BuddhaSasana Home Page |
Vietnamese, with Unicode Times font |
Quà Tặng Cuộc
Đời
Tự Truyện Của Một Tỳ Kheo Ni Người Tây Phương
Ni Sư Ayya Khema
Dịch từ tiếng
Đức: Sherab Chodzin Kohn
Dịch từ tiếng Anh: Diệu Liên Lý Thu Linh
Nguyên tác Đức ngữ ‘Ich
Schenke Euch Mein Lebent’ @ Jhana Verlag 1998
Bản Anh ngữ ‘I Give You My Life’ @ Shambhala, Boston & London 1998
ISBN 1-57062-415-1
Việt dịch từ Anh ngữ với sự đồng ý của Buddha-Haus
e.V. /Jhana Verlag, Germany
*
* Đoạn Như hoa rồi sẽ tàn, tuổi trẻ -ooOoo- LỜI NGƯỜI DỊCH Có lẽ linh cảm được sự sớm ra đi của mình, Ni sư Ayya Khema đã hoàn tất quyển tự truyện Quà Tặng Cuộc Đời (I Give You My Life) và sách được xuất bản khoảng đầu năm 1997.Vào ngày 2 tháng 11 năm 1997, Ni sư Ayya Khema (1923-1997) đã ra đi vì căn bịnh ung thư kéo dài mười bốn năm. Do duyên lành, tôi đã được vinh hạnh dịch tác phẩm nổi tiếng nhất của Ni sư Ayya Khema, quyển Vô Ngã, Vô Ưu (Being Nobody, Going Nowhere). Sau đó, nhiều thân hữu có lòng muốn biết thêm về vị Ni sư khả kính này, nên tôi mạo muội dịch quyển tự truyện cuộc đời của Ni sư Ayya Khema. Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua. Quyển sách được Sherah Chodzin Kohn dịch từ tiếng Đức ra tiếng Anh, và tôi chuyển ngữ sang tiếng Việt từ bản tiếng Anh. Do sự hiểu biết về Phật pháp còn hạn hẹp, tôi khó thể tránh sai lầm trong việc dịch thuật, nhất là các chương về phương pháp tu Thiền của Ni sư Ayya Khema. Mong nhận được sự chỉ giáo của các bậc tôn sư, quý độc giả. Xin tri ân Tỳ kheo Nyanabodhi và cư sĩ C. Wildgruber ở thiền viện Buddha Haus Jhana Verlag, tại Đức đã hoan hỷ cho phép chúng tôi được dịch và xuất bản tác phẩm này. Xin hồi hướng công đức này đến giác linh Ni sư Ayya Khema và tất cả chúng sanh. Mong bạn đọc đón nhận quyển sách như một món quà từ trái tim của Ni sư Ayya Khema. Trân trọng, -ooOoo- Chương 1 Vòng Trầm Luân Từ Bá Linh, thành phố nơi tôi sinh ra đến thiền viện Buddha-Haus (Ngôi Nhà Phật) ở Allgau, Đức nơi tôi đang trú ngụ, rất xa. Thật ra khoảng cách không gian giữa hai nơi chỉ có chín trăm kilomét, nhưng giữa hai khoảng cách đó là cả cuộc đời tôi. Năm mười lăm tuổi, tôi phải rời bỏ nước Đức ra đi vì tánh mạng người Do Thái ở Đức lúc ấy luôn bị đe dọa, khiến tôi không còn lựa chọn nào khác. Giờ tôi đã bảy mươi bốn tuổi đời, lại khoát trên người màu áo nâu quen thuộc của một tu sĩ Phật giáo. Tôi đã chứng kiến, đã sống nhiều qua những năm tháng đó, và cuộc hành trình tôi đã chọn giúp tôi tìm được sự thanh thản, để có thể bỏ lại đằng sau tất cả những gì đã xảy ra cho tôi và gia đình tôi. Dấu mốc đó giúp tôi hoàn tất vòng trầm luân của mình. Tôi đã đến được điểm cuối của cuộc hành trình ở thế giới bên ngoài cũng như cuộc hành trình nội tâm, để về lại với quê hương ban đầu của mình. Bạn bè, đồng nghiệp, đệ tử của tôi đã nhiều lần yêu cầu tôi viết hồi ký. Tôi luôn từ chối, vì nghĩ đã là tăng ni thì phải lo thuyết giảng giáo lý của Đức Phật, không nên lo nói về mình. Nhưng cuối cùng tôi đã chấp thuận. Tôi đã để họ thuyết phục tôi rằng biết đâu chính câu chuyện đời tôi có thể là một động lực thúc đẩy người khác đi theo con đường tôi đã đi. Không kể những hoàn cảnh ngoại lệ, đây chỉ là câu chuyện của một phụ nữ bình thường, sống bao nhiêu năm trong thế giới trần lao tầm thường, nhưng đến một ngày, người phụ nữ đó đã thoát ra được, để tiến lên một đời sống cao cả hơn. Cuộc đời của tôi đầy những phiêu lưu bất ngờ. Nhưng những điều đó không do tôi chọn lựa. Hồi tưởng lại, tôi nhận thấy mình chẳng có quyền lực gì đối với tất cả những gì đã xảy ra. Tất cả mọi việc đều đã được sắp đặt cho tôi, tôi chỉ tuân theo dòng chảy. Trong cuộc đời này, tôi đã đóng rất nhiều vai trò: tôi đã từng là một cô bé rất được nuông chiều, che chở; một cô gái nhút nhát nơi xứ lạ quê người; một thiếu nữ cô đơn trên chuyến tàu hàng đến Thượng Hải; tôi đã từng làm vợ, làm mẹ, làm người du lịch khắp năm châu, làm nhà nông, và cuối cùng là một nữ tu sĩ Phật giáo. Đã có khoảng thời gian tôi sống phong lưu trong một ngôi nhà thuộc ngoại thành, ở tiểu bang California với vườn tược, nhà để xe và cả máy rửa chén trong bếp. Rồi có lúc, tôi chu du khắp quả địa cầu: Bắc Mỹ, Ấn Độ, Pakistan, Nepal, Kashmir, Hunza. Đó là khoảng thời gian tôi đang đi tìm một cái gì đó mà chính tôi cũng không biết, và tôi cũng không biết rằng mãi mãi về sau tôi mới tìm được. Tôi đi làm ở một ngân hàng ở Los Angeles, nhưng lại có nông trại ở Úc, nơi chúng tôi nuôi loại ngựa Shetland. Theo tôi, một chú ngựa con Shetland mới sinh, hơi lớn hơn con chó một ít, là con vật dễ thương nhất thế giới. Tất cả giờ đã qua; đã là quá khứ, và chỉ còn trong kỷ niệm. Có lẽ những sự đổi thay, mất mát này đã giúp tôi thấy sự cần thiết của xả ly. Đối với tôi, biểu tượng sống động nhất của việc xả ly là cắt bỏ mái tóc của mình, mười tám năm về trước khi tôi quyết định trở thành người tu. Mái tóc dầy, thướt tha, đen bóng đó đã được cạo láng đến tận da đầu. Theo truyền thống Nguyên thủy, tôi cầm nắm tóc trong tay, suy gẫm về tính huyễn hóa của thân. Sau đó tôi bỏ nắm tóc đi không thương tiếc, thật ra tôi còn cảm thấy nhẹ nhỏm là khác. Bớt đi một thứ để bám víu. Giờ tôi xin bắt đầu câu chuyện của đời tôi, mà tôi gọi là Quà Tặng Cuộc Đời (I Give You My Life), vì tôi có cảm tưởng mình đang gửi gắm tâm sự riêng tư đến với từng người đọc. Tôi hy vọng là bạn cũng sẽ đọc nó với một tấm lòng. Mỗi chương được bắt đầu bằng những vần thơ mà tôi nghĩ là có thể minh hoạ cho giai đoạn đó của đời tôi. Những vần thơ được lấy từ Kinh Pháp Cú (Dhammapada), là một tổng hợp các câu kệ của Đức Phật giáo huấn chúng sanh. Những lời nói đầy trí tuệ này đã ảnh hưởng đến tôi rất nhiều. Tôi muốn câu chuyện đời tôi sẽ là món quà từ trái tim gửi đến cho bạn đọc. Tháng 3, 1997 -ooOoo- Chương 2 Thời Thơ Ấu ở Bá Linh Chẳng phải nhờ cha mẹ Tôi sinh ngày 25, tháng 8, 1923. Cha mẹ tôi, Theodor Kussel và Lizzi Rosenthal, đã đặt tên tôi là Ilse. Theo tử vi phương tây, tôi là một Virgo (Trinh Nữ). Tuy nhiên qua năm tháng, những đặc tính của Trinh Nữ (Virgo) -tận tụy, chăm chỉ, hiểu biết- đã chuyển đổi thành những đặc tính háo thắng của Sư Tử (Leo). Tôi đã biến thành một con sư tử (Leo). Thế giới thượng lưu tôi đã được sinh vào, ngày hôm nay không còn nữa. Chúng tôi từng sống trong một ngôi nhà có mười hai phòng gần một sở thú -một khu vực dân cư đẹp nhất ở tây Bá Linh. Chúng tôi có người nấu ăn, có kẻ giúp việc, một bảo mẫu và một anh tài xế lái xe đưa tôi đi học. Các bữa ăn thường được cô giúp việc mặc áo đen, choàng yếm (apron) trắng, có cột dây ở phía sau, dọn lên. Vách tường được lót giấy hoa, ghế bọc nhung, sàn trải thảm Ba Tư, các bộ trà đều bằng bạc. Mỗi ba tháng, một toán thợ lại đến nhà để lau chùi các bóng đèn thủy tinh. Tôi kể cho các bạn nghe những điều này vì một hoàn cảnh sống như thế đã tạo cho tôi ảo tưởng là không có gì bất hạnh sẽ có thể xảy ra cho tôi: "Tất cả mọi thứ đều được đảm bảo; thế giới đầy yên ổn, tươi đẹp". Tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác này rất rõ. Nhưng chẳng lâu sau đó, tôi biết tất cả chỉ là hư ảo. Cha tôi là một nhà bán chứng khoán ở thị trường chứng khoán Bá Linh. Ở đó chỉ có bảy nhà chứng khoán tự định ra giá cả của các cổ phần dựa vào cung cầu, do đó họ rất có ảnh hưởng. Đó là một dịch vụ dân sự. Có lần tôi hỏi cha: "Cha, gia đình mình có giàu không?" Ông trả lời tôi, "Rất khá, có thể nói là giàu". Một ngày kia, cha đặt tôi ngồi lên gối của người và nói với dáng buồn bả: "Con cưng ơi, nhưng gia đình ta là người Do Thái". Tôi hỏi ông, "Điều đó có gì xấu không?" Ông trả lời: "Bình thường thì không sao, nhưng hiện tại thì không hay". Đó là lần đầu tiên tôi được biết rằng chúng tôi là người Do Thái, một điều rất đặc biệt. Vì cho đến lúc đó, không có ai nói gì về đạo Do Thái trong gia đình tôi. Cha mẹ tôi là những người được coi là cấp tiến. Những người Do Thái cấp tiến không quan tâm lắm về các truyền thống của người Do Thái chính thống. Họ đã hoàn toàn hòa nhập vào môi trường quanh họ, đã không khác gì mọi người chung quanh. Có người còn rửa tội, biến thành người Kitô giáo hay Tin lành. Riêng gia đình tôi, chúng tôi không đi xa đến thế, có lẽ vì cha mẹ tôi không coi tôn giáo là quan trọng. Cha mẹ tôi tự coi mình là người Đức. Cha tôi đã nhận được huân chương anh dũng bội tinh trong thế chiến thứ I, và ông rất hãnh diện về điều đó. Ông đã nói với tôi rằng ngài Frederick Vĩ đại của Prussia đã dẫn dắt người Do Thái ra khỏi chốn tối tăm. Họ muốn sống đâu cũng được. Như thế, có nghĩa là mọi người có quyền theo đuổi hạnh phúc riêng của mình. Có thể đó là lý do tại sao người Do Thái quá sốt sắng để hoà nhập vào tầng lớp thượng lưu. Họ rất trung thành với xứ sở, đó là cách bày tỏ lòng biết ơn của họ. Tôi còn nhớ rất rõ cha tôi thường nói, thật là hạnh phúc được sống an ổn trong một xứ sở như nước Đức. Có lẽ đó là lúc tôi còn rất nhỏ khi ông nói những lời này, vì chẳng bao lâu sau đó, mọi việc đều đổi thay, hoàn toàn đổi thay. Ông ngoại tôi có một tiệm bán quần áo trẻ con ở Bá Linh, trên góc đường Rankestrasse - Taurentzienstrasse, đối diện với nhà thờ Kaiser Wilhelm, mà nay là đài tưởng niệm hoà bình, vì một phần của nhà thờ còn lại sau trận bom được coi là chứng tích của chiến tranh. Năm ngoái, sau bao tháng năm, tôi trở lại thăm Bá Linh lần đầu tiên, tôi đã đi tìm ngôi nhà đó. Nhưng nó không còn nữa. Tôi cũng không thể tìm ra ngôi nhà tôi đã từng sống với cha mẹ. Có thể nói, thời thơ ấu của tôi đã bị xóa đi, không để lại dấu tích gì. Không còn gì để tôi trở lại nữa. Không còn mồ mả ông bà. Có lẽ vì thế mà hình ảnh đứa bé gái trong những bức hình tôi tìm lại được có vẻ xa lạ quá. Đó là một đứa trẻ bụ bẫm với gương mặt tròn trịa -với đôi gò má hồng hào, tôi còn nhớ như thế. Tôi vẫn còn nhớ như thế cho đến ngày hôm nay. Trước cửa tiệm bán quần áo trẻ con Jakob Rosenthal có bến xe ngựa. Mỗi thứ bảy, ông tôi thường đưa tôi đến sở thú trong những cổ xe ngựa như thế. Ở sở thú, họ thường đem các con thú ra biểu diễn cho trẻ em xem. Nếu muốn, trẻ em có thể cưỡi các con thú này. Tôi hay chọn cưỡi voi (vì tôi thấy rất thích khi được ngồi trên cao chót vót, lúc la lúc lắc như đang trên tàu ra biển), đôi khi tôi chọn cưỡi dê. Cũng rất vui. Ngoài ra, ở sở thú người ta còn bày ra những cái máy bỏ tiền vào thì mua được một viên kẹo. Sau khi ra khỏi sở thú, ông cháu tôi ra về cũng trên các cổ xe ngựa đó. Những buổi chiều thứ bảy được đi chơi với ông đối với tôi thật hạnh phúc. Mẹ tôi là con gái duy nhất của ông, nên ông cũng chỉ có tôi là cháu. Ông rất thương tôi và tôi cũng rất thương ông. Trong tiệm của ông, ở bàn làm việc, loại bàn thật cao, có tấm biển đề: "Không cần biết bạn đã làm gì, nhưng bạn đã sai". Có lần tôi hỏi ông câu đó hàm ý gì. Ông trả lời: "Có nghĩa là ta không thể làm vừa ý hết mọi người". Ông tôi là người vui vẻ, yêu đời. Khi ông mất, thế giới của tôi lần đầu tiên bị xáo trộn. Hôm ấy tôi đến nhà ông bà ăn trưa như mọi ngày chủ nhật khác. Sau buổi ăn, ông đi nằm và không bao giờ trở dậy nữa. Người ta bảo với tôi là ông đã đi ngủ. Bà tôi không thể chịu đựng nổi sự mất mát đó. Hai năm sau bà cũng ra đi. Sau này chúng tôi nói, "Thật may". Thật may là sự ra đi của ông đã xảy ra đúng lúc. Năm ông tôi mất là năm 1933, khi tôi vừa được mười tuổi. Tôi tiếp tục sống trong ảo tưởng về một thế giới an toàn một thời gian nữa. Nếu cha mẹ tôi có điều lo lắng, họ không bao giờ nói trước mặt tôi. Tôi theo học trường tư và sau đó vào trường trung học tiểu bang Augusta Lyceum. Tôi vẫn thường tổ chức sinh nhật của mình với bè bạn, và cô đầu bếp, Flora Brambor, vẫn là chủ trong nhà bếp. Tôi thường trêu ghẹo bằng cách gọi chệch tên cô vì cô không bao giờ cho tôi bước chân vào ‘vương quốc’ của cô. Thế vận hội Olympics năm 1936, đó là lần đầu tiên tôi được thấy Adolf Hitler tận mặt. Cha tôi có vé cho mọi chương trình biểu diễn ở sân vận động Olympics. Khi cha không có thì giờ đi, tôi thường thế chỗ cha. Đó là một chỗ ngồi rất tốt, không xa mấy chỗ của Hitler. Dầu tôi đã quên rất nhiều thứ trong thời thơ ấu, tôi vẫn không thể quên được buổi chiều hôm ấy. Nhất là tôi không thể quên được những âm thanh vang dội bên tai khi hàng ngàn người đồng thanh hô lên: "Heil Hitler!" (Chào Hitler!). Mọi người đều đứng dậy, vung cao tay trong không khí. Chỉ có tôi ngồi yên trên ghế. Vì là người Do Thái, tôi không được quyền chào ông. Đồng thời tôi cũng cảm thấy sợ hãi khi nghĩ rằng người ta có thể kéo lôi tôi ra khỏi ghế vì đã không tôn trọng Hitler. Cũng may tôi chỉ là đứa trẻ, nên không ai để ý đến tôi. Adolf Hitler đứng lên chào đám đông, rồi tuyên bố vài lời vào cái loa. Cách ông ta phát biểu, dằn từng tiếng, và giọng nói hùng hồn làm tôi càng thêm sợ hãi. Tôi cảm thấy một mối đe dọa trùm phủ cả người tôi. Sau thế vận hội Olympics, chính sách của chính phủ đối với người Do Thái càng ngày càng trở nên khắt khe. Người Do Thái không còn được giữ chức vụ dân sự nữa, vì thế cha tôi không còn được làm ở thị trường chứng khoán. Lúc đầu, ông vẫn được tiếp tục làm việc với tính cách là người thầu độc lập, nhưng tiền thu nhập đã giảm rất đáng kể. Chúng tôi phải dọn đến một căn hộ nhỏ hơn, phải bán xe và cho người tài xế thôi việc. Thêm nữa, người Do Thái không được mướn người không phải là Do Thái. Điều đó có nghĩa là chúng tôi phải cho cô đầu bếp và cô giúp việc nghỉ làm. Tiếp đến, trẻ em Do Thái không được đi học cùng trường với trẻ khác. Nên tôi phải chuyển qua trường Do Thái được thành lập để chữa cháy cho hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Thành thật mà nói, việc đổi trường đối với tôi không quan trọng. Nhưng điều quan trọng mà tất cả bà con, bạn bè chúng tôi nói đến là di dân. Đó là đề tài nóng sốt hơn là chuyện học hành: chúng tôi có phải dọn đi nơi khác không, nếu có, chúng tôi sẽ đi đâu? Đến Czech, nơi dượng Leo của tôi đang sống hay đi đâu? Dượng tôi, Leo Kestenberg, cưới em của ba tôi. Dượng là Bộ trưởng về Giáo dục Am nhạc Czech, có nghĩa dượng là công chức của chính phủ, và giờ cũng vì những lý do tương tự, dượng đã bị mất chức. Dượng đã từng là thầy dạy piano cho Yehudi Menuhin, và cũng dự tính dạy tôi đàn. Có lần khi chúng tôi đến viếng thăm dượng, dượng đã đánh piano một bản nhạc để tặng tôi. Lúc đó đáng lý ra tôi phải tập đánh theo dượng, nhưng tôi không làm được. Nên dượng cho là tôi bị điếc âm thanh, không học được đàn piano được. Czech cũng không phải là một lựa chọn tốt -vì như chúng ta đều biết, không lâu sau bọn Đức quốc xã lại lần đến đó. Dượng Leo chạy thoát qua được Do Thái cùng với gia đình. Ở đó dượng thành lập dàn nhạc Người Do Thái Yêu Am Nhạc (Israeli Philharmonic Orchestra). Dượng, mợ Grete và các con là một trong số ít những thân nhân của tôi đã thoát khỏi cuộc tàn sát người Do Thái. Cha tôi đã có suy nghĩ sai lầm là Hitler sẽ không thể tồn tại lâu ở Đức với chính sách tàn sát người Do Thái như thế. Cha cho rằng một dân tộc đã sản sinh ra những Goethe, Schiller, Kant và Nietzche, Bach, Beethoven -là những người cực kỳ tài hoa, trí tuệ- dân tộc đó sẽ không cho phép bất cứ chính phủ nào đưa nó đến những hành động dã man như thế. Và cha tôi cũng không phải là người duy nhất suy nghĩ như thế. Có rất nhiều người cũng nói: "Dĩ nhiên đó chỉ là những tin đồn phóng đại. Chúng ta sẽ ở lại; dầu gì đi nữa đây cũng là quê hương của chúng ta; tóm lại, tất cả chúng ta đều là dân Đức". Sau đó là đến cái gọi là thuế dành cho người Do Thái. Theo luật thì đây là một loại thuế mà người Do Thái phải trả cho nhà nước. Thực tế đây là một hình thức để chiếm đoạt tài sản của người Do Thái. Tôi cũng đi với cha đến văn phòng của Bộ tài chánh. Khi ra khỏi phòng, cha bật khóc. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy cha khóc. Ngay lúc đó cảm giác an toàn của tôi lần đầu và mãi mãi đổ vỡ. Từ đó trở đi tôi biết rằng thế giới không phải là chỗ lúc nào cũng an toàn, vững chắc. Tôi đã ráng hết sức mình an ủi cha tôi, tôi còn nhớ rõ ràng như thế. Nhưng tôi cảm thấy mình quá bất lực, và cha tôi cũng thế. Cuối cùng chúng tôi cũng phải trả nhà, và dọn vào ở với cô Wally. Cô là em của cha, và lập gia đình với một người Kitô giáo. Ngay khi đạo luật về người Do Thái ra đời, chồng cô đã bỏ ra đi. Chúng tôi sống ở đó cho đến một ngày, người bảo vệ đứng từ dưới thang lầu hét lên cho chúng tôi biết. Có một toán người đi ủng đang tiến về phía cầu thang, có lẽ họ là những tên chuyên săn lùng người Do Thái. Vì chúng tôi là người Do Thái duy nhất trong tòa nhà đó, chúng tôi có thể dễ dàng đoán ra họ đang đi tìm kiếm ai. Cha tôi chạy ra thang lầu phía sau, và nhảy qua hai mái nhà đến chỗ dì Lieschen. Dì là em của mẹ. Cha đã ẩn náu ở đó. Một ngày sau Kristallnacht, khi khắp nơi trên đất nước, các nhà thờ của người Do Thái bị phóng hỏa, các cửa hàng Do Thái bị cướp phá, tôi tình cờ đi ngang qua một nhà thờ đang bị đốt ở Fasanenstrasse. Tôi không quan tâm về tôn giáo mấy, nhưng tôi biết ngã tư và khu phố đó. Một đám đông người vứt các kinh thánh vào lửa. Một vài người Do Thái bị bắt buộc chứng kiến đã oà khóc. Đó là một kinh nghiệm khủng khiếp, một cú sốc đối với tôi. Khi về được đến nhà, mặt tôi tái nhợt; đôi má không còn hồng hào nữa. Giờ thì rõ ràng rồi -chúng tôi phải trốn đi thôi. Nhưng dường như đã quá trễ. Cha tôi mua được một thông hành đi Uruguay, nhưng đó là thông hành giả. Khi người ta điêu đứng, có bao nhiêu cách để làm tiền người ta. Điều đó đúng lúc bấy giờ, và đúng cho cả bây giờ. Trung Hoa là nước duy nhất tiếp nhận người Do Thái mà không cần đòi hỏi thông hành. Vì thế cha tôi mua hai vé tàu, một cho cha, và một cho mẹ, trên chuyến tàu đi từ Trieste đến Thượng Hải ở trạm Triestino của thành phố Lloyd. Mỗi vé tốn mười ngàn mác. Cái giá khủng khiếp đó, gần như ngốn hết tất cả những gì chúng tôi còn lại sau khi chịu thuế đánh vào người Do Thái. Cha đã thu xếp để tôi đi theo một đoàn thiếu nhi di tản qua Anh quốc, nơi một người cậu tôi đang sống. Theo ý của cha mẹ tôi, Anh quốc dầu gì cũng an toàn cho một đứa con gái mười lăm tuổi như tôi hơn là hải cảng Thượng Hải tăm tiếng. Tôi đưa cha mẹ ra ga để đi Trieste. Khi mẹ tôi vừa lên đến được toa xe, bà đã ngất xỉu. Tôi đứng bên ngoài toa xe; cha tôi vẩy vẩy tay chào bên cửa sổ. Tôi ước mình cũng có thể ngất đi được vì sợ hãi khi phải ở lại Bá Linh một mình. Cô Wally còn ở lại với tôi. Cô quan tâm lo lắng cho tôi đến cảm động. Một ít bạn bè của tôi cũng còn ở lại. Nhưng cũng còn đó nỗi sợ hãi -tôi sẽ phải làm gì nếu Đức quốc xã đến bắt tôi? Lúc đó tôi chưa biết gì đến các trại tập trung, cũng như những gì đang xảy ra trong các trại đó. Tôi chỉ biết sợ hãi một cách chung chung. Từ lúc chứng kiến cảnh đốt phá nhà thờ, tôi chỉ có cảm giác là tương lai rất mờ mịt, khủng khiếp. Mỗi ngày qua, niềm sợ hãi, âu lo dường như tăng trưởng thêm. Kiếm một chuyện gì đó để làm cho khuây khỏa, tôi bắt đầu học tiếng Tây Ban Nha ở một trường sinh ngữ. Vào tháng 4, 1939, cuối cùng tôi nhận được tin từ một tổ chức Cộng đồng Do Thái ở Bá Linh rằng đã có chỗ cho tôi trong đoàn trẻ em được di tản. Tôi xếp theo ít đồ -mấy cái áo, ít sách thiếu nhi mà tôi thích. Một túi đeo vai, và một valise nhỏ là tất cả hành lý tôi được quyền mang theo. Không được mang theo tiền, vàng bạc, nữ trang -không được mang thứ gì có giá trị. Bằng cách đó chín mươi ngàn đứa trẻ đã được cứu sống, trong khi chín mươi ngàn đứa khác bị giết đi. Lần nữa tôi lại ra ga, lại có con tàu chờ đợi. Chúng tôi sẽ được chở đến thành phố Hamburg trước. Rồi từ đó lên thuyền đi Dover. Tôi là đứa lớn nhất trong số hai trăm đứa trẻ trèo lên tàu với túi đeo lưng và valise xách tay. Và tôi là đứa duy nhất phải bị cảnh sát khám xét người. Nhưng họ không khám thấy gì. Mấy đứa trẻ tuổi từ hai đến mười lăm. Phần lớn la khóc khản giọng. Cha mẹ chúng đứng đằng sau hàng rào; họ không được phép lên tàu. Rồi tàu cũng rời ga, chiếc tàu đầy nước mắt. Đám trẻ áp mặt lên các khung cửa sổ, kêu khóc. Tôi không khóc. Tôi đã chia tay với cha mẹ rồi. Giờ chỉ còn cô Wally ở lại sau đám dây kẽm gai đó, nhưng nỗi hãi hùng như đã qua đi. . . . Tôi không bao giờ gặp lại cô Wally nữa, cũng không còn gặp bà con, bạn bè những người đã ở lại Bá Linh lúc đó nữa. Sau chiến tranh, tôi đã tìm họ qua Chữ Thập Đỏ, nhưng hoài công. Gần đây, một quyển sách tưởng niệm các nạn nhân Do Thái của Đảng Quốc Gia Xã Hội được Trung Tâm Nghiên Cưú Khoa Học Xã Hội của Đại Học Tự Do Bá Linh in -một quyển sách dày đến 1450 trang. Tên của các nạn nhân, với địa chỉ, ngày tháng năm sinh, ngày bị đi đày, nơi đày, ngày bị giết, nếu có. Phần đông là đề “Không rõ". Tôi tìm thấy tên cô Wally trong quyển sách này. Wally Seidl, họ Kussel, sinh ngày 27 tháng 9, 1883, tại Bá Linh, địa chỉ: 69 Stromstrasse; đi đày ngày 5 tháng 3, 1943 ở Auschwitz; nơi mất Auschwitz. Ngày chết: Không rõ. Và cả dì Lieschen mà cha tôi đã từng trốn ở nhà dì. Sinh ngày 27 tháng 10, 1861, tại Gentin, thị trấn Saxony; đày đi Theresienstadt. Nơi mất: Minsk. Ngày chết: Không rõ. Ngoài họ, tôi cũng đã tìm thấy tên của bao bà con, bạn bè. Tôi không còn hình ảnh gì của họ, không biết mồ mã. Chỉ có quyển sách đó và bao kỷ niệm trong ký ức của tôi. -ooOoo- Chương 3 Cuộc Sống Tha Hương Các hành đều vô thường Cả cuộc đời, tôi chưa bao giờ cảm thấy cô đơn bằng lúc đi trên chuyến tàu từ Bá Linh đến Hamburg. Tôi cảm thấy như cả thế giới bỏ rơi chúng tôi. Tất cả phó mặc chúng tôi cho số mệnh dung rủi. Tôi đã không khóc được; tất cả trong tôi như đông cứng một nỗi hãi sợ. Nhưng tôi còn gì để mất nữa chứ, tôi đã mất: mái ấm của cha mẹ, gia đình, quê hương. Tôi hoàn toàn không biết điều gì sẽ xảy ra cho tôi trong tương lai. Có được một quê hương là điều khiến người ta cảm thấy gắn bó, bảo bọc. Nhưng kể từ đó, tôi không bao giờ cảm thấy đâu là nhà nữa. Sự quen thuộc, ấm áp, tin cậy -tất cả chỉ còn là những tình cảm của quá khứ. Tất cả tôi đã bỏ lại với Bá Linh, mãi mãi. Tôi đã nói hiện giờ tôi sống rất thanh thản ở Allgau. Đó là sự thật, nhưng bất cứ lúc nào tôi cũng có thể sẳn sàng khăn gói lên đường, đến sống ở một nơi nào khác, bất cứ nơi nào trên thế giới. Ý nghĩ có một cái gì thuộc về 'của tôi' không còn nữa trong tôi -như quê tôi, nhà tôi, tài sản của tôi. Tôi không bao giờ còn nghĩ có cái gì đó thuộc về mình hay mình thuộc về cái gì đó. Hôm nay tôi nói những lời này không hối tiếc, vì đó là tình cảm chân thật từ đáy lòng tôi. Đức Phật, chắc chắn, đã dạy con người từ bỏ mọi sở hữu, nhưng tôi đã biết đến tình cảm này trước đó rất lâu, trước khi tôi biết chút gì về Phật giáo. Chúng tôi đến Anh trên một chiếc tàu chiến của Đức với thủy thủ đoàn người Đức. Các thủy thu rõ ràng là rất tội nghiệp lũ trẻ. Họ rat tử tế với chúng tôi, dẫn chúng tôi đi xem cả chiến thuyền từ phòng chiếu bóng xuống đến ham máy, bất cứ thứ gì để dỗ nín chúng tôi. Họ trang trí phòng ăn bằng các giấy màu, và còn có cả kem để cho chúng tôi tráng miệng. Nhưng vô ích đối với những em còn quá nhỏ. Chúng không chịu ăn gì cả, và luôn khóc đòi cha mẹ. Trong cabin của chúng tôi, có khoảng sáu đứa trẻ. Mỗi đêm đều có một người thủy thủ đến kể chuyện cổ tích, chuyện thần thoại cho đến khi chúng tôi thiếp ngủ. Tôi sẽ không bao giờ quên lòng từ ái của các thủy thủ này đối với chúng tôi. Nhưng dưới mắt của chính phủ họ, chúng tôi chỉ là một loài bẩn thỉu. Đến Dover, chúng tôi lại lên tàu hỏa đi Luân Đôn, nơi chúng tôi được một phái đoàn Do Thái đón tiếp. Họ gồm khoảng ba mươi phụ nữ đứng ở những chiếc bàn dài, với nước chanh, bánh ngọt, bánh mì. Họ đọc tên chúng tôi cùng với một địa danh: "Kussel, Ilse - Glasgow". Thế là tôi phải đến Glasgow với hai em bé gái nữa. Một phụ nữ nói tiếng Anh dẫn chúng tôi lên tàu. Bà còn cho tôi ít tiền bỏ theo người, một hay hai bảng Anh gì đó, với một túi đồ ăn. Tôi không nói được tiếng Anh trừ chào buổi sáng, buổi chiều, xin vui lòng và cảm ơn, mà ở đây thì không có ai nói tiếng Đức. Tôi tự hối là đã không học tiếng Anh thay vì tiếng Tây Ban Nha ở trường sinh ngữ Bá Linh. Hơn thế nữa, tôi hoàn toàn không hình dung nỗi Glasgow ở đâu, dầu đó là thành phố lớn nhất nước Tô Cách Lan. Ở mỗi trạm xe lửa, tôi đều nhìn qua cửa sổ để xem có phải là Glasgow không. Mỗi lần như thế tôi đều thấy tấm biển đề: "Players please". Đó là tên loại thuốc lá nổi tiếng nhất ở Anh, nhưng dĩ nhiên là lúc đó tôi không biết. Tôi chỉ thấy ngạc nhiên sao thành phố nào cũng gọi là: "Players please". Trên các toa xe rất lạnh, và trời tối nhanh, nhưng xe lửa cứ đi tới, đi tới. Rồi một người soát vé đến chỗ chúng tôi. "Glasgow?", tôi hỏi ông. Ông ráng giải thích để tôi hiểu rằng Glasgow là trạm cuối cùng. Ngay sau đó mắt tôi ríu lại, vì tôi hiểu rằng khi nào tàu còn chạy, chúng tôi còn có thể ngồi yên một chỗ. Sáng hôm sau, chúng tôi đến trạm cuối cùng. Gia đình người bảo trợ đón chúng tôi ở sân ga. Hai vợ chồng và bảy đứa con. Họ không nói được tiếng Đức nào, họ nói tiếng Yiddish. Vì Yiddish là tiếng địa phương dựa trên tiếng Đức, nên gia đình này nghĩ là tôi phải biết Yiddish. Yiddish thường được sử dụng trong các gia đình theo đạo Do Thái chính thống, nhưng như tôi đã giải thích, gia đình tôi không theo Do Thái chính thống. Gia đình người bảo trợ tôi đến từ Do Thái-Nga. Việc tôi không thể nói cùng thứ tiếng với họ là một điều bất hạnh, dầu nhỏ. Vấn đề nằm ở một điểm khác. Họ đã ký tên bảo lãnh tôi vì họ cần người đỡ việc cho người mẹ với bảy đứa con trong gia đình. Nhưng thực tế là họ đã chọn phải một người hoàn toàn không thích hợp với công việc này. Cũng do cô đầu bếp ở nhà tôi lúc trước không cho tôi được bước chân vào bếp, mà tôi không biết nước sôi là như thế nào. Tôi phải thay các áo gối, nhưng tôi cũng chưa từng làm việc đó trong đời. Tôi phải coi và nhóm bếp lửa ngoài trời, mà tôi không biết cần phải có giấy, người ta mới nhóm được lửa. Người vợ càng ngày càng khó chịu với tôi, nhưng ông chồng thì nói: "Thôi bỏ đi, dầu gì nó cũng chỉ là một đứa trẻ". Họ nói bằng tiếng Yiddish, nghĩ rằng tôi không biết nói thì không thể hiểu được. Nhưng tôi hiểu được vì rất giống tiếng Đức. Nhưng ở trường thì tôi không hiểu được chữ nào. Vì thế, nơi tôi học tiếng Anh là những rạp chiếu bóng. Vé rẻ nhất là sáu pence (tiền xu của Anh), và tôi có thể mua được vé với số tiền ít ỏi của mình. Sau ba tháng, tôi nói tiếng Anh lưu loát, vậy ra đi coi hát cũng có ích chứ. Có khả năng hiểu hết mọi thứ cũng không phải hoàn toàn có lợi. Có lần một cô bạn mời tôi đến dự tiệc sinh nhật ở nhà cô, tôi hiểu rất rõ khi mẹ cô nói: "Con nhỏ di dân kia đừng hòng bước chân vào nhà tao!". Nhưng đó không phải là sự kỳ thị duy nhất đối với tôi. Một bạn trai định mời tôi đi dự tiệc khiêu vũ ở trường đại học. Lúc bấy giờ, tôi đã mười sáu tuổi, và đã trở thành một cô gái không đến nỗi xấu xí. Mẹ của anh ta ta nói: "Bao nhiêu người, sao con lại chọn cô bé người nước ngoài này?" Anh trả lời: "Cô ta khác gì với mấy cô gái kia đâu?" Điều khác biệt giữa tôi và các cô gái khác có thể nói gọn bằng một câu: Tôi bất hạnh. Tôi không thuộc vào thế giới mà tôi bị đẩy vào này. Tất cả mọi thứ đều lạnh lùng, xa lạ, không chỉ nói về con người mà cả thời tiết cũng thế, lạnh và ẩm ướt. Nhưng tôi có rất nhiều nghị lực, nên đã quyết định như đinh đóng cột -tôi sẽ cố gắng thêm một năm nữa xem sao, nhưng từ giờ cho đến lúc đó, phải chấp nhận tất cả không than vãn. Năm tháng qua đi, giữa năm đó, chiến tranh bùng nổ. Tôi viết thư cho cha ở Thượng Hải, kể cho ông nghe hoàn cảnh tôi khổ sở thế nào. Tôi viết, "Con muốn được ở cạnh cha mẹ". Thời gian dần trôi, cuối cùng mùa hè năm 1940, câu trả lời đã đến. Trái bom Đức đầu tiên đã nổ ở gần Edinburgh. Cha tôi trả lời thư: "Nếu con không được thoải mái, thì hãy đến đây". Lúc đó cha mẹ tôi đã có được một căn hộ ở Thượng Hải. Cha tôi đã mở một tiệm quần áo may sẵn, khá phát đạt. Quần áo may sẵn ở Trung Hoa lúc đó là một điều mới lạ. Trừ việc cha mẹ tôi phải sống ở một nơi không được sầm uất, mọi thứ khác đều ổn thỏa. Đáng lý cậu tôi ở Luân Đôn phải mua vé đi tàu thủy cho tôi, nhưng chờ mãi không thấy. Cuối cùng vào tháng 11 năm 1940, tôi mới được vé. Tôi báo cho gia đình bảo trợ là tôi muốn đi thăm cha mẹ. Nhưng họ hiểu là tôi muốn bỏ ra đi. Có lẽ họ cũng mừng tôi ra đi, nhưng họ không nói gì. Cậu tôi, người mà tôi chưa gặp bao giờ, gửi cho tôi vé xe buýt đi từ Glasgow đến Luân Đôn. Đến Luân Đôn, cậu lại đi lo các giấy tờ cần thiết cho chuyến đi của tôi. Cuối cùng, tôi là người không có quê hương, vì người Đức đã lấy lại thông hành Đức tịch của tôi. Tôi còn nhớ rất rõ: Đó là vào buổi chiều khi tôi từ giã gia đình người bảo trợ ở Glasgow. Họ không hề hỏi tôi: "Con có tiền mang theo mình không?" Một mình tôi đi bộ trong bóng tối ra trạm xe buýt, lưng đeo túi vải, tay mang valise nhỏ mà tôi đã mang đến. Khi cánh cửa nhà đóng sập lại sau lưng, tôi cảm thấy hoàn toàn lạc lỏng -một kẻ không ai trông đợi, không tiền, không một giấy tờ tùy thân, cô đơn giữa những người xa lạ trong một xứ sở xa lạ. Ngày nay nhìn lại tôi thấy là tôi đã không làm vừa lòng gia đình người bảo trợ. Tôi không vừa lòng về họ, và họ cũng không vừa lòng về tôi. Vài năm trước đây, tôi đã tìm lại địa chỉ của Mimmie, đứa con gái trong gia đình mà tôi thân thiết nhất. Tôi viết thư cho cô, cảm ơn cô và gia đình. Dầu gì, nếu họ không tiếp nhận tôi, tôi đã chết như chín mươi ngàn đứa trẻ khác ở Bá Linh. Từ đó, chúng tôi trao đổi thư từ. Cô thấy cuộc đời tôi cũng khá thú vị. Chuyến đi mười hai tiếng từ Glasgow đến Luân Đôn thật là khủng khiếp đối với tôi, vì tôi quá đói. Các hành khách khác cứ chốc chốc lại xuống các trạm dọc theo đường đi để mua thức ăn. Nhưng tôi không có một xu ten. Khi đến Luân Đôn tôi phải xin một người xa lạ tiền để gọi điện thoại. Giờ, tôi mới biết đó cũng là một hình thức ăn xin. Anh ta cho tôi chút đỉnh, không nhiều. Điều đó gợi tôi nhớ lại một việc đã xảy ra khi tôi còn là một cô bé được yêu thương, chiều chuộng. Tôi đi với cha đến sở thú. Chúng tôi đi qua Cổng Voi, nơi có một người ăn xin đang ngồi. Tôi nhìn thấy ông rõ ràng trước mắt tôi. Ơng chỉ còn một chân và giữ một chiếc hộp nhỏ trên đùi, trong đựng bút chì để bán. Cha tôi đặt một đồng xu lên chiếc hộp, và tôi đã nghĩ: Đó cũng có thể là tôi. Điều đó cũng có thể xảy ra cho tôi. Tôi có thể là người ăn xin ngồi đó, xin tiền thiên hạ. Có lẽ tôi là một cô bé ngoan ngoãn, nên tôi chưa đến nỗi phải làm thế. Lúc đó, tôi được năm tuổi, chưa biết gì về tôn giáo, và dĩ nhiên là không biết tí gì về Phật giáo. Nhưng điều mà tôi cảm nhận được một cách trực giác là nghiệp lực, nhân quả, mà mãi sau này tôi mới biết tên gọi. Hành động ác sẽ mang lại nghiệp ác. Nếu bạn làm điều xấu, chuyện xấu sẽ xảy ra cho bạn, giống như người ăn xin kia. Lạ lùng là cuộc gặp gỡ đó đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tôi. Cậu tôi là một luật sư ở Luân Đôn. Cậu đã di tản khỏi Đức rất sớm từ những năm 1933, ra là cậu có cái nhìn rộng rãi hơn cha tôi. Cậu không sống ngay tại Luân Đôn, nhưng ở gần đó. Cậu hướng dẫn qua điện thoại cho tôi đường đến nhà cậu; cậu sẽ trả tiền tàu hỏa khi tôi đến nơi. Đó là một buổi sáng ảm đạm, và tôi cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Mọi chuyện lớn, nhỏ trong đời tôi hình như luôn đầy khó khăn. Giống như không dễ dàng gì để giải thích với nhân viên hỏa xa là vé của tôi sẽ được trả khi tôi đến trạm dừng. Không có gì dễ dàng, không có gì xảy ra mà không đòi hỏi ta phải cố gắng. Tôi chưa quen được điều đó. Cậu tôi đứng đón ở sân ga. Người soát vé được cậu cho tiền bồi dưỡng, và đó là lần đầu tiên tôi có cảm giác được đón chờ. Thật là một cảm giác sung sướng. Tôi ở với cậu và em họ tôi, Steffi, vài ngày. Cậu tôi đã lo được giấy chứng minh tạm trú cho tôi ở một văn phòng chuyên lo thủ tục cho người nước ngoài. Cậu đưa cho tôi một ống điếu bằng vàng, và một vài vật có giá trị cho cha tôi. Rồi tôi lại một mình lên xe lửa. Đó là vào tháng mười hai. Tháng tám vừa qua, tôi được mười bảy tuổi. Tàu đậu ở bến cảng Liverpool. Khi nhìn thấy nó, tôi bỗng sợ. Đó không phải là con tàu người ta cảm thấy thoải mái để đi trên đó vượt qua đại dương. Nó giống như mấy chiếc tàu sắp bị đắm trong các phim cướp biển: Rĩ sắt, hoen ố. Người ta gọi nó là Haruna Maru. Trên boong tàu, một lá cờ Nhật Bản bay phất phới. Châu Au đang có chiến tranh. Không còn chiếc tàu nào dành chở dân sự. Con tàu Haruna Maru nặng mười ngàn tấn, khá nhỏ. Trên thuyền đầy các thủy thủ Nhật Bản. Rất nhiều các bao tải, các thùng được mang lên tàu. Nhưng chỉ có mười hai hành khách -một vị truyền giáo người Anh, hai thương nhân người Pakistan và một bác sĩ người An. Trên chuyến đi, vị bác sĩ đã ngỏ lời cầu hôn với tôi. Tôi là người phụ nữ trẻ duy nhất trên tàu. Thật khó để nói cho ông ta biết lúc bấy giờ tôi không hề nghĩ đến chuyện hôn nhân. Tôi nhớ, cuộc hành trình là một chuyến đi đầy khủng khiếp mà lãng mạn. Tôi chưa từng đi biển bao giờ. Thật là một cảm giác kỳ lạ khi chỉ nhìn thấy nước và trời, mấy con cá thỉnh thoảng nhảy vọt lên khỏi mặt nước. Màu trời thay đổi từ xanh, xám, đến xanh lục, tất cả gợi cho ta cảm giác một chuỗi màu sắc, ẩn hiện ở chân trời. Nhưng đe dọa trùm phủ lên tất cả. Một lần, giữa biển, chúng tôi cứu được những người sống sót từ một chiếc tàu Thụy Điển đã bị Đức đánh bom. Đó không phải là tàu chiến, nhưng vẫn bị đánh chìm. Các nạn nhân la hét giữa dòng nước. Sau đó tôi không còn mấy tin tưởng ở chiếc cờ Nhật Bản to tướng trên tàu nữa. Ai đảm bảo được rằng chúng tôi sẽ không là mục tiêu tấn công? Ban đêm tàu đi trong bóng tối đen ngòm. Tất cả các lỗ thông hơi đều được sơn đen. Vượt biển trong bóng tối như thế khiến tất cả mọi người trên tàu đều cảm thấy thần kinh căng thẳng. Có một thủy thủ không thể chịu đựng nổi, anh ta phát điên. Anh ta chạy tán loạn trên boong tàu, đập vỡ tất cả mọi thứ trong tầm tay. Tôi đang ở trong cabin, nghe ồn mở cửa ra định xem chuyện gì. Ngay lúc đó, anh ta chạy về hướng tôi. Hai tay cầm hai mảnh chai vỡ, miệng sủi đầy bọt nước miếng, anh ta la hét cuồng loạn. Ai đó vội đẩy tôi trở vào cabin. Cuối cùng người ta khống chế được người thủy thủ điên và nhốt anh ta lại suốt cuộc hành trình. Nhưng tôi không thể nào quên gương mặt của người ấy. Giờ thì tôi hiểu phát điên là như thế nào: tâm bất ngờ tán loạn, bao thú tính của một con vật hung bạo đều phát ra ngoài. Tất cả mười hai hành khách. Mỗi người đều có một cabin nhỏ, có giường, tủ, ngoài ra không có gì nữa. Khi dùng bữa, chúng tôi đến một căn phòng có những bàn sắt nhỏ, với những lò lửa nhỏ được đặt ở khoảng cách giữa các bàn sắt. Khi muốn nướng cá hay rau củ, bạn có thể ngồi trên mấy cái ghế nhỏ đặt trên sàn để tự nướng cho mình. Tôi không thể nào chịu nỗi điều đó. Tôi không nuốt nỗi thức ăn nửa chín, nửa sống đó. Tôi cũng không nhớ mình đã sống bằng gì trên suốt chuyến đi. Có lẽ chỉ nhờ bánh lạt, may mà thỉnh thoảng nhà bếp cũng làm bánh. Tôi không cảm thấy khỏe suốt chuyến đi. Ngay bây giờ nhớ tới cuộc hành trình đó, tôi vẫn còn muốn bịnh. Đó là một cuộc tra tấn dã man nhất. Lại còn nóng nữa chứ! Lúc chúng tôi bắt đầu đi từ biển Đại Tây Dương vào Kênh Suez, hãy còn là mùa đông. Nhưng sau đó trời bắt đầu nóng. Tàu dừng ở Bombay, ở Colombo, mỗi nơi hình như càng lúc càng nóng hơn. Tôi không được quyền rời tàu với các hành khách khác. Giấy tờ của tôi không phải là thông hành chính thức, vì thế tôi phải ở lại đằng sau trong chiếc tàu nhỏ, kín bưng, nằm nướng mình trong ánh nóng mặt trời. -ooOoo- Chương 4 Thời Chiến Tranh ở Thượng Hải Thực chân nghĩ đó thực chân, Sau Kristallnacht năm 1938, giữa những người Do Thái ở Bá Linh có một câu chuyện tiếu lâm thường được kể: Hai người Do Thái đang đứng xếp hàng để xin hộ chiếu. Một người muốn đi Mỹ. "Còn anh định đi đâu", anh ta hỏi người bạn. Người kia trả lời: "Đến Thượng Hải". Người thứ nhất nói: "Xa dữ vậy sao?". "Xa tính từ đâu?", người bạn trả lời. Phải có đầu óc khôi hài người ta mới nghĩ ra được những chuyện cười châm chọc đó. Đặc biệt người Do Thái có biệt tài đó -có lẽ vì trong lịch sử, họ có quá nhiều những sự bất hạnh. Có hàng trăm chuyện cười về người di dân Do Thái và những hoàn cảnh trớ trêu của họ. Như tôi đã nói, Thượng Hải lúc đó là chỗ nương thân cuối cùng của người Do Thái ở Châu Au. Phần lớn các nước khác đều đóng cửa biên giới. Uruguay gửi trả một thuyền đầy dân di tản trở về Đức. Mỹ và Úc thì chỉ nhận vào một số công dân đặc biệt. Theo một ký kết hằng trăm năm về trước giữa Anh-Trung Hoa, Thượng Hải trở thành một thành phố tự do, nghĩa là ai vào cũng không cần hộ chiếu. Giữa những năm 1938-1941, hai mươi ngàn người Do Thái đã đến lánh nạn tại đây. Một nơi rất xa quê hương, nhưng sau này chúng tôi biết rằng như thế cũng chưa xa đủ. Cha mẹ tôi đứng đợi dưới bến tàu khi chiếc Haruna Maru cập bờ. Khi nhìn thấy họ, một tảng đá -không, mười tảng đá- đang đè nặng trên tim tôi, bỗng biến mất. Cha tôi mặc chiếc áo khoác đen, ông vẫn thường mặc ở Bá Linh. Chúng tôi trèo lên hai chiếc xe kéo cùng với hành lý, trong có chiệc hộp đựng thuốc bằng vàng của cậu tôi (ở Luân Đôn) được giấu kín trong đó. Trời rất lạnh; các ngọn gió rét mướt từ các thảo nguyên Mông Cổ thổi qua các đường phố Thượng Hải như cắt da. Dầu vậy, áo hai người phu kéo xe vẫn đẩm ướt mồ hôi, đến đổi giống như hơi nước toát ra từ thân họ bay lên. Tôi không quen ngồi trong những xe kéo bằng người. Tôi được biết rất ít người làm nghề này sống lâu, ai cũng chết vì bịnh nghề nghiệp. Nhưng đó là cách người ta kiếm sống ở Thượng Hải. Không ai có thể thay đổi được điều đó -nhất là tôi. Cũng may sau này người ta đổi qua người đạp xe. Chúng tôi đi qua khu vực dành cho người Pháp. Thượng Hải lúc đó là một cửa khẩu quốc tế tự do, có khu dành cho người Pháp, người Anh, Mỹ và Trung Hoa. Tôi nhận thấy đó là một thành phố tồi tàn trong một ngày mùa đông, chỉ trừ nơi có các ngân hàng, khu thương mại của người Anh thì khá hơn. Hai người phu xe dừng trước một tòa chung cư khá đẹp. Tôi trèo lên các nấc thang với cha mẹ, cha tôi mở cửa ra, và tôi bước vào một căn phòng với đồ đạc bàn ghế từ Bá Linh. Không biết bằng cách nào đó, sau khi ra đi, cha mẹ tôi được người ta gửi tàu ra cho họ một ít bàn ghế, tranh, và mấy tấm thảm Ba Tư. Thật là một cảnh tượng lạ lùng, những đồ đạc quen thuộc ở một nơi xa lạ. Cha tôi cùng với ba người Do Thái di tản từ Bá Linh đã mở được một tiệm quần áo may sẵn cho phụ nữ. Đó là một cửa hiệu sang trọng, nằm cạnh bên khách sạn Palace, cửa hàng rất phát đạt. Các phụ nữ Thượng Hải rất thích các loại quần áo Tây phương này, họ chưa từng thấy trước đó bao giờ. Tôi cũng được dịp sắm sửa từ cửa tiệm của cha. Quần áo tôi mang từ Bá Linh qua Tô Cách Lan, rồi từ Tô Cách Lan qua Trung Hoa đã trở nên quá ngắn, quá chật. Tôi không có bằng cấp, không học vấn, không có gì cả. Cha tôi gửi tôi đi học ở trường kinh doanh Thượng Hải. Ông nói: "Nếu con được học đánh máy, sẽ có ích cho con suốt đời". Đó là cái nhìn rất sâu rộng. Đến bây giờ, hằng ngày tôi vẫn còn ngồi làm việc với chiếc bàn máy. Ngoài ra tôi cũng học kế toán, tốc ký, nhờ đó, sau này tôi có thể kiếm sống nuôi gia đình trong bao nhiêu năm. Buổi chiều, sau giờ học, tôi đi chơi tennis. Trong một thời gian ngắn ở Thượng Hải, tôi đã có thể sống tự do, yêu đời như thuở nào. Vào tháng 12, 1941, chiến tranh bùng nổ ở Thái Bình Dương. Nhật chiếm Thượng Hải cũng như một số nơi khác. Vào tháng 2, 1943, họ ra nghị quyết: Người di tản Au châu -có nghĩa là người Do Thái- phải bị hạn chế trong khu vực thành phố Hongkew; một khu ổ chuột, không có tường rào, nhưng đầy dây kẽm gai, và phải chịu sự cai trị của lực lượng quân sự Nhật Bản. Đó là do áp lực của chính phủ Đức. Nhật là đồng minh của Đức, và đối với Đức quốc xã, Thượng Hải cũng như bao nhiêu chỗ khác, không phải là quá xa đến nỗi họ không thể với tới, người Do Thái sống ở đó cũng không thể tránh khỏi sự trừng phạt của họ. Đối với chúng tôi, điều đó có nghĩa là lại phải từ bỏ nhà cửa, công việc kinh doanh. Cha tôi lần nữa lại bị cướp đi cơ hội kiếm sống. Tôi tin rằng điều đó ảnh hưởng rất lớn đến người. Vì giờ, cha tôi không còn trẻ nữa. Chúng tôi thuê hai phòng ở Hongkew, mang theo bàn ghế, thảm và một ít bộ ly pha lê. Cũng nhờ bán dần những thứ này mà chúng tôi có thể nuôi sống bản thân. Trong thời gian đó, tôi nghiệm thấy rằng dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt thế nào, cuộc sống vẫn tiếp tục. Trong khu ổ chuột của chúng tôi, với gần mười tám ngàn dân từ các nơi như Đức, Czech, Hoà Lan, Ao, và những nơi mà Hitler cai trị, đã mọc lên một cộng đồng có nhà thương, trường học, nhà hát, các quán càphê Viennes, nơi bạn có thể mua bánh nướng và nước táo. Chúng tôi cũng có báo chí, và các chương trình xã hội phục vụ trẻ con và người già. Con số trẻ em chết ở Hongkew vì môi trường thiếu vệ sinh, không có sữa, lên rất cao. Mỗi sáng tôi rời khu ổ chuột, đến tối lại trở về. Tôi kiếm được việc làm với một công ty xuất khẩu. Tất cả tiền kiếm được tôi đều đưa cho cha. Chúng tôi sống rất cần kiệm. Có một quán cơm xã hội, chúng tôi có thể đến. Đồ ăn nấu cũng được, chỉ có điều các món không thay đổi: lúc nào cũng là kasha súp, với ít rau củ lội trong đó. Chúng tôi còn được phát cho loại bánh mì mà người già không thể nào ăn nổi vì nó cứng như đá. Vào các ngày lễ, chúng tôi mới dám mua khoảng hai mươi gram pâté hay một lạng càphê. Chúng tôi phải trả giá rất đắc cho những thứ này. Cha tôi có một tấm bản đồ dán trên tường, trên đó ông đánh dấu những bước tiến của quân đội Đồng Minh bằng những cây kim nhỏ. Chúng tôi không được có radio. Nhưng đám con trai tự ráp radio lấy, giấu dưới nệm. Nhờ vậy, chúng tôi được biết quân Mỹ đã tiến đến đâu, và hy vọng là cơn ác mộng sẽ sớm chấm dứt. Một ngày kia bom nổ ở khu ổ chuột. Nghe một tiếng động lớn, tôi chạy ra trước cửa nhà. Trước mắt tôi là một người quen, anh ta như bị đất chôn vùi, rồi tiếp theo tiếng nổ lớn , là một cột đất, và người đàn ông biến mất. Lúc đó, lần đầu tiên trong đời, tôi hoảng sợ đến mất cả tự chủ. Tôi cứ hét lên, không thể ngừng được cho đến khi cha tôi tát cho tôi một cái. "Chúng ta không làm được gì cả đâu. Hãy im ngay!", cha tôi quát. Và tôi bình tĩnh trở lại. Từ đó không bao giờ tôi hoảng loạn như thế cả -tánh cách của tôi không giống như thế. Nhưng những gì tôi đã chứng kiến thật quá sức chịu đựng của tôi. Tôi vừa đứng cạnh một người, rồi ngay trước mắt tôi, anh biến ra thành những mảnh vụn. Anh là một nhạc sĩ trong các quán càphê Do Thái. Tôi vẫn thích nghe anh chơi nhạc. Rất nhiều trái bom đã nổ trong ngày hôm ấy, rất nhiều người bị giết. Con đường trước cửa nhà tôi, máu chảy như nước mưa. Quân đội Mỹ định đánh phá đài phát thanh của Nhật, nhưng bị chệch mục tiêu. Có lẽ từ kinh nghiệm đó, tôi trở nên không còn sợ hãi sự chết nữa. Từ lúc đó, tôi không còn lo sợ không biết mình sẽ sống hay chết. Người ta sống phút này, phút sau đã chết. Tôi đã biết điều đó rất sớm. Vào tháng 8, 1945, trước khi trái bom nguyên tử nổ ở Hiroshima, Nagasaki và chiến tranh chấm dứt, cha tôi bắt đầu bị đau vì những điều kiện sống khốc liệt. Bác sĩ chẩn đoán ông bị sỏi thận, và buộc phải giải phẩu, vì thế cha tôi đến bịnh viện. Dĩ nhiên, mọi phương tiện trong bịnh viện cũng chưa được hoàn bị, nhưng chúng tôi ai cũng nghĩ là ông sẽ qua khỏi. Vào ngày dự định mổ thì cha hơi sốt nhẹ. Cuộc giải phẩu phải đình lại. Hôm sau tôi vào thăm cha. Một vị bác sĩ đã gặp riêng tôi, nói: "Cha cô sẽ không qua khỏi cuộc giải phẩu này đâu". Lúc ở trong bịnh viện, cha bị nhiễm trùng não lây từ một người lính Nhật đã được mang vào trong tình trạng bịnh sắp chết. Không có thuốc chữa cho bịnh này. Lúc đó chưa có những thứ như thuốc kháng sinh. Tôi vào phòng thăm cha. Ông đang nằm trên giường, có vẻ rất yếu. Có lẽ cha biết mình sẽ không qua khỏi. Có lẽ những người sắp chết đều biết. Cha rất tỉnh táo. Tôi nói với cha: "Cha ơi, con sẽ trở lại ngay. Con sẽ đi kêu Mẹ". Nói rồi tôi chạy như điên về nhà, nước mắt tuôn đầy trên mặt. Khi trở lại bịnh viện, tôi cố đút cha ăn vài muỗng súp. Cha tôi đã không còn nuốt được nữa. Nhưng cha rất bình tĩnh. Cha nói: "Con biết cha thương con đến dường nào!". Cha chúc tôi tất cả mọi điều tốt đẹp nhất trong đời và nói sẽ tiếp tục lo lắng, bảo vệ tôi. Tôi hoàn toàn không thể chịu đựng nỗi. Tôi không thể chấp nhận việc cha sắp ra đi -chỉ vài ngày trước đây thôi, cha vẫn còn là người khỏe mạnh. Sự ra đi của cha là một mất mát thật sự đối với tôi. Cái chết của nạn nhân chiến tranh đã là một cú sốc, nhưng lúc đó có cha đứng cạnh tôi, để khuyên tôi bình tĩnh. Đối với tôi, cha là điểm tựa của cuộc đời tôi. Tôi đứng bên ngoài nghe Mẹ nói lời từ giã với cha. Một vài người bạn thân cũng đến. Rồi cha nhắm mắt. Tôi không thể khóc nữa. Phải thật lâu sau, tôi mới có thể khóc được. Năm ngày sau đó, chiến tranh chấm dứt. Cha tôi đã mong đợi hoà bình biết bao nhiêu, nhưng ông đã không còn sống để đón hoà bình. Mẹ tôi như tê liệt, bà không còn làm gì được nữa. Tôi phải lo tất cả, từ đám táng đến ổn định lại cuộc sống của chúng tôi. Quân đội Mỹ tiến vào Thượng Hải. Những người lính Mỹ phát kẹo cho chúng tôi. Nhưng ngay họ cũng không thể cho chúng tôi được một căn hộ. Chúng tôi phải tiếp tục sống trong hai căn phòng tồi tệ đó. Hai năm trước đó, vì người Nhật, chúng tôi đã bị mất cửa tiệm, và hầu hết tài sản. Tôi cố gắng đòi lại phần nào, nhưng vô ích. Tất cả đều đã mất. Vài tháng sau, mẹ tôi lập lại gia đình với một người bạn từ thời thơ ấu ở Bá Linh. Ơng ta cũng sống trong khu ổ chuột này. Từ đó trở đi, tôi hoàn toàn cô đơn, không cha, không mẹ -vì bà đã dành hết mọi tình cảm cho cuộc hôn nhân mới. Tôi không thể hiểu được điều đó. Tôi nghĩ là mẹ cần có thời gian để quên nỗi đau mất chồng. Nhưng giờ tôi có thể nhìn sự việc dưới khía cạnh khác. Mẹ tôi là người đàn bà hiền hậu, nhưng bà rất yếu đuối, sợ hãi. Bà không thể tự lo cho cuộc sống của mình, cũng như nhiều phụ nữ khác thuộc thế hệ của bà. Bà cần có ai đó để bảo vệ, che chở. Tôi đã hai mươi hai tuổi, và đã trở thành một thiếu nữ khá xinh đẹp, nếu tôi có thể nói thế từ những bức ảnh tôi còn giữ lại. Có thể bức ảnh cũng đã được tôn tạo, vì trong đó lông mi của tôi dài một cách giả tạo. Nhưng cũng có thể nói tôi là một thiếu nữ khá xinh đẹp. Một ngày kia tôi gặp một người đàn ông lớn hơn tôi mười bảy tuổi. Ơng cũng là người Do Thái từ Đức đến; tên ông ta là Johannes. Có thể ông đã thay thế hình ảnh cha tôi trong lòng tôi. Bạn bè, người quen đều nói là ông không xứng với tôi. Nhưng tôi không nghĩ thế -thế là tôi lập gia đình với ông ta. Chúng tôi dọn vào một căn hộ bé tí ở Hongkew. Có điện, nhưng nước thì chỉ có ở phía sân sau nhà. Chúng tôi có một lò sưởi nhỏ để sưởi ấm. Nhưng không bao giờ tôi đốt được lò sưởi, vì thế nhà tôi lúc nào cũng lạnh vào mùa đông. Chồng tôi có phần hùn với người em họ ở một xưởng may áo chemise, làm ăn cũng khá. Tôi tìm được việc, làm thư ký cho quân đội Mỹ đang đóng ở đây, được hai trăm đô một tháng. Đó là một số tiền rất lớn ở Trung Hoa thời đó, có thể nuôi cả gia đình hai mươi nhân khẩu. Nghĩa là chúng tôi trở nên khá giả hơn. Tôi được quyền mua sắm đồ ở PX, cửa hàng chỉ dành cho nhân viên sở Mỹ. Có rất nhiều thứ ở đó, thí dụ như kem đánh răng, xà-phòng thơm, sữa bột. Tôi còn mướn được một amma, bà vú Trung Hoa. Tôi học được ít tiếng Thượng Hải từ bà, thứ tiếng địa phương mà người nơi khác không thể hiểu được. Khi tôi sanh Irene, con gái tôi vào năm 1947, bà vú giúp tôi rất nhiều. Việc nặng nề khó nhọc nhất là bà giúp tôi giặt bao nhiêu là tả ở sân sau nhà. Hầu hết người Do Thái sống trong các trại tập trung ở đây đều muốn được qua Mỹ. Người Mỹ cũng chấp nhận chúng tôi, nhưng giấy tờ hành chánh thì quá nhiêu khê. Các chuyến đi Mỹ phải đi cùng với quân đội Mỹ trên các chiến hạm, chúng tôi chờ đợi đến vô vọng. Mẹ tôi và chồng bà được đi trước cả chúng tôi. Cuối cùng khi quân đội của Mao Trạch Đông tiến vào Thượng Hải, lúc đó mới tới lượt chúng tôi. Chúng tôi rời Thượng Hải trên chiến hạm cuối cùng vào năm 1949. Những ai không lên được chuyến tàu đó đều bị bắt lại. Như thế tôi vẫn còn may mắn. Như tôi đã may mắn được lên chuyến tàu cuối cùng đưa trẻ con ra khỏi Đức vào năm 1939. Các chiến hạm có thể chứa khoảng từ một ngàn rưỡi đến một ngàn tám trăm người, đàn ông đàn bà ở riêng. Chúng tôi gồm sáu người mẹ và sáu em bé ở trong một cabin. Mấy đứa bé như đã hợp đồng, không khóc cùng một lúc, mà cứ hết đứa này khóc thì đến đứa kia. Chúng tôi hầu như không thể chợp mắt được. Dầu gì chúng tôi cũng trên đường vượt Thái Bình Dương! Trên đường đến San Francisco! Tôi còn nhớ lần đầu tiên tôi nhìn thấy chiếc cầu Golden Gate, đẹp tuyệt vời qua lớp sương sớm. Trên bến, một ban nhạc đang chơi bài hát nổi tiếng: "San Francisco, hãy mở cầu Golden Gate". Lần nữa, một cuộc đời mới lại bắt đầu. Không biết đã bao nhiêu lần như thế rồi? Dần dần tôi học đứng trở dậy trên đôi chân mình khi vấp ngã, giống như thằng người đồ chơi mỗi lần bị đấm ngã, lại chồi trở dậy. Giờ tôi là một phụ nữ đã có chồng con, hai mươi sáu tuổi, vẫn chưa có giấy tờ hợp pháp, nhưng đã có chút đỉnh tiền để dành. Tuy nhiên tôi có cảm giác như chưa được yên: còn cứ phải chống chọi với bao nghịch cảnh, và phải cắn răng chịu đựng. Nhưng để làm gì chứ? -ooOoo- Chương 5 Thế Giới Mới, Cách Sống Mới "Đây là con của ta, tài sản của
ta", Tháng 6, 1949. Trời lạnh như cắt khi tàu chúng tôi cập bờ cảng San Francisco. San Francisco hình như lúc nào cũng gió, cũng lạnh. Chúng tôi, một ngàn tám trăm người Do Thái đến từ Thượng Hải đứng ở lan can tàu, nước mắt vui mừng, nhưng răng đánh vào nhau lập cập. Dưới bến tàu -giống như mười năm trước ở Luân Đôn- có gần bốn trăm phụ nữ của tổ chức cộng đồng Do Thái đang chờ đón chúng tôi. Họ xếp những chiếc bàn dài dọc theo các nhà kho, phát cho chúng tôi những ly càphê nóng hổi cùng với bánh mì, bánh ngọt. Lại cũng những danh sách cùng các địa chỉ nơi chúng tôi phải đến. Cộng đồng Do Thái lo lắng cho chúng tôi một cách chân tình. Có lẽ vì trước đó những người Do Thái định cư ở Mỹ không tin các thông tin từ Đức. Họ không thể tin là dân họ có thể bị thủ tiêu hàng loạt như thế. Nhưng giờ thì họ đã tin, vì chính quân đội Mỹ đã đến tận các trại tập trung, và chứng kiến những sự thật không thể tưởng tượng nỗi ở các nơi đó. Chúng tôi nhận được tờ giấy có tên khách sạn chỗ trọ của chúng tôi. Ngoài ra chúng tôi còn được phát bảy mươi đô la một tháng để mua thực phẩm. Lúc đó, số tiền này khá lớn. Họ còn tặng quần áo, vì chúng tôi chỉ có những bộ đồ mặc trên người. Cả cộng đồng quyên góp quần áo mới, cũ cho chúng tôi. Và chúng tôi được quyền chọn lựa. Quần áo được chất thành đống lớn. Chưa bao giờ tôi thấy quần áo nhiều như thế. Chúng tôi lựa các quần áo ấm. Tôi chọn thêm một cái bóp. Khi mở ra, trong đó có một tờ mười đô. Tôi mang tiền đến trả lại cho người phụ nữ phụ trách việc phát quần áo, nhưng bà nói, không, người ta cố ý làm như thế. Ai mà được cái bóp thì được luôn tiền. Điều đó làm tôi thấy rất cảm động vì sự quan tâm của họ. Tôi vẫn nhớ lại tất cả với sự biết ơn. Tất cả giống như một phép lạ. Tôi bắt đầu cuộc tìm kiếm những người thân ở Bá Linh. Tôi đến Hội Chữ Thập Đỏ. Nhưng không có dấu hiệu họ còn sống sót. Tất cả đều đã chết. Lúc ở Thượng Hải, tôi đã thấy nhiều người Do Thái, đặc biệt là những người già rất thù ghét người Đức. Tôi thông cảm hoàn cảnh của họ; người Đức đã cướp đoạt của họ tất cả. Nhưng tôi không thể chia sẻ tình cảm thù hận của họ. Tôi còn nhớ đã nghĩ là chính họ đã hủy hoại cuộc sống, phần đời còn lại quí báu của họ với lòng hận thù. Đức Phật có nói: "Không có ngọn lửa nào bén bằng lòng tham; không có bàn tay nào xiết chặt hơn hận thù; không có lưới nào rối rắm bằng ảo tưởng, không có ngọn sóng nào cao bằng ngọn sóng ái dục". Và Đức Phật cũng nói hận thù không thể cởi bỏ hận thù, chỉ có tình thương mới làm được điều ấy. Lúc đó, tôi chưa biết gì về Phật giáo. Tuy nhiên, tôi cũng suy nghĩ giống như thế. Tôi thấy rất rõ là người ta cần hàn gắn và tha thứ. Lúc đầu tôi không làm được điều đó, nhưng sau một thời gian, tôi đã làm được, dầu sau này tôi có nghe người ta kể thêm về những tội ác của người Đức. Tôi tự nhủ mình: tất cả đã qua. Chỉ có nỗi đau mất cha là không nguôi. Lúc còn ở Thượng Hải, tôi có chụp ảnh ngôi mộ của cha, nhưng cho tới ngày nay tôi không tìm ra được bức ảnh. Vì tôi đi đây đi đó, chuyển đổi chỗ ở quá nhiều, tôi đã để thất lạc bao hình ảnh, giấy tờ. Cuối cùng chúng tôi đã có mặt ở Mỹ, đất nước tự do. Ở đây, tôi chỉ biết một người bạn học cùng trường ở Los Angeles. Các nhà bảo trợ trong tổ chức Cộng Đồng Người Do Thái khuyên chúng tôi đi qua miền đông, nơi có nhiều cơ hội kiếm việc hơn, nhưng tôi muốn đi Los Angeles. Chúng tôi được tặng vé xe buýt Greyhound đi Los Angeles, khi đến nơi tôi đã nhanh chóng tìm được một căn hộ ở thành phố rộng mênh mông ấy. Nhưng căn hộ của chúng tôi quá nhỏ, chỉ có một phòng, quá chật hẹp đối với một gia đình có con. Tuy nhiên giá mướn không quá mắc, và lại có sẵn đồ đạc. Chúng tôi đâu có của cải gì ngoài một ít tiền dành dụm được ở Thượng Hải, vừa đủ để chúng tôi có thể trả tiền mướn phòng trong một thời gian. Chồng tôi được nhận làm thợ cắt trong một xưởng may chemise. Lương ít nhưng dầu gì cũng là một nguồn thu nhập ổn định. Tôi chạy tìm một căn nhà nhỏ có thể mua được với một ít tiền đặt cọc, mỗi tháng cũng không phải trả nhiều. Cuối cùng chúng tôi cũng mua được một căn nhà nhỏ, có vườn để con gái nhỏ của chúng tôi, Irene, có chỗ để chạy chơi. Tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Lần đầu tiên chúng tôi có một mái nhà, mà không ai có thể đuổi chúng tôi ra được. Nhà chúng tôi có phòng khách, nhà bếp với đủ các thứ đồ điện gia dụng, và nước, không giống như ở Thượng Hải, không phải đi đâu xa mới có. Nhiều năm sau, có lần đi ngang qua căn nhà cũ, khi nhìn thấy nó, tôi đã phải kêu lên: "Trời ơi, sao mà nó nhỏ đến thế!" Nhưng lúc đó, đối với tôi, nó là một phép lạ. Tôi cũng tìm được việc làm. Không khó lắm, vì tôi đã từng được huấn luyện nghề thư ký văn phòng. Ngân hàng Bank Of America ở Los Angeles mướn tôi ngay lập tức. Sau đó tôi lấy bằng lái xe, tậu xe hơi, một chiếc xe hơi cũ kỹ không còn chạy được bao nhiêu lâu nữa. Tôi còn nhớ nỗi kinh hoàng khi lần đầu tiên lái xe đi làm ở Los Angeles. Ở thời đó, xe cộ ở Los Angeles đã đông đúc. Khi tôi tới được chỗ làm thì chỗ ngồi đã ướt đẩm mồ hôi vì căng thẳng, sợ hãi. Dầu gì, tôi cũng đã tới nơi an toàn. Không khí làm việc trong ngân hàng rõ ràng là kỳ thị đối với phụ nữ. Các phòng trên lầu đều dành cho nam giới. Mỗi sáng tôi chở Irene đi học mẫu giáo. Cô bé không thích đi học, nhưng không có lựa chọn nào khác. Chồng tôi làm việc ở hãng may chemise chỉ được bảy mươi xu một giờ. Rõ ràng là không thể đủ để nuôi con với đồng lương đó. Vì thế tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài phải đi làm. Dầu cho con bịnh, tôi cũng phải có mặt đúng giờ ở chỗ làm, không thể sai trái. Những lúc đó, tôi đều phải nhờ mẹ giúp đỡ. Lúc đó mẹ tôi sống ở San Diego với người chồng thứ hai. Bà phải lái xe hơi hơn một tiếng rưỡi để đến Los Angeles. Khi công ty của chồng tôi dọn về San Diego, tất cả chúng tôi dọn theo. Con trai tôi, Jeffrey sinh ra ở San Diego. Lúc đó Irene đã được gần mười tuổi. Lúc trước, khi tôi ao ước có thêm đứa con nữa, các bác sĩ bảo điều đó khó thể xảy ra vì tôi bị bướu. Khi tôi mang thai, bác sĩ riêng của tôi không mấy hài lòng, vì điều khó thể xảy ra đã xảy ra. Nhưng cũng may, tôi sinh Jeffrey chỉ trong vòng nửa tiếng, mẹ tròn con vuông không có vấn đề gì cả. Sau đó tôi phải nghỉ việc. Chồng tôi làm việc cũng đã nhiều lương hơn, vả tôi có hai đứa bé cần được săn sóc. Irene bắt đầu vào trung học, tôi tham gia vào ban phụ huynh học sinh ở trường. Tôi cố gắng làm tròn tất cả mọi bổn phận của mình, giữ gìn nhà cửa, vườn tược sạch sẽ, ngăn nắp. Bận rộn suốt từ sáng đến tối, đó cũng là chuyện bình thường vào hoàn cảnh của tôi. Tôi cảm thấy rất thích thú trong việc chăm sóc vườn tược, cũng như chăm sóc cho sức khỏe của hai con tôi. Tuy nhiên, dần dà, tôi cảm thấy trong tôi có những triệu chứng lạ, ban đầu là cảm giác hơi đau -một cảm giác rất mơ hồ báo cho tôi biết một điều chẳng lành. Tôi đã có tất cả những gì mình ao ước. Nhưng hình như vẫn còn thiếu một cái gì. Cái gì, chính tự tôi cũng không thể biết được. Tôi chỉ mơ hồ cảm thấy còn thiếu một cái gì đó. Ước muốn tìm kiếm cái gì đó cứ ngày càng lớn mạnh trong tôi, như một căn bịnh nội tâm. Lúc đó tôi ba mươi bốn tuổi. Bao biến cố đã xảy ra, giờ bỗng nhiên ước mơ được có một cuộc sống bình dị của tôi đã thành hiện thực. Nhưng tôi không thể hình dung mình sẽ tiếp tục sống như thế này mãi. Tất cả sẽ tiếp tục như thế này mãi sao? Tất cả chỉ có vậy thôi sao? Hay là còn có một cái gì cao xa hơn tất cả những ước muốn tầm thường của cuộc sống? Chắc chắn là phải có cái gì đó nửa! Tôi bắt đầu chúi đầu vào sách -triết học, tâm linh, bất cứ thứ gì tôi có thể khám phá ra. Có nhiều vấn đề tôi chưa thông suốt, nhưng tôi không ngại. Tôi tự nhủ: "Không sao, rồi ta cũng sẽ hiểu được thôi". Từ đó, tôi chú trọng đến cuộc sống tâm linh hơn; đó là cái tôi muốn tìm hiểu, muốn khám phá. Với những tư tưởng, tình cảm đó, tôi hoàn toàn cảm thấy cô đơn. Hình như quanh tôi không có ai chia sẻ cùng tôi những suy nghĩ này. Mỗi lần tôi mang vấn đề này ra bàn luận ở gia đình, là chồng tôi nổi giận. "Em còn muốn gì nữa chứ?", ông ta la lối, giận dữ. Tôi muốn gì? Một cách sống khác. Một cách sống theo con tim của tôi. Nhưng tôi không biết phải làm gì với những điều suy nghĩ của mình. Một buổi chiều nọ, tôi đến thăm mẹ. Trong phòng khách nhà mẹ có hai chiếc xe đạp bị tháo rời nằm ngỗn ngang. Tôi hỏi: "Mẹ định mở tiệm sửa xe đạp sao?" "Không", mẹ trả lời, "Hai chiếc xe đạp là của hai chàng trai sau hè kìa". "Hai chàng nào?", tôi tò mò hỏi. Mẹ tôi đáp: "Họ cũng quen con mà. Ở Bá Linh hồi đó, họ vẫn cùng con đi dự sinh nhật các bạn bè. Đó là Hanschen và Gerd. Hanschen là con trai của người bạn thân của mẹ, còn Gerd là em họ của cậu ấy". Tôi chỉ nhớ có Hanschen, còn người kia thì mơ hồ có biết. Hanschen nhỏ hơn tôi vài tuổi, và đối với bọn trẻ, đó là một điều rất quan trọng. Anh đã di tản khỏi Bá Linh đến Luân Đôn ở với người cậu. Lúc đi lính trong quân đội Anh, anh đã tìm lại được cha mẹ mình ở Theresienstadt, một nơi đóng quân anh đã đi qua. Sau đó cả gia đình di dân qua Canada. Gerd cũng đi khỏi Đức qua ngã Glasgow như tôi, trên các chuyến di tản trẻ em. Cha mẹ chàng đều đã bị thủ tiêu ở Auschwitz. Ở Glasgow, cũng như ở Bá Linh, chúng tôi cùng đi học chung trường, nhưng chưa bao giờ biết nhau. Sau khi tôi đã đi Thượng Hải, anh lên đại học, theo ngành kỷ sư điện ở Glasgow. Giờ đã tốt nghiệp, anh cùng Hanschen từ Canada đi xe đạp xuyên suốt nước Mỹ. Cuộc đời có những bước rẽ kỳ hoặc. Trong Phật giáo, ta nói về những trường hợp như thế như là duyên nghiệp, nhưng lúc ấy tôi làm gì biết chuyện đó. Tôi đã gặp Gerd ở tại nhà mẹ tôi, không ngờ đó là cuộc gặp gỡ của định mệnh. Ngay buổi đầu tiên gặp gở, chúng tôi đã thấy có rất nhiều điểm tương đồng về quan niệm cuộc sống. Chúng tôi hiểu nhau một cách lạ kỳ, có lẽ vì chúng tôi cùng hướng về cuộc sống nội tâm. Cuộc gặp gỡ đó như cho tôi thêm sức mạnh, vì tôi hiểu còn có một người nữa chia sẻ cùng một quan niệm sống với tôi. Tôi cố gắng đưa ra một số đề nghị để thuyết phục chồng tôi về việc tôi sẽ theo đuổi mục đích của mình. Nhưng mọi ý kiến, đề nghị đều bị chồng tôi gạt ngang, như thể anh không nghe tôi nói gì. Anh không muốn tôi thay đổi, không muốn cuộc sống hay bất cứ thứ gì thay đổi. Vì thái độ đó của anh, sự liên hệ tình cảm của hai chúng tôi đi đến chỗ bế tắc. Tôi thấy mình không còn lựa chọn nào hơn là phải tự quyết định lấy cuộc sống của mình, phải chia tay với anh. Không thể tiếp tục mãi một cuộc sống như thế. Chỉ làm cho cả hai chúng tôi đau khổ. Khi tôi báo cho anh về quyết định ly hôn, anh rất bực tức, giận dữ. Anh không bao giờ tha thứ cho tôi về quyết định này. Anh không thể hiểu anh và tôi đã quá xa cách trong cái nhìn về cuộc sống. Đó không phải là một quyết định dễ dàng cho tôi. Irene mười ba tuổi, Jeffrey mới ba tuổi, và mái ấm này thực sự là mái ấm đầu tiên của tôi kể từ khi trưởng thành. Tôi để lại mọi thứ -từ nhà cửa, đồ đạc, sách vở, xe cộ cho đến quần áo. Irene sống với cha ở San Diego, một phần có lẽ vì bà ngọại cháu cũng sống ở đấy. Cháu phải học cho xong trung học ở đó. Tôi dọn đến Rancho La Puerta, ở Tecate, Mễ Tây Cơ. Đó là một nông trại, cách San Diego khoảng hơn một giờ rưởi lái xe, được sử dụng như một trung tâm phục hồi sức khỏe, ở ngay cạnh biên giới Mỹ-Mễ. Giáo sư Edmund Szekely làm giám đốc ở đó. Ơng đã viết hơn bảy mươi đầu sách chuyên về sức khỏe tâm sinh lý. Ở nông trại đó ông dạy về triết học của Essenes, dạy ăn uống thực phẩm thiên nhiên và cách sống theo thiên nhiên. Essenes là một hệ phái thuộc đạo Do Thái, rất phát triển vào thời Chúa Jesus. Họ có những luật lệ riêng cho giáo hội của họ, như là, không được kết hôn, không được có của cải riêng. Họ không ăn thịt, và rất ôn hòa, khác hẳn với các hệ phái khác của đạo Do Thái. Thật là một nơi thú vị. Có rất nhiều các vị khách nổi tiếng được mời đến nói chuyện, thí dụ như Aldous Huxley. Và các thành viên đến tham dự trại cũng không phải là những người đến đây chỉ vì những phòng tắm hơi saunas, hay các thức ăn chay. Họ đến đây để tìm những món ăn tinh thần. Ngay ở đây, tôi bắt đầu những bài học đầu tiên về tâm linh. Tôi đặt mua nguyệt san Tự Khám Phá Mình (Self-Realization Fellowship, do Swami Yogananda sáng lập), trong đó luôn có những bài viết công phu, các trang giải đáp thắc mắc. Tôi rất vui mừng tìm được những người có cái nhìn rất giống tôi, dầu chỉ là trên sách báo. Dầu còn xa vời, nhưng tôi có linh cảm một ngày nào đó tôi sẽ tìm được suối nguồn tâm linh để thỏa mãn cơn khát của tôi. Tuy chân lý sâu xa, vi diệu nhất tôi chỉ có thể tìm thấy mãi sau này. Nhưng tôi đã hấp thụ, học hỏi được rất nhiều vấn đề ở Rancho La Puerta, từ giáo sư Szekely, từ những người đã đến đây thuyết trình, từ tạp chí Self-Realization, từ những thành viên đến dự trại và từ các bạn đồng nghiệp. Một thế giới mới vừa mở ra cho tôi, một thế giới đầy hứng thứ, say mê đối với tôi. Tôi làm thư ký bán thời gian cho vợ của giáo sư Edmund Szekely. Để đổi lại, tôi được bao ăn ở tại đó, có người săn sóc cho cháu Jeffrey (chúng tôi học được tiếng Mễ từ bà bảo mẫu này) và một ít tiền xài vặt. Mỗi cuối tuần, Irene đều đến thăm chúng tôi. Tôi viết những lá thư đầy phấn khởi đến Gerd. Một năm sau, Gerd cũng đến sống ở nông trại. Anh cũng làm việc bán thời gian ở phòng tiếp tân, làm công việc anh thích, thỉnh thoảng lại có được tiền bồi dưỡng. Cuối cùng chúng tôi quyết định kết hôn. Đám cưới được cử hành trên một ngọn đồi phía sau căn nhà nhỏ của chúng tôi, với rất nhiều khách mời là những công nhân người Mễ, có sự chứng kiến của một vị rabbi (LND: Giống như vị sư trong Phật giáo), với Jeffrey và một chú chó con. Tôi còn nhớ là mọi thứ đều rất lãng mạn. Cuộc sống của chúng tôi rất tự do, tuyệt vời. Người chồng trước của tôi cũng được nhiều điều may mắn. Ông trở về Đức (tôi đã giúp ông nhiều trong việc này), tìm lại người yêu của thời tuổi trẻ, mà ông đã thất lạc tung tích từ thời Đức quốc xã. Cuối cùng ông tìm gặp được bà. Hai người trở về lại Mỹ, và họ đã sống với nhau hơn bốn mươi năm nay. Giờ ông đã tám mươi chín tuổi. Tôi thấy cuộc sống riêng tư của mình cũng không có gì đáng kể, nhưng chúng là chứng tích của sự trưởng thành của tôi. Chúng cho thấy là qua một thời gian dài, tôi cũng sống cuộc sống bình thường như bao phụ nữ khác, với những vấn đề, những gúc mắc như họ, với bao bất bênh trong chia lìa, thay đổi. Nhưng muốn tiến được đến sự tự do tuyệt đối, ta cần phải có can đảm đối mặt với tất cả những vấn đề này. Sống ở Rancho La Puerta, cả ba chúng tôi đều trở thành những người ăn chay, và còn giữ được như thế mãi cho đến bây giờ. Tôi trở nên rất thích thú với đề tài sức khỏe và dinh dưỡng. Tôi đã đọc và học rất nhiều về đề tài này. Nông trại rất đẹp, với các vườn rau cải, các cây leo bao quanh. Trong trại có hồ bơi, có nhiều loại cây, những tàng cây lớn, và một chỗ đốt lửa trại rất to, nơi chúng tôi thường tụ tập vào mùa đông. Ở nơi đây, tôi được học hỏi rất nhiều về sự liên hệ giữa thân và tâm, giữa cuộc sống và tâm linh. Tôi vẫn chưa biết gì về Đức Phật. Tôi chỉ biết là có cái gì đó trong tôi -một làn sóng, một tiếng gọi, một lý tưởng cao cả thôi thúc. Tôi chưa thể đặt tên cho nó là gì. Nhưng cảm giác đó có mặt, và thật may mắn cho tôi, Gerd cũng chia sẻ cùng cảm giác. Tuy nhiên, lúc đó chúng tôi vẫn nghĩ điều quan trọng nhất trong đời là một cuộc sống trong sạch hơn, lành mạnh hơn, và chúng tôi tin tưởng rằng cuộc sống đó sẽ đưa chúng tôi đến hạnh phúc nội tâm. Chúng tôi sống ở Rancho la Puerta được hai năm. Rồi Gerd nghĩ rằng chúng tôi cần đi khắp Trung và Nam Mỹ. Anh là một nhà thám hiểm và rất thích khám phá ra những điều mới lạ, ngày nay anh vẫn thường đi du lịch. Tôi cũng không an tâm sống mãi thế này. Tôi nghĩ có lẽ là do chúng tôi đã bị tước mất đi sự ổn định trong cuộc sống với cha mẹ ở lứa tuổi còn quá nhỏ. Chúng tôi không có khả năng liên hệ với một nơi chốn nào như là quê hương để cắm rể xuống đó. Chúng tôi không cảm thấy đâu là nhà, mà nhà cũng là ở khắp nơi. Vì thế, chúng tôi mua chiếc xe jeep hiệu Willys, bốn mã lực. Chúng tôi nhận được ít tiền đền bù từ Đức. Hơn thế nữa, lúc đó tôi còn có thông hành của Mỹ. Được làm công dân Mỹ, có nghĩa là tôi được có những quyền của một người công dân, sau bao năm làm người không có quê hương, xứ sở. Chúng tôi sửa sang chiếc xe để có thể ngủ luôn trên đó. Và chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình -trước tiên là Mễ Tây Cơ. Và sau đó là những nơi khác nữa. Jeffrey đi theo chúng tôi. Irene ở lại San Diego. Cháu đã được mười sáu, chỉ còn một năm là vào đại học. Sau đó, cháu lên đại học, nhưng không hoàn tất chương trình học, vì cháu lập gia đình năm mười tám tuổi. Cháu lập gia đình với một người bạn học, cùng tuổi. Cả hai đều không có việc làm, dĩ nhiên ai cũng chống đối cuộc hôn nhân đó, kể cả tôi. Chúng tôi nói không thể nào cuộc hôn nhân này có kết quả. Vậy mà sau này đó là cuộc hôn nhân thành công nhất mà tôi được biết trong số ít các cuộc hôn nhân thành công. Từ kinh nghiệm đó, tôi thấy rằng có lẽ chúng ta nên để con cái đi theo con đường chúng lựa chọn. Ta phải biết buông xả. Đó là bài học tôi thực sự hiểu ra sau này, trong một trường hợp khác. Chúng ta chỉ là những người khách trên trái đất này, không thể sở hữu được thứ gì -kể cả những gì thân yêu nhất của ta. -ooOoo- Chương 6 Thám Hiểm Trung Mỹ Bằng Xe Jeep Kẻ dũng mảnh chánh niệm Khi chúng tôi còn sống ớ Rancho La Puerta, có một đoàn gồm các nhà khoa học gia ghé qua, họ đang nghiên cứu về một bộ tộc sắp diệt chủng trong các cánh rừng ở Mễ Tây Cơ. Họ muốn tìm hiểu xem những người này sống như thế nào, ăn uống ra làm sao, khi bịnh hoạn họ làm gì, tôn giáo của họ ra sao. Giờ chúng tôi cũng muốn làm một cuộc thám hiểm để khám phá những điều tương tự như thế. Xe jeep của chúng tôi có bốn mã lực. Gerd làm thêm một cái thùng to trên nóc xe để chứa đồ đạc. Bên trong xe, ngoài giường ngủ của chúng tôi, còn có thêm một bếp lò nhỏ dùng khi đi cắm trại. Nhưng chúng tôi lại không giống một đoàn lữ hành nào -một người đàn ông, một phụ nữ và một cậu bé trai. Thời đó, những du khách bụi đời chỉ có ba-lô trên vai chưa có. Năm 1961, khi chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình, khách ngoại quốc cũng là một hiện tượng lạ đối với các người dân bản xứ. Người ta trố mắt nhìn chúng tôi, nhưng ở đâu chúng tôi cũng được đối xử rất tử tế. Có lẽ cũng nhờ có Jeffrey. Vì có lẽ họ nghĩ những người có con nhỏ, chắc không dám bày trò gì mờ ám. Từ đầu cuộc hành trình, Jeffrey đã giúp chúng tôi nhiều hơn là làm chướng ngại cho chúng tôi. Tôi xin nói trước là cuộc hành trình của chúng tôi đã kéo dài hơn dự định rất nhiều. Dự định ban đầu của chúng tôi là sẽ ổn định ở một vùng quê nào đó. Nhưng chúng tôi không thể thực hiện được điều đó cho mãi đến sau này, nhưng không phải là ở Nam Mỹ, mà ở xứ Úc xa xôi. Jeffrey lúc nào cũng ở bên cạnh chúng tôi. Thỉnh thoảng cậu bé cũng được đến trường, nếu như chúng tôi dừng ở đâu đó một thời gian khá lâu. Nhưng phần lớn là do tôi dạy cho cháu tại 'nhà'. Ngày nay, cháu đã trở thành một chuyên gia máy tính ở đại học Brisbane. Trong suốt thời gian đó, chỉ có một lần, Jeffrey bị bịnh rất nặng, do cháu đã uống nước bị nhiễm trùng. Ngoài ra, cháu luôn tỏ ra rất khỏe mạnh và là một cậu bé rất dũng mảnh, độc lập, tự tin. Cháu không cần ai phải luôn theo dõi, chăm sóc mình. Làm gì cháu cũng tham gia làm, không hề than thở, chê bai thức ăn hay những thứ gì khác. Trên những chặng đường chúng tôi đi qua không có khách sạn. Một đôi lần, chúng tôi nghỉ ở các nhà trọ nhưng luôn phải tự đi chợ để nấu thức ăn cho mình. Jeffrey rất thích đi chợ với tôi. Cháu nói lưu loát tiếng Mễ, và trả giá như một bà nội trợ chánh cống. Vì thấy cháu nhỏ dễ thương, các bà bán hàng đều bán cho cháu mọi thứ rẻ hơn là bán cho chúng tôi. Cho đến giờ, Jeffrey cũng còn thích đi shopping, nhưng cháu không còn nhớ tiếng Mễ nữa. Không còn nhớ đã có lúc người ta gọi mình là Jeffrito (là chú bé Jeffrey trong tiếng Mễ). Cũng thường thôi, như chúng ta đã quên những tiền kiếp của mình. Khởi đầu cuộc hành trình, chúng tôi lái xe xuyên qua Mễ Tây Cơ đến quần đảo Yucatan, nơi Mayas và Aztecs đã xây dựng các đền thờ. Chúng tôi rất thích thú khám phá về cuộc sống hằng ngày của một dân tộc đã qua thời vàng son. Thí dụ, chúng tôi viếng thăm những nơi chốn giờ hoang vu, để tưởng tượng ra họ đã sống như thế nào khi không có máy móc, dòng điện; làm thế nào họ có thể làm ra được những lu, hủ và các đồ gia dụng khác. Sau đó, chúng tôi dừng chân ở San Miguel de Allende, một thành phố được xây dựng bằng những mỏ bạc trong vùng, bởi những kẻ chiến thắng người Tây ban Nha. Ngày nay nó là một di tích lịch sử, một thành phố rất đẹp với một trường đại học ở đó tất cả chương trình đều được giảng dạy bằng tiếng Anh. Ở San Miguel de Allende, chúng tôi mướn được một căn nhà đã được xây dựng năm trăm năm trước của một người Mỹ, với giá năm mươi đô la. Trong nhà đã có sẳn đồ đạc, sẳn đủ mọi thứ kể cả hai người giúp việc, cùng hai con chó. Một con chó cái rất to bự, và một con chó sóc nhỏ trắng. Con chó cái rất nhát; ban đêm chỉ cần một tiếng động nhỏ, là nó lập tức nhảy vào giường tôi. Mỗi lần như thế, tôi tưởng là mình bẹp dí vì sức nặng của nó. Căn nhà có tường bao bọc chung quanh, có cổng lớn, bên trong là một khu vườn đầy các giống cây miền nhiệt đới, được trồng theo phong cách người Mễ, rất đẹp. Vì thế chúng tôi ở lại nơi đó, và tôi ghi tên học đại học. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi bước chân vào đại học. Chồng tôi đã có một bằng đại học, nhưng tôi thì chỉ có những kinh nghiệm sống. Tôi rất sung sướng được học hỏi những điều mới lạ. Tôi ghi tên học viết văn, lớp nhiếp ảnh báo chí, lịch sử, và dĩ nhiên là tiếng Tây Ban Nha. Đó là một ngôn ngữ tuyệt vời mà cho tới bây giờ tôi vẫn còn lưu loát. Tôi nhớ lại cha tôi đã rất biết nhìn xa, khi ở Thượng Hải, ông đã nói đánh máy là một khả năng không thể thiếu. Những điều tôi học ở đại học San Miguel de Allende cũng rất thực dụng. Tôi viết cho các tạp chí Mỹ về những nơi chốn tôi đã đi qua, cùng với những hình ảnh tôi đã chụp và cũng chính tôi tự rửa lấy. Jeff được gửi đi học ở một trường mẫu giáo của các bà sơ. Cậu bé không thích lắm vì đã quen tự do. Một ngày kia cháu đi học về với vẻ hớn hở lắm. Tôi hỏi cháu có việc gì mà hân hoan thế. Cháu đáp: "Có bà sơ chết, nên tụi con được nghỉ buổi chiều. Thích ghê". Nhưng lúc đó thời gian tạm trú ở San Miguel de Allende, thành phố bạc, cũng vừa chấm dứt. Sau hai năm sống ở một chỗ, chồng tôi cảm thấy đã đến lúc chúng tôi nên đi một nơi khác ở Trung Mỹ, rồi Nam Mỹ. Như thường lệ, tôi làm theo anh như một người vợ ngoan ngoãn. Tôi đang yên ổn với cuộc sống ở đây, mọi thứ đều còn rất hấp dẫn tôi. Nhưng tôi có bao giờ là người quyết định đâu. Khoảng thời gian đó, các xa lộ liên lục ở Châu Mỹ đang được xây dựng dang dở; có nhiều nơi vẫn chưa có cầu. Chúng tôi lái xe jeep trên xa lộ từ Mễ Tây Cơ đến Panama. Cứ vài kilo mét thì gặp một con sông. Lúc nào cũng như lúc nào, chừng vài thước trước khi đến một con sông, sẽ có tấm bảng gỗ ở giữa đường sơn chữ Desvio, có nghĩa là quay trở lại. Nhưng làm sao có đường để quay trở lại. Không còn cách nào khác hơn, chúng tôi đành lái bừa xe jeep qua sông. Có những con sông cạn, nhưng cũng có sông sâu, dòng nước cuộn xiết. Dĩ nhiên là tôi sợ chết đi được. Chỉ có Jeff là không sợ hãi gì cả, còn thích thú là khác. Nhưng có lần chúng tôi gặp nguy hiểm. Xe chúng tôi bị lút giữa dòng sông. Gerd phải lội bộ trở lại, tìm kiếm mấy người thợ làm đường, cho họ ít tiền để họ kéo chúng tôi lên bờ. Đó là lần duy nhất chúng tôi cầu cứu đến người khác. Còn tất cả chúng tôi chỉ dựa vào chính mình. Chúng tôi lại gặp động đất ở Costa Rica. Lúc đó chúng tôi đang ngủ ở môt quán trọ, bỗng phòng chúng tôi chao đảo. Tôi lôi Jeffrey ra khỏi giường, chạy biến ra ngoài cửa. Không có gì xảy ra, nhưng đó là lần đầu tiên tôi biết đến động đất. Thật là ghê rợn. Nhưng Jeff thì cứ ngủ như không có gì xảy ra. Ở El Salvador, tôi lại có được những kỷ niệm vui. Ở đó có nhiều thác nước đổ xuống những hồ nhỏ mà chúng tôi có thể tắm trong đó. Người dân ở đây ai cũng vui vẻ, tử tế với chúng tôi. Tôi kết bạn với một nhà truyền đạo Kitô giáo, và các nông dân gốc người da đỏ. Ở mỗi làng, chúng tôi đều ra chợ gặp gở, trò chuyện với những người da đỏ biết tiếng Tây Ban Nha. Chúng tôi tò mò muốn biết họ sống thế nào, vì chúng tôi cũng đang dự tính sống xa thế giới văn minh, hiện đại mà chúng tôi đã từng sống. Sau bốn tuần di chuyển vất vả, cuối cùng chúng tôi cũng đến được Panama. Có bao nhiêu thư từ –những liên hệ từ một thế giới khác, đang chờ chúng tôi ở bưu điện. Panama cách Nam Mỹ qua những cánh rừng Darien dày đặc không xe hơi nào có thể chạy qua. Cũng có những nhà thám hiểm vượt qua được, nhưng chúng tôi hoàn toàn bó tay. Tôi không biết bây giờ đã có đường đi xuyên qua đó chưa. Nhưng lúc đó, chúng tôi đành bỏ xe lại, lên máy bay đi Bogota, Columbia. Bogota là thủ đô có độ cao cao nhất thế giới: 2645 mét trên mực nước. Có lần tôi đang đi bộ xuống dốc, bỗng nhiên tôi thấy không thể thở đượ, trong khi sức khỏe tôi vẫn đang tốt. Rồi Gerd cũng có cảm giác như thế, dầu anh cũng rất mạnh khỏe. Đó là vì chúng tôi chưa quen với độ cao. Chỉ có Jeff là không bị ảnh hưởng gì về sự khác biệt khoảng vài ngàn thước ở độ cao. Cháu vẫn chạy nhảy như lệ thường. Từ Bogota, chúng tôi đi xe buýt xuống Quito, Ecuador. Xe buýt nêm chật người và gà. Đúng ra đây là xe bốn mươi chỗ ngồi, nhưng có ít nhất là tám mươi người trên xe. Người ta vừa ngồi, vừa ăn uống, tán chuyện, đám gà thì kêu cạc cạc. Các thứ nước sốt từ bánh mì đổ đầy xuống sàn, nhưng trên tất cả là bác tài lái xe như một người điên. Đúng ra tất cả các bác tài lái xe buýt ở Nam Mỹ đều như thế cả. Họ lái xe với tốc độ cao, lại không hoàn toàn chú tâm vào đó. Lúc nào thấy các phụ nữ trẻ đẹp ở các góc đường, họ đều quay đầu nhìn chăm chú. Lúc đó để ra vẻ đàn ông, họ còn nhấn thêm ga, làm cho mấy con dê, con ngỗng ở ven đường chạy tán loạn. Phải thú nhận rằng tôi không ưa thích kiểu lái xe như thế này. Nhưng tôi không dám nói gì, vì Gerd tỏ ra rất thích thú. Anh là người rất thích mạo hiểm. Khi anh thấy một ngọn núi cao, thì anh phải trèo lên. Còn tôi, thì thà ở dưới đất còn hơn. Giờ anh đã sáu mươi chín, nhưng cũng chẳng thay đổi gì. Vẫn còn đi trên những chuyến xe buýt như thế. Chúng tôi đến Quito bình an, là điều mà tôi cho là một phép mầu. Tôi hoàn toàn kiệt sức, người đầy bụi bậm, phân gà và sốt bánh mì. Chúng tôi mướn phòng, tắm rửa, và lần đầu tiền chúng tôi quyết định bỏ tiền đến một khách sạn sang trọng ăn tối. Nhưng nhân viên khách sạn từ chối không cho chúng tôi vào, vì Gerd không đeo cà vạt. Đó là điều làm tôi luôn nhớ đến mỗi khi nghĩ về Quito. -ooOoo- Chương 7 Thám Hiểm Nam Mỹ Từ ái, sinh lo âu Tôi rất xúc động khi đọc những lời Đức Phật dạy trong câu Kinh Pháp Cú trên. Nhưng khoảng thời gian mà tôi viết lại ở đây, là khoảng thời gian tôi vẫn còn là một thiếu phụ trẻ, còn chưa biết có những câu kinh như thế hiện hữu; mà dầu có biết, có lẽ tôi cũng không thể hiểu được ở thời điểm đó. "Những ai đã lìa xa ái" là nghĩa gì? Ngày nay, tôi hiểu câu đó không có nghĩa là ta không nên yêu thương ai. Chỉ có nghĩa là ta đừng bám víu vào những gì ta ưa thích, nhất là người ta thương đến độ ta luôn nghĩ suy, lo lắng về họ. Ở thời điểm đó, tôi còn đắm trong vòng luyến ái buộc ràng. Tôi luôn sống trong trạng thái lo lắng. Cuộc du hành của chúng tôi không có bảo hiểm hành lý, sức khỏe, vân vân như ngày nay người ta du lịch với tất cả mọi thứ đều được bảo hiểm. Chuyến đi của chúng tôi đầy bất trắc. Nhưng ngay trong những phút giây nguy kịch nhất, trong những giây phút ở giữa sống chết, tôi bỗng hiểu ra buông xả là gì. Có nghĩa là không bám víu, không cố gắng để làm chủ, để quyết định mọi việc gì có thể xảy ra. Có nghĩa là dầu có ta hay không, người thân của ta, sở hữu của ta vẫn tồn tại -cũng như ngược lại, tôi vẫn hiện hữu mà không cần có họ, không cần có những thứ sở hưũ đó. Tuy nhiên phải một thời gian lâu sau, ý niệm này mới thực sự thấm sâu vào nội tâm tôi, còn lúc đó nó chỉ mới tượng hình trong tôi. Giờ trở lại với Quito, trạm dừng chân đầu tiên của chúng tôi ở Nam Mỹ. Ở Quito, chúng tôi có nghe về một bộ lạc được gọi là Los Colorados, có nghĩa là "Bộ Lạc Sắc Màu". Đó là một bộ lạc nhỏ ở Eucador, rất nổi tiếng về cách trị bịnh bằng thảo dược. Bất chấp hiểm nguy, chúng tôi quyết phải tìm gặp bộ lạc Sắc Màu. Vì thế, dầu sợ hãi, chúng tôi vẫn một lần nữa, leo lên xe buýt đi về miền núi, nơi người ta bảo là chúng tôi sẽ được gặp những người trong bộ lạc đi chợ ở một làng nhỏ trong vùng. Chuyến đi này còn tệ hại hơn chuyến vừa rồi. Đường xá chật hẹp, chỉ vừa đủ cho một chiếc xe, lại vòng vèo, bên thì đồi núi cheo leo, bên là vực thẳm hun hút. Bác tài thì lái bất cần, luôn quay lại phía sau khi có tiếng trẻ con khóc, hay liếc nhìn lũ chim bay ngoài khung cửa. Phải mất ba tiếng rưỡi mới đến nơi. Tôi cứ thầm lo lắng, việc gì sẽ xảy ra nếu có một chiếc xe chạy ngược chiều đến. May mắn thay, suốt chuyến đi đã không có chuyện đó xảy ra. Cuối cùng chúng tôi đặt chân đến một thành phố nhỏ gọi là Ciudad de Colorados, thành phố Colorados. Và đúng như lời đồn, chúng tôi thấy ngay những "bộ quần áo" sặc sỡ trong chợ. Họ không mặc gì phía trên, kể cả phụ nữ, nhưng người họ đầy những lằn sơn màu xanh. Họ quấn củn, đàn ông củn ngắn, đàn bà thì dài hơn, vẽ đầy những sọc màu xanh. Đầu họ đội những chiếc mũ nhỏ, màu đỏ rực. Chúng tôi bắt chuyện với hai người trong nhóm họ. Tôi hỏi người cao tuổi, nón họ làm bằng gì, tôi không thể đoán được vì màu sắc quá chói chang. "Nón gì?", anh ta hỏi lại. Thì ra đó là tóc họ. Và đó là màu sắc đặc biệt của bộ lạc Sắc Màu. Họ dùng một loại dâu có màu đỏ chà sát vào tóc cho đến khi nó trở nên dầy cứng, sau đó vuốt tóc thành như những cái nón. Đàn ông đã có gia đình thì chỉ để tóc như thế. Thanh niên thì buộc thêm những sợi dây vải trên đó, để mọi người -nhất là phụ nữ- biết họ còn chưa có ai. Tôi hỏi thêm bao lâu thì họ phải làm những kiểu đầu như thế. Chỉ nữa năm họ mới phải làm một lần, cũng thực dụng đó chứ. Chúng tôi chụp hình họ với Jeff. Sau đó, họ mời chúng tôi theo về bộ lạc. Chúng tôi đi trên những chiếc xe ngựa nhỏ. Đường xá hơi dằn xóc, nhưng cũng còn dễ chịu hơn đi trên xe buýt. Bộ lạc Sắc Màu là một bộ tộc da đỏ sắp bị diệt chủng. Lúc đó, chỉ còn khoảng năm trăm người, tất cả sống trong ngôi làng này và vùng lân cận. Họ hái những thứ cây lá họ đã quen dùng từ thuở xa xưa để làm thuốc. Những người trẻ tuổi thì bỏ về sống ở thành thị. Họ không muốn trở thành các thầy thuốc lá cây như tổ tiên họ, nhưng muốn trở thành các bác sĩ tân tiến ở thành thị. Họ muốn làm ra tiền, và cũng không muốn phải đội cái đầu đỏ, với dây nhợ luồm thuồm đi khắp nơi. Chúng tôi được dân trong bộ lạc tiếp đãi rất tử tế. Họ sống trong những căn nhà sàn làm bằng cây gỗ rất đẹp. Khoảng trống phía dưới nhà, treo đầy các loại dị thảo. Họ có tên gọi cho mỗi loại, nhưng vì bất đồng ngôn ngữ, nên chúng tôi cũng không học hỏi được gì từ những kiến thức kỳ bí của họ về các loài cây. Có lẽ ngày nay các kiến thức đó cũng đã mai một. Vì người trưởng lảo nói với chúng tôi, thanh niên trai trẻ bây giờ muốn thay đổi cách sống. Họ mặc quần jeans - lúc đó đang rất hiếm, chứ không phải là những chiếc váy có sọc xanh của bộ lạc Sắc Màu. Mua được một chiếc quần jeans, người ta có thể mua hết nửa ngôi làng. Họ mời chúng tôi dùng bữa. Trước mặt chúng tôi là đủ loại trái cây bắt mắt. Những quả đu đủ, bên trong có màu đỏ như máu, mà tôi chưa bao giờ thấy. Rồi còn có loại chuối đỏ và cơm hấp với rau cải. Họ nuôi gà để ăn trứng. Chỉ đến khi gà thật già, mới bị làm thịt. Bộ lạc Sắc Màu không sống nhờ vào săn bắn. Đây là một bộ lạc nhỏ bé hiền hòa. Lần viếng thăm đó để lại nhiều ấn tượng sâu xa đối với tôi. Tôi như còn thấy trước mắt tôi người đàn bà ngồi nướng chuối cho chúng tôi bên lò than hồng. Giờ này họ đã ra sao rồi? Thật là buồn khi nghĩ đến những thay đổi dân tộc họ phải trải qua. Có lẽ ngôi làng nhỏ với những dãy nhà sàn không còn nữa. Có lẽ không còn ai đi hái lá cây về làm thuốc nữa. Từ Quito, chúng tôi đáp máy bay để đến một địa danh khác, Lima. Tôi không thể nào có can đảm tiếp tục cuộc hành trình trên xe buýt nữa. Dầu phải hết sức tiết kiệm, nhưng mặc, tôi cần phải lấy lại sức, tôi cần phải được ngồi trên máy bay một lần nữa. Đến Lima, chúng tôi thuê phòng ở một khách sạn rẻ tiền, vì chỗ ở của chúng tôi trên xe jeep, đã không còn nữa, chúng tôi đã bỏ nó lại ở Panama. Trong những tuần sau đó, tôi bắt gặp mình hay nhớ về chiếc xe jeep đó. Chúng tôi đã ngủ bao đêm êm ấm trên đó, nó đã gan lì chở chúng tôi qua bao con sông. Nhưng tất cả những gì chúng tôi đã trải qua chỉ là chuyện nhỏ so với những gì đang chờ đợi chúng tôi ở phía trước. Từ Lima, chúng tôi muốn đi đến vùng Amazon. Muốn vậy, chúng tôi lại phải lấy xe buýt để đến Andes. Khi chúng tôi trèo lên chiếc xe lung lay –như được buộc lại với nhau bằng những sợi dây thun- chúng tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả các hành khách người bản xứ ai cũng mang theo nhiều lát chanh, mà chốc chốc họ lại lấy ra bỏ vào miệng ngậm. Lúc mà chúng tôi hiểu được giá trị của những miếng chanh đó thì đã quá trễ. Chiếc xe buýt đã gầm rú leo lên đồi ở độ cao 4.700 mét. Ở độ cao đó, bạn sẽ bị say sóng: đó là, bạn bắt đầu thấy nhức đầu, muốn ói. Dân bản xứ đã biết ăn chanh sẽ chặn được những triệu chứng đó không xảy ra. Chúng tôi cũng mua lại được một ít chanh, nhưng đến lúc đó thì chúng tôi đã quá say sóng, có chanh cũng không ích lợi gì. Tất cả hành khách đều mệt lử khi xe lên đến đỉnh cao nhất. Bác tài quyết định dừng lại cho chúng tôi nghỉ vài phút. Dân bản xứ bày gà và bánh mì ra ăn. Sau đó, chúng tôi xuống núi đến Pucallpa. Trên bản đồ, Pucallpa là một thành phố, nhưng đến nơi, đó chỉ là một ngôi làng nghèo, đông dân bên dòng sông Úcayali. Úcayali chảy ra nhập vào với sông Maranon để tạo thành vùng tam giác Amazon. Chúng tôi muốn đi dọc theo dòng sông, xuống đến Amazon. Có một chuyến tàu chạy bằng hơi xuôi dòng xuống đó trong thời gian một tuần. Đó là chiếc tàu có những bánh lái quay, chiếc tàu duy nhất còn xuôi ngược trên dòng Úcayali. Tàu chạy bằng than đốt, và một bánh lái to bằng gỗ quay chậm chạp. Chúng tôi đặt một phòng trên chiếc tàu cổ xưa này. Cuộc hành trình trên sông không hoàn toàn êm ái. Tàu phải cập bờ mỗi ngày để lấy thêm than. Trên tàu có một phòng tắm cho khách, nhưng không sử dụng được vì người ta nhốt các chú rùa trong đó, để mỗi ngày luộc một con làm bữa ăn cho khách. Các chú rùa cần nước, vì thế chúng chiếm đóng phòng tắm. Ngoài thịt rùa, những thức ăn được dọn lên cho chúng tôi mỗi ngày là những món dở nhất mà tôi được nếm qua. May mắn là chúng tôi có mang theo ít thức ăn, chỉ có chuối là khá ngon. Nhưng có lẽ cái khổ nhất vẫn là nước. Người đầu bếp múc nước từ dưới sông Úcayali lên nấu. Từ con sông mà dân ở hai bên bờ và trên các tàu vẫn phóng uế xuống đó. Chúng tôi phải nấu trà bằng nước đó. Vì thế Jeffrey bị bịnh gấn chết. Cũng may tôi có mang theo ít thuốc trụ sinh. Không có thuốc, chắc là cháu đã chết. Kể từ đó, chúng tôi không dám uống ngụm trà nào mà không bỏ vào bình trà ít viên thuốc tẩy trùng, mà tôi đã mang theo trong túi thuốc du lịch của mình. Một lần khi Gerd sắp xuống sông tắm. Mọi người la lên: "Piranhas, Piranhas!" Đó là những con cá nhỏ với những chiếc răng bén như lưỡi dao lam, thường đi từng đoàn cả trăm con một lúc. Kẻ nào không may gặp chúng thì sẽ trở thành bộ xương chỉ trong vài phút sau. May mà Gerd đã nhanh chân trèo dây trở lên thuyền. Khi tàu vào lấy than, chúng tôi cũng lên bờ, ngắm những ngôi làng nghèo nàn ở quanh đó. Sự nghèo khổ không thể diễn tả được trùm phủ khắp nơi này. Trái ngược với cảnh quan thiên nhiên tuyệt vời ở đây, bạn chỉ nhìn thấy sự dơ dáy bẩn thỉu, bịnh hoạn và suy dinh dưỡng. Rồi một buổi sáng kia, cánh quay của tàu bị mắc cạn trong cát. Chúng tôi vừa qua khỏi chỗ giáp của hai con sông Maranon và Uyacali để tạo thành vùng Amazon. Lý do là vì lão thuyền trưởng say rượu như mọi ngày, nên mới ra cớ sự. Lúc đó có cá Piranhas hay không, mọi người đều phải nhảy xuống nước để đẩy tàu ra khỏi chỗ mắc cạn. Nhưng hoài công. Tai nạn của chúng tôi được loan truyền nhanh chóng đến dân ngụ cư dọc theo hai bên bờ sông như pháo nổ. Những chiếc ghe nhỏ bắt đầu đổ ra từ mọi phía. Hành khách, sau khi thấy không còn hy vọng gì, bèn lần lượt trèo lên những chiếc ghe nhỏ này. Họ không cần biết sẽ được chở tới đâu, miễn là ra khỏi nơi này. Chúng tôi hơi do dự, nhưng rồi sau cũng phải trèo lên một chiếc ghe nhỏ tí teo, và được chèo đến một làng không có tên trên bản đồ gọi là Orellana. Cuối cùng chúng tôi phải ở lại làng Orellana, trong khu vực Amazon, đến bốn tuần. Tôi đã viết một bài báo về biến cố này cho một tờ báo Mỹ, kèm theo các bức ảnh trong đó tôi thường mặc cái váy Mễ, với áo trắng. Vì ngoài cái quần nhung đen, đó là tất cả quần áo tôi có. Tôi cứ phải luôn giặt giũ chúng, vì không có cách gì tôi có thể mang thêm quần áo trong cái túi đeo lưng nhỏ. Bài báo được đăng dưới tựa đề: "Trăng trên dòng Úcayali". Không thể gọi Orellana là một thị xã với vỏn vẹn khoảng hai mươi nhà và một nhà thờ. Chỉ có hai người đàn ông có quyền hành ở đây: đó là nhà truyền giáo người Tây Ban Nha và ông chủ hãng máy cưa gỗ. Ông chủ hãng máy cưa rất giàu; ông có cả xe hơi. Ông nói với chúng tôi ông là người Do Thái và con trai ông đang du học ở Glasgow. Ông ta có thể nói được tiếng Anh. Thật là một cuộc gặp gỡ hi hữu ở góc trời xa vắng này. Ở Orellana không có nhà trọ để lữ khách ở qua đêm, nên ông chủ máy cưa phải dọn dẹp một nhà kho trống thành chỗ ở cho chúng tôi. Ông còn cho chúng tôi muốn xài bao nhiêu gỗ tùy ý. Gerd biến những miếng ván thành một chiếc giường ngủ. Nhờ mấy cái túi ngủ, chúng tôi trải lên giường thành một chỗ nằm êm ái. Vì nhà chứa không có cửa sổ, nên lúc nào chúng tôi cũng phải để cửa cái mở toang. Hẳn là người ta đồn nhau có mấy người ngoại quốc sống ở đây. Nên lũ trẻ trong làng -tôi nghĩ có lẽ là khoảng bốn mươi tất cả- kéo đến đứng suốt ngày ở cửa để xem chúng tôi làm gì. Điều đó không dễ chịu chút nào; chúng tôi hoàn toàn không có chút riêng tư gì. Sau chúng tôi khám phá ra có một tiệm ăn ở Orellana nấu ăn cũng tạm được, nên chúng tôi đều đến đó mỗi ngày để ăn cá -phải có gì bỏ vào bụng thôi. Cá ở đây vừa được bắt lên từ sông nên rất tươi, rất ngon. Chúng tôi cũng được quen với vị truyền giáo. Ông hay dẫn chúng tôi vào các khu rừng tìm những con bướm to mà tôi chưa thấy ở nơi nào khác. Cánh của chúng có đến nửa thước, với nhiều màu sắc rực rỡ. Ở đó cũng có rắn đủ loại -nhỏ, to, đủ màu sắc. Dĩ nhiên là chúng tôi không bao giờ dám đến gần chúng. Vị truyền giáo còn nói cho chúng tôi biết là đi sâu hơn nữa vào rừng có những bộ lạc chuyên săn đầu người. Cứ một vài năm họ lại đi gây chiến với các bộ lạc khác, rồi cắt đầu những kẻ bại trận, đem phơi khô. Khi thấy tôi kinh hãi quá, ông vội trấn an rằng nhưng cũng phải còn lâu lắm họ mới trở lại, vì họ vừa kết thúc một cuộc gây chiến gần đây. Có lẽ ông chỉ nói vậy để xoa dịu nỗi sợ hãi của tôi thôi. Sau đó, chúng tôi lại thấy các đầu người phơi khô bày bán trong các tiệm bán đồ lưu niệm ở các thành phố ở Amazon. Chúng nhỏ bằng kích cở một trái táo, nhưng mặt người thật có mắt, có tóc. Và bán với giá cắt cổ. Những thứ đó thì chẳng bao giờ chúng tôi đụng tới. Mỗi ngày đều có tin là chuyến tàu của chúng tôi lại bắt đầu xuôi dòng xuống cuối nguồn sông. Nhưng điều đó đã chẳng bao giờ xảy ra. Rồi lại có tin một chiếc tàu lớn sẽ đến giúp chúng tôi. Chiếc tàu đó có đến thực, nhưng nó chẳng dừng lại cho chúng tôi lên. Cuối cùng chúng tôi biết là nếu cứ chờ đợi, chúng tôi sẽ không đi đến đâu cả. Phải tự lo cho mình thôi. Chúng tôi đành phải mướn một chiếc thuyền nhỏ, bằng cây, chạy bằng motor, phiá trên có che mái tôn. Ít nhất chúng tôi có thể ngồi trốn cái nắng chết người ở dưới mái tôn đó. Chúng tôi dự định đến Iquitos, là một thành phố lớn gần đó, dọc theo bờ sông. Amazon không phải là một con sông hiền hòa, êm ái. Mỗi lần phải lướt qua những con sóng cao trên chiếc thuyền làm bằng thân cây này là tôi không thể không thấy lo sợ. Tôi lo sợ nhất là cho Jeff. Cũng may là cậu bé chỉ mãi chơi đùa, vọc nước tìm cá. Không giống như tôi, cậu bé tận hưởng thú vui trên sông nước. Mỗi khi chiều đến, chúng tôi phải lên bờ để ngủ, vì thuyền nhỏ quá. Lúc nào cũng giống nhau: phải kéo thuyền lên bờ, sợ nó trôi dạt theo sóng; vào sâu trong đất liền xa đám bùn ở bến sông; rồi đốt lửa để vừa sưởi ấm vừa đuổi những con muỗi to bằng con ruồi, lại là nguồn gây bịnh dịch. Lúc nào cũng có các loại cây trôi dạt tấp vào bờ quanh đó để chúng tôi dùng đốt lửa. Và người chủ tàu rất giỏi dắn -anh ta có thể nhóm lửa cả với các thứ ẩm ướt đó. Khi nao còn lửa, thì muỗi còn tránh ra xa. Nhưng lúc chúng tôi gục ngủ, lửa lại tàn, thì đó là lúc chúng bắt đầu tấn công. Vì thế không phải là chúng tôi được yên ổn vào ban đêm. Ban ngày, chúng tôi thường phải ngừng đâu đó để mua đồ ăn. Đó cũng là một vấn đề, vì người dân quanh đó còn không có gì để ăn. Họ cũng muốn lấy được tiền của chúng tôi lắm, nhưng thường họ không có gì để bán. Chỉ vài trái chuối hay đu đủ. Một lần duy nhất chúng tôi gặp được một lò nướng bánh mì thực sự có bánh mì. Nhưng không hiểu sao, chúng tôi cũng chưa bị đói bao giờ. Sau một tuần, chúng tôi đặt chân đến Iquitos. Điều đầu tiên đập vào mắt chúng tôi khi vừa chui ra khỏi thuyền là một người đàn ông đang dắt dây một con vật gì đó. Một con vật chúng tôi chưa thấy bao giờ, có lông xù, và mũi dài quắm. Thực ra nó giống như một con chuột xù, mà sau này tra cứu tự điển bách khoa, tôi biết chúng thường sống ở các vùng nhiệt đới của Nam Mỹ. Nhiệt đới cũng không phải là từ chính xác đễ diễn tả cái nóng như điên dại ở Iquitos. Chúng tôi trả tiền người chủ thuyền, rồi lê mình, cùng đồ đạc đến một khách sạn nhỏ, rẻ tiền có tên là khách sạn Peru. "Hãy nhìn kìa", tôi nói với Jeff khi lần đầu tiên sau bốn tuần lễ, chúng tôi mới đặt chân đến một nơi có những điều kiện khá văn minh, "khách sạn này mang tên xứ sở chúng ta vừa đặt chân đến đấy". Nhưng trước khi đi tìm nhà hàng để ăn, chúng tôi chạy ngay đến bưu điện để gửi cho mẹ tôi và Irene một cái điện tín. Họ đã bặt tin chúng tôi quá lâu rồi, chắc là họ cũng đang rất lo âu. Đó là một bưu điện rất cổ xưa với các quầy tiếp khách bằng gỗ rất cao, làm một người không cao lắm như tôi phải vất vả lắm mới với tới được. Khi tôi quay ra, thì Jeff biến đâu mất. Gerd ở phòng bên đang gửi mấy cái thư chúng tôi đã viết từ lâu, cũng không thấy cậu bé. Ngoài hành lang của bưu điện cũng không có bóng cậu bé. Nó đã biến mất như thể đã chui trốn xuống đất. Những giờ sau đó là một cơn ác mộng dài đối với chúng tôi. Chúng tôi chạy khắp phố trong cái nóng không tưởng được, hỏi thăm tất cả mọi người có ai thấy một cậu bé người châu Au. Không có ai thấy cả. Tất cả mọi con đường ở Iquitos đều tận cùng bằng bìa rừng như thể đó là bức tường bao bọc, nhưng ở phía sau bìa rừng là rắn rít và những con thú hoang dại khác. Tôi gần như sắp ngã gục vì sợ hãi. Gerd chạy báo cảnh sát rằng chúng tôi đã lạc mất con. Người cảnh sát hỏi: "Bao nhiêu tuổi?", "Năm tuổi", Gerd trả lời. Viên cảnh sát nói, vừa cạo đất trong móng tay, "Không, tôi hỏi anh, anh bao nhiêu tuổi?" Quá chán nản, chúng tôi bỏ mặc viên cảnh sát ngồi đó, chạy trở lại khách sạn. Và kìa Jeffrey đang ngồi trên ghế sofa trong phòng tiếp tân của khách sạn. Cậu bé hỏi chúng tôi đầy trách móc: "Mẹ, hai người biến đâu mất từ nãy giờ?" Cậu bé đã ngồi đó gần bốn tiếng đồng hồ, mà cũng không nói với nhân viên khách sạn rằng đã lạc cha mẹ. Thì ra khi không thể tìm được chúng tôi ở bưu điện, cậu bé đã nhờ người qua đường dẫn đến khách sạn có tên giống như xứ sở chúng tôi đang có mặt. Giờ nhắc đến chuyện đó, Jeff không còn nhớ gì, nhưng tôi, thì tôi vẫn nhớ như in từng giây phút đó. "Do ái sinh lo lắng, do ái sinh sợ hãi". Tôi nghĩ là từ ngày đó, những lời Phật dạy đã có trong tôi -nhưng do vô minh mà không nhận ra. Chúng tôi ở lại Iquitos lâu hơn dự định. Một người thợ hớt tóc, vừa là thợ nhồi các con thú, đã hớt tóc cho Gerd. Trong 'xưởng' của anh ta có một con rắn còn sống, mà anh ta rất hãnh diện đem khoe với Gerd. Anh ta nói, khi nào có thì giờ anh ta sẽ làm thịt nó, rồi nhồi xác. Đây là một loại rắn lớn nhất Nam Mỹ, được gọi là anaconda. Có con dài đến sáu thước, thân to đến khoảng hơn nửa thước. Có màu da rất đẹp Trên lưng màu xanh nhạt và đen, hai bên sườn lốm đốm những chấm vàng đậm lợt. Gerd cảm thấy xót xa cho con vật. Nhưng rồi anh nghĩ, nếu nó không chỉ ăn các sinh vật nhỏ bé, mà còn ăn cả thịt người thì sao. Nhưng đối với người thợ hớt tóc thì không có gì phải nghĩ ngợi về con rắn này cả. Từ Iquitos, chúng tôi bay trở về Lima. Đáng lý ra chúng tôi cũng có thể lên tàu khác đi tiếp -chuyến đi dự định trong hai tuần lễ- nhưng sau kinh nghiệm ờ vùng Amazon, chúng tôi không có can đảm tiếp tục cuộc hành trình. Ai biết rồi chiếc tàu chạy bằng hơi này sẽ lại bị mắc cạn ở đâu nữa? Từ Lima, chúng tôi lại bay sang La Paz ở Bolivia, rồi từ đó qua Brazil, chứ không dừng lại ở Argentina. Ở Brazil, tôi có một ít bà con, nên ghé qua thăm họ. Họ quá đổi kinh ngạc khi gặp lại tôi, vì họ tưởng tôi đã chết ở Đức hồi ấy. Ở Brazil, người ta nói tiếng Portuguese. Từ lâu, tôi vẫn tưởng tiếng Portuguese và tiếng Tây Ban Nha, không mấy khác biệt đến nỗi có thể gây khó khăn cho chúng tôi. Nhưng giờ tôi mới thấy mình hoàn toàn không hiểu một chữ tiếng Portuguese, mà cũng không có ai biết nói tiếng Anh. Tình thế cũng khá gay go. Nhưng dầu gì chúng tôi cũng đã ở Rio, và muốn đi thăm Sugarloaf. Ở bãi biển Copacabana, chúng tôi mua cho Jeff một con diều thật to, chú bé thích chí cầm diều chạy qua chạy lại trên bãi biển. Từ đó chúng tôi đi qua Sao Paulo, định là sau đó sẽ đến Brasilia. Đó là thủ đô mới của Brazil, vừa tạo lập xong từ một khu rừng già, hứa hẹn có nhiều điều đáng xem. Nhưng trước khi đi, chúng tôi ghé qua Đại sứ quán Mỹ để nhận thư. Ở đó, người ta khuyên chúng tôi nên trở về càng sớm càng tốt vì một cuộc cách mạng vừa nổ ra ở Brazil. Nhưng vì không rành ngôn ngữ, chúng tôi không hề biết điều đó. Vì thế sau đó, chúng tôi tiếp tục bay trở lại Panama, nơi chúng tôi đã bỏ chiếc xe jeep lại. Chỗ dừng chân kế tiếp của chúng tôi là c. Trước đó khá lâu, chúng tôi đã mua vé cho cuộc hành trình trên chuyến tàu Pacific & Orient Line (Thái Bình Dương & Đông Dương). Lúc ấy, chính phu c cũng muốn tạo mọi dễ dãi cho khách du lịch, vì họ muốn chiêu dụ người di dân đến xứ họ, nên đã trả mọi chi phí cho chuyến đi, kể cả tiền chuyên chở xe cho chúng tôi. Tôi chỉ phải trả thêm có mười pounds (tiền Anh). Đó là tình trạng lúc bấy giờ, vì bao nhiêu nhân mạng đã mất đi trong thế chiến thứ II. Hiện nay thì rất khó cho người di dân đến được Úc. Châu Au hay Mỹ. Tôi có thật sự muốn sống ở không? Lúc đó, tôi nghĩ tại sao không. Nơi nào lại không thể là nhà. Vậy thì không có lý do gì để không đến Úc? Thật ra, chúng tôi cũng đã dự tính mua một nông trại nào đó, ở một nơi nào đó, để có thể sống tự túc ở vùng quê. Chuyến đi thật tuyệt vời. Tôi lên năm kí lô vì ăn quá nhiều. Trên tàu thì đủ cả: hồ bơi, phòng giải trí, phòng đọc sách, nhà hát -mọi tiện nghi mà bạn có thể nghĩ ra. Dĩ nhiên là chúng tôi chỉ đặt chỗ khách du lịch bình thường, nhưng sau những tuần lễ gian khổ vừa trải qua, chúng tôi có cảm giác như mình đang sống một cuộc sống của tầng lớp thượng lưu. Có lúc tàu dừng lại ở Tahiti hai ngày. Thật là một chỗ tuyệt vời trên mặt đất mà tôi được đặt chân đến. Ở mỗi góc đường, đều có những người lịch sự, đẹp , đeo vòng hoa, chơi guitar. Không khí thoáng mát, sạch sẽ. Tôi nghĩ là thiên đàng cũng chỉ đến như thế này. Tôi nghĩ đến họa sĩ Gauguin, người đã tìm kiếm và gặp được thiên đàng ở đây. Dầu vậy, ông đã không tìm được hạnh phúc trong cuộc đời. Tôi cũng mong được ở lại Tahiti, nhưng chắc không được rồi. Vì đảo Tahiti là thuộc địa của Pháp, mà người Pháp không sẵn lòng mở cửa đón khách như người Úc. Bến đổ kế tiếp là Auckland ở Tân Tây Lan. Vì người ta báo cho chúng tôi là tàu phải được tu sửa vài ngày, chúng tôi quyết định mướn xe đi tiếp. Như thế cũng là dịp để chúng tôi thăm viếng Tân Tây Lan. Chúng tôi đi qua đảo South Sea (Biển Nam) xanh rờn, phần lớn người dân ở đây là dân da trắng, rất hiếu khách, thẳng thắng và rất gắn bó với mảnh đất họ đang sinh sống. Người ta nói ba triệu dân ở đây được nuôi sống nhờ vào da của ba mươi triệu con cừu. Chúng tôi cũng viếng trại định cư Maoris của bộ lạc da đỏ ở Tân Tây Lan. Họ cũng được đối xử như những người da trắng ở đây, mà không hề bị một sự áp bức nào. Có lẽ nhờ thế mà không khí ở Tân Tây Lan đầy bình yên. Trên mỗi nhà đều được trang hoàng bằng những nét chạm trổ, và những vũ điệu dân gian tưng bừng khắp nơi. Nhưng có lẽ nét quyến rủ nhất của Tân Tây Lan là các hồ. Nước hồ khi xanh dương, lúc xanh lục, hay đen tùy theo đặc tính của vùng đất. Có rất nhiều suối nước nóng, tỏa hơi trên mặt nước. Nổi tiếng nhất là những suối nước nóng chữa được bịnh ở Roturua, mở cửa cho mọi người. Gần như không có nơi nào ở Tân Tây Lan không có nước. Hầu như tất cả các khách sạn đều có những con suối riêng. Nước từ các con suối này đôi khi rất nóng, đến độ người ta phải làm các hàng rào để du khách không đến gần, có thể bị phỏng. Nhiều nơi nước và hơi nước phún lên cao như những ngọn núi lửa. Thời xa xưa, dân Maoris dùng các loại nước này để nấu ăn. Đến Wellington, chúng tôi bắt kịp tàu. Lần này khi đặt chân đến Sydney, chúng tôi có đủ cả hành lý, và cả chiếc xe jeep cũng được chuyển đến. Ngay lập tức tôi đã cảm thấy an ổn ở lục địa mới này, vì chúng tôi có đủ mọi trang bị. Giờ tôi không còn phải mỗi ngày giặt áo quần để ngày hôm sau có mà mặc. Ban đầu chúng tôi được ăn ở miễn phí trong một trại tập trung. Thật là một sự tiếp đón nồng hậu. Nhưng chúng tôi đâu có muốn ở lại Sydney, mà muốn tìm một vùng quê nào đó. Vì thế chúng tôi lại lên xe jeep, cũng là nhà của chúng tôi, để tiếp tục đi sâu vào Úc châu. Chúng tôi lái xe dọc theo bãi biển về hướng đông với những bãi biển trắng xoá tuyết, không bóng người. Sau đó chúng tôi đi về phiá tây trong đất liền. Đây là vùng đất sa mạc. Không có bóng người, thỉnh thoảng chỉ thấy vài con thú hoang. Có lần chúng tôi đụng độ với cả một bầy ngựa hoang. Ngoài ra thỉnh thoảng cũng có vài con kangaroos và những chú két có lông màu sắc rực rỡ. Đó là vào tháng mười một. Và tháng này ở Úc nóng như thiêu đốt. Sau ba tuần ở trong cái nóng đó, tôi hết chịu đựng nỗi. Cuối cùng, chúng tôi dừng chân tạm nghỉ vài ngày ở gần suối Alice, trong một phòng trọ có máy lạnh. Ai biết về Úc châu, cũng biết đó là một cuộc hành trình đầy gian nan. Cần phải có sự chuẩn bị kỹ càng, vì nước và xăng không phải dễ dàng có. Chúng tôi bắt đầu tìm kiếm một 'chỗ ở' trong xứ sở rộng lớn đó. Có nơi, một miếng đất, có thể lớn bằng cả tiểu bang Texas. Trẻ con được giáo dục qua phương tiện truyền thanh. Chúng tôi lái xe vào một trại tập trung của người dân tộc, những người dân chính gốc của Úc. Họ sống hai cuộc đời, nửa theo những phong tục cổ truyền của họ, nửa theo những quy luật của người da trắng tại đây. Nhiều người kiếm sống bằng cách bán đồ lưu niệm cho du khách: những đồ chạm trổ bằng tay, các hình tượng. Chúng tôi mua giúp họ, mỗi thứ giá hai 'bob', khoảng bằng hai xu Anh, dù rằng trị giá tiền tệ đó, không còn hiện hữu. Chúng tôi lại lên xe xuyên qua xa lộ Stuart từ Darwin, thành phố tận cùng ở phía bắc, đến Adelaide. Khi trở về đến Sydney, chúng tôi đã chọn được địa điểm để định cư. Vùng đất chúng tôi thích nhất là ở miền nam của Queensland, khoảng một giờ lái xe từ bắc thủ đô Brisbane, trong vùng Nambour. Lúc đó, nơi này chỉ là một thành phố nhỏ, giờ đã phát triển thành một thành phố lớn. Đây là nơi chúng tôi muốn tìm mua một nông trại. Nhưng mọi việc đã xảy ra không như dự định, cũng như tất cả những biến cố xảy ra trong đời tôi. -ooOoo- Chương 8 Trên Đảo IndusNếu gặp được người chỉ rõ lỗi mình Ở Sydney, một bức điện tín đang chờ đợi chúng tôi. Bức điện tín từ công ty cũ của Gerd nơi trước đó anh là kỹ sư điện của họ. Công ty mời anh hợp đồng làm việc trong hai năm ở Pakistan. Về lương bỗng, chúng tôi được trả rất hậu hĩnh. Nhưng còn công việc thì quả là gian nan. Người ta cần xây một nhà máy điện trên sông Indus, nơi hiện có một máy đập nước. Chúng tôi quyết định chấp nhận hợp đồng một cách nhanh chóng. Công trình này nằm trong kế hoạch Colombo, một kế hoạch phát triển đã được nhiều nước phát triển ký ở Colombo, thủ đô của Sri Lanka. Các nước này cam kết sẽ thực hiện các dự án công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển, và họ sẽ tài trợ mọi thứ, từ nhân lực đến tài nguyên. Nhà máy điện ở Indus là một trong những loại công trình này, do Canada tài trợ. Trước khi khởi hành, chúng tôi phải trình bày sự việc với đại diện chính quyền Úc về việc họ đã tài trợ cho chuyến đi của chúng tôi đến Úc, nhưng giờ chúng tôi phải đi Pakistan trong hai năm. Các nhà đại diện tỏ ra rất hợp tác. Họ chỉ yêu cầu chúng tôi bỏ số tiền tài trợ đó vào một ngân hàng. Trong hai năm, khi chúng tôi trở lại, thì có quyền lấy số tiền đó ra. Và mọi chuyện đã xảy đúng ra như thế. Dầu rằng phải năm năm sau, chúng tôi mới trở lại Úc, nhưng vẫn được lấy tiền ở ngân hàng trở lại. Chính quyền Úc lúc đó tỏ ra rất trọng đãi những người như chúng tôi: một kỹ sư điện, với một vợ và một con có thể khiến họ tin tưởng rằng chúng tôi khó thể bị hoàn cảnh khó khăn nhấn chìm. Chúng tôi không phải là những người du lịch hiểu theo nghĩa bình thường. Người du lịch sẽ quay trở về nhà, sau một thời gian nào đó. Trong khi chúng tôi là những kẻ lang thang cùng khắp trái đất, những kẻ không nhà. Chúng tôi đặt vé máy bay đi từ Úc đến Pakistan (vé do công ty của Gerd đài thọ), có ghé ngang qua Do Thái. Gerd đã từng sống một thời gian ở Do Thái, nói lưu loát tiếng Hebrew, trước là một sĩ quan trong quân đội Do Thái, lại còn có rất nhiều ba con thân quyến ở đây. Rõ ràng là có quá nhiều lý do để chúng tôi phải ở lưu lại nơi đó vài tuần. Ở Do Thái, bao nhiêu nơi chốn trong kinh thánh lại trở thành hiện thực đối với tôi. Tôi cảm thấy như lại được tiếp xúc với truyền thống, nguồn gốc Do Thái của mình. Nói về khảo cổ học, Do Thái đúng là một kho tàng cổ báu. Mọi thứ đều gợi lên trong mắt du khách quá khứ đáng tự hào của xứ sở Do Thái. Sau đó, chúng tôi bay đến Karachi. Pakistan chào đón chúng tôi bằng thời tiết nóng không tưởng được. Thành phố Sukkur, ở Sindh, nơi chúng tôi lái xe đến đầu tiên sau khi rời Karachi, nằm giữa sa mạc Sindhi. Lúc đó, Sukkur có khoảng trăm ngàn dân, nhưng đó không phải là một thành phố bình thường như chúng tôi tưởng; đó chỉ là một tổng hợp của những ngôi nhà xây trong một biển bụi cát. Điểm nóng nhất trên thế giới chỉ cách đây khoảng ba mươi dặm, ở sa mạc Sahara. Từ Sukkur, chúng tôi lái xe đến nơi nhận việc của Gerd, bên dòng sông Indus. Đến nơi, chúng tôi mới biết không có chỗ cho chúng tôi ở. Chỉ có công ty của Gerd là sung sướng khi có một người như anh sẵn sàng chịu nhận làm việc ở một nơi xa xôi như thế này. Bấy giờ không có nhiều kỹ sư chấp nhận những điều kiện như thế. Vì phần đông nếu có vợ con phải lo chỗ ở, nơi học hành đàng hoàng cho con cái họ. Dầu vui mừng đón tiếp chúng tôi, nhưng công ty hình như chẳng có chuẩn bị gì cho đời sống của chúng tôi ở đây. Một bạn đồng nghiệp tương lai của Gerd cũng vừa đến trước chúng tôi ít lâu, nhưng anh không có gia đình. Anh chỉ mướn một căn phòng nhỏ để ở. Vì thế anh cũng chẳng giúp gì được cho chúng tôi, ngoài lời khuyên chịu khó kiếm tìm. Chúng tôi đành phải tự đi tìm, may thay gặp được một nhóm kỹ sư Anh vừa sửa chữa xong một cây cầu bắc ngang sông Indus, và chuẩn bị trở về nước. Họ có hai dãy nhà dài trên một đảo trên sông Indus, tất cả đều là phòng đơn. Chỗ ở khá xa xôi, bất tiện. Nhưng họ vui lòng để lại cho chúng tôi tất cả. Không còn lựa chọn nào, chúng tôi đành chấp nhận, và sửa sang để biến chúng thành một nơi tạm trú khả dĩ. Trong mỗi phòng, đều có giường và đồ dùng. Mọi thứ khác đều phải mua tận Sukkur. Rồi bỗng nhiên một toán nhân viên phục vụ dành cho chúng tôi xuất hiện. Đó là do một bản hợp đồng đã ký kết giữa công ty và chính phủ Pakistan. Không ai hỏi han gì đến chúng tôi -họ tự động dọn vào nhà: một đầu bếp, một thanh niên phụ việc, một người quét nhà, một người giặt ủi, mấy người thợ máy để coi máy phát điện, và ba nhân viên bảo vệ thay nhau bảo vệ chúng tôi trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Tất cả các nhân viên này đều do chính phủ Pakistan trả lương. Chúng tôi phải nhận họ vào làm việc dù có muốn hay không. Người đầu bếp thật là của báu. Anh đã từng làm đầu bếp trong các gia đình người Anh, và nấu ăn rất khéo. Cậu thanh niên phụ việc có nhiệm vụ bưng thức ăn, rửa chén. Khi làm việc, cậu bé đội trên đầu một khăn quấn màu vàng nghệ. Nhiệm vụ của người quét dọn là giữ cho khu vực của chúng tôi sạch sẻ -một cách tương đối thôi, vì nếu nhìn kỹ sẽ không thể bảo là sạch. Nhưng tệ hại hơn cả là người lo giặt giũ quần áo. Anh ta làm quần áo chúng tôi hư hết. Ở đó người ta giặt đồ theo một cách rất đặc biệt: Quần áo được nhúng nước ướt, xong người ta đập chúng vào một tảng đá cho đến khi 'sạch'. Dĩ nhiên không có gì có thể sạch được, thêm vào không có dây để phơi đồ. Người ta phơi đồ bằng cách trải đồ ra trên mặt đất. Mỗi lần giặt đồ là có thứ này hay thứ kia bị hư hỏng. Có mấy lần tôi định cho anh giặt đồ nghỉ việc, nhưng anh ta phủ phục dưới chân tôi, xin được ở lại vì còn 'bảy con nhỏ' Vậy là tôi không thể đuổi anh ta. Nhân viên bảo vệ cho chúng tôi cũng chẳng hơn gì. Một đêm kia chúng tôi bị đánh thức dậy bởi tiếng kêu thảnh thốt "Ông ơi! Ông ơi!" , và tiếng dộng cửa phòng ngủ. Thì ra đó là người bảo vệ ban đêm của chúng tôi. Chân tay run cầm cập, anh ta đòi Gerd phải đi theo anh ta ngay. Qua cử chỉ của anh, chúng tôi cũng đoán được là có một con rắn hổ rất to nằm ngoài cửa nhà bếp. Gerd nói rằng, bổn phận của người bảo vệ phải biết làm gì chứ. Nhưng anh ta cứ kêu lên "Ông ơi! Ông ơi!" mãi. Cuối cùng Gerd phải ra cửa bếp, thấy con rắn hổ đang nằm cuộn tròn. Anh dùng đá chọi nó đi. Chúng tôi không bao giờ gặp lại con rắn đó nữa. Suốt khoảng thời gian đó, độ hơn nửa tiếng, anh chàng bảo vệ núp kín trong nhà bếp. Ngoài ra, chúng tôi cũng có một tài xế. Tuy bác tài không biết lái chiếc xe jeep mà chúng tôi đã được tặng lúc đến Pakistan (xe jeep của chúng tôi vẫn còn để lại ở Úc), nhưng bác biết nói tiếng Urdu, là ngôn ngữ ở đây, và Pushdu, là ngôn ngữ được sử dụng ở Bắc Pakistan. Vì thế bác tài trở thành người phiên dịch và cũng là người bảo vệ của chúng tôi. Đó là hoàn cảnh gia đình chúng tôi lúc đó. Tài liệu học tập của Jeff tôi yêu cầu gửi từ Úc đến. Ở đây người ta không những chỉ có những chương trình học qua đài phát thanh cho trẻ ở những nơi định cư hẻo lánh, mà còn có trường dạy chương trình hàm thụ qua bưu điện. Tôi đã được trường học đó ở Pakistan phục vụ rất chu toàn. Mỗi sáng, tôi đều kèm Jeff làm bài. Đó không phải là một việc dễ làm, vì Jeff không chịu ngồi yên để làm bài với tôi bên cạnh. Mãi sau, cậu bé mới quen dần, có lẽ chính vì cậu rất thích đọc và viết. Sau khi sống ở đó một thời gian, tôi gửi Jeff đến một trường ở Pakistan để cậu bé có thể giao tiếp với trẻ con đồng lứa tuổi. Jeff được học tiếng Urdu ở đó, nhưng là cậu bé ngoại quốc duy nhất giữa bảy trăm đứa trẻ khác, nên Jeff cảm thấy rất khổ sở. Vì thế chẳng lâu sau, chúng tôi lại phải để Jeff học ở nhà. Gerd có văn phòng riêng -và một cô thư ký chẳng biết tí gì về nghiệp vụ của mình. Cuối cùng tôi phải đảm trách việc của cô và trở thành nhân viên của công ty. Cũng không phải là một giải pháp tồi, vì chúng tôi có thêm tiền lương, và Gerd cần một người phụ tá đắc lực. Ngoài những việc đó ra, tôi cũng không bận rộn lắm. Vì thế tôi tự học chuyên môn về ống dẫn dây điện. Công việc của Gerd là thiết kế hệ thống các đường dây điện, thực hiện các bước khảo sát cần thiết trên mặt đất, rồi vẽ các hoạ đồ để công nhân theo đó mà làm. Ngoài ra, nhà máy phát điện nối với các hệ thống đường dây này cũng được Gerd thiết kế chi li. Rồi anh cũng phải tính toán về nguyên vật liệu cũng như tiền chi phí. Nhà máy phát điện dự tính sẽ dùng sức nước của dòng Indus, nơi đã được khai thác thành đập nước. Vật liệu xây dựng đáng giá hàng triệu đô la được chuyên chở trên lưng các con lạc đà. Thật là một cảnh tượng khôi hài. Đảo chúng tôi ở có cầu bắc đến cả hai bờ sông. Một đầu cầu nối đến Sukkur, đầu kia dẫn đến Rohri, là một thị trấn láng giềng. Mỗi sáng, chúng tôi được đánh thức bởi tiếng xướng kinh vang vọng đến tận nhà chúng tôi. Đó là tiếng xướng kinh của một vị cố đạo ở trên đền cao, mỗi ngày năm lần, kêu gọi các con chiên của mình. Ngày nay trong các thành phố theo đạo Hồi giáo, người ta thường phát băng cassette qua máy phóng thanh. Nhưng trong những ngày ấy, người ta vẫn còn được nghe giọng thật, và giọng đọc kinh đó thật tuyệt vời. Tôi thường chăm chú lắng nghe, trong khi mắt tôi nhìn qua cửa sổ, sững sờ trước đàn lạc đà và lừa đủng đỉnh qua cầu, rung reng những cái chuông treo ở cổ, tạo thêm cho tất cả một vẻ hoàn toàn Á châu. Ngoài nhiệm vụ quan trọng trong giao thông, những chiếc cầu còn mang các nhiệm vụ khác. Vì chúng là đầu nối giữa hai thành phố -Sukkur và Rohri- những người ăn xin thường tụ tập ở đó. Hàng chục người nằm, ngồi dọc theo cầu, chìa những bàn tay, bàn chân thương tật, kêu xin người qua đường bố thí. Tôi thường thấy dân địa phương bố thí cho mỗi người một đồng tiền. Tôi hoàn toàn không biết phải phản ứng thế nào trong tình cảnh đó. Vì tôi và Gerd mỗi ngày đều hơn một lần đi qua đó, tôi cảm thấy tha thiết muốn làm gì đó cho họ, vì họ trông quá khổ sở, đau đớn, tuyệt vọng. Mặt khác, chúng tôi cũng không thể cho tiền họ mỗi ngày. Tôi bèn bàn với anh đầu bếp xem phải làm gì cho ổn thỏa. Anh ta có một đề nghị rất thông minh, mà chúng tôi đã làm theo trong suốt thời gian chúng tôi ở đó. Anh ta bảo người giàu ở đây có thói quen hay mời cơm các thành viên trong tổ ăn xin của thành phố, mỗi tháng một lần. Anh ta bảo sẽ lo mua thức ăn, sửa soạn thức ăn cho họ. Khi tôi hỏi anh về đội ngủ ăn xin là thế nào, anh giải thích đó là một liên đoàn có chủ tịch, có các viên chức và những người ăn xin được liên đoàn chỉ định chỗ ngồi ăn xin đàng hoàng. Rồi anh chỉ cho tôi một người ăn xin có dáng vẻ tội nghiệp nhất, và bảo đó là chủ tịch của liên đoàn ăn xin, một người đàn ông khá giàu, có đến mấy căn nhà ở Sukkur. Tôi lại lo lắng không biết làm sao để báo cho mấy người ăn xin biết chúng tôi sẽ mời họ như thế? Anh đầu bếp lại trấn an tôi là anh sẽ báo tin đó ở buổi chợ. Và mọi việc đã xảy ra đúng như thế. Vào một ngày nhất định, có khoảng năm trăm người ăn xin xuất hiện. Họ chuyện trò vui vẻ, ăn uống tận tình tất cả những món mà anh đầu bếp đã nấu dành cho họ. Anh đã phải sửa soạn, nấu nướng cả ngày hôm trước đó, cuối cùng không còn dư miếng nào. Có lẽ đó là cách tốt nhất, vì từ đó, mỗi lần chúng tôi đi qua cầu, các người ăn xin lại vẫy chào chúng tôi rất thân thiện, làm tôi cảm thấy nhẹ cả lòng. Trong cuộc sống hằng ngày, kinh nghiệm của tôi đối với các người phục vụ trong nhà khi còn là đứa trẻ ở Bá Linh, đã giúp cho tôi rất nhiều. Tôi không thấy bỡ ngỡ, xa lạ khi bảo ban họ, như là mấy bà vợ của các kỹ sư ngoại quốc khác. Các bà vợ khác đôi khi phát bực khi phải lo cho quá nhiều người phục vụ. Thật vậy, đó không phải là một điều đơn giản. Lúc nào chúng tôi cũng phải lo cho họ mọi chuyện. Con gái của bác tài lập gia đình, tôi phải khuyên bác về việc mua sắm của hồi môn. Nếu một trong những 'nhân viên' của tôi bịnh, tôi phải kêu bác sĩ. Ngay cả khi họ cãi nhau, tôi cũng phải làm người đứng ra dàn xếp. Tôi thường nhớ lại những thời gian cực khổ ở Thượng Hải, khi tôi rất nghèo. Giờ tự dưng chúng tôi dư giả, nếu không nói là giàu có. Tôi có bao nhiêu người giúp việc, và có thể mua gì tùy thích. Nhưng tôi cũng không biết phải mua gì cho mình. Một lần nữa cái cảm giác lạ lùng lại dâng trào trong tôi, cái cảm giác làm tôi nghĩ rằng phải có một cái gì đó cao hơn cái nghèo, cái giàu, cái có, cái không. Phải có cái gì hơn thế nữa thì cuộc đời mới có ý nghĩa hơn. Rồi cuộc sống của chúng tôi cũng ổn định thành những ngày như mọi ngày. Jeff vẫn đi học, đi chơi. Gerd vẫn đến văn phòng hay lái xe đi khảo sát xem các đường dây cần được đặt ở đâu. Một lần anh trở về, kể rằng đã gặp một người nông dân rất già, ngồi bên vệ đường. Gerd xuống xe, hỏi ông lão đây có phải là đất của ông không, vì anh cần khảo sát địa hình. Người nông dân trả lời: "Không, đất đai này thuộc về thần Allah, tôi chỉ là người giữ đất". Đối với tôi, đó là một câu trả lời đầy ý nhị. Sống trên đảo, ngoài chúng tôi còn có một nhà truyền đạo Muslim, có nhiệm vụ giống như một linh mục. Ông sống một mình trong một ngôi đền nhỏ. Thỉnh thoảng chúng tôi đến thăm ông mang theo bánh, trái cây. Vì chúng tôi không nói tiếng Urdu, chúng tôi phải mang theo anh tài xế làm người thông dịch. Tôi cảm thấy từ người truyền giáo này toát lên sự bình an. Ông có thể trao đổi với chúng tôi rất nhiều điều nếu như chúng tôi có thể trao đổi trực tiếp, còn bác tài của chúng tôi thì có lẽ chẳng hiểu gì về những điều chúng tôi muốn biết. Thật là uổng phí, vì không dễ gì gặp được những vị cao đạo mà bạn cảm thấy muốn gửi gắm những điều quan trọng. Gerd bỗng ngã bịnh sốt rét. Tôi chở anh trong tình trạng nguy kịch, đến một bịnh viện của các bác sĩ quân đội người Hà Lan. Họ chữa khỏi cho anh, nhưng cũng phải mất mấy tuần trước khi Gerd có thể về nhà. Suốt thời gian trong bịnh viện, tôi cũng kiếm việc phục vụ để không cảm thấy mình vô tích sự. Nhưng phải thú thật là tôi đã cố gắng lắm để không gớm ghiếc, nôn mửa. Có lẽ tôi không thích hợp làm những công việc trong bịnh viện, nhất là trong những điều kiện như thế này. Những gì tôi mắt thấy, tai nghe ở nơi đây chỉ làm tôi thêm buồn lòng. Cách quản lý thì tồi tệ, dụng cụ y khoa thì thô sơ, không đảm bảo vệ sinh. Các bác sĩ đã làm tất cả trong khả năng của mình, nhưng lúc nào hình như cũng có quá nhiều bịnh nhân, quá nhiều căn bịnh. Chúng tôi càng thêm thất vọng. Vì chúng tôi nhận làm công việc này không chỉ vì đồng lương, mà vì chúng tôi nghĩ có thể giúp cho cuộc sống của những người dân nghèo khổ ở đây được khá hơn, bằng cách đem đến cho họ ánh sáng của nguồn điện. Nhưng cuối cùng đó chỉ là một giấc mộng hảo huyền. Thực tế là chỉ có những điền chủ giàu có mới được hưởng sự ích lợi đó, còn người nghèo khổ thì chả được hưởng gì. Sau khi nhà máy phát điện đã được hoàn thành, họ vẫn nghèo khổ như tự bao giờ. Ở địa vị của Gerd, anh còn phải có bổn phận trong các công việc giao tiếp xã giao. Chúng tôi phải giao tiếp với các đồng nghiệp trong ngành điện ở Pakistan, với các kỹ sư cùng làm trong công trình, các nhà ngoại giao và nhân viên ở lãnh sự quán. Chúng tôi thường phải tham dự các hội hè ở Lahore và Karachi. Những lúc đó chúng tôi phải nghỉ tại các khách sạn sang trọng, đắt tiền. Những loại công tác này không thích hợp với cá tính của chúng tôi. Cả Gerd và tôi đều cảm thấy đó không phải là cách sống của chúng tôi. Người ta tụ họp lại, xã giao ba tấc lưỡi, rồi ăn nhậu -đó là phần quan trọng nhất. Ngoài ra, chúng tôi ăn chay, mà trong các bữa tiệc này luôn thừa mứa các món ăn làm từ bao nhiêu là thịt cừu, thịt dê. Và các câu chuyện xã giao chúng tôi cũng chẳng thấy thú vị gì. Vì thế, chúng tôi quyết định là sau hai năm, chúng tôi sẽ không gia hạn hợp đồng làm việc. Nhưng ở Pakistan, điều làm tôi bức xúc nhất là vấn đề nữ quyền. So với nam giới, họ chẳng có chút quyền hạn nhỏ nhoi nào, ít nhất là ở thời điểm chúng tôi có mặt ở đó. Có lẽ qua thời gian đã có nhiều thay đổi chăng, tôi sợ là không được nhiều lắm. Nhất là ở vùng thôn quê, nơi chúng tôi sống, tất cả phụ nữ Pakistan phải mặc burka. Burka là loại áo trùm phủ người đàn bà từ đầu đến chân. Chỉ chừa ra đôi mắt, để họ đi không bị vấp ngã thôi. Chỉ có ở Karachi, thỉnh thoảng tôi còn thấy các phụ nữ trẻ không che mặt. Ban đầu tôi quen ra phố với trang phục bình thường, nhưng đám thiếu niên, hay ngay cả đàn ông lớn tuổi thường chọi đá vào tôi. Phụ nữ mà để mặt ra đường, anh đầu bếp cho tôi biết, bị người ta coi là gái điếm. Dầu tôi là người ngoại quốc, họ cũng chẳng cần quan tâm. Vì thế để khỏi bị lâm vào tình cảnh trên, cuối cùng tôi cũng phải nhờ thợ may may cho một bộ burka. Mặc loại áo đó thật là khốn khổ. Khó chịu nhất là bên trong rất nóng, tôi lại không thể thấy gì nhiều. Vì thế tôi cũng ít mặc nó ra đường. Trong kinh thánh Koran tôi được đọc, phụ nữ chỉ có thể để lộ thân thể với chồng mình. Điều đó có nghĩa là, ngay cả với các bác sĩ, họ cũng không được phép cởi bỏ quần áo. Chỉ khi người chồng có mặt, thì các bác sĩ mới được quyền khám dưới lớp áo burka. Phụ nữ chỉ được xuất hiện nơi đám đông khi thật cần thiết. Khi Gerd và tôi lái xe đi xuyên qua các vùng quê, chúng tôi thường được các điền chủ, hay các ông chủ nhà máy dệt, ở dọc theo lộ trình mời đến nhà. Không bao giờ trong các cuộc đón tiếp có mặt người phụ nữ. Chỉ khi nào tôi yêu cầu, thì mới được phép đến chỗ ở của họ. Những lúc như thế, tôi thường nghe phụ nữ than thở về sự bất hạnh của họ. Tóm lại, họ không được quyền làm gì cả ngoài việc sinh con và ăn uống. Khi còn trẻ, họ đẹp, nhưng vì không được đi đâu sau khi lập gia đình, họ thường trở nên béo phì. Cuối cùng, niềm lạc thú duy nhất của họ có lẽ chỉ là ăn uống. Trong những gia đình chúng tôi thăm viếng, tôi được gặp một phụ nữ trẻ, con nhà gia giáo, có học, biết nói tiếng Anh. Cha cô từng là nhà ngoại giao của Pakistan ở Mỹ. Cô là dâu trong gia đình chúng tôi đến thăm viếng. Cuộc hôn nhân của cô rất đặc biệt -đó là một cuộc hôn nhân dựa trên tình yêu. Dầu vậy cô cũng rất khổ đau với những gì xã hội áp đặt lên cô. Cô đã thành lập một trường học cho các em bé gái, xem ra đó là ngôi trường duy nhất dành cho bé gái. Cô đã mời tôi đến thăm và dạy học ở đó. Nhưng việc không thành vì đám trẻ không nói được tiếng Anh, và tôi cũng không thể dạy chúng trong một thời gian quá ngắn. Rồi những ngày tháng sống ở Pakistan của chúng tôi cũng dần hết hạn. Trước khi ra đi, tôi có đến viếng thăm cô bạn trẻ này đôi lần ở trường, và thấy cô rất hạnh phúc trong công việc của mình. Công việc này đã mang đến cho cô niềm tự tin mà các chị em bạn dâu khác của cô không thể nào có được. Họ chỉ biết ta thán về một cuộc sống buồn chán, tù túng. Chỉ có bà mẹ chồng là cảm thấy mọi việc không có gì đáng phàn nàn. Nhưng không biết khi còn trẻ, thì bà có suy nghĩ như thế không? Có lần tôi mời họ đến nhà chơi. Họ đến trong những chiếc burka lụa đen, mà khi vừa bước vào đến bên trong, họ vội vàng cởi ra ngay. Đến khi thấy cậu bé giúp việc mang cà-phê, bánh vào, họ thét lên chạy túa ra khỏi phòng. Thì ra theo luật, cậu không được phép nhìn thấy mặt họ! Tôi phải thề sống, thề chết với họ là cả tôi cũng như cậu bé giúp việc sẽ chẳng ai dám hở chuyện đó ra với ai. Cũng phải một lúc sau, họ mới hoàn hồn để thưởng thức những chiếc bánh tôi đã đặc biệt dặn làm cho họ. Khi họ ra về, tất cả đều hết sạch. Tôi hỏi họ có nghĩ đến việc thay đổi cách sống không? Tôi đề nghị một vài thay đổi mà tôi đã có suy nghĩ qua. Họ ừ hử, rồi hỏi tôi bằng cách nào? Hình như họ không xem những điều tôi nói là nghiêm chỉnh, cũng như không thực sự nghĩ rằng họ có thể thực hiện được. Rõ ràng là họ chỉ muốn được tâm sự dù chỉ một lần những bất hạnh của mình với một người mà họ biết chẳng bao giờ đem nói đi, nói lại. Nhưng ngoài việc thở than, họ chẳng muốn làm gì để thay đổi số phận cả. Tôi sợ rằng cho đến bây giờ những người phụ nữ Pakistan cũng vẫn phải chịu áp bức như ba mươi lăm năm trước, khi tôi sống ở đó. Tôi còn nhớ rõ một cảnh tượng đã xảy ra ở Sukkur. Có rất nhiều rạp chiếu bóng ở đó, và một ngày kia, người ta quảng cáo một phim của cô đào Marilyn Monroe. Một tấm biển đồ sộ chưng hình cô đào mặc áo tắm được dựng lên! Chúng tôi tình cờ đi ngang qua, chứng kiến hằng trăm người đàn ông đứng trước tấm poster, trố mắt, há mồm ngắm nhìn thân thể của cô đào hát. Thật là quái gở. Trong khi đàn bà của họ, đi qua đi lại trong những tấm vải đen bịt bùng. Gerd rất thích chụp ảnh. Trước cảnh tượng đó, anh đưa máy lên chụp. Hành động đó khiến anh xuýt bị no đòn, nếu như anh đã không nhanh chân chạy thục mạng. Nhẹ lắm thì chắc cũng bị họ đập nát máy ảnh. Có lẽ Gerd cũng không nên chụp hình lúc đó, nhưng cảnh tượng đó rõ ràng phản ảnh sự méo mó trong cuộc sống khi giới tính này đàn áp giới tính kia. Sau hai năm, hợp đồng của chúng tôi chấm dứt, nhưng nhà máy điện vẫn chưa xây xong. Dự án tiến triển quá chậm. Các bản vẽ được thiết kế, thâu nhận, ký tên rồi chờ đợi. Mấy chú lạc đà đã tốn công chở hằng triệu đô la Canada tiền vật liệu trên lưng. Lạc đà đúng là một phương tiện chuyên chở tốt trên sa mạc cát, nhưng chúng cũng rất cứng đầu, cục tính. Nhiều con phải bị niềng quai hàm, nếu không nó sẽ cắn cả chủ. Và khi chúng không muốn di chuyển, chúng cứ nằm dài ra đường. Người ta nói nếu bắt lạc đà chở quá sức, chúng sẽ không đứng dậy. Sự lỳ lợm của chúng làm tôi phải ngạc nhiên. Chúng tôi sống gần ở những nơi mà năm ngàn năm trước đây nền văn minh của thung lũng Indus đã rộ nở. Nhưng cho đến bây giờ, người ta cũng không giải thích được về sự lụn bại của nó. Thí dụ như Mohenjodara, cách nơi chúng tôi chừng bốn mươi kilomét. Người dân nơi đây từ thời xa xưa đó đã có nhà tắm xây trong nhà, cũng như rất nhiều nhà tắm công cộng. Họ đã có đường tráng nhựa, và hệ thống xử lý rác. Quanh Mohenjodara là những cánh đồng họ đã từng canh tác. Có giả thuyết cho rằng lý do thành phố này bị bỏ hoang là vì những cánh đồng này dần dần không cho hoa mầu, vì thế dân chúng cứ phải di dân dần ra xa, khỏi xứ. Chúng tôi thường đến thăm viếng những nơi hoang tàn đó, vì chúng rất nhiều trong vùng chúng tôi ở. Chúng tôi tìm thấy những hộp đất sét, nữ trang và rất nhiều lu hũ trang trí thẩm mỹ. Có lần chúng tôi khám phá ra một khu đồ đá, đào được khá nhiều đồ, nằm gần như lộ thiên: cung, nỏ, búa, dao. Chúng tôi lấy một ít và báo cho chính quyền ở Karachi về sự khám phá đó. Bảo tàng viện ở Karachi chở một đàn lừa đến chở đồ trong những chiếc túi vải về thành phố. Những món đồ này có đến hơn năm trăm năm, và có hình dáng giống như những đồ đá tìm thấy được ở Au châu. Jeff thích đi lang thang khắp nơi trên đảo Indus. Cậu bé tìm được rất nhiều thứ: các loại ốc, cây kiếng và lu hũ. Chúng tôi thường nhờ bảo tàng viện ở Karachi định ngày tháng của những cổ vật. Một lần Jeff tìm được những miếng gạch bằng ceramic đẹp tuyệt vời. Có lẽ từ một ngôi đền xây trên đảo từ thế kỷ thứ bảy. Chúng tôi mang một ít gạch ngói này về Úc. Lần khác, Jeff về nhà, giấu hai tay sau lưng và nói: "Mẹ, đoán xem con đã tìm được thứ gì?" Tôi không thể đoán được. Đó là một con ngựa nhỏ bằng đất sét, dài khoảng mười centimét, cao năm centimét. Sau này chúng tôi mới biết con ngựa đó đã một ngàn năm tuổi! Jeff vẫn còn giữ con ngựa nhỏ đó ở nhà, trong một chiếc hộp lồng kính. Đó là vật duy nhất khiến Jeff nhớ về Pakistan. Ngoài ra không còn nhớ gì nữa cả -những con lạc đà, dòng Indus, các người giúp việc, những buổi sáng tôi dạy con học, tiếng xướng kinh của người giữ đền vào những buổi mờ sáng. Tất cả đã chìm vào lãng quên. Khi thời hạn sống trên đảo đã hết, chúng tôi đóng tất cả đồ đạc vào các thùng và gửi về Úc, nhờ người ta giữ dùm. Gerd dự định sẽ bay qua Luân Đôn, mua một chiếc xe van hiệu Land Rover để lái xuyên suốt Au châu, Á châu, Kashmir, Ấn Độ, cho đến tận Singapore. Rồi từ đó chúng tôi sẽ lấy tàu trở về Úc. Dĩ nhiên đó chỉ là dự tính của Gerd, chứ không phải của tôi. Tuy nhiên, cũng như mọi lần, tôi luôn làm theo ý anh. Những gì tôi muốn tìm kiếm, tôi cũng chưa khám phá ra. Có thể tôi sẽ tìm được chúng ở một nơi nào đó, một ngày nào đó. -ooOoo- Chương 9 Cuộc Sống Tự Do Đêm rất dài đối với người thức trắng Chúng tôi đến Luân Đôn với rất ít hành lý. Nhân viên của công ty Rover đón chúng tôi tại phi trường, trao tận tay Gerd chìa khóa của chiếc xe van Land Rover, và nói: "Thượng lộ bình an", rồi biến mất. Gerd chưa quen với chiếc xe mới, và cũng chưa quen lái bên trái đường. Bạn có thể hình dung ngày đầu tiên của cuộc hành trình của chúng tôi như thế nào! Gerd cứ tìm và bật tín hiệu quẹo mặt, trong khi tôi ngồi kế bên hét lên: "Trái! Trái!" vì anh cứ theo thói quen làm ngược lại. Jeffrey ngồi ở phía sau, hoàn toàn không động đậy. Tôi không nhớ, dù chỉ một lần, trong suốt các cuộc hành trình dài dẳng, cậu bé khóc lóc, cằn nhằn hay la lối. Lúc nào cậu cũng ngồi đằng sau xe, ngó ra cửa sổ. Có lần chúng tôi hỏi có gì hay ở ngoài cửa sổ mà con cứ ngó hoài. Cậu bé trả lời: "Giống như một cuốn phim vậy, mọi thứ diễn ra bên ngoài cửa sổ, và con chỉ việc xem". Chúng tôi nhận được thư của mẹ và dì. Họ trách tôi cứ mang đứa trẻ đi khắp địa cầu, không để cho nó có cuộc sống bình thường với bạn bè, gia đình. Mọi đứa trẻ đều cần có một mái nhà ổn định, họ nói. Không thể phủ nhận điều ấy. Đó là cách suy nghĩ của nhiều người. Nhưng con trai tôi, Jeff có vẻ thích thú lắm với cuộc sống rày đây mai đó. Ở Luân Đôn, chúng tôi mướn được một khoảng đất trống trong khu đậu xe kiểu nhà lưu động, và bắt đầu trang trí bên trong chiếc Land Rover thành một chỗ ở ấm cúng, thoải mái. (LND: Ở các nước phương Tây, có loại nhà có thể di dời gọi là mobile home. Các ngôi nhà này không có đất cố định mà phải mướn đất để 'đậu'). Các băng xe có thể xếp lại thành giường đôi. Có bàn, có bếp, có các tủ chứa đồ và một chỗ làm bếp. Trần xe có thể đẩy cao lên để có thể đứng thẳng trong xe. Phía gần trần xe, có thêm hai giường ngủ. Jeff ngủ ở đó. Khi xe chạy ta có cảm giác như đang nằm trên võng, nên Jeff rất thích. Chúng tôi có rất nhiều thì giờ rổi rãi. Nếu thích, chúng tôi có thể lái xe qua những ngôi làng nhỏ, dễ thương ở Anh, đến Dover, rồi từ đó đi xuyên qua Pháp xuống bãi biển Côte D'Azur. Chúng tôi không cần có một lịch trình nhất định, vì không có ai chờ đón chúng tôi ở nơi nào cả. Tôi nhớ rất rõ cảm giác tự do, thoải mái được trôi theo thời gian. Cả tôi và Gerd đều có học tiếng Pháp ở trường, nhưng thứ tiếng Pháp đó không giúp chúng tôi giao tiếp được với ai. Cách phát âm của chúng tôi quá tệ, khiến không ai hiểu được. Ngược lại, người Pháp cũng chẳng muốn hay chẳng thể nói tiếng Anh. Ở Monte Carlo, tôi muốn đi thăm sòng bạc để biết nó ra làm sao, coi như làm phong phú thêm kinh nghiệm sống của mình. Jeff không đi, ở 'nhà' ngủ sớm. Tôi cho người bảo vệ ít tiền, nhờ anh trông chừng dùm cháu và xe. Nhưng Jeff như thường lệ, ngủ một mạch đến sáng. Ở các sòng bạc, tôi quá ngạc nhiên bởi vẻ lịch sự của các tay đánh bạc, và mọi thứ ở đây đều phục vụ miễn phí, khỏi trả tiền -nước uống, bánh mì sandwich, thuốc lá, xi-gà. Nhưng có lẽ thú vị hơn cả là được xem người ta đánh bạc. Bạn có thể nhìn thấy trên mặt họ tràn đây lòng tham, mà trong cuộc sống thường ngày đã được giấu kỹ. Ở đây không ai phải làm màu với ai. Lòng tham được bộc bạch một cách trắng trợn khiến tôi không thể không nghĩ đến hai chữ "Địa Ngục" ngay tức thì. Trong tiếng Đức, danh từ chỉ nơi đánh bạc là Spielholle, hay là "địa ngục bạc bài". Điều này làm tôi nhớ đến một kỷ niệm khác. Khi tôi bắt đầu tu thiền, ngay ngày thứ hai là tôi đã có 'kinh nghiệm về địa ngục". Tôi có cảm giác tôi bị những sinh vật mỏng manh, dị hình, như những cành cây, nhún tôi lên xuống trong những thùng dầu nóng đỏ. Vừa làm như thế, chúng vừa nói bằng cái giọng the thé: "Đây là con đường đi đến giải thoát. Đường đến giải thoát". Tôi chỉ có thể vùng thoát khỏi chúng sau khi xả thiền. Sau này tôi khám phá ra Đức Phật đã dạy, ai cũng phải một lần trải qua kinh nghiệm khổ đau cùng cực như trong địa ngục này để có thể bắt đầu bảo vệ mình khỏi những hiểm họa của ác nghiệp. Ở Monte Carlo, tôi đặt hai đồng tiền xuống bàn roulette. Người quay vòng hô lên: "Không ai đặt nữa", rồi thả trái banh cho quay. Dĩ nhiên là tôi thua -may mà chỉ ít tiền. Sau đó chúng tôi lái xe đến Tây Ban Nha, rồi từ đó qua Ý, rồi qua Ao. Lý do duy nhất để giải thích sự đi lòng vòng này là vì Gerd không muốn phải ghé qua Đức. Anh bảo là anh không có can đảm đến đó. Đối với tôi, tôi đã xả bỏ, nhưng anh thì chưa làm được. Dầu anh vẫn nói tiếng Đức, nhưng anh không muốn trở về xứ sở nơi cha mẹ anh đã bị giết. Mãi sau này, khoảng hai năm trước đây, may mắn thay anh đã thay đổi, vì lòng hận thù, ghét bỏ chỉ đem lại khổ đau -cho chính chúng ta và cho cả nhân loại. Chúng tôi đã viếng thành phố Vienna, đã nhìn tận mắt bánh xe khổng lồ Ferris ở thành phố Prater. Đã ghé qua Nam Tư, viếng Dubrovnik, thành phố biển đẹp tuyệt vời (ít nhất là đẹp ở thời điểm đó). Buổi tối, các đoàn vũ công với những lễ phục truyền thống đầy màu sắc nhảy múa trên mái lầu. Tất cả dân địa phương và khách ngoại quốc đều ngồi trên những bực thềm của các con đường dốc nhỏ hẹp, vừa chuyện trò, vừa thưởng thức âm nhạc và các vũ điệu. Kỷ niệm đó bây giờ nhớ lại chỉ gợi niềm đau vì cả thành phố giờ gần như đã bị tiêu hủy hoàn toàn. Sau đó là Hy Lạp và Acropolis. Có lần chúng tôi đi dự một buổi trình diễn ngoài trời: một vỡ kịch cổ điển Hy Lạp, trình diễn bằng tiếng Hy Lạp. Chúng tôi không hiểu một lời nào, nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là cảm giác được ngồi trên những viên đá hai ngàn năm tuổi, ngắm nhìn các diễn viên trong những trang phục màu trắng, nghe họ nói như hát. Cảm giác giống như một giấc mơ tuyệt vời. Sau đó chúng tôi lái xe qua Bức Màn Sắt đến Bulgari. Mang hộ chiếu Anh và Mỹ, chúng tôi không gặp khó khăn gì khi nhập cảnh vào đây. Nhưng hóa ra chúng tôi không thể mua gì ăn ở đây. Chẳng có gì cả! Cả cái siêu thị to lớn trống trơn, trong khi chúng tôi phải mua thức ăn Mỗi ngày, vì không có tủ lạnh để trữ đồ ăn. Khắp nơi, chúng tôi thấy những tấm biển to lớn được dựng lên để thông báo người này, kẻ kia đã là nhân viên lao động xuất sắc trong tháng, và đã được huân chương. Nhưng chúng tôi không tìm được cả đến một mẫu bánh mì. Gerd tăng tốc độ xe để chúng tôi có thể ra khỏi đây qua Thổ Nhĩ Kỳ càng sớm càng tốt. Chúng tôi lái xe dọc theo bờ Biển Đen, một bãi biển trải dài tuyệt đẹp, và chính ở đây, chứ không phải ở nơi nào khác, chúng tôi gặp tai nạn, lần đầu tiên trong suốt cuộc hành trình. Dừng xe van ở một chỗ đẹp nhất, giữa thiên nhiên, như thường làm. Chúng tôi đang dùng bữa tối, thì thình lình một người đàn ông xuất hiện, tay cầm một con dao lớn. Hắn ta ra lệnh gì đó, mà chúng tôi không hiểu. Chắc là hắn muốn đồ ăn, tôi nghĩ, nên đưa đồ ăn cho hắn. Nhưng hắn không cần đồ ăn, mà ngó quanh quất, rồi leo lên xe, lục tung đồ đạc, rồi trèo xuống. Lúc nào cũng chỉa mũi dao về phía chúng tôi. Đang lúc chúng tôi nghĩ nếu cứ như thế này thì nguy mất, thì bỗng nhiên hắn bỏ đi. Dĩ nhiên, sau đó chúng tôi cũng lẹ làng chạy đi nơi khác, không dám ở thêm một phút. Gerd lái mãi, lái mãi cho đến khi chúng tôi đến một đồn điền hoa quả. Ở đó có một người bảo vệ già, ông cho chúng tôi lái xe qua cổng, rồi đóng lại. Ông nói chút ít tiếng Đức. Ông cho phép chúng tôi ở lại qua đêm và muốn ăn bao nhiêu trái cây tùy thích. Nhờ vậy, chúng tôi mới qua được một phen sợ điếng hồn. Từ đó trở đi, suốt thời gian ở Thổ Nhĩ Kỳ, mỗi đêm chúng tôi đậu xe trước cửa đồn cảnh sát để ngủ. Ai lại dám đùa với số mệnh bao giờ. Tính từ nửa thế kỷ trở lại đây, có lẽ chúng tôi là những người cuối cùng có thể du lịch một cách thong dong như thế này. Không có gì hối thúc chúng tôi, không phải chạy theo chương trình du lịch nào như những người du lịch ngày nay. Đó là một cuộc hành trình rất dài, nhìn lại tôi thấy giống như một tấm thảm đủ màu sắc. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, chúng tôi đi thăm Troy, một thành phố cổ đã được Schliemann khám phá ra. Lúc đó ở Iraq đang có biến loạn, nên chúng tôi nhanh chóng qua Iran. Ở Teheran, chúng tôi bị chìm vào trong biển xe cộ hỗn loạn. Tôi nghĩ chắc không có đâu mà tình trạng giao thông lại tệ hại đến vậy. Tôi có cảm tưởng như các bịnh nhân tâm thần đã trốn khỏi viện, ra đường lái xe, nhưng hình như không có ai quan tâm sửa đổi. Vậy mà khi Gerd vừa phạm lỗi quẹo vào con đường một chiều, lập tức một người cảnh sát xuất hiện. Anh ta tỏ ra rất nghiêm khắc, và xem đây là một trọng tội. Chúng tôi làm anh ta phát bực khi cứ tiếp tục nói tiếng Tây Ban Nha. Anh ta không hiểu được một chữ. Sau khoảng nữa tiếng, anh ta ra lệnh bằng tiếng Anh, bảo chúng tôi lái xe đến một trụ sở cảnh sát gần đó nhất. Rồi anh ta bỏ đi. Dĩ nhiên là chúng tôi chẳng lái đến trạm cánh sát nào cả. Điều gây ấn tượng cho tôi nhất ở Teheran là các chợ. Ở đâu cũng đầy mùi gia vị, dầu, và đầy các tấm thảm tuyệt đẹp. Chúng tôi phải tự kiềm chế lắm để khỏi tiêu xài quá đáng, vì chúng tôi muốn để dành tiền mua một nông trại ở Úc khi trở về đó. Ở Afghanistan lại có chiến tranh. Không ai được phép đến đó. Vì thế chúng tôi qua Pakistan, nơi những thùng đồ của chúng tôi đã được gửi đến. Vừa đến Pakistan không lâu, thì Gerd lại bị sốt rét. Chúng tôi phải đợi mất vài tuần trước khi anh hồi sức. Do đó, tôi được có thì giờ đi thăm bạn bè, thăm viếng công trình Indus, một công trình phát triển quá chậm chạp -cũng không lạ gì nếu như bạn biết người ta đào các hầm hố để làm nền như thế nào; bằng cách mướn các bà mặc áo dài lượm thượm, đội trên đầu các giỏ nhỏ đựng cát đất. Sau đó đến Ấn Độ. Ở đó chúng tôi có hai chuyến đi rất thú vị, một là đến Kashmir, hai là Hunza. Để đến được Kashmir, chúng tôi phải đi qua dãy Hy Mã Lạp Sơn bằng những con đường qua núi. Trong suốt cuộc hành trình, chúng tôi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của núi Everest trong ánh sáng ban mai. Trên những con đường dốc đó, tuyết phủ đầy. Có lần, bỗng nhiên, từ đâu xuất hiện một chiếc xe chở quân đội Ấn Độ ở bên đường ngược chiều. Gerd không thế thắng được vì tuyết. Hai chiếc xe đụng nhau. Phía trước đầu xe của chúng tôi bị móp khá nặng, nhưng đầu máy không hề gì, xe vẫn chạy được. Tôi thì bị bầm một mắt, vì mặt tôi đập vào kính cửa khi hai xe đụng nhau. Cả xâu chuỗi đeo cổ bằng ngà của tôi cũng bị văng mất. Ngoài ra, không có gì hệ trọng nữa. Khi đến được Kashmir, chúng tôi bỏ xe sửa. Người Kashmir rất khéo trong các nghề thủ công. Họ làm ra những chiếc khăn, những đồ thêu thùa, dệt, vẽ trang trí tuyệt vời. Không thể tưởng tượng được sau khi xe sửa xong, chúng tôi không thể tìm thấy được vết trầy nào trên xe. Khi chiếc Rover nằm ở garage sửa xe, chúng tôi mướn một chiếc 'nhà thuyền' đi chơi. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Cả thuyền được trải đầy các tấm thảm. Có thảm để ngồi, thảm để bàn, thảm treo tường, thảm trên giường ngủ. Rồi trên thảm chất đầy những chiếc gối êm ái. Nhìn vào thật tuyệt. Và một tuần lễ trên đó giúp chúng tôi hồi phục sức khỏe nhanh chóng. Thật vậy dầu đi du lịch tự do, nhưng ở trong chiếc Rover với đứa trẻ, lại phải chăm lo dạy học cho nó, cũng làm chúng tôi rất mệt. Ở Kashmir, chúng tôi rất tò mò về ngôi mộ của Chúa Jesus ở không xa thành phố Srinagar lắm. Chúng tôi đã đến đó thăm viếng, nhưng không thể tin vào sự trung thực của nó. Có rất nhiều giả thuyết -và cả những chứng cớ- rằng Chúa đã đến nơi này, nơi kia, sau khi mất ở Jerusalem (mà theo những người này chỉ là một cái chết giả), sau đó ngài trở về Kashmir. Sau đó chúng tôi lại đến vùng núi đá ở phía Bắc Kashmir: đó là vùng Hunza. Ở đó trong một diện tích khoảng tám ngàn thước vuông, có khoảng mười ngàn người sống, mà vì cách sống của họ, đã có thể thọ đến -một trăm hai mươi tuổi hay hơn thế nữa. Một dân tộc hạnh phúc với ngôn ngữ và văn hoá riêng của mình. Để đến được nơi đó, trước hết chúng tôi phải lái tận đến Gilgit, một thành phố nằm trên những con đường dẫn qua Trung Hoa. Từ Gilgit trở đi, không có gì chắc chắn cả. Chỉ có một con đường duy nhất dẫn vào Hunza -chữ 'đường' ở đây hình như hơi phóng đại quá. Đúng hơn phải gọi đó là 'những dấu chân thần chết". Nhưng muốn gọi là gì, những con đường này cũng chỉ dành cho người Hunza. Không ai khác được phép sử dụng chúng. May mà chúng tôi gặp được một chiếc xe Jeep nhà binh đang chạy tới, còn ba chỗ trống trên xe. Bác tài, Jeff, đến tôi, rồi Gerd, tất cả chèn vào băng ghế trước. Phía sau chấp đầy những bao ngũ cốc, và sáu người Hunza ngồi trên đó. Con đường rộng vừa đúng một chiếc xe, và rất dốc. Xe đi dọc theo đèo. Nên phía bên mặt là vách đá, bên trái thăm thẳm sâu là con sông Hunza. Có những chỗ ngoặt quá gắt đến nỗi tài xế phải bám xe sát vào thành núi mới có thể vượt qua. Chiếc xe cũng không phải tốt lắm. Có vẻ như nó được lắp ráp từ rất nhiều phần của các xe jeep khác nhau, mà có lẽ người ta đã bỏ lại từ các cuộc hành trình. Trước khi khởi hành, bác tài ngừng xe lại ở một đền thờ, cầu nguyện vài phút, rồi bỏ một đồng tiền vào cái tô. Bác nói rằng, bác làm vậy để cầu cho chúng tôi không bị lật xe, ngã xuống sông. Có lẽ vì tôi nhìn bác với vẻ không tin, nên bác lại thêm rằng, tai nạn xảy ra thường ngày như cơm bữa. Gần đây, một chiếc xe buýt nhỏ đã rớt xuống đèo, ba mươi hành khách trên chuyến xe đều chết hết. Nghe tới đó, tôi lẹ làng móc thêm một đồng tiền nữa bỏ vào tô. Phải thú nhận rằng ở thời điểm đó, tôi chưa nghĩ đến cái chết bao giờ, tôi vẫn còn tha thiết muốn sống lắm. Ngày nay thì đã khác, nhưng lúc đó, ý tưởng phải biến mất khỏi mặt đất là điều tôi khó chấp nhận. Ngoài ra, tôi không muốn mất Jeffrey và Irene, tôi vẫn còn muốn gặp lại hai con tôi. Nói gì thì nói, chúng tôi vẫn lên đường, và trái với dự đoán, mọi việc đều an lành. Có lần chúng tôi đến một con đường đã bị phá hủy. Một số người Hunza đang sửa chữa. Chúng tôi phải đợi họ sửa xong, mới có thể tiếp tục lên đường. Cuối cùng, chúng tôi cũng đặt chân đến được một làng đầu tiên của người Hunza. Bác tài xế có rất nhiều bà con quyến thuộc, bạn bè ở đây, họ mững rỡ đón tiếp bác. Họ mời bác ta uống rượu. Khi tôi hỏi loại rượu gì, bác nói đó là Hunzapani. Pani có nghĩa là nước, nhưng Hunzapani lại không phải là nước, mà là rượu, và bác tài của chúng tôi uống thả dàn. Vài người khách bắt đầu trèo xuống xe, khiêng theo các bao tải. Rồi thêm vài người nữa, cho đến lúc chỉ còn có chúng tôi và bác tài. Rõ ràng là bác tài đang rất yêu đời, bác vừa lái, vừa ca hát ỏm tỏi. Nhưng con đường không đổi tốt hơn. Vẫn dốc và quanh co như trước đó. Tôi càng lúc càng thấy lo thêm. Cũng may mà chúng tôi đến Baltit an toàn. Thủ đô Baltit nằm ở độ cao ba ngàn năm trăm thước. Chúng tôi mướn phòng ở một quán trọ nhỏ. Không có đầy đủ tiện nghi, nhưng là một nơi có cảnh trí đẹp tuyệt vời. Khó thể tưởng tượng được một nơi đẹp như thế. Trước mắt chúng tôi là khung cảnh của cả dãy Hy Mã Lạp Sơn. Ở đây buổi sáng lúc mặt trời lên là một cảnh tượng thiên nhiên khó thể diễn tả nổi. Vừa đến nơi không lâu, thì chúng tôi đã có người nhà của ngài Mir đến thăm. Ngài Mir của Hunza, chính là vị vua của đất nước này. Theo sự phân chia chính trị, thì Hunza thuộc về Pakistan, nhưng thực tế nó được tự quản. Chúng tôi được báo là nhà vua mời dùng cơm ngày mai. Đúng là tin hay. Vì chúng tôi vừa đến, hãy còn xa lạ với mọi thứ, vậy mà đã được nhà vua mời dùng cơm. Chúng tôi hồ hởi chuẩn bị. Nhà vua sống trong một biệt thự bằng gỗ nhỏ, rất đẹp, chứ không ở trong lâu đài. Đúng hơn, chúng tôi có thể gọi đó là một ngôi nhà bằng gỗ tuyệt đẹp, với nhiều chạm trổ tinh vi bên ngoài. Khi chúng tôi bước vào đã thấy nhà vua và hoàng hậu ngồi chờ. Hoàng hậu có nước da trắng và đẹp như một bức tranh. Nhà vua lập tức báo cho chúng tôi biết là Ngài có bảy người con với Hoàng hậu. Tôi đoán có lẽ ông khoảng năm mươi, cái tuổi mà ở Hunza, ông vẫn còn là một người đàn ông trẻ. Việc đầu tiên nhà vua hỏi chúng tôi là đã đến đây bằng cách nào. Bằng xe Jeep, chúng tôi trả lời. Nhưng ý nhà vua không phải hỏi thế. Mà vì người ta cấm nhập cảnh vào đất nước này. Đã từ lâu, không có du khách nào đến đây cả. Lý do nhà vua hỏi điều đó là vì, Hunza nằm dọc theo biên giới Tây Tạng, và lúc đó Trung Hoa đã chiếm Tây Tạng. Mọi cửa biên giới ra vào ở những xứ này đều đã bị đóng. Không ai được vào hay ra. Thật ra lúc còn ở Karachi, chúng tôi đã nhận được giấy phép. Nhưng theo nhà vua, đó là do một sự lầm lẫn nào đó. Dầu gì, nhà vua rất vui mừng đón tiếp chúng tôi. Đã từ lâu ông mới được gặp những người ông có thể chuyện trò. Ong nói tiếng Anh rất lưu loát, thường du lịch qua Au châu, đến Côte D'Azur. Ong là bạn của Thái tử Rainier của Monaco, nên rất mong được gặp những người bạn tâm đầu. Phần còn lại của buổi nói chuyện xoay quanh một đề tài khá cụ thể là chúng tôi có biết sử dụng tủ lạnh xài dầu không. Gerd nói: "Vâng, chúng tôi cũng có biết chút ít về loại tủ lạnh đó". Thật vậy, lúc còn ở trên đảo ở Pakistan, chúng tôi đã có được sử dụng. Nhà vua bảo rằng ngài vừa mua một cái mới tinh, được mấy người Hunza khiêng trên lưng từ Baltit đến đây, nhưng không ai biết làm sao cho nó chạy. Nghe như thế, Gerd liền đi vào nhà bếp, và làm như chúng tôi vẫn thường làm hồi đó khi chiếc máy lạnh đình công, không chịu chạy. Anh lật úp nó lại. Phải để như thế qua đêm, Gerd dặn dò. Đến hôm sau khi chúng tôi trở lại, có thể nó sẽ hoạt động trở lại. Sáng hôm sau chúng tôi trở lại, Gerd lật tủ lạnh trở lại, và đúng là nó đã chịu hoạt động. Dĩ nhiên là từ đó, chúng tôi càng được nhà vua trọng đãi hơn. Ong mời Gerd ở lại để lo về điện lực cho nước này. Tuy nhiên, điều đó nằm ngoài dự tính của chúng tôi. Chúng tôi phải giải thích vì sau chúng tôi phải từ chối lời yêu cầu của ông, nhưng không từ chối lời mời dùng bữa trưa. Ngồi ở bàn ăn là nhà vua, hoàng hậu, hai người con gái của họ và chúng tôi. Trước mặt mỗi người có một tô đá nhỏ, trong có những cánh hoa hồng. Jeffrey chăm chú nhìn cái tô trước mặt mình, rồi bưng lên, nốc cạn. Tôi nói nhỏ với cậu bé: "Đó là nước rửa tay, không phải nước uống". Ra chính ở Hunza, cậu bé mới được học bài học về phong cách ẩm thực. Tôi ngắm nghía những chiếc muỗng, nĩa, dao bằng bạc, chạm trổ vương miện và có khắc tên. Tôi hỏi đó có phải là những đồ dùng lưu truyền từ nhiều đời. Nhà vua cho biết ông vừa cho làm gần đây thôi. Vì trước đây không lâu, mọi người còn ăn bằng tay. Tôi nhớ rất rõ mọi chi tiết trong bữa ăn đó. Có tất cả mười bốn món. Trước hết là món sườn, rồi cá, gà, ngỗng, rồi bao nhiêu thứ nữa mà tôi không thế biết là gì. Món nào cũng rất ngon miệng, và đằng sau mỗi ghế ngồi có một kẻ phục vụ chỉ riêng cho một người. Tôi hỏi nhà vua làm thế nào có tất cả những món ngon vật lạ ở một nơi xa xôi heo lánh này. Ong bảo là từ những người dân Hunza. Thay vì trả thuế, họ mang đến cho ông những gì họ có trong vườn hay trong nông trại của họ. Ngoài ra nhà vua còn lãnh tiền lương từ chính phủ Pakistan. Đổi lại, nhiệm vụ của ông là phải trữ đủ lúa mì, ngũ cốc cho mùa trồng trọt sang năm hay trong trường hợp có thiên tai. Nhà vua của Hunza là kẻ truyền thừa của Aga Khan, một nhà lãnh đạo tôn giáo của đạo Muslim. Nhà vua là đại diện của Aga Khan về mọi lãnh vực tôn giáo. Nhưng lý do thực sự thúc đẩy chúng tôi đặt chân đến Hunza là để tìm hiểu về sự trường thọ của người dân ở đây. Chúng tôi muốn biết họ sống như thế nào mà có thể thọ đến như thế mà vẫn còn đầy đủ sức khỏe. Nhất là về vấn đề dinh dưỡng của họ. Đó là đề tài chúng tôi nghiên cứu từ khi còn sống ở trang trại bên Mễ. Thì ra có hai việc liên quan đến sự trường thọ và sức khỏe của người dân ở đây. Thứ nhất là vì họ sống ở độ cao khoảng ba ngàn năm trăm thước, không khí rất loãng, nên bất cứ lúc nào họ cũng phải thở thật sâu, nhất là khi họ phải đi bộ trên những con đường dốc đá. Toàn lãnh thổ Hunza chỉ dành cho người đi bộ, trừ mỗi tuần có một chiếc xe Jeep chở hàng lên. Lý do thứ hai là ở đây có trồng loại trái mận (apricot) rất ngon và rất trù phú. Người dân phơi khô các trái này, và để ăn dần suốt năm. Hột của trái lại được họ ép làm dầu nấu ăn, thoa tóc hay trét lên bánh mì như một loại bơ. Ngoài điều đó ra, dinh dưỡng của họ cũng khá tồi. Họ không có điều kiện để ăn thịt. Họ chỉ ăn lúa mạch, gạo và một ít rau cải. Nếu không có trái apricot, chắc chắn là họ sẽ thiếu vitamin, và chất khoáng trong thành phần dinh dưỡng của họ. Có lẽ khó khăn nhất ở Hunza là vấn đề nước uống. Tôi sẽ kể một kinh nghiệm của chúng tôi về vấn đề nước. Hằng tháng, nhà vua sẽ ra ngồi ở một tiền sản, bốn phía đều để trống, phía trên có mái vòm tuyệt đẹp, nằm trên những cây cột được chạm khắc công phu. Tại nơi đó ông sẽ định luật. Ai có gì cần khiếu nại, đề đạt sẽ đến đó, và nhà vua sẽ giải quyết tất cả mọi tranh chấp. Những lời phán đoán của nhà vua là luật, và phải được tuân hành một cách tuyệt đối, không được thắc mắc. Có lần chúng tôi có mặt ở một phiên tòa như thế. Cách thức có lẽ giống như hàng trăm năm về trước. Nhà vua bảo với chúng tôi là phần lớn tranh chấp nằm trong việc khơi nguồn nước ở những vùng đất nhỏ xíu nằm trên các dốc núi. Nưóc đá tuyết được dẫn vào các con kênh nhỏ, và mỗi người nông dân luân phiên nhau cho nước chảy vào ruộng vườn của mình. Vì thế lúc nào cũng có người khiếu nại rằng người khác đã để nước chảy vào ruộng của họ lâu hơn thời gian cho phép. Chúng tôi đã có thói quen dùng bữa ở chỗ nhà vua, vì Gerd phải chăm sóc chiếc tủ lạnh và vì Jeff muốn chơi với hai đứa con gái nhỏ của nhà vua. Một ngày kia Jeff bị bịnh. Lần này khá nghiêm trọng. Rõ ràng là cậu bé không chịu được nguồn nước lấy từ trên núi, rất nhiều chất khoáng, nhưng khi xuống đến được các ống, nước đã trở nên đục lờ. Dân ở đây gọi đó là 'sữa đá lạnh'. Jeff sốt rất cao, không thể ăn uống gì. Tình thế rất nghiêm trọng. Chúng tôi phải đem cậu bé xuống núi đi bác sĩ càng sớm càng tốt. Ở trên đây, không có bác sĩ nào. Khi chúng tôi chào từ giã nhà vua, và gia đình ông, nhà vua trao cho chúng tôi chiếc đồng hồ Rolex bằng vàng. Ong nói, mỗi ngày, nó chạy chậm đi nữa phút, và nhờ chúng tôi gửi đến công ty ở Thụy Sĩ để sửa, rồi gửi cho Ngài Aga Khan ở Gstaad. Ngài Aga Khan sẽ đưa lại cho nhà vua khi thuận tiện. Chúng tôi không thể từ chối, đành phải mang theo món đồ đắt tiền đó, và giấu nó trong thùng đồ nghề. Không có cách gì khác hơn. Sau đó chúng tôi gửi chiếc Rolex đến Thụy Sĩ cùng với một lá thư bảo đảm. Vậy mà nó cũng tới nơi. Rồi trở về với nhà vua, bằng cách nào tôi cũng chẳng biết. Tôi cũng chẳng biết nhà vua có còn sống không. Nếu ông cũng thọ như những người Hunza khác, thì có lẽ ông vẫn còn sống. Nhà vua đã cho tài xế, cùng chiếc xe Jeep của ông đưa chúng tôi trở về Gilgit, như một món quà tiễn bạn. Dĩ nhiên là tài xế của nhà vua lái rất giỏi, và cũng không có đèo thêm người Hunza, hay bao tải nào. Ong cũng không uống giọt Hunzapani nào, nên con đường không thành vấn đề với ông. Thành ra con đường về dễ chịu hơn đoạn đường lên đến Baltit nhiều. Chỉ có điều là tôi quá lo âu cho tình trạng của Jeff. Cậu bé nằm im lìm suốt chặng đường đi. Xuống đến Gilgit, chúng tôi bay qua Lahore. Chúng tôi đã gửi điện tín cho người kỹ sư điện cùng làm với Gerd trong công trình Indus. Chúng tôi nhờ ông kiếm ngay dùm một căn hộ, và một vị bác sĩ. Nhờ thế, khi chúng tôi đến nơi, cả hai việc chúng tôi nhờ đều đã được lo chu toàn. Bác sĩ chẩn đoán là Jeff bị nhiễm trùng gan. Vài ngày sau, Gerd lại lên cơn sốt rét. Hình như chỉ khi nào đến Pakistan là bịnh anh lại tái phát, chứ không ở một nơi nào khác. Tôi phải để hai người nằm hai phòng riêng để khỏi lây nhau, và lo chăm sóc họ. Sau gần hai tuần, hai người mới khỏe lại. Còn tôi, hình như chẳng bao giờ bịnh trong suốt cả chuyến đi. Không có thì giờ để bịnh. Tôi quá bận rộn lo lắng sao cho cả ba người luôn được an toàn. Chiếc van Rover đang chờ đợi chúng tôi ở Lahore. Đây là một thành phố nằm ở biên giới giữa Pakistan và Ấn Độ. Chúng tôi phải vượt qua biên giới đó. Điều chúng tôi nhìn thấy trước tiên ở Ấn Độ là ngôi đền bằng vàng vĩ đại của người Sikh ở Amritsar. Ngôi đền nằm giữa hồ, tạo thành một cảnh tượng tuyệt vời, khiến người ta quên rằng đang có nhiều biến động trong khu vực này. Chúng tôi viếng thăm ngôi đền, lắng nghe những lời cầu kinh. Tín đồ người Sikh thuộc Ấn Độ giáo, nói chung là hiền lành. Vì thế việc có hai người Sikh giết con gái của Ngài Nehru là điều tôi không thể hiểu được. Chúng tôi lái xe đến New Delhi, rồi Jaipur và Ahmedabad, nơi có rất nhiều hang với các bức họa về Phật giáo, có lẽ đã hàng ngàn năm rồi. Sau đó chúng tôi đến Bombay, và nơi chúng tôi dùng chân trước tiên là khách sạn Hilton để được hưởng chút gió mát. Là người ngoại quốc, người ta có thể vào bất cứ khách sạn nào, ngồi trong các tiền sản máy lạnh, thư giãn trong không khí mát mẻ. Ở Bangalore, chúng tôi được một quan tòa mời đến thăm nhà. Tôi tỏ ý muốn được đi tắm. Ong dẫn tôi đến nhà tắm, nơi có một thùng nước nóng khổng lồ. Tôi bước vào, và xém bị phỏng. Thì ra tôi đã làm không đúng cách. Trước tiên là phải thoa xà-phòng vào mình, rồi dùng một cái gáo to, múc nước từ thùng mà xối vô mình. Giống như tắm vòi sen vậy. Từ miền Nam Ấn Độ, chúng tôi qua Tiruvannamalai ở gần Madras. Đây là một nơi rất nổi tiếng, vì có một trong những vị thánh giác ngộ nhất đã sống, một rishi tên là Ramana Maharshi. Ong mất vào năm 1950, nên chúng tôi không được gặp ông, nhưng chúng tôi đã đến đền thờ ông, và được biết về ông, về những giáo lý của ông qua một người Anh, tên là Arthur Osborne, người đã sống với ông gần hai mươi lăm năm. Ngôi đền là nơi những ai muốn được học hỏi về giáo lý của bất cứ vị thầy nào, đến sống, ăn ở, học chung với nhau. Ngài Ramana Maharshi đã luôn nhấn mạnh là điều kiện để đạt được giác ngộ là từ bỏ ảo tưởng về cái ngã. Người ta cần phải tự soi lại mình bằng câu hỏi: "Tôi là ai?" Những điều này để lại ấn tượng khá mạnh cho Gerd. Đến ngày nay, hằng năm, anh vẫn trở về ngôi đền này. Đối với tôi, thì khác. Ở thời điểm đó, tôi không ở vị trí để tự hỏi Tôi là ai. Tôi không biết phải làm sao để có thể thực hiện được điều đó. Và ngài Ramana Maharshi đã không có lời dạy cho việc đó. Chúng tôi sống ở trong đền, và ăn uống luôn tại đó. Người ta dùng các tàu lá chuối to làm dĩa, và ăn bằng tay. Jeff rất thích cung cách đó. Tôi tự nhủ thầm, ngài Ramana Maharshi chắc chắn phải là một nhà thông thái, một người rất vĩ đại, vì mọi thứ ở đây đều rất tuyệt vời. Nhưng tôi không biết làm sao để áp dụng những trí tuệ của ông cho bản thân tôi. Tôi mong ước có những lời giáo huấn cụ thể, một chương trình hành động rõ ràng. Rồi bỗng nhiên, tôi có cảm tưởng là tôi đang tiến rất gần đến mục tiêu của những điều mình ao ước, bắt đầu con đường đạo của tôi. -ooOoo- |
Chân thành cám ơn Đạo hữu Diệu Liên đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 09-2007)
[Trở
về trang Thư Mục]
last updated: 10-09-2007