua, giáo lý của Đức Phật mới đến được trái tim của bao người ở đây. Tôi thường nghe các Phật tử Á châu bảo rằng người Tây phương khó tọa thiền. Điều đó không đúng. Sau hơn hai mươi hai năm giảng dạy, tôi đã nhận thấy các đệ tử phương Tây của mình đều có khả năng tu học và hành thiền mà không gặp trở ngại gì. Bất cứ ai đã dốc tâm tu thiền, sau một thời gian tu tập, sẽ thấy được rằng họ có thể trụ tâm vào một điểm. Tôi đã dùng rất nhiều phương pháp. Thí dụ, tôi đã dạy họ chú tâm chánh niệm vào hơi thở, hay biết và làm chủ các vọng tưởng. Ngoài ra tôi còn dạy về thiền hành và phương pháp 'từng bước, từng bước". Phương pháp này liên quan đến việc kiểm soát các cảm thọ, các dấy khởi của cảm thọ, là một phương pháp quan trọng trong việc thanh tịnh hóa tâm. Một phương pháp trọng yếu nữa là quán từ bi, trong phương pháp này tôi dùng những hình ảnh đa dạng khiến ai cũng có thể mở rộng tấm lòng ra với người khác. Trong các khóa tu của tôi, tôi hướng dẫn cho các học viên những phương pháp quán tưởng để có thể dẫn dắt họ vào những thực trạng của nội tâm. Bằng những phương pháp truyền thống này, tâm họ dần trở nên bình lặng, tạm thời quên đi thế giới bên ngoài. Giáo lý quan trọng nhất, mà hình như chỉ có tôi đề cập đến ở châu Âu, là những hướng dẫn về các trạng thái thiền định, là điều người ta chỉ có thể đạt được trong một trạng thái hoàn toàn chú tâm. Ở Á châu, cũng như ở Mỹ và Úc, chỉ có các đệ tử của tôi và hai vị giảng sư nữa là còn đề cập đến các trạng thái thiền định này. Nhưng chính các trạng thái này mới là thiền quán chân chính. Chính Đức Phật đã dạy về những điều này; Ngài đã hành trì và tán thán các phương pháp này. Những trạng thái này mang tâm đến các tầng khác của tâm thức, khiến cho cái nhìn của ta được mở rộng, khiến ta có thể nhìn thấy được quá trình tạo ra vũ trụ. Chúng là phương tiện để đạt đến cứu cánh của sự tự do tuyệt đối, thoát khỏi các áp lực, phiền não và chấp ngã, đưa đến giải thoát. Bất cứ ai tu tập với lòng kiên nhẫn sẽ đạt được trạng thái chú tâm thiền định. Qua đó, họ có thể tìm ra con đường đi vào không gian nội tại nơi chỉ có sự thanh tịnh và trí tuệ ngự trị. Lúc đó chúng ta sẽ có khả năng để quan sát về tự ngã cũng như về những phiền não của chúng ta một cách khách quan hơn. Qua sự tu chứng được các trạng thái của tâm thức, ta sẽ có cái nhìn mới về thế giới mình đang sống. Bên trong thiền đường ở Buddha-Haus, có một bức tượng cổ hơn hai trăm năm của Đức Phật bằng gỗ cứng, có nguồn gốc từ Thái Lan, dù rằng chúng tôi đã thỉnh ở Kempten, một thành phố lớn ở Allgau. Trên thân tượng người ta phủ vàng lá, là một phong tục cổ truyền ở các nước Phật giáo Á châu để tỏ lòng kính trọng. Tôi thường ngồi dưới chân tượng để thuyết pháp. Tôi thường bắt đầu bằng, thí dụ như: "Tôi muốn nói với các bạn về ba đặc tính của cuộc sống -về khổ, vô thường và vô ngã". Nhìn vào sự bất động, chú tâm của khán giả, tôi biết là họ đã sẳn sàng theo tôi trên con đường vào nội tâm, con đường đến sự thật ban đầu mà con người hiện đại với bao lo lắng, bất an, đã đánh mất chúng. Trong thế giới vật chất, nhiều người không còn biết rõ mục đích, ý nghĩa của cuộc đời là gì, và họ chỉ biết thõa mãn các ái dục, không cần biết chúng có thực sự mang đến hạnh phúc cho họ không. Một trong những vị thầy lớn của thời đại chúng ta là một vị Đại lão Hoà thượng ở Thái Lan, Ngài Ajahn Chah, người có rất nhiều đệ tử người Tây phương, và vừa mất cách đây vài năm. Ngài thường nói về ba đặc tính của sự hiện hữu -khổ, vô thường và vô ngã - bằng câu chuyện so sánh như sau. Ngài nói: "Hãy nhìn ly nước đây. Nó rất có ích cho tôi. Tôi có thể dùng để uống nước. Khi để nó dưới ánh sáng mặt trời, nó chiếu ra những tia sáng đẹp đẽ. Khi tôi gõ muổng vào đây, nó cho ra những âm thanh vui tai. Nhưng khi nó rơi xuống đất, nó vỡ tan. Đối với tôi, nó đã vỡ ngay từ bây giờ. Đối với tôi, tất cả mọi thứ có mặt trong hiện tại, hay sẽ có mặt, đều đã bị hủy diệt". Câu chuyện đó rất có ý nghĩa với tôi. Ly nước của tôi cũng đã bể. Năm 1993, đối với tôi, cuộc sống của tôi như đã chấm dứt. Nhưng nó vẫn còn đây, thân của tôi lại còn đây, tôi còn sử dụng nó, nhưng nó không có nghĩa gì đối với tôi hơn là một chiếc ly đã bể. Kể từ đó, bất cứ việc gì tôi làm cũng đã mất đi sự bám víu, chấp chặt. Tôi làm việc này việc nọ chỉ vì chúng có ích lợi. Tôi sung sướng vì còn có thể nhìn thấy công việc của tôi phát triển thêm một thời gian nữa. Nhưng khi chúng chấm dứt cũng chẳng có gì là quan trọng. Mọi chuyện đều đã xảy ra. Đức Phật đã có nói Phật pháp sẽ được phát triên ở những xứ sở khi con trai, con gái của những gia đình tử tế trong xứ sở đó, được thọ giới bằng chính tiếng mẹ đẻ của mình. "Gia đình tử tế" ở đây không phải là những gia đình giàu sang, danh vọng, mà trong một gia đình tử tế, con cái biết cư xử phải đạo. Vì việc di chuyển trở nên khó khăn cho tôi, thầy Nyanabodhi thường đi theo để giúp đở tôi. Đó là khi tôi về California để dự đám cưới của đứa cháu ngoại lớn nhất, Matthew, hay khi tôi đi San Francisco để mở khóa tu thiền, hoặc khi tôi đi Bá Linh, mùa hè năm 1995, trong khuôn khổ của chương trình Đại học Hoà Bình, tôi đã có nhiều bài nói chuyện ở đó; hay khi tôi đi Lindau để dự tuần lễ tâm lý trị liệu ở đó, nơi hai năm qua tôi đã có nhiều buổi thuyết trình, nhiều buổi thực tập ở đó. Tiếng vang của các chương trình truyền giáo của tôi khiến tôi nảy ra ý định thành lập một trung tâm Phật giáo ở một thành phố ở Munich. Chúng tôi tìm được một chỗ rất ưng ý, một cửa hàng thực phẩm cũ với một căn phòng nhỏ kế bên ở Neuhausen, một khu phố yên tĩnh. Sau khi được sửa chữa hoàn toàn, nơi ấy đã trở thành nơi họp mặt của chúng tôi mỗi ngày với những thời khắc nhất định. Các đệ tử của tôi giảng dạy ở đó, kể cả Charlie và Norbert. Traudel dạy yoga mỗi tuần một lần, cô đã từng được huấn luyện về môn này. Nhưng trước khi chết, tôi vẫn còn một hoài bảo muốn thực hiện: đó là xây dựng ở Đức một lâm tự viện theo truyền thống nguyên thủy, ở một nơi hẻo lánh trong rừng, đối nghịch với thế giới bên ngoài ồn ào, đầy bao cám dổ. Đã có thời gian chúng tôi đến khu rừng Bavarian để tìm một miếng đất vừa ý. Và chúng tôi cũng đã tìm thấy được một nơi vừa ý; nhưng các điều lệ xây cất quá khó khăn nên sau nhiều tháng đấu tranh, chúng tôi đành phải bỏ cuộc. Rồi vào tháng tám năm 1995, chúng tôi đã tìm được một nơi thật lý tưởng, khá gần, chỉ cách trung tâm Buddha-Haus khoảng nửa tiếng đồng hồ, ở độ cao khoảng một ngàn thước, dưới chân dãy núi Alps. Vào những ngày đẹp trời, ta có thể nhìn thấy các đỉnh núi phủ tuyết trắng rõ ràng trước mắt. Địa điểm này có bảy mẫu rưỡi đồng bằng và rừng, có sông chảy qua, có suối nước trong, và một ngôi nhà mười bốn phòng, ở chính giữa. Ngôi nhà đó đã hơn ba trăm năm tuổi, trước là một quán trọ, nhưng đã xuống cấp khá nhiều. Chủ nó là những người đã cao tuổi, không còn khả năng chăm sóc nó nữa. Một ngân hàng đã rao bán đấu giá. Chúng tôi mua được khu đất này không thể nói là rẻ, nhưng cũng được giá hời. Có thể đi qua một con đường riêng để đến nhà, nhưng vào mùa đông không ai cào tuyết cho sạch đường . Vì thế chúng tôi phải mua một xe chạy trên tuyết để đi trên con đường chỉ có một kílo mét rưỡi. Ở vùng này tuyết thường rơi kéo dài đến tháng tư. Tôi thường phải đi trên chiếc xe tuyết, giống như một chiếc xe gắn máy có bánh trượt tuyết. Những lúc đó tôi phải nắm chặt xe, nhưng cũng rất vui. Kể từ tháng mười năm 1995, chúng tôi bận rộn sửa chữa lại toàn bộ ngôi nhà. Chính ra là thầy Nyanabodhi phải vất vả nhiều với nó. Nền mới, hệ thống sưỡi ấm mới, và hệ thống dây điện mới tất cả đều phải có người lo. Các vách tường không có hệ thống cách âm, các cầu thang lên tấm trần sắp đổ, mưa thì dột cả trần. Những ống cống quanh nhà cần phải đào, các máng xối hứng nước mưa đều phải thay. Giờ thầy Nyanabodhi chỉ thích sống ở đó. Cũng may, các đệ tử của tôi có người là thợ chuyên môn trong các phần này, họ chỉ tính chúng tôi nữa giá. Các học viên khác thì đóng góp công sức hằng ngày, có khi hằng tuần lễ. Dầu vậy, công trình sửa chửa cũng tốn khá nhiều. Nhưng nói chung, chúng tôi tự tin là có đủ sức để hoàn thành. Nhìn lại những việc như thế này, tôi nghiệm ra rằng bất cứ điều gì nếu người ta làm bằng tất cả lòng thành khẩn, và không vì tư lợi của riêng mình, thì công việc đó sẽ được thành công. Quanh nhà, chúng tôi phải đốn khá nhiều cây cối để có ánh sáng và không khí, cũng như để có không gian cho một khu vườn. Một tu viện thực thụ lúc nào cũng cần có vườn với hoa, cây cỏ và một chiếc hồ nhỏ. Theo chúng tôi, đây là một lâm tự viện đẹp quá sức tưởng tượng. Hơn nữa, đây lại là tu viện Phật giáo trong rừng (lâm tự viện) đầu tiên ở Đức, với tên gọi là Metta Vihara (hay là Ngôi nhà của Lòng từ bi). Mùa hè năm đó (1997) lễ khánh thành lâm tự viện đã được tổ chức. Tu viện này là nơi người ta có thể đến để tìm sự yên tĩnh, khám phá kinh nghiệm được trở về với chính mình. Khi muốn "tu một thời gian ngắn", người ta có thể thu xếp với tu viện để được đến ở đây ít nhất là một tháng. Dĩ nhiên, nếu muốn, người ta cũng có thể xuất gia, sau khi đã ở đó ít nhất là một năm và nhận thấy rằng việc phát triển tâm linh mới là mục đích chánh yếu nhất trong cuộc đời. Matthias, một luật sư ở Konstanz, bên hồ Constance, giờ đã trở thành Nyanacitta, và là cánh tay mặt của Nyanabodhi. Anh nhúng tay vào tất cả mọi thứ, từ sơn cửa đến đóng bàn ghế, từ đi mua sắm đến thăm viếng các nhóm thanh niên, rồi dạy học ở thành phố. Ngay năm đầu tu tập, anh đã thề nguyện làm tu sĩ, tháng sáu này, anh ta sẽ được xuất gia làm sadi. Chừng nào còn khả năng, tôi còn ở lại tu viện này để giảng dạy. Chừng nào hãy hay, giờ thì chúng tôi còn đang lo lựa chọn màu cửa sơn, hay đóng vách tấm trần như thế nào. Ngay hiện tại, đó là những vấn đề bức thiết của chúng tôi. Tôi rất vui mừng là vẫn còn có thể bắt tay xúc tiến đề án này, và sẽ còn nhìn thấy ngày nó được hoàn thành. Trong hai mươi năm qua tôi có cảm giác là mình không định trước gì cả, mà chỉ đi theo hướng người ta vạch ra cho tôi -cái hướng mà tôi phải theo để có thể làm được những chuyện phải làm. Vì thế tôi nghĩ là tôi đã có mặt ở đúng nơi, đúng lúc, đúng thời để mang đến cho nước Đức những gì họ đang rất cần. -ooOoo- Chương 15 Cái Chết An Lành Dẩu bay lên không trung, lặn dưới đáy bể Đối với tôi, chết là điều đương nhiên. Tôi đã chuẩn bị để ra đi. Vị bác sĩ giải phẫu đã bảo rằng ông rất ngưỡng mộ tôi. Để làm gì? Chỉ vì tôi không bị đe dọa bởi cái chết? Tôi luôn xem Đức Phật là tấm gương cho mình -lúc Ngài tại thế cũng như lúc cận kề cái chết, đó là lý tưởng sống của tôi. Hai ngàn năm trăm năm về trước, Ngài được sinh ra là thế tử của một vị vua ở Bắc Ấn Độ. Phụ thân của Ngài cai trị một nước lớn. Ngay từ khi ấu thơ, người ta đã tiên đoán rằng Ngài sẽ trở thành một vị vua tài trí hoặc nếu như Ngài từ bỏ cuộc sống thế gian, Ngài sẽ trở thành một vị Phật (Buddha). Phật có nghĩa là người đã Giác Ngộ. Đó là danh hiệu của Ngài. Lúc còn là thái tử, Ngài được gọi là Siddhartha Gautama. Bên cạnh những sự kiện lịch sử, cuộc đời Ngài cũng đầy những huyền thoại. Vua cha muốn con trai phải kế thừa ông hơn là từ bỏ cuộc sống thế gian. Vì thế vua cha tìm đủ mọi cách để làm cho cuộc sống quanh Ngài đầy quyến rủ. Người già, người bịnh không được phép bén mảng tới cung vua. Ngay cả những chiếc lá lìa cành cũng được dọn dẹp trước khi Thái tử Siddhartha nhìn thấy chúng. Tất cả mọi thứ đều để cung phụng cho Thái tử. Những thứ có thể so sánh với thế giới của chúng ta ngày nay, trong đó chúng ta cũng tìm đủ mọi cách để được sung sướng. Nhà cửa, truyền hình, đầu máy chiếu, điện thoại, radio -mọi thứ đều được cung ứng để thõa mãn mọi nhu cầu của chúng ta. Nhưng mà thực tế thì sau một thời gian, chúng ta cũng không còn thấy chúng hấp dẫn nữa. Thái tử Siddhartha kết bạn bè với nhiều thanh niên, thiếu nữ. Năm mười sáu tuổi, Thái tử được quyền chọn người phối ngẫu. Sau đó hai vợ chồng Thái tử sống trong cung điện, và không nhìn thấy gì khiến họ phải lo buồn. Cũng giống như ngày nay chúng ta giấu những người bịnh hoạn, tàn tật sau những bức tường mà không ai có thể thấy họ; còn đối với người chết, thì ta cắt bỏ bộ phận tiêu hóa, trang điểm lại trước khi chôn họ. Một ngày kia thái tử Siddhartha bảo người đánh xe rằng ngài muốn đi dạo một vòng bên ngoài cung điện. Khi ra đến ngoài thành, điều đầu tiên họ nhìn thấy là một ông lão rất già yếu, chống gậy, mà hầu như không thể lê bước. Thái tử Siddhartha hỏi: "Sao người đó coi tiều tụy thế?". Người đánh xe, Channah, thưa: "Đó là một người già, thưa thái tử." Thái tử lại hỏi: "Tất cả chúng ta đều phải già sao?" Channah lại thưa: "Đương nhiên, thưa thái tử. Tất cả chúng ta đều phải già đi". Họ lại trở về triều, rồi ngày hôm sau một cuộc du ngoạn khác lại xảy ra. Lần này họ nhìn thấy một người bịnh nằm bên đường. Ong quá yếu để có thể nhấc ly nước để cạnh bên lên uống. Đám ruồi nhặng bu đầy trên mặt, nhưng người bịnh không thể làm gì ngoài kêu rên. "Người đó bị làm sao vậy?", thái tử Siddharta hỏi. "Đó là một người bịnh". "Chúng ta có bị bịnh như thế không?" "Không ai tránh khỏi được, thưa thái tử", Channah lại trả lời. Người thứ ba Thái tử Siddhartha được gặp trong lần ra thành thứ ba là một người chết. Xác người chết được khiêng đi và phía xa là gia đình, quyến thuộc, bạn bè khóc lóc, kêu than. Họ đang trên đường đến nơi hỏa táng. Thái tử muốn biết: "Tất cả chúng ta đều phải đến đó sao?" Channah lại thưa: "Nơi đó chờ đợi tất cả chúng ta". Vào ngày thứ tư, khi Thái tử Siddhartha lại ra khỏi thành. Lần này Thái tử được gặp một người với vẻ mặt đầy bình an, không lo lắng. "Người đó là ai vậy?" "Thưa đó là một vị tu sĩ, người đã xa lánh cuộc sống thế tục", Channah thưa. Thái tử Siddhartha Gautama trở về nhà. Đêm đó, thái tử từ giã vợ, cùng đứa con mới sinh, cha mẹ, và lầu đài cung điện để đi tìm câu trả lời cho những đau khổ của loài người. Cùng với Channah, thái tử ra đến bìa thành, ranh giới của vương quốc của vua cha. Tới đó, thái tử trao trả ngựa lại cho Channah và nói: "Hãy mang nó trở về thành và chăm sóc nó cho tốt". Theo truyện kể, con ngựa chỉ quay đi một đoạn đường ngắn trước khi ngã ra chết vì đau đớn khi phải xa chủ. Sau đó Thái tử dùng gươm cắt tóc, vào rừng đi tìm một vị minh sư. Trước khi thành Phật, Thái tử đã tu khổ hạnh trong sáu năm. Khi ngài đã tu chứng được các trạng thái thiền định, Ngài ngồi dưới gốc cây Bồ đề nổi tiếng là Bodh Gaya và đạt Giác Ngộ, giải thoát. Ngài đã thiết lập ra Tứ Diệu đế và các phần của Bát Chánh Đạo, là nền tảng giáo lý của Ngài. Vị trời Phạm thiên và các chư thiên hiện ra, thỉnh cầu Ngài truyền đạo lại cho chúng sanh. Trong khuôn khổ quyền sách này, tôi không thể nói chi tiết câu chuyện này. Chi tiết câu chuyện có thể tìm trong quyển Buddha Ohne Geheimnis (tạm dịch là Sự Thật về Đức Phật) của tôi. Tuy nhiên, ở đây, dù tóm tắt, ta cũng thấy từ câu chuyện cuộc đời Đức Phật, giáo lý của Ngài đặt căn bản nơi đâu. Ta phải biết rằng Dukkha, tiếng Pali có nghĩa là khổ, lo âu, bịnh hoạn, và chết chóc. Hiểu như thế rồi, ta sẽ thấy cuộc đời ta, tự ngã của ta đều chỉ là ảo vọng. Nhưng không thể nhận ra điều này chỉ bằng các giác quan, hay cách suy nghĩ thông thường của ta. Mà phải qua những trạng thái tâm thức khác, là kết quả của thiền định -sự chú tâm hoàn toàn không có suy tưởng. Qua đó, chúng ta sẽ thấy sự hiện hữu của mình không phải tách rời khỏi vũ trụ. Chúng ta với mọi người chung quanh, với vũ trụ là một. Do đó, chúng ta có thể giải thoát mình khỏi sự ràng buộc của lòng ham danh, ái dục vân vân. Tới một mức độ nào đó, chúng ta sẽ thấy sự có mặt của ta ở nơi đây hay nơi khác không còn quan trọng nữa. Có nghĩa là ta sẽ không còn lo sợ Chết. Muốn đạt được tất cả những điều đó, ta chỉ cần buông bỏ một thứ luôn gắn chặt với ta - đó là tự ngã. Chúng ta sống, chúng ta chết cũng như bao nhiêu người đã sống trước đó, hay sau này, không có gì là của ta cả. Khi ta đã thành công trong việc diệt bỏ lòng ham muốn, tham vọng, thì chết không còn là sự hủy diệt, mà là sự hòa nhập vào Niết bàn. Để cách nhìn đó thành quán tính trong ta, ta cần tu tập không ngừng. Mùa hè sau cuộc giải phẫu, tôi được rất nhiều người thăm viếng. Con gái tôi, Irene, từ Mỹ bay qua, rồi cùng đi với tôi qua Ý. Sau hơn hai mươi năm, đó là lần đầu tiên chỉ có tôi và con gái ở bên nhau. Trước đó, lúc nào cũng có con cháu khác. Chúng tôi không có dịp để nói chuyện tự do. Chúng tôi đặt phòng ở một khách sạn ở Lago Maggiore, rồi cùng du ngoạn trên thuyền, bách bộ với nhau. Chúng tôi cảm thấy bình an và có thì giờ dành cho nhau. Thật là một chuyến đi tốt đẹp. Rồi Gerd, chồng trước của tôi cũng đến viếng thăm. Anh muốn biết về sức khỏe của tôi. Đó cũng là chuyện tốt. Chúng tôi đã chia tay từ năm 1979. Anh đến thăm, và lập tức ra chăm sóc khu vườn. Cũng vui khi thấy anh không thay đổi gì - lúc nào cũng năng động, linh hoạt. Rồi Matthew, đứa cháu ngoại đầu của tôi, cùng đi với vợ là Lara, cũng đến viếng thăm tôi. Tôi đặc biệt thân thiết với cháu Matthew. Trong gia đình, hình như chỉ có cháu là hoàn toàn thông hiểu việc tại sao bà ngoại xuất gia theo Phật giáo. Điều này gợi tôi nhớ lại, lúc còn thơ ấu, tôi cũng rất yêu thương bà tôi. Tôi cảm thấy sự thân thiết giữa người trẻ nhất và lớn tuổi nhất trong gia đình rất quan trọng. Giúp người ta biết nguồn gốc tổ tiên, cũng như thế hệ tiếp nối. Con trai tôi, Jeff, từ Úc qua, cùng với vợ và đứa con gái nhỏ. Họ rất muốn thăm Venice. Nên chúng tôi cùng đến đó, nhưng không may là thời tiết không được đẹp. Tuy nhiên tôi cũng giữ cháu bé để hai vợ chồng đi viếng cảnh. Jeff đã cùng tôi đi khắp nơi, nhưng lạ lùng thay, nó chẳng còn nhớ được gì mấy! Cả gia đình ở lại mừng sinh nhật tôi. Vào ngày 25 tháng 8, năm 1993, tôi được bảy mươi tuổi. Một buổi tiệc vui vẻ với nhiều lời chúc tụng, đó là chuyện tự nhiên vào những dịp như thế này. Tôi nhận được một món quà rất đặc biệt của thầy Nyanabodhi: một ngôi tháp, do chính thầy xây. Đây là một lăng mộ dùng để chôn người chết theo Phật giáo, có hình dáng giống như một vòm nhà trắng. Ngôi tháp này có một miếng gương đá lớn, trong suốt đặt trên đỉnh tháp. Vào ngày sinh nhật của tôi, chúng tôi cùng đi thăm ngôi tháp. Trên vách tháp có chừa một khoảng trống. Tất cả những ai đến dự ngày sinh nhật của tôi có thể đặt một tượng Phật nhỏ vào đó. Những tượng này họ nhận được do đã cúng dường cho Buddha-Haus. Một bản copy của tất cả các sách của tôi cũng được đặt vào đó. Ngoài ra, chúng tôi cũng bỏ vào đó các món đồ quý gía, vàng bạc. Cuối cùng, thầy Nyanabodhi cũng bỏ vào đó chiếc nhẫn vàng của người cha quá cố của thầy. Chúng tôi không có nhiều đồ quý giá nhưng những gì chúng tôi có, chúng tôi bỏ cả vào. Một ngày nào đó, tro của tôi cũng sẽ được bỏ vào. Đó là cách chôn một vị thầy theo phong tục cổ truyền. Cẩn thận hơn, tôi cũng đã làm đơn xin phép bộ y tế ở Sonthofen. Họ cử hai viên chức đến, khám xét trong ngoài, sau đó viết cho chúng tôi một giấy phép tay. Ngôi tháp được xây dựng ở một vị trí rất đẹp, cạnh bên một cây táo nhỏ trên cánh đồng thoai thoải. Ánh sáng mặt trời chiếu qua mảng gương đá tạo thành những màu sắc tuyệt đẹp. Tôi rất thích ngồi trên băng đá cạnh đấy. Ngoài ra còn có một sự kiện khác cũng làm tôi rất vui. Đó là sau khi Brigitte, một tạp chí ở Đức có bài đăng về tôi, thư từ của độc giả từ những nơi không ngờ nhất cũng được gửi đến. Hai người bạn học cũ của tôi ở trường trung học State Augusta, Bá Linh viết thư đến. Chúng tôi thường đi học chung từ lúc chín tuổi đến năm mười hai, mười ba tuổi. Một người viết từ Bá Linh, người kia ở Heidenheim. Người thứ hai còn sắp xếp để tôi đến thuyết pháp ở Heidenheim cho khoảng ba trăm rưỡi thính giả. Rồi người bạn ở Bá Linh lại giúp tôi liên lạc với người bạn thân nhất thời học sinh của tôi, hiện đang sinh sống tại Anh. Hiện tại, với tuổi tôi, tôi thấy sức khỏe của mình không có gì đáng phàn nàn. Nếu tôi còn sống cũng tốt, mà có phải ra đi, cũng được. Việc cận kề với cái chết đã giúp tôi có thể giảng Pháp hoàn toàn vì Pháp, mà không có cái gì cho riêng tôi. Tôi không chỉ thấy mình không quan trọng, mà còn có cảm giác như mình không có mặt ở đó, mà mình chỉ là công cụ truyền giảng lại những điều có thể làm lợi ích cho người khác. Tôi sẽ sống cho đến ngày tôi phải ra đi. Cho đến giây phút này, hầu như tôi đã hoàn tất mọi việc phải làm. Chỉ còn một, hai quyển sách tôi muốn thấy chúng được hoàn thành, nhất là quyển kinh Trung Bộ của Đức Phật, đang rất cần có một bản dịch ra tiếng Đức mới hơn. Vậy thôi, còn mọi thứ có thể tiếp tục mà không cần đến sự có mặt của tôi. Trong chương này tôi nói khá nhiều về cái chết, vì lòng sợ hãi về cái chết, là đề tài thường được nhiều người hỏi đến ở các buổi thuyết pháp của tôi. Tôi luôn phải đối đầu với đề tài này. Một khi ta còn chưa có thể sẳn sàng chờ đón cái chết của mình, chưa có thể nói về nó với lòng bình thản, tự tại, thì cuộc đời ta vẫn còn bị trói buộc trong sự sợ hãi. Tâm ta chỉ thực sự có an bình khi ta có thể chấp nhận mọi sự khi chúng đến. Đức Phật có dạy một số điều liên quan đến cái chết, khá hữu ích. Điều quan trọng nhất là: Khi một người sắp từ gĩa cõi đời, ta cần nhắc nhở cho họ về tất cả những điều tốt họ đã làm, để họ có thể ra đi với tâm bình yên, hạnh phúc. Điều đó rất quan trọng vì trong những giờ phút cuối cùng, người ta thường bị xâm chiếm bởi những cảm giác ăn năn, hối hận vì đã làm điều nọ, điều kia không đúng. Nếu bạn là người y tá hay bác sĩ ở cạnh bịnh nhân, nhưng không biết nhiều về họ, bạn cần hỏi thân nhân họ để có thể giúp họ ra đi nhẹ nhàng. Chúng ta cũng cần có sự tiếp xúc trực tiếp -như nắm tay người sắp chết hay ve vuốt họ, để họ không có cảm giác đã bị bỏ rơi. Thính giác là giác quan cuối cùng ra đi. Vì vậy đừng nghĩ rằng người đang nằm mê man đó không thể nghe chúng ta nói gì. Chỉ nói trước mặt họ, những điều bạn muốn họ được nghe. Nếu người sắp chết là Phật tử, có lòng tin ở Đức Phật và giáo lý của Ngài, thì ta có thể tụng kinh cho họ nghe. Có nhiều bài kinh rất phù hợp cho mục đích này. Thí dụ: "Ngay chính xe mã của nhà vua còn bị hủy diệt; thân này cũng mau chóng bị hủy diệt. Nhưng những lời dạy của các bậc Giác Ngộ chẳng bao giờ bị mai một. Những lời dạy của bậc Giác Ngộ được lưu truyền bởi những người hiểu đạo". Điều đó có nghĩa là ta có thể nói rằng ai rồi cũng chết. Nhưng thân mạng không phải là cái quan trọng bậc nhất. Tâm và ý thức về chân thiện mỹ còn quan trọng hơn. Chúng sẽ không bao giờ bị hủy diệt. Chết không có gì hơn là một sự chuyển đổi. Chúng ta nhẹ nhàng chuyển đổi qua một trạng thái hiện hữu khác. Dĩ nhiên sự chết chỉ xảy ra nhẹ nhàng nếu ta không cưỡng lại nó -và nếu chúng ta không phải chịu đau đớn. Có một thời gian, các vị pháp sư giảng về Phật pháp, cho rằng người ta phải ra đi trong trạng thái hoàn toàn tỉnh thức, và vì lý do đó, không nên cho người bịnh dùng các loại thuốc giảm đau. Nhưng điều đó có vẻ trái ngược với lời Đức Phật dạy rằng người ta cần được ra đi với tâm yên tĩnh. Làm sao người ta có thể yên tĩnh ra đi khi đang phải chịu đau đớn? Ở các nơi chăm sóc cho người bịnh của Phật giáo, người ta cũng tìm mọi cách làm cho bịnh nhân được bớt đau đớn. Vì thế nếu cần ta vẫn phải dùng đến các loại thuốc giảm đau, dầu có làm cho người bịnh mê man. Tâm thức lúc nào cũng có mặt dù rằng người bịnh có thể không trả lời ta hay có vẻ bất động. Thật là sai lầm nếu cứ để người sắp ra đi phải chịu đau đớn - điều đó chỉ làm cho tâm họ rối bời, bất an. Đức Phật còn khuyên rằng, ta cần phải đợi ba ngày trước khi chôn xác, vì tâm thức cần thời gian để lià bỏ xác thân nó từng ẩn náu. Người Phật tử cũng nghĩ rằng nếu được chết ở nhà trong một khung cảnh quen thuộc, ấm cúng thì tốt hơn. Những người thân cần có mặt và phải hiểu rằng họ cần nói lời từ giã với người sắp chết, như một lời chúc lành trước khi họ ra đi. Nói với họ rằng dù ta có nhớ nhung tiếc nuối họ, nhưng ta hoàn toàn có thể tự lo khi không có họ ở bên cạnh. Rằng ta rất thương yêu họ, nhưng ta phải tiếp tục cuộc sống. Những lời nói như thế rất quan trọng đối với người sắp chết. Không nên níu kéo họ, vì như thế chỉ làm cho sự ra đi của họ thêm khó khăn. Trong các bệnh viện của Thiên Chúa giáo, tôi nghĩ là chắc họ cũng làm như thế. Trước đây, có một phóng viên đến chỗ chúng tôi ở Buddha-Haus. Cô hỏi có phải lý do khiến tôi có thể dễ dàng chấp nhận cái chết của mình là vì tôi tin có luân hồi. "Không", tôi trả lời cô, "Tôi không nghĩ như thế. Người ta chỉ phải tái sinh nếu có ý muốn được tái sinh. Khi không còn ý muốn hiện hữu như một tự ngã, thì không còn gì xảy ra nữa. Tôi sẳn sàng ra đi một lần cho tất cả". "Rồi việc gì sẽ xảy ra", cô phóng viên muốn biết. "Không có gì cả. Tất cả đã chấm dứt. Lúc đó, người ta đã đạt được đến Niết bàn, sự an bình tuyệt đối". Loại thiền định sâu xa hoàn hảo nhất. -ooOoo- Sách Tham Khảo (1) Kinh Pháp Cú, Hòa Thượng Thích Thiện Siêu dịch, do Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành năm 1993. (2) Kinh Pháp Cú, Ni Trưởng Thích Nữ Huỳnh Liên biên soạn. Lưu hành nội bộ. (3) Kinh Pháp Cú (Dhammapada), Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch, NXB Tôn Giáo, Hà Nội 2000. -ooOoo- |
Chân thành cám ơn Đạo hữu Diệu Liên đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 09-2007)
[Trở
về trang Thư Mục]
last updated: 10-09-2007