§1. This was said by the Blessed One, said by the arahant, so I have heard: "I am a brahman, responsive to requests, open-handed, bearing my last body, an unsurpassed doctor & surgeon. You are my children, my sons, born from my mouth, born of the Dhamma, created by the Dhamma, heirs to the Dhamma, not heirs in material things.

Iti 100


Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: Này các Tỷ-kheo, Ta là Bà-la-môn, người được đến yêu cầu, tay luôn luôn thanh tịnh, mang thân cuối cùng, vô thượng y sĩ chữa trị, y sĩ giải phẫu. Các Thầy thật là con của Ta từ miệng sanh, từ Pháp sanh, từ Pháp tạo thành, thừa tự Pháp, không thừa tự tài vật.

§2. "Both formerly & now, it is only stress that I describe, and the cessation of stress."

SN 22.86

"Trước kia và nay, Ta chỉ tuyên bố khổ và đoạn diệt khổ."

§3. Once the Blessed One was staying at Kosambi in the Simsapa forest. Then, picking up a few Simsapa leaves with his hand, he asked the monks, "What do you think, monks: Which are more numerous, the few Simsapa leaves in my hand or those overhead in the Simsapa forest?"

Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambi, tại rừng simsapà. Rồi Thế Tôn lấy tay nhặt lên một ít lá simsapà, rồi bảo các Tỷ-kheo : - Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, cái ǵ là nhiều hơn, một số ít lá simsapà mà Ta nắm lấy trong tay, hay lá trong rừng simsapà?

'The leaves in the hand of the Blessed One are few in number, lord. Those overhead in the forest are far more numerous."

'Thật là quá ít, bạch Thế Tôn, một ít lá simsapà mà Thế Tôn nắm lấy trong tay, và thật là quá nhiều lá trong rừng simsapà."

"In the same way, monks, those things that I have known with direct knowledge but have not taught are far more numerous [than what I have taught]. And why haven't I taught them? Because they are not connected with the goal, do not relate to the rudiments of the holy life, and do not lead to disenchantment, to dispassion, to cessation, to calm, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding. That is why I have not taught them.

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thật là quá nhiều, những ǵ Ta đă thắng tri mà không nói cho các Ông ! Thật là quá ít những ǵ mà Ta đă nói ra! Nhưng tại sao, này các Tỷ-kheo, Ta lại không nói ra những điều ấy ? V́ rằng, này các Tỷ-kheo, những điều ấy không liên hệ đến mục đích, không phải là căn bản cho Phạm hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Do vậy, Ta không nói lên những điều ấy.

"And what have I taught? 'This is stress... This is the origination of stress... This is the cessation of stress... This is the path of practice leading to the cessation of stress': This is what I have taught. And why have I taught these things? Because they are connected with the goal, relate to the rudiments of the holy life, and lead to disenchantment, to dispassion, to cessation, to calm, to direct knowledge, to self-awakening, to Unbinding. This is why I have taught them.

"Và này các Tỷ-kheo, điều ǵ mà Ta nói ? "Đây là Khổ", này các Tỷ-kheo, là điều Ta nói. "Đây là Khổ tập", là điều Ta nói. "Đây là Khổ diệt", là điều Ta nói. "Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt", là điều Ta nói. Nhưng tại sao, này các Tỷ-kheo, Ta lại nói ra những điều ấy ? V́ rằng, này các Tỷ-kheo, những điều ấy liên hệ đến mục đích, là căn bản cho Phạm hạnh, đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Do vậy, Ta nói lên những điều ấy.

"Therefore your duty is the contemplation, 'This is stress... This is the origination of stress... This is the cessation of stress.' Your duty is the contemplation, 'This is the path of practice leading to the cessation of stress.'"

SN 56.31

"Do vậy, một cố gắng cần phải làm để rơ biết 'Đây là Khổ... Đây là Khổ tập... Đây là Khổ diệt'. Một cố gắng cần phải làm để rơ biết,'Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt'"

§4. Then the monks went to Ven. Sariputta. On arrival, they exchanged courteous greetings with him. After an exchange of friendly greetings & courtesies, they sat to one side. As they were sitting there, they said to Ven. Sariputta, "Friend Sariputta, we want to go to the countryside of the outlying districts and to take up residence there. We have already informed the Teacher."

Rồi các Tỷ-kheo ấy đi đến Tôn giả Sàriputta. Sau khi đến, các vị ấy nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy nói với Tôn giả Sàriputta: - "Chúng tôi muốn, thưa Hiền giả Sàriputta, đi đến quốc độ phương Tây. Chúng tôi muốn trú ở quốc độ phương Tây. Bậc Đạo Sư đă cho phép chúng tôi."

"Friends, in foreign lands there are wise nobles & priests, householders & contemplatives — for the people there are wise & discriminating — who will question a monk: 'What is your teacher's doctrine? What does he teach?' Have you listened well to the teachings — grasped them well, attended to them well, considered them well, penetrated them well by means of discernment — so that in answering you will speak in line with what the Blessed One has said, will not misrepresent the Blessed One with what is unfactual, will answer in line with the Dhamma, and no one whose thinking is in line with the Dhamma will have grounds for criticizing you?"

"Này các Hiền giả, có những người đặt câu hỏi với vị Tỷ-kheo thường đi các quốc độ khác nhau: Các Sát-đế-lỵ hiền trí, các Bà-la-môn hiền trí, các Gia chủ hiền trí, các Sa-môn hiền trí. Này chư Hiền giả, các bậc hiền trí với óc ưa quán sát (sẽ hỏi): "Bậc Đạo Sư của Tôn giả nói ǵ, tuyên bố ǵ? Pháp có được chư Tôn giả khéo nghe, khéo nắm giữ, khéo tác ư, khéo thọ tŕ, khéo thâm nhập với trí tuệ không?" Để khi trả lời, các Tôn giả có thể lập lại các ư kiến của Thế Tôn, không có xuyên tạc Thế Tôn với điều không thật, có thể trả lời tùy pháp, đúng với Chánh pháp, và không để một vị đồng pháp nào, nói lời đúng pháp, có thể có lư do để quở trách?"

"We would come from a long way away to hear the explication of these words in Ven. Sariputta's presence. It would be good if Ven. Sariputta himself would enlighten us as to their meaning."

"Chúng tôi có thể đi đến thật xa, thưa Tôn giả, để nghe tận mặt Tôn giả Sàriputta nói về ư nghĩa của lời nói này! Lành thay, nếu được Tôn giả Sàriputta giải thích ư nghĩa của lời nói này!"

"Then in that case, friends, listen & pay close attention. I will speak."

"As you say, friend," the monks responded.

"Vậy này các Hiền giả, hăy lắng nghe và khéo tác ư, tôi sẽ nói."

"Thưa vâng, Tôn giả.

Ven. Sariputta said: "Friends, in foreign lands there are wise nobles & priests, householders & contemplatives — for the people there are wise & discriminating — who will question a monk: 'What is your teacher's doctrine? What does he teach?' Thus asked, you should answer, 'Our teacher teaches the subduing of passion & desire.'

"Này các Hiền giả, có những người đặt câu hỏi với vị Tỷ-kheo thường đi các quốc độ khác nhau: Các Sát-đế-lỵ hiền trí, các Bà-la-môn hiền trí, các Gia chủ hiền trí, các Sa-môn hiền trí. Này các Hiền giả, các bậc hiền trí với óc ưa quán sát (có thể hỏi): 'Bậc Đạo Sư của Tôn giả nói ǵ, tuyên bố ǵ?' Được hỏi vậy, này các Hiền giả, các Hiền giả phải trả lời: 'Này các Hiền giả, bậc Đạo Sư của chúng tôi nói đến sự điều phục dục và tham'.

"Having thus been answered, there may be wise nobles & priests, householders & contemplatives... who will question you further, 'And your teacher teaches the subduing of passion & desire for what?' Thus asked, you should answer, 'Our teacher teaches the subduing of passion & desire for form... for feeling... for perception... for fabrications. Our teacher teaches the subduing of passion & desire for consciousness.'

"Được trả lời như vậy, này các Hiền giả, có thể có người hỏi thêm câu hỏi như sau: Có những vị Sát-đế-lỵ hiền trí, các Bà-la-môn hiền trí, các Gia chủ hiền trí, các những Sa-môn hiền trí. Này chư Hiền giả, các bậc hiền trí với óc ưa quán sát (có thể hỏi): 'Đối với cái ǵ, bậc Đạo Sư của các Tôn giả nói đến sự điều phục dục và tham?'Được hỏi như vậy, này các Hiền giả, các Hiền giả phải trả lời như sau: -Đối với sắc, này các Hiền giả, bậc Đạo Sư chúng tôi nói về sự điều phục dục và tham. -Đối với thọ, ... -Đối với tưởng, ... -Đối với các hành, ... -Đối với thức, bậc Đạo Sư chúng tôi nói về sự điều phục dục và tham".

"Having thus been answered, there may be wise nobles & priests, householders & contemplatives... who will question you further, 'And seeing what danger does your teacher teach the subduing of passion & desire for form... for feeling... for perception... for fabrications. Seeing what danger does your teacher teach the subduing of passion & desire for consciousness?'

"Được trả lời như vậy, này các Hiền giả, có thể có người hỏi thêm như sau: Các Sát-đế-lỵ hiền trí, các Bà-la-môn hiền trí, các Gia chủ hiền trí, các Sa-môn hiền trí. Các vị hiền trí có óc quán sát, này các Hiền giả, (có thể hỏi): 'Nhưng thấy sự nguy hiểm ǵ, bậc Đạo Sư các Tôn giả nói đến sự điều phục dục và tham đối với sắc... đối với thọ... đối với tưởng... đối với các hành, bậc Đạo Sư các Tôn giả nói đến sự điều phục dục và tham đối với thức?'

Thus asked, you should answer, 'When one is not free from passion, desire, love, thirst, fever, & craving for form, then from any change & alteration in that form, there arises sorrow, lamentation, pain, grief, & despair. When one is not free from passion... for feeling... for perception... for fabrications... When one is not free from passion, desire, love, thirst, fever, & craving for consciousness, then from any change & alteration in that consciousness, there arise sorrow, lamentation, pain, grief, & despair. Seeing this danger, our teacher teaches the subduing of passion & desire for form... for feeling... for perception... for fabrications. Seeing this danger our teacher teaches the subduing of passion & desire for consciousness.'

Được hỏi như vậy, này các Hiền giả, các Ông cần phải trả lời như sau: 'Này các Hiền giả, đối với sắc, ai chưa viễn ly tham, chưa viễn ly dục, chưa viễn ly ái, chưa viễn ly khát, chưa viễn ly nhiệt t́nh, chưa viễn ly khát ái, khi sắc ấy biến hoại, đổi khác, sẽ khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, năo. Đối với thọ... đối với tưởng... đối với các hành... đối với thức, ai chưa viễn ly tham, chưa viễn ly dục, chưa viễn ly ái, chưa viễn ly khát, chưa viễn ly nhiệt t́nh, chưa viễn ly khát ái, khi thức ấy biến hoại, đổi khác, sẽ khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, năo. Này chư Hiền giả, do thấy sự nguy hiểm này đối với sắc mà bậc Đạo Sư của chúng tôi nói lên sự điều phục dục và tham'.

"Having thus been answered, there may be wise nobles & priests, householders & contemplatives... who will question you further, 'And seeing what benefit does your teacher teach the subduing of passion & desire for form... for feeling... for perception... for fabrications. Seeing what benefit does your teacher teach the subduing of passion & desire for consciousness?'

"Được trả lời như vậy, này các Hiền giả, có thể có người hỏi thêm như sau: Các Sát-đế-lỵ hiền trí, các Bà-la-môn hiền trí, các Gia chủ hiền trí, các Sa-môn hiền trí. Các vị hiền trí có óc quán sát, này các Hiền giả, (có thể hỏi): 'Nhưng thấy sự lợi ích ǵ, bậc Đạo Sư các Tôn giả nói đến sự điều phục dục và tham đối với sắc... đối với thọ... đối với tưởng... đối với các hành; bậc Đạo Sư các Tôn giả nói đến sự điều phục dục và tham đối với thức?'

Thus asked, you should answer, 'When one is free from passion, desire, love, thirst, fever, & craving for form, then with any change & alteration in that form, there does not arise any sorrow, lamentation, pain, grief, or despair. When one is free from passion... for feeling... for perception... for fabrications... When one is free from passion, desire, love, thirst, fever, & craving for consciousness, then with any change & alteration in that consciousness, there does not arise any sorrow, lamentation, pain, grief, or despair. Seeing this benefit, our teacher teaches the subduing of passion & desire for form... for feeling... for perception... for fabrications. Seeing this benefit our teacher teaches the subduing of passion & desire for consciousness.'

Được hỏi vậy, này các Hiền giả, các Hiền giả phải trả lời như sau: -'Đối với sắc, này các Hiền giả, ai đă viễn ly tham, đă viễn ly dục, đă viễn ly ái, đă viễn ly khát, đă viễn ly nhiệt t́nh, đă viễn ly khát ái, khi sắc ấy biến hoại, đổi khác, sẽ không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, năo. -Đối với thọ... -Đối với tưởng... -Đối với các hành... -Đối với thức, này các Hiền giả, ai đă viễn ly tham, đă viễn ly dục, đă viễn ly ái, đă viễn ly khát, đă viễn ly nhiệt t́nh, đă viễn ly khát ái, khi thức ấy biến hoại, đổi khác, sẽ không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, năo. Do thấy sự lợi ích này, này các Hiền giả, bậc Đạo Sư của chúng tôi nói đến sự điều phục dục và tham đối với sắc... đối với thọ... đối với tưởng... đối với các hành; bậc Đạo Sư của chúng tôi nói đến sự điều phục dục và tham đối với thức'.

"Friends, if one who entered & remained in unskillful mental qualities were to have a pleasant abiding in the here & now — unthreatened, undespairing, unfeverish — and on the break-up of the body, after death, could expect a good destination, then the Blessed One would not advocate the abandoning of unskillful mental qualities. But because one who enters & remains in unskillful mental qualities has a stressful abiding in the here & now — threatened, despairing, & feverish — and on the break-up of the body, after death, can expect a bad destination, that is why the Blessed One advocates the abandoning of unskillful mental qualities.

"Và này các Hiền giả, đạt được và an trú trong các bất thiện pháp và ngay trong đời sống hiện tại, sống được an lạc, không bị chướng ngại, không bị ưu năo, không bị nhiệt năo, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh thiện thú, đây không phải là sự đoạn tận các bất thiện pháp được Thế Tôn tán thán. Nhưng này các Hiền giả, v́ rằng đạt được và an trú trong các bất thiện pháp, và ngay trong đời sống hiện tại, sống bị đau khổ, bị chướng ngại, bị ưu năo, bị nhiệt năo và sau khi thân hoại mạng chung, sẽ phải sanh ác thú. Do vậy, đây là sự đoạn tận các bất thiện pháp được Thế Tôn tán thán.

"If one who entered & remained in skillful mental qualities were to have a stressful abiding in the here & now — threatened, despairing, & feverish — and on the break-up of the body, after death, could expect a bad destination, then the Blessed One would not advocate entering into skillful mental qualities. But because one who enters & remains in skillful mental qualities has a pleasant abiding in the here & now — unthreatened, undespairing, unfeverish — and on the break-up of the body, after death, can expect a good destination, that is why the Blessed One advocates entering into skillful mental qualities."

SN 22.2

"Và này các Hiền giả, đạt được và an trú trong các thiện pháp, và ngay trong đời sống hiện tại, sống đau khổ, bị chướng ngại, bị ưu năo, bị nhiệt năo, và sau khi thân hoại mạng chung, sẽ phải sanh ác thú. Đây không phải là sự thành tựu các thiện pháp được Thế Tôn tán thán. Nhưng này các Hiền giả, v́ rằng đạt được và an trú trong các thiện pháp, và ngay trong đời sống hiện tại, sống được an lạc, không bị chướng ngại, không bị ưu năo, không bị nhiệt năo, và sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh thiện thú. Do vậy, đây là sự thành tựu các thiện pháp, được Thế Tôn tán thán."

§5. "Monks, doctors give a purgative for warding off diseases caused by bile, diseases caused by phlegm, diseases caused by the internal wind property. There is a purging there; I don't say that there's not, but it sometimes succeeds and sometimes fails. So I will teach you the noble purgative that always succeeds and never fails, a purgative whereby beings subject to birth are freed from birth; beings subject to aging are freed from aging; beings subject to death are freed from death; beings subject to sorrow, lamentation, pain, distress & despair are freed from sorrow, lamentation, pain, distress & despair. Listen & pay close attention. I will speak."

"As you say, lord," the monks responded.

"Các y sư, này các Tỷ-kheo, cho thuốc xổ để chận đứng các bệnh khởi lên từ mật, để chận đứng các bệnh khởi lên từ đàm, để chận đứng các bệnh khởi lên từ gió. Này các Tỷ-kheo, đây chỉ là thuốc xổ. Ta tuyên bố rằng đây không phải là không có, và này các Tỷ-kheo, thuốc xổ này có thành công và cũng có thất bại. Và này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết và thuốc xổ các bậc Thánh, thuốc xổ này thành công, không có thất bại. Do nhân thuốc xổ này nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh ; các chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già, các chúng sanh bị chết được giải thoát khỏi chết ; các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, năo được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, năo. Hăy nghe và khéo tác ư, Ta sẽ nói."

"Thưa vâng, bạch Thế Tôn." Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

The Blessed One said: "Now, what is the noble purgative that always succeeds and never fails, a purgative whereby beings subject to birth are freed from birth; beings subject to aging are freed from aging; beings subject to death are freed from death; beings subject to sorrow, lamentation, pain, distress & despair are freed from sorrow, lamentation, pain, distress & despair?

"In one who has right view, wrong view is purged away, and the many evil, unskillful mental qualities that come into play in dependence on wrong view are purged away as well, while the many skillful mental qualities that depend on right view go to the culmination of their development.

"In one who has right resolve, wrong resolve is purged away...

"In one who has right speech, wrong speech is purged away...

"In one who has right action, wrong action is purged away...

"In one who has right livelihood, wrong livelihood is purged away...

"In one who has right effort, wrong effort is purged away...

"In one who has right mindfulness, wrong mindfulness is purged away...

"In one who has right concentration, wrong concentration is purged away...

"In one who has right knowledge, wrong knowledge is purged away...

Thế Tôn nói như sau : "Này các Tỷ-kheo, thế nào là thuốc xổ bậc Thánh, thuốc xổ này thành công không có thất bại. Do duyên thuốc xổ bậc Thánh này nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh ; các chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già, các chúng sanh bị chết được giải thoát khỏi chết ; các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, năo được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, năo ?

"Với người có chánh kiến, tà kiến bị xổ ra. Các ác bất thiện pháp do duyên tà kiến sanh khởi nên các pháp ấy được xổ ra và các pháp thiện do duyên với chánh kiến đi đến viên măn trong tu tập.

"Với người có chánh tư duy, tà tư duy bị xổ ra...

"Với người có chánh ngữ, tà ngữ bị xổ ra...

"Với người có chánh nghiệp, tà nghiệp bị xổ ra...

"Với người có chánh mạng, tà mạng bị xổ ra...

"Với người có chánh tinh tấn, tà tinh tấn bị xổ ra...

"Với người có chánh niệm, tà niệm bị xổ ra...

"Với người có chánh định, tà định bị xổ ra...

"Với người có chánh trí, tà trí bị xổ ra...

"In one who has right release, wrong release is purged away, and the many evil, unskillful mental qualities that come into play in dependence on wrong release are purged away as well, while the many skillful mental qualities that depend on right release go to the culmination of their development.

"Với người có chánh giải thoát, này các Tỷ-kheo, tà giải thoát bị xổ ra. Các ác bất thiện pháp do duyên tà giải thoátsanh khởi nên các pháp ấy được xổ ra và các pháp thiện do duyên với chánh giải thoát đi đến viên măn trong tu tập.

"This, monks, is the noble purgative that always succeeds and never fails, a purgative whereby beings subject to birth are freed from birth; beings subject to aging are freed from aging; beings subject to death are freed from death; beings subject to sorrow, lamentation, pain, distress & despair are freed from sorrow, lamentation, pain, distress & despair."

AN 10.108

"Này các Tỷ-kheo, đây là thuốc xổ bậc Thánh, thuốc xổ này chỉ thành công, không thất bại. Do nhân thuốc xổ này nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh ; các chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già, các chúng sanh bị chết được giải thoát khỏi chết ; các chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, năo được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, năo."

§6. "There are these three types of sick people to be found existing in the world. Which three?

"There is the case of the sick person who — regardless of whether he does or does not receive amenable food, regardless of whether he does or does not receive amenable medicine, regardless of whether he does or does not receive proper nursing — will not recover from that illness. There is the case of the sick person who — regardless of whether he does or does not receive amenable food, regardless of whether he does or does not receive amenable medicine, regardless of whether he does or does not receive proper nursing — will recover from that illness. There is the case of the sick person who will recover from that illness if he receives amenable food, amenable medicine, & proper nursing, but not if he doesn't.

"Có mặt ba hạng người bệnh này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba ?

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, một hạng người bệnh, dầu có được ăn các món thích hợp, dầu có được các thuốc men thích hợp hay không được các thuốc men thích hợp, dầu có được sự chăm sóc thích đáng hay không được sự chăm sóc thích đáng, không được b́nh phục từ chứng bệnh ấy. -Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người bệnh, dầu có được ăn các món thích hợp, dầu có được các thuốc men thích hợp hay không được các thuốc men thích hợp, dầu có được sự chăm sóc thích đáng hay không được sự chăm sóc thích đáng, được b́nh phục từ chứng bệnh ấy. -Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người bệnh, có được ăn các món thích hợp, có các thuốc men thích hợp, có được sự chăm sóc thích đáng, được b́nh phục từ chứng bệnh ấy, nếu không được như vậy th́ sẽ không b́nh phục từ chứng bệnh ấy.

"Now, it is because of the sick person who will recover from that illness if he receives amenable food, amenable medicine, & proper nursing — but not if he doesn't — that food for the sick has been allowed, medicine for the sick has been allowed, nursing for the sick has been allowed. And it is because there is this sort of sick person that the other sorts of sick persons are to be nursed as well [on the chance that they may actually turn out to need and benefit from such nursing].

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng người bệnh này, có được các món ăn thích hợp, không phải không được, có các thuốc men thích hợp, không phải không được, có được sự chăm sóc thích đáng, không phải không được, được b́nh phục khỏi chứng bệnh ấy. Chính do duyên với hạng người bệnh này, này các Tỷ-kheo, các món ăn thích hợp với người bệnh đă được chấp thuận, các thuốc men thích hợp với người bệnh đă được chấp thuận., sự chăm sóc thích đáng với người bệnh đă được chấp thuận. Chính do duyên với hạng người bệnh này, này các Tỷ-kheo, các người bệnh khác cần phải được chăm sóc như vậy.

"These are the three types of sick people to be found existing in the world.

"Ba hạng người bệnh này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.

"In the same way, these three types of people, like the three types of sick people, are to be found existing in the world. Which three?

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có ba hạng người này, có mặt, xuất hiện ở đời, có thể so sánh với ba hạng người bệnh này. Thế nào là ba ?

"There is the case of the person who — regardless of whether he does or doesn't get to see the Tathagata, regardless of whether he does or doesn't get to hear the Dhamma & Discipline proclaimed by the Tathagatha — will not alight on the lawfulness, the rightness of skillful mental qualities. There is the case of the person who — regardless of whether he does or doesn't get to see the Tathagata, regardless of whether he does or doesn't get to hear the Dhamma & Discipline proclaimed by the Tathagatha — will alight on the lawfulness, the rightness of skillful mental qualities. There is the case of the person who will alight on the lawfulness, the rightness of skillful mental qualities if he gets to see the Tathagata and gets to hear the Dhamma & Discipline proclaimed by the Tathagatha, but not if he doesn't.

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được thấy Như Lai hay không được thấy Như Lai, được nghe Pháp và Luật do Như Lai tŕnh bày, hay không được nghe Pháp và Luật do Như Lai tŕnh bày, không có đi vào tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với các Thiện pháp. -Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng người không được thấy Như Lai, được nghe Pháp và Luật do Như Lai tŕnh bày, hay không được nghe Pháp và Luật do Như Lai tŕnh bày, đi vào tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với các Thiện pháp. -Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được thấy Như Lai, không phải không được thấy, được nghe Pháp và Luật do Như Lai tŕnh bày, không phải không được nghe Pháp và Luật do Như Lai tŕnh bày, đi vào tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với các Thiện pháp.

"Now, it is because of the person who will alight on the lawfulness, the rightness of skillful mental qualities if he gets to see the Tathagata and gets to hear the Dhamma & Discipline proclaimed by the Tathagata — but not if he doesn't — that the teaching of the Dhamma has been allowed. And it is because there is this sort of person that the other sorts of persons are to be taught the Dhamma as well [on the chance that they may actually turn out to need and benefit from the teaching].

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người được thấy Như Lai, không phải không được thấy, được nghe Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, không phải không được nghe, đi vào tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với các Thiện pháp. Chính do duyên hạng người này, này các Tỷ-kheo, thuyết pháp được chấp nhận, và chính do duyên hạng người này, này các Tỷ-kheo, pháp được thuyết giảng cho các người khác.

"These are the three types of people, like the three types of sick people, to be found existing in the world."

AN 3.22

"Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời được ví dụ với ba hạng người bệnh."

§7. Then at that moment the Blessed One exclaimed,

Freedom from disease:   the foremost good fortune.
Unbinding:      the foremost ease.
The eightfold:  the foremost of paths
	going to the
	   Deathless,
	   Secure.

§7. Rồi Thế Tôn, thời ấy nói lên cảm hứng ngữ như sau:

Không bệnh, lợi tối thắng, 
Niết-bàn, lạc tối thắng, 
Bát chánh là độc đạo, 
An ổn và bất tử. 

When this was said, Magandiya the wanderer said to the Blessed One, "It's amazing, master Gotama. It's astounding, how this, too, is well-stated by master Gotama: 'Freedom from disease: the foremost good fortune. Unbinding: the foremost ease.' We have also heard this said by earlier wanderers in the lineage of our teachers: 'Freedom from disease: the foremost good fortune. Unbinding: the foremost ease.' This agrees with that."

Khi được nghe vậy, du sĩ Magandiya bạch Thế Tôn: – Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Lời này được Tôn giả Gotama khéo nói: Không bệnh, lợi tối thắng, Niết-bàn, lạc tối thắng. Con cũng vậy, thưa Tôn giả Gotama, con cũng đă được nghe lời này, do các vị Tôn sư, đại Tôn sư các du sĩ đă nói: Không bệnh, lợi tối thắng, Niết-bàn, lạc tối thắng. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, lời nói này lời nói kia phù hợp nhau.

"But as for what you have heard said by earlier wanderers in the lineage of your teachers, Magandiya — 'Freedom from disease: the foremost good fortune. Unbinding: the foremost ease' — which freedom from disease is that, which Unbinding?"

– Nhưng này Magandiya, điều mà Ông đă được nghe do các vị Tôn sư, đại Tôn sư các du sĩ đă nói: Không bệnh, lợi tối thắng, Niết-bàn, lạc tối thắng. Thế nào là không bệnh ? Thế nào là Niết-bàn ?

When this was said, Magandiya the wanderer rubbed his own limbs with his hand. "This is that freedom from disease, master Gotama," he said. "This is that Unbinding. For I am now free from disease, happy, and nothing afflicts me."

Khi được nói vậy, du sĩ Magandiya, tự lấy tay xoa bóp chân tay của ḿnh và nói: – Thế nào là không bệnh, thưa Tôn giả Gotama ? Thế nào là Niết-bàn, thưa Tôn giả Gotama ? Tôi nay không bệnh, an lạc, không có bệnh tật ǵ ở tôi.

"Magandiya, it's just as if there were a man blind from birth who couldn't see black objects... white... blue... yellow... red... or pink objects; who couldn't see even or uneven places, the stars, the sun, or the moon. He would hear a man with good eyesight saying, 'How wonderful, good sirs, is a white cloth — beautiful, spotless, & clean.' He would go in search of something white. Then another man would fool him with a grimy, oil-stained rag: 'Here, my good man, is a white cloth — beautiful, spotless, & clean.' The blind man would take it and put it on. Having put it on, gratified, he would exclaim words of gratification, 'How wonderful, good sirs, is a white cloth — beautiful, spotless, & clean.' Now what do you think, Magandiya? When that man blind from birth took the grimy, oil-stained rag and put it on; and, having put it on, gratified, exclaimed words of gratification, 'How wonderful, good sirs, is a white cloth — beautiful, spotless, & clean': Did he do so knowing & seeing, or out of faith in the man with good eyesight?"

– Này Magandiya, ví như người sanh ra đă mù, không thấy sắc đen hay sắc trắng, không thấy sắc xanh, không thấy sắc vàng, không thấy sắc đỏ, không thấy sắc đỏ tía, không thấy cái ǵ thăng bằng, không thăng bằng, không thấy các v́ sao, không thấy mặt trăng, mặt trời. Người ấy nghe một người có mắt nói như sau: "Thật tốt đẹp thay tấm vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh". Và người ấy t́m tấm vải trắng. Rồi có một người khác đánh lừa người ấy với một tấm y thô, dính dầu và đất và nói: "Này bạn, đây là tấm vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh cho bạn". Người ấy lấy tấm y ấy, sau khi lấy, đắp trên ḿnh. Sau khi đắp trên ḿnh, người ấy hoan hỷ thốt lên lời nói tự măn: "Thật tốt đẹp thay tấm vải trắng xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh". Này Magandiya, Ông nghĩ thế nào ? Kẻ sanh ra đă mù kia, do biết, do thấy, lấy tấm y thô, dính dầu và đất ấy để rồi sau khi lấy người ấy đắp trên ḿnh, sau khi đắp trên ḿnh; người ấy hoan hỷ thốt lên lời nói tự măn: "Thật tốt đẹp thay, tấm vải trắng xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh", hay là do ḷng tin người có mắt ?

"Of course he did it not knowing & not seeing, master Gotama, but out of faith in the man with good eyesight."

– Thưa Tôn giả Gotama, do không biết, không thấy, kẻ sanh ra đă mù kia lấy tấm y thô, dính dầu và đất ấy để rồi sau khi lấy, người ấy đắp trên ḿnh, sau khi đắp trên ḿnh, người ấy hoan hỷ thốt lên lời nói tự măn: "Thật tốt đẹp thay tấm vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh" là do ḷng tin người có mắt.

"In the same way, Magandiya, the wanderers of other sects are blind & eyeless. Without knowing freedom from disease, without seeing Unbinding, they still speak this verse:

'Freedom from disease: the foremost good fortune.
Unbinding:  the foremost ease.'

"This verse was stated by earlier worthy ones, fully self-awakened:

'Freedom from disease:  the foremost good fortune.
Unbinding:  the foremost ease.
The eightfold:  the foremost of paths
	going to the
	   Deathless,
	   Secure.'

"Cũng vậy, này Magandiya, các du sĩ mù ḷa, không có mắt, không biết không bệnh, không thấy Niết-bàn nhưng nói lên câu kệ này:

Không bệnh, lợi tối thắng, 
Niết-bàn, lạc tối thắng. 

"Này Magandiya, câu kệ này trong thời quá khứ đă được các bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nói lên:

Không bệnh, lợi tối thắng, 
Niết-bàn, lạc tối thắng. 
Bát chánh là độc đạo, 
An ổn và bất tử. 

"But now it has gradually become a verse of run-of-the-mill people.

"This body, Magandiya, is a disease, a cancer, an arrow, painful, an affliction. And yet you say, with reference to this body, which is a disease, a cancer, an arrow, painful, an affliction: 'This is that freedom from disease, master Gotama. This is that Unbinding,' for you don't have the noble vision with which you would know freedom from disease and see Unbinding."

"Và câu kệ ấy này được dần dần lan tràn đến dân chúng phàm phu.

"Nhưng này Magandiya, thân này trở thành bệnh khổ, trở thành cục bướu, trở thành mũi tên, trở thành bất hạnh, trở thành bệnh chướng và với thân trở thành bệnh khổ, trở thành cục bướu, trở thành mũi tên, trở thành bất hạnh, trở thành bệnh chướng này, Ông nói: "Thưa Tôn giả Gotama, cái này là không bệnh ấy, cái này là Niết-bàn ấy". Như vậy, này Magandiya, Ông không có Thánh nhăn ấy, với Thánh nhăn ấy Ông có thể biết không bệnh, có thể thấy Niết-bàn."

"I'm convinced, master Gotama, that you can teach me the Dhamma in such a way that I would know freedom from disease, that I would see Unbinding."

"Con có ḷng tin Tôn giả Gotama như sau: "Tôn giả Gotama có thể thuyết pháp cho ta để ta có thể biết không bệnh, có thể thấy Niết-bàn".

"Magandiya, it's just as if there were a man blind from birth who couldn't see black objects... white... blue... yellow... red... the sun or the moon. His friends, companions, & relatives would take him to a doctor. The doctor would concoct medicine for him, but in spite of the medicine his eyesight would not appear or grow clear. What do you think, Magandiya? Would that doctor have nothing but his share of weariness & disappointment?"

"Yes, master Gotama."

"Này Magandiya, ví như người sanh ra đă mù, không thấy sắc đen hay sắc trắng, không thấy sắc xanh, không thấy sắc vàng, không thấy sắc đỏ, không thấy sắc đỏ tía, không thấy cái ǵ thăng bằng, không thăng bằng, không thấy các v́ sao, không thấy mặt trăng, mặt trời. Các bạn bè thân hữu, bà con huyết thống của người ấy mời một y sĩ khoa mổ xẻ. Vị y sĩ khoa mổ xẻ này cho người ấy thuốc. Người ấy sau khi dùng thuốc, mắt không khởi lên, mắt không được sáng tỏ. Này Magandiya, Ông nghĩ thế nào ? Có phải vị thầy thuốc ấy cảm thấy mệt mỏi, phiền năo không?"

"Thưa vâng, Tôn giả Gotama."

"In the same way, Magandiya, if I were to teach you the Dhamma — 'This is that freedom from disease; this is that Unbinding' — and you on your part did not know freedom from disease or see Unbinding, that would be wearisome for me; that would be troublesome for me."

"Cũng vậy, này Magandiya, nếu Ta thuyết pháp cho Ông: "Đây là không bệnh ấy, đây là Niết-bàn ấy", và Ông không biết không bệnh, không biết Niết-bàn thời như vậy làm Ta mệt mỏi, làm Ta phiền năo."

"I'm convinced, master Gotama, that you can teach me the Dhamma in such a way that I would know freedom from disease, that I would see Unbinding."

"Con có ḷng tin Tôn giả Gotama như sau: "Tôn giả Gotama có thể thuyết pháp cho ta để ta có thể biết không bệnh, có thể thấy Niết-bàn".

"Magandiya, it's just as if there were a man blind from birth who couldn't see black objects... white... blue... yellow... red... the sun or the moon. Now suppose that a certain man were to take a grimy, oil-stained rag and fool him, saying, 'Here, my good man, is a white cloth — beautiful, spotless, & clean.' The blind man would take it and put it on.

"Này Magandiya, ví như người sanh ra đă mù, không thấy sắc đen hay sắc trắng, không thấy sắc xanh, không thấy sắc vàng, không thấy sắc đỏ, không thấy sắc đỏ tía, không thấy cái ǵ thăng bằng, không thăng bằng, không thấy các v́ sao, không thấy mặt trăng, mặt trời. Người ấy nghe một người có mắt nói như sau: "Thật tốt đẹp thay tấm vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh", và người ấy đi t́m tấm vải trắng. Rồi có một người khác đánh lừa người ấy với một tấm y thô, dính dầu và đất và nói: "Này bạn, đây là tấm vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh cho bạn". Người ấy lấy tấm y ấy.

"Then his friends, companions, & relatives would take him to a doctor. The doctor would concoct medicine for him: purges from above & purges from below, ointments & counter-ointments and treatments through the nose. And thanks to the medicine his eyesight would appear & grow clear. Then together with the arising of his eyesight, he would abandon whatever passion & delight he felt for that grimy, oil-stained rag. And he would regard that man as an enemy & no friend at all, and think that he deserved to be killed. 'My gosh, how long have I been fooled, cheated, & deceived by that man & his grimy, oil-stained rag! — "Here, my good man, is a white cloth — beautiful, spotless, & clean."'

"Sau khi lấy, người ấy đắp trên ḿnh, sau khi đắp trên ḿnh người ấy, các bạn bè thân hữu, bà con huyết thống của người ấy mời một y sĩ khoa mổ xẻ. Vị y sĩ khoa mổ xẻ này cho người ấy thuốc bài tiết các nhơ bẩn về phía trên, bài tiết các nhơ bẩn về phía dưới, xức thuốc mắt, thoa dầu cho mắt, cho thuốc qua lỗ mũi. Người ấy sau khi dùng thuốc, mắt được khởi lên, mắt được sáng tỏ. Với mắt được khởi lên, người ấy đoạn trừ tham dục đối với tấm y thô, dính dầu và dính đất kia, và người ấy có thể xem người kia là không phải bạn, có thể xem người kia là thù địch và nghĩ đến sát hại sinh mạng (của người kia): "Thật sự trong một thời gian dài, Ta bị người này lường gạt, lừa dối, phỉnh gạt với tấm y thô, dính dầu và đất: "Này bạn, đây là tấm vải trắng, xinh đẹp, không cấu uế, thanh tịnh cho bạn".

"In the same way, Magandiya, if I were to teach you the Dhamma — 'This is that freedom from Disease; this is that Unbinding' — and you on your part were to know that freedom from Disease and see that Unbinding, then together with the arising of your eyesight you would abandon whatever passion & delight you felt with regard for the five clinging-aggregates. And it would occur to you, 'My gosh, how long have I been fooled, cheated, & deceived by this mind! For in clinging, it was just form that I was clinging to... it was just feeling... just perception... just fabrications... just consciousness that I was clinging to. With my clinging as a requisite condition, there arises becoming... birth... aging & death... sorrow, lamentation, pains, distresses, & despairs. And thus is the origin of this entire mass of stress.'"

"Cũng vậy, này Magandiya, nếu Ta thuyết pháp cho Ông: "Đây là không bệnh ấy, đây là Niết-bàn ấy", Ông có thể biết không bệnh, Ông có thể thấy Niết-bàn. Và với mắt được khởi lên cho Ông, ḷng tham dục đối với năm thủ uẩn được đoạn trừ; và Ông có thể nghĩ như sau: "Thật sự trong một thời gian dài, ta bị tâm này lường gạt, lừa dối, phỉnh gạt, chấp thủ sắc, ta đă chấp thủ, chấp thủ thọ, ta đă chấp thủ, chấp thủ tưởng, ta đă chấp thủ, chấp thủ các hành, ta đă chấp thủ, chấp thủ thức, ta đă chấp thủ. Do duyên chấp thủ ấy nơi ta, nên có hữu; do duyên hữu, có sanh; do duyên sanh, có già chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo khởi lên. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ Khổ uẩn".

"I'm convinced, master Gotama, that you can teach me the Dhamma in such a way that I might rise up from this seat cured of my blindness."

"Con có ḷng tin Tôn giả Gotama như sau: "Tôn giả Gotama có thể thuyết pháp cho ta khiến ta có thể từ chỗ ngồi này đứng dậy, không c̣n mù nữa".

"In that case, Magandiya, associate with men of integrity. When you associate with men of integrity, you will hear the true Dhamma. When you hear the true Dhamma, you will practice the Dhamma in accordance with the Dhamma. When you practice the Dhamma in accordance with the Dhamma, you will know & see for yourself: 'These things are diseases, cancers, arrows. And here is where diseases, cancers, & arrows cease without trace. With the cessation of my clinging comes the cessation of becoming. With the cessation of becoming comes the cessation of birth. With the cessation of birth then aging & death, sorrow, lamentation, pain, distress, & despair all cease. Such is the cessation of this entire mass of suffering & stress."

MN 75

"Vậy này Magandiya, hăy thân cận các vị chân nhân. Này Magandiya, do Ông thân cận các vị chân nhân, thời này Magandiya, Ông sẽ được nghe diệu pháp. Này Magandiya, do ngươi được nghe diệu pháp, thời này Magandiya, Ông sẽ sống đúng với Chánh pháp và tùy pháp. Này Magandiya, do Ông sống đúng với Chánh pháp và tùy pháp, thời này Magandiya, Ông sẽ tự ḿnh biết, tự ḿnh thấy: "Đây là những bệnh chướng, những cục bướu, những mũi tên. Ở đây, những bệnh chướng, những cục bướu, những mũi tên được trừ diệt, không có dư tàn. Do chấp thủ được diệt ở ta, nên hữu diệt; do hữu diệt, sanh diệt; do sanh diệt, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, năo được diệt trừ. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này".

§8. "Suppose that a man were wounded with an arrow thickly smeared with poison. His friends & companions, kinsmen & relatives would provide him with a surgeon. The surgeon would cut around the opening of the wound with a knife and then would probe for the arrow with a probe. He then would pull out the arrow and extract the poison, leaving no residue behind. Knowing that no residue was left behind, he would say, 'My good man, your arrow has been pulled out. The poison has been extracted, with no residue left behind, so it is not enough to do you harm. Eat suitable food. Don't eat unsuitable food, or else the wound will fester. Wash the wound frequently, smear it with an ointment frequently, so that blood & pus don't fill the opening of the wound. Don't walk around in the wind & sun, or else dust & dirt may contaminate the opening of the wound. Keep looking after the wound, my good man, and work for its healing.'

"Ví như, một người bị mũi tên bắn, tên ấy có tẩm thuốc độc rất dày. Bạn bè thân hữu, bà con huyết thống người ấy cho mời một y sĩ giải phẫu. Vị y sĩ giải phẫu ấy có thể cắt xung quanh miệng vết thương với con dao; sau khi cắt xung quanh miệng vết thương với con dao, vị y sĩ giải phẫu có thể ḍ t́m mũi tên với một vật dụng ḍ t́m. Sau khi ḍ t́m mũi tên với một vật dụng ḍ t́m, y sĩ có thể rút mũi tên ra. Y sĩ có thể trừ khử hết thuốc độc, c̣n để lại một ít nhưng nghĩ không có thuốc độc nào c̣n lại, y sĩ nói như sau : "Này Hiền giả, mũi tên của Bạn đă được rút ra thuốc độc đă được trừ khử, không c̣n dư tàn, và không c̣n ǵ nguy hiểm nữa cho Bạn, nhưng Bạn phải chỉ ăn các đồ ăn thích hợp, và hăy ǵn giữ, nếu ăn đồ ăn không thích hợp, vết thương của Bạn sẽ làm mủ lại, và thường thường phải cho rửa vết thương, thường thường phải xức thuốc cho miệng vết thương. Trong khi thường thường cho rửa vết thương, thường thường xức thuốc cho miệng vết thương, chớ có để máu cũ đóng khô trên miệng vết thương và hăy cẩn thận khi đi ra giữa gió và nắng; hăy cẩn thận khi đi ra giữa gió và nắng, nếu không, bụi và nhớp có thể nhiễu hại miệng vết thương. Và này Bạn, nếu Bạn chăm sóc vết thương, thời vết thương sẽ được lành".

"The thought would occur to the man: 'My arrow has been pulled out. The poison has been extracted with no residue left behind, so it is not enough to do me harm.' He would eat suitable food, so the wound wouldn't fester. He would wash the wound and smear it with an ointment frequently, so blood & pus wouldn't fill the opening of the wound. He would not walk around in the wind & sun, so dust & dirt wouldn't contaminate the opening of the wound. He would keep looking after the wound and would work for its healing. Now, both because of these suitable actions of his and because of there being no residue of the poison left behind, the wound would heal. With the healing of the wound and its being covered with skin, he wouldn't incur death or death-like suffering.

"Người ấy suy nghĩ như sau: "Mũi tên đă được rút khỏi (thân) ta, nọc độc đă được trừ khử, không c̣n dư tàn, và ta đă thoát khỏi nguy hiểm". Và người ấy ăn những đồ ăn không thích hợp. V́ người ấy ăn những đồ ăn không thích hợp, nên vết thương làm mủ lại. Và thường thường người ấy không rửa vết thương, thường thường không xức thuốc miệng vết thương. V́ người ấy thường thường không rửa vết thương, v́ người ấy thường thường không xức thuốc miệng vết thương, nên máu cũ đông lại trên miệng vết thương. Và người ấy thường hay đi giữa gió và nắng. Do người ấy thường hay đi giữa gió và nắng, bụi và nhớp nhiễu hại miệng vết thương; và v́ người ấy không chăm sóc vết thương nên vết thương không được lành. V́ người ấy làm chính những việc không thích hợp, và do thuốc độc được trừ khử nhưng c̣n dư tàn, do cả hai điều ấy nên miệng vết thương có thể lở to hơn trước. Do vết thương lở to, người ấy có thể đi đến chết hay đau khổ gần như chết

"In the same way, there's the possible case where a certain monk thinks, 'Craving is said by the Contemplative to be an arrow. The poison of ignorance spreads its toxin through desire, passion, & ill will. I have abandoned the arrow. I have expelled the poison of ignorance. I am rightly intent on Unbinding.' Because he is rightly intent on Unbinding, he wouldn't pursue those things that are unsuitable for a person rightly intent on Unbinding. He wouldn't pursue unsuitable forms & sights with the eye. He wouldn't pursue unsuitable sounds with the ear... unsuitable aromas with the nose... unsuitable flavors with the tongue... unsuitable tactile sensations with the body. He wouldn't pursue unsuitable ideas with the intellect. When he doesn't pursue unsuitable forms & sights with the eye... doesn't pursue unsuitable ideas with the intellect, lust doesn't invade the mind. With his mind not invaded by lust, he doesn't incur death or death-like suffering.

"Cũng vậy, sự t́nh này xảy ra, khi ở đây một số Tỷ-kheo suy nghĩ như sau: "Tham ái được bậc Sa-môn gọi là mũi tên, thuốc độc vô minh làm năo hại (con người) với dục, tham, sân. Mũi tên tham ái đă được ta đoạn diệt, thuốc độc vô minh đă được trừ khử. Ta thiên nặng về chánh Niết-bàn". Chính v́ thiên nặng về chánh Niết-bàn, vị ấy không truy cầu những ǵ không thích hợp với (khuynh hướng) thiên nặng về Niết-bàn, mắt không truy cầu sắc không thích hợp, tai không truy cầu tiếng không thích hợp, mũi không truy cầu hương không thích hợp, lưỡi không truy cầu vị không thích hợp, thân không truy cầu xúc không thích hợp, ư không truy cầu pháp không thích hợp. V́ mắt vị ấy không truy cầu sắc không thích hợp, v́ tai không truy cầu tiếng không thích hợp, v́ mũi không truy cầu hương không thích hợp, v́ lưỡi không truy cầu vị không thích hợp, v́ thân không truy cầu xúc không thích hợp, v́ ư không truy cầu pháp không thích hợp, nên tham dục không nhiễu loạn tâm, v́ tham dục không nhiễu loạn tâm; nên vị ấy không đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết

"I have given this simile to convey a meaning. The meaning is this: the wound stands for the six internal sense media; the poison, for ignorance; the arrow, for craving; the probe, for mindfulness; the knife, for noble discernment; the surgeon, for the Tathagata, worthy & rightly self-awakened."

MN 105

"Ta nói ví dụ này với mục đích làm sáng tỏ ư nghĩa. Nghĩa ở đây như sau: Vết thương, là đồng nghĩa với sáu xúc xứ (phassayatana); thuốc độc, là đồng nghĩa với vô minh; mũi tên, là đồng nghĩa với ái; vật dụng ḍ t́m, là đồng nghĩa với niệm; con dao, là đồng nghĩa với Thánh trí tuệ. Vị y sĩ giải phẫu, là đồng nghĩa với Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác."

§9. Then, when it was evening, Ven. Malunkyaputta arose from seclusion and went to the Blessed One. On arrival, having bowed down, he sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One, "Lord, just now, as I was alone in seclusion, this train of thought arose in my awareness: 'These positions that are undeclared, set aside, discarded by the Blessed One — 'The cosmos is eternal,' 'The cosmos is not eternal,' 'The cosmos is finite,' 'The cosmos is infinite,' 'The soul & the body are the same,' 'The soul is one thing and the body another,' 'After death a Tathagata exists,' 'After death a Tathagata does not exist,' 'After death a Tathagata both exists & does not exist,' 'After death a Tathagata neither exists nor does not exist' — I don't approve, I don't accept that the Blessed One has not declared them to me. I'll go ask the Blessed One about this matter. If he declares to me that "The cosmos is eternal,"... or that "After death a Tathagata neither exists nor does not exist," then I will live the holy life under him. If he does not declare to me that "The cosmos is eternal,"... or that "After death a Tathagata neither exists nor does not exist," then I will renounce the training and return to the lower life.'

Rồi Tôn giả Malunkyaputta vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Tôn giả Malunkyaputta bạch Thế Tôn: – Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi độc trú tịnh cư, con khởi lên ư nghĩ như sau: "Có một số vấn đề này, Thế Tôn không trả lời, bỏ một bên, loại bỏ ra:
Thế giới là thường c̣n,
Thế giới là vô thường,
Thế giới là hữu biên,
Thế giới là vô biên;
Sinh mạng này và thân này là một,
Sinh mạng này và thân này là khác;
Như Lai có tồn tại sau khi chết,
Như Lai không có tồn tại sau khi chết,
Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết.
Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết".
Thế Tôn không trả lời cho ta những vấn đề ấy. V́ Thế Tôn không trả lời cho ta những vấn đề ấy, nên ta không được hài ḷng, không được thỏa măn. Vậy ta hăy đi đến Thế Tôn, và sẽ hỏi ư nghĩa này.
Nếu Thế Tôn trả lời cho ta:
Thế giới là thường c̣n,
Thế giới là vô thường,
Thế giới là hữu biên,
Thế giới là vô biên;
Sinh mạng này và thân này là một,
Sinh mạng này và thân này là khác;
Như Lai có tồn tại sau khi chết,
Như Lai không có tồn tại sau khi chết;
Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết,
Hay Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết", thời ta sẽ sống Phạm hạnh dưới (sự chỉ dẫn của) Thế Tôn.

C̣n nếu Thế Tôn không trả lời cho ta:
Thế giới là thường c̣n,
Thế giới là vô thường
Thế iới là hữu biên,
Thếgiới là vô biên;
Sinh mạng này và thân này là một,
Sinh mạng này và thân này là khác;
Như Lai có tồn tại sau khi chết,
Như Lai không có tồn tại sau khi chết;
Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết,
Hay Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết", thời ta sẽ bỏ học pháp và hoàn tục".

"Lord, if the Blessed One knows that 'The cosmos is eternal,' then may he declare to me that 'The cosmos is eternal.' If he knows that 'The cosmos is not eternal,' then may he declare to me that 'The cosmos is not eternal.' But if he doesn't know or see whether the cosmos is eternal or not eternal, then, in one who is unknowing & unseeing, the straightforward things is to admit, 'I don't know. I don't see.'... If he doesn't know or see whether after death a Tathagata exists... does not exist... both exists & does not exist... neither exists nor does not exist,' then, in one who is unknowing & unseeing, the straightforward things is to admit, 'I don't know. I don't see.'"

-Nếu Thế Tôn biết: "Thế giới là thường c̣n", Thế Tôn hăy trả lời cho con: "Thế giới là thường c̣n". Nếu Thế Tôn biết: "Thế giới là vô thường". Thế Tôn hăy trả lời cho con: "Thế giới là vô thường". Nếu Thế Tôn không biết: "Thế giới là thường c̣n" hay "Thế giới là vô thường", thời không biết, không thấy, hăy thẳng thắn trả lời: "Ta không biết, Ta không thấy".
-Nếu Thế Tôn biết: "Như Lai có tồn tại sau khi chết", Thế Tôn hăy trả lời cho con: "Như Lai có tồn tại sau khi chết". Nếu Thế Tôn biết: "Như Lai không có tồn tại sau khi chết", Thế Tôn hăy trả lời cho con: "Như Lai không có tồn tại sau khi chết". Nếu Thế Tôn không biết: "Như Lai có tồn tại sau khi chết," hay "Như Lai không có tồn tại sau khi chết", thời không biết, không thấy, hăy thẳng thắn trả lời: "Ta không biết, Ta không thấy".
-Nếu Thế Tôn biết: "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết", Thế Tôn hăy trả lời cho con: "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết", Thế Tôn hăy trả lời cho con: "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết". Nếu Thế Tôn không biết: "Như Lai tồn tại và không tồn tại sau khi chết," hay "Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết", thời không biết, không thấy, hăy thẳng thắn trả lời: "Ta không biết, Ta không thấy".

"Malunkyaputta, did I ever say to you, 'Come, Malunkyaputta, live the holy life under me, and I will declare to you that 'The cosmos is eternal,' or 'The cosmos is not eternal,' or 'The cosmos is finite,' or 'The cosmos is infinite,' or 'The soul & the body are the same,' or 'The soul is one thing and the body another,' or 'After death a Tathagata exists,' or 'After death a Tathagata does not exist,' or 'After death a Tathagata both exists & does not exist,' or 'After death a Tathagata neither exists nor does not exist'?"

"No, lord."

"And did you ever say to me, 'Lord, I will live the holy life under the Blessed One and [in return] he will declare to me that 'The cosmos is eternal,' or 'The cosmos is not eternal,' or 'The cosmos is finite,' or 'The cosmos is infinite,' or 'The soul & the body are the same,' or 'The soul is one thing and the body another,' or 'After death a Tathagata exists,' or 'After death a Tathagata does not exist,' or 'After death a Tathagata both exists & does not exist,' or 'After death a Tathagata neither exists nor does not exist'?"

"No, lord."

"Này Malunkyaputta, Ta có nói với Ông: "Này Malunkyaputta, hăy đến và sống Phạm hạnh theo Ta, Ta sẽ trả lời cho Ông: "Thế giới là thường c̣n," hay "Thế giới là vô thường, thế giới là hữu biên, thế giới là vô biên; sinh mạng này và thân này là một, sinh mạng này và thân này là khác; Như Lai có tồn tại sau khi chết, Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết. Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết" ?

"Thưa không, bạch Thế Tôn."

"Hay Ông có nói với Ta như sau: "Bạch Thế Tôn, con sẽ sống Phạm hạnh theo Thế Tôn, nếu Thế Tôn sẽ trả lời cho con: "Thế giới là thường c̣n" hay "Thế giới là vô thường, thế giới là hữu biên, thế giới là vô biên; sinh mạng này và thân này là một, sinh mạng này và thân này là khác; Như Lai có tồn tại sau khi chết, Như Lai không có tồn tại sau khi chết; Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết, hay Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết" ?

"Thưa không, bạch Thế Tôn."

"Then that being the case, foolish man, who are you to be claiming grievances/making demands of anyone?

"Malunkyaputta, if anyone were to say, 'I won't live the holy life under the Blessed One as long as he does not declare to me that "The cosmos is eternal,"... or that "After death a Tathagata neither exists nor does not exist,"' the man would die and those things would still remain undeclared by the Tathagata.

"Sự t́nh là như vậy, thời này kẻ ngu kia, Ông là ai, và Ông phủ nhận cái ǵ ?

"Này Malunkyaputta, nếu có ai nói như sau: "Ta sẽ sống Phạm hạnh theo Thế Tôn khi nào Thế Tôn sẽ trả lời cho ta: "Thế giới là thường c̣n" hay "Thế giới là vô thường, thế giới là hữu biên, thế giới là vô biên; sinh mạng này và thân này là một, sinh mạng này và thân này là khác; Như Lai có tồn tại sau khi chết, Như Lai không có tồn tại sau khi chết; Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết, hay Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết", thời này Malunkyaputta, người ấy sẽ chết (và) vẫn không được Như Lai trả lời.

"It's just as if a man were wounded with an arrow thickly smeared with poison. His friends & companions, kinsmen & relatives would provide him with a surgeon, and the man would say, 'I won't have this arrow removed until I know whether the man who wounded me was a noble warrior, a priest, a merchant, or a worker.' He would say, 'I won't have this arrow removed until I know the given name & clan name of the man who wounded me... until I know whether he was tall, medium, or short... until I know whether he was dark, ruddy-brown, or golden-colored... until I know his home village, town, or city... until I know whether the bow with which I was wounded was a long bow or a crossbow... until I know whether the bowstring with which I was wounded was fiber, bamboo threads, sinew, hemp, or bark... until I know whether the shaft with which I was wounded was wild or cultivated... until I know whether the feathers of the shaft with which I was wounded were those of a vulture, a stork, a hawk, a peacock, or another bird... until I know whether the shaft with which I was wounded was bound with the sinew of an ox, a water buffalo, a langur, or a monkey.' He would say, 'I won't have this arrow removed until I know whether the shaft with which I was wounded was that of a common arrow, a curved arrow, a barbed, a calf-toothed, or an oleander arrow.' The man would die and those things would still remain unknown to him.

"Này Malunkyaputta, ví như một người bị mũi tên bắn, mũi tên được tẩm thuốc độc rất dày. Bạn bè và bà con huyết thống của người ấy mời một vị y sĩ khoa mổ xẻ đến săn sóc. Nhưng người ấy lại nói: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đă bắn tôi thuộc gịng hoàng tộc, hay Bà-la-môn, hay buôn bán, hay người làm công". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đă bắn tôi tên là ǵ, tộc tánh là ǵ?" Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đă bắn tôi là cao hay thấp, hay người bậc trung". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đă bắn tôi là da đen, da sẫm hay da vàng". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được người đă bắn tôi thuộc làng nào, thuộc thị trấn nào, thuộc thành phố nào". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái cung mà tôi bị bắn, cái cung ấy thuộc loại cung thông thường hay loại cung nỏ". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết được dây cung mà tôi bị bắn, dây cung ấy làm bằng cây leo, hay cây lau, hay một thứ gân, hay một thứ dây gai, hay một thứ cây có nhựa". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị bắn, cái tên ấy thuộc một loại cây lau này hay cây lau khác". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị bắn, mũi tên ấy có kết lông ǵ, hoặc lông con kên, hoặc lông con c̣, hoặc lông con ó, hoặc lông con công, hoặc lông một loại két". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị bắn, cái tên ấy được cuốn (parikkhittam) bởi loại gân nào, hoặc là gân ḅ cái, hoặc là gân trâu, hoặc là gân nai, hoặc là gân lừa". Người ấy có thể nói như sau: "Tôi sẽ không rút mũi tên này ra khi nào tôi chưa biết cái tên mà tôi bị bắn, cái tên ấy thuộc loại tên nhọn, hay thuộc loại tên móc, hay thuộc loại tên như đầu sào, hay thuộc loại tên như răng ḅ, hay thuộc loại tên như kẽm gai". Này Malunkyaputta, người ấy sẽ chết và vẫn không được biết ǵ.

"In the same way, if anyone were to say, 'I won't live the holy life under the Blessed One as long as he does not declare to me that "The cosmos is eternal,"... or that "After death a Tathagata neither exists nor does not exist,"' the man would die and those things would still remain undeclared by the Tathagata.

"Cũng vậy, này Malunkyaputta, ai nói như sau: "Ta sẽ sống Phạm hạnh theo Thế Tôn khi nào Thế Tôn trả lời cho ta: "Thế giới là thường c̣n hay thế giới là vô thường, thế giới là hữu biên, thế giới là vô biên; sinh mạng này và thân này là một, sinh mạng này và thân này là khác; Như Lai có tồn tại sau khi chết, Như Lai không có tồn tại sau khi chết; Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết, hay Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết", thời này Malunkyaputta, người ấy sẽ chết (và) vẫn không được Như Lai trả lời.

"Malunkyaputta, it's not the case that when there is the view, 'The cosmos is eternal,' there is the living of the holy life. And it's not the case that when there is the view, 'The cosmos is not eternal,' there is the living of the holy life. When there is the view, 'The cosmos is eternal,' and when there is the view, 'The cosmos is not eternal,' there is still the birth, there is the aging, there is the death, there is the sorrow, lamentation, pain, despair, & distress whose destruction I make known right in the here & now.

Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc với quan điểm "Thế giới là thường c̣n". Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc với quan điểm "Thế giới là vô thường". Này Malunkyaputta, dầu cho có quan điểm "Thế giới là thường c̣n", hay dầu cho có quan điểm "Thế giới là vô thường", thời vẫn có sanh, có già, có chết, có sầu, bi, khổ, ưu, năo, mà Ta giảng dạy sự đoạn trừ ngay trong hiện tại.

"It's not the case that when there is the view, 'The cosmos is finite,' there is the living of the holy life. And it's not the case that when there is the view, 'The cosmos is infinite,' there is the living of the holy life. When there is the view, 'The cosmos is finite,' and when there is the view, 'The cosmos is infinite,' there is still the birth, there is the aging, there is the death, there is the sorrow, lamentation, pain, despair, & distress whose destruction I make known right in the here & now.

Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc với quan điểm "Thế giới là hữu biên". Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc với quan điểm "Thế giới là vô biên". Này Malunkyaputta, dầu cho có quan điểm "Thế giới là hữu biên", hay dầu cho có quan điểm "Thế giới là vô biên" thời vẫn có sanh, có già, có chết, có sầu, bi, khổ, ưu, năo, mà Ta giảng dạy sự đoạn trừ ngay trong hiện tại.

"It's not the case that when there is the view, 'The soul & the body are the same,' there is the living of the holy life. And it's not the case that when there is the view, 'The soul is one thing and the body another,' there is the living of the holy life. When there is the view, 'The soul & the body are the same,' and when there is the view, 'The soul is one thing and the body another,' there is still the birth, there is the aging, there is the death, there is the sorrow, lamentation, pain, despair, & distress whose destruction I make known right in the here & now.

Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc quan điểm "Sinh mạng này và thân này là một". Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc quan điểm "Sinh mạng này và thân này là khác". Này Malunkyaputta, dầu cho có quan điểm "Sinh mạng này và thân này là một", hay dầu cho có quan điểm "Sinh mạng này và thân này là khác", thời vẫn có sanh, có già, có chết, có sầu, bi, khổ, ưu, năo mà Ta giảng dạy sự đoạn trừ ngay trong hiện tại.

"It's not the case that when there is the view, 'After death a Tathagata exists,' there is the living of the holy life. And it's not the case that when there is the view, 'After death a Tathagata does not exist,' there is the living of the holy life. And it's not the case that when there is the view, 'After death a Tathagata both exists & does not exist,' there is the living of the holy life. And it's not the case that when there is the view, 'After death a Tathagata neither exists nor does not exist' there is the living of the holy life. When there is the view, 'After death a Tathagata exists'... 'After death a Tathagata does not exist'... 'After death a Tathagata both exists & does not exist'... 'After death a Tathagata neither exists nor does not exist,' there is still the birth, there is the aging, there is the death, there is the sorrow, lamentation, pain, despair, & distress whose destruction I make known right in the here & now.

Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc quan điểm "Như Lai có tồn tại sau khi chết". Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc quan điểm "Như Lai không có tồn tại sau khi chết". Này Malunkyaputta, dầu cho có quan điểm "Như Lai có tồn tại sau khi chết" hay dầu cho có quan điểm "Như Lai không có tồn tại sau khi chết," thời vẫn có sanh, có già, có chết, có sầu, bi, khổ, ưu, năo mà Ta giảng dạy sự đoạn trừ ngay trong hiện tại.Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc vào quan điểm "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết". Này Malunkyaputta, đời sống Phạm hạnh không thể nói là tùy thuộc với quan điểm "Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết". Này Malunkyaputta, dầu cho có quan điểm "Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết", hay dầu cho có quan điểm: "Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết", thời vẫn có sanh, có già, có chết, có sầu, bi, khổ, ưu, năo mà Ta giảng dạy sự đoạn trừ ngay trong hiện tại".

"So, Malunkyaputta, remember what is undeclared by me as undeclared, and what is declared by me as declared. And what is undeclared by me? 'The cosmos is eternal,' is undeclared by me. 'The cosmos is not eternal,' is undeclared by me. 'The cosmos is finite'... 'The cosmos is infinite'... 'The soul & the body are the same'... 'The soul is one thing and the body another'... 'After death a Tathagata exists'... 'After death a Tathagata does not exist'... 'After death a Tathagata both exists & does not exist'... 'After death a Tathagata neither exists nor does not exist,' is undeclared by me.

Do vậy, này Malunkyaputta, hăy thọ tŕ là không trả lời những ǵ Ta không trả lời. Hăy thọ tŕ là có trả lời những ǵ Ta có trả lời. Và này Malunkyaputta, điều ǵ Ta không trả lời ? "Thế giới là thường c̣n", này Malunkyaputta là điều Ta không trả lời. "Thế giới là vô thường" là điều Ta không trả lời. "Thế giới là hữu biên" là điều Ta không trả lời. "Thế giới là vô biên" là điều Ta không trả lời. "Sinh mạng này và thân này là một" là điều Ta không trả lời. "Sinh mạng này và thân này khác" là điều Ta không trả lời. "Như Lai có tồn tại sau khi chết" là điều Ta không trả lời. "Như Lai không có tồn tại sau khi chết" là điều Ta không trả lời. "Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết" là điều Ta không trả lời. "Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết" là điều Ta không trả lời.

"And why are they undeclared by me? Because they are not connected with the goal, are not fundamental to the holy life. They do not lead to disenchantment, dispassion, cessation, calming, direct knowledge, self-awakening, Unbinding. That's why they are undeclared by me.

Và này Malunkyaputta, v́ sao điều ấy Ta không trả lời ? Này Malunkyaputta, v́ điều ấy không liên hệ đến mục đích, điều ấy không phải là căn bản Phạm hạnh, điều ấy không đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, cho nên điều ấy Ta không trả lời.

"And what is declared by me? 'This is stress,' is declared by me. 'This is the origination of stress,' is declared by me. 'This is the cessation of stress,' is declared by me. 'This is the path of practice leading to the cessation of stress,' is declared by me. And why are they declared by me? Because they are connected with the goal, are fundamental to the holy life. They lead to disenchantment, dispassion, cessation, calming, direct knowledge, self-awakening, Unbinding. That's why they are declared by me.

Và này Malunkyaputta, điều ǵ Ta trả lời. "Đây là khổ", này Malunkyaputta là điều Ta trả lời". "Đây là khổ tập" là điều Ta trả lời. "Đây là khổ diệt" là điều Ta trả lời. "Đây là con đường đưa đến khổ diệt" là điều Ta trả lời. Và này Malunkyaputta,v́ sao điều ấy Ta trả lời? Này Malunkyaputta, v́ điều ấy có liên hệ đến mục đích, điều ấy là căn bản Phạm hạnh, điều ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn, v́ vậy điều ấy Ta trả lời.

"So, Malunkyaputta, remember what is undeclared by me as undeclared, and what is declared by me as declared."

Do vậy, này Malunkyaputta, hăy thọ tŕ là không trả lời những điều Ta không trả lời. Hăy thọ tŕ là trả lời những điều Ta có trả lời.

That is what the Blessed One said. Gratified, Ven. Malunkyaputta delighted in the Blessed One's words.

MN 63

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Malunkyaputta hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

For a comparison with ancient Indian medical theory:

From the Caraka Sa.mhitaa, 9.19: "The best physician, one fit to treat a king, is he whose knowledge is fourfold: the cause [hetu], symptom [lin.ga], cure [pras/amana], and non-recurrence [apunarbhava] of diseases."

^^^^^

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | trở về đầu trang | Home page |