Mindfulness of In-&-Out Breathing


Nhập tức xuất tức niệm

"Now how is mindfulness of in-&-out breathing developed & pursued so as to bring the four frames of reference to their culmination?

Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là nhập tức xuất tức niệm được tu tập ? Như thế nào, làm cho sung măn, khiến bốn niệm xứ được viên măn ?

"There is the case where a monk, having gone to the wilderness, to the shade of a tree, or to an empty building, sits down folding his legs crosswise, holding his body erect, and setting mindfulness to the fore.[1] Always mindful, he breathes in; mindful he breathes out.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết-già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra.

"[1] Breathing in long, he discerns that he is breathing in long; or breathing out long, he discerns that he is breathing out long. [2] Or breathing in short, he discerns that he is breathing in short; or breathing out short, he discerns that he is breathing out short. [3] He trains himself to breathe in sensitive to the entire body,[2] and to breathe out sensitive to the entire body. [4] He trains himself to breathe in calming bodily fabrication,[3] and to breathe out calming the bodily fabrication.

[1]Thở vô dài, vị ấy biết : "Tôi thở vô dài". Hay thở ra dài, vị ấy biết : "Tôi thở ra dài". [2]Hay thở vô ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở vô ngắn". Hay thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở ra ngắn". [3]"Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. [4]"An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập."An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

"[5] He trains himself to breathe in sensitive to rapture, and to breathe out sensitive to rapture. [6] He trains himself to breathe in sensitive to pleasure, and to breathe out sensitive to pleasure. [7] He trains himself to breathe in sensitive to mental fabrication,[4] and to breathe out sensitive to mental fabrication. [8] He trains himself to breathe in calming mental fabrication, and to breathe out calming mental fabrication.

"[5]Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. [6]"Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. [7]"Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. [8]"An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

"[9] He trains himself to breathe in sensitive to the mind, and to breathe out sensitive to the mind. [10] He trains himself to breathe in satisfying the mind, and to breathe out satisfying the mind. [11] He trains himself to breathe in steadying the mind, and to breathe out steadying the mind. [12] He trains himself to breathe in releasing the mind, and to breathe out releasing the mind.[5]

"[9]Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập."Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. [10]"Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập."Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. [11]"Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. [12]Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

"[13] He trains himself to breathe in focusing on inconstancy, and to breathe out focusing on inconstancy. [14] He trains himself to breathe in focusing on dispassion [literally, fading], and to breathe out focusing on dispassion. [15] He trains himself to breathe in focusing on cessation, and to breathe out focusing on cessation. [16] He trains himself to breathe in focusing on relinquishment, and to breathe out focusing on relinquishment.

"[13]Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. [14]"Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. [15]"Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. [16]"Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

The Four Frames of Reference

Bốn niệm xứ

"[1] Now, on whatever occasion a monk breathing in long discerns that he is breathing in long; or breathing out long, discerns that he is breathing out long; or breathing in short, discerns that he is breathing in short; or breathing out short, discerns that he is breathing out short; trains himself to breathe in...&... out sensitive to the entire body; trains himself to breathe in...&...out calming bodily fabrication: On that occasion the monk remains focused on the body in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. I tell you, monks, that this — the in-&-out breath — is classed as a body among bodies, which is why the monk on that occasion remains focused on the body in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world.

"[1]Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, vị ấy biết : "Tôi thở vô dài". Hay khi thở ra dài, vị ấy biết "Tôi thở ra dài". Hay thở vô ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở vô ngắn". Hay khi thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thân trên thân, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đối với các thân, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

"[2] On whatever occasion a monk trains himself to breathe in...&...out sensitive to rapture; trains himself to breathe in...&...out sensitive to pleasure; trains himself to breathe in...&...out sensitive to mental fabrication; trains himself to breathe in...&...out calming mental fabrication: On that occasion the monk remains focused on feelings in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. I tell you, monks, that this — close attention to in-&-out breaths — is classed as a feeling among feelings,[6] which is why the monk on that occasion remains focused on feelings in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world.

"[2]Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nghĩ : "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thọ trên các thọ, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đối với các cảm thọ, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thọ trên các cảm thọ, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

"[3] On whatever occasion a monk trains himself to breathe in...&...out sensitive to the mind; trains himself to breathe in...&...out satisfying the mind; trains himself to breathe in...&...out steadying the mind; trains himself to breathe in...&...out releasing the mind: On that occasion the monk remains focused on the mind in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. I don't say that there is mindfulness of in-&-out breathing in one of confused mindfulness and no alertness, which is why the monk on that occasion remains focused on the mind in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world.

"[3]Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nghĩ : "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tu tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán tâm trên tâm, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, sự tu tập nhập tức xuất tức niệm không thể đến với kẻ thất niệm, không có tỉnh giác. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán tâm trên tâm, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

"[4] On whatever occasion a monk trains himself to breathe in...&...out focusing on inconstancy; trains himself to breathe in...&...out focusing on dispassion; trains himself to breathe in...&...out focusing on cessation; trains himself to breathe in...&...out focusing on relinquishment: On that occasion the monk remains focused on mental qualities in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. He who sees clearly with discernment the abandoning of greed & distress is one who oversees with equanimity, which is why the monk on that occasion remains focused on mental qualities in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world.

"[4]Khi nào này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nghĩ : "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán trên các pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Vị ấy, do đoạn trừ tham ưu, sau khi thấy với trí tuệ, khéo nh́n (sự vật) với niệm xả ly. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán pháp trên các pháp, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

"This is how mindfulness of in-&-out breathing is developed & pursued so as to bring the four frames of reference to their culmination.

MN 118

Nhập tức xuất tức niệm, này các Tỷ-kheo, được tu tập như vậy được làm cho sung măn như vậy, khiến cho bốn niệm xứ được viên măn.

MN 118

Notes

1. To the fore (parimukham): The Abhidhamma takes an etymological approach to this term, defining it as around (pari-) the mouth (mukham). In the Vinaya, however, it is used in a context (Cv.V.27.4) where it undoubtedly means the front of the chest. There is also the possibility that the term could be used idiomatically as "to the front," which is how I have translated it here.

2. The commentaries insist that "body" here means the breath, but this is unlikely in this context, for the next step — without further explanation — refers to the breath as "bodily fabrication." If the Buddha were using two different terms to refer to the breath in such close proximity, he would have been careful to signal that he was redefining his terms (as he does below, when explaining that the first four steps in breath meditation correspond to the practice of focusing on the body in and of itself as a frame of reference). The step of breathing in and out sensitive to the entire body relates to the many similes in the suttas depicting jhana as a state of whole-body awareness (see MN 119).

3. "In-&-out breaths are bodily; these are things tied up with the body. That's why in-&-out breaths are bodily fabrications." — MN 44.

4. "Perceptions & feelings are mental; these are things tied up with the mind. That's why perceptions & feelings are mental fabrications." — MN 44.

5. AN 9.34 shows how the mind, step by step, is temporarily released from burdensome mental states of greater and greater refinement as it advances through the stages of jhana.

6. As this shows, a meditator focusing on feelings in themselves as a frame of reference should not abandon the breath as the basis for his/her concentration.

^^^^^

III. [go up]
The Advantages of Mindfulness Immersed in the Body

^^^^^

Khitaka:

How light my body!
Touched by abundant
rapture & bliss,
— like a cotton tuft
borne on the breeze — 
it seems to be floating
	— my body!

Thag 1.104

Khitaka:

Thân ta thật nhẹ nhàng,
Cảm xúc hỷ lạc lớn,
Như bông thổi trước gió,
Thân ta nhẹ trôi bay. 

Thag 1.104

Ananda: "Lord, does the Blessed One have direct experience of going to the Brahma world by means of supranormal power with a mind-made body?"

The Buddha: "Yes, Ananda...'

^^^^^

Ananda: "But does the Blessed One also have direct experience of going to the Brahma world by means of supranormal power with this very physical body, composed of the four great elements?"

The Buddha: "Yes..."

^^^^^

Ananda: "It's awesome, lord, and amazing that the Blessed One should have direct experience of going to the Brahma world by means of supranormal power with a mind-made body, and of going to the Brahma world by means of supranormal power with this very physical body, composed of the four great elements."

^^^^^

The Buddha: "Tathagatas are both awesome, Ananda, and endowed with awesome qualities. They are both amazing and endowed with amazing qualities. Whenever the Tathagata merges his body with his mind and his mind with his body, and remains having alighted on the perception of ease and buoyancy with regard to the body, then his body becomes lighter, more pliant, more malleable, & more radiant.

^^^^^

"Just as when an iron ball heated all day becomes lighter, more pliant, more malleable, & more radiant; in the same way, whenever the Tathagata merges his body with his mind and his mind with his body, and remains having alighted on the perception of ease and buoyancy with regard to the body, then his body becomes lighter, more pliant, more malleable, & more radiant.

^^^^^

"Now, whenever the Tathagata merges his body with his mind and his mind with his body, and remains having alighted on the perception of ease and buoyancy with regard to the body, then his body rises effortlessly from the earth up into the sky. He then experiences manifold supranormal powers. Having been one he becomes many; having been many he becomes one. He appears. He vanishes. He goes unimpeded through walls, ramparts, & mountains as if through space. He dives in & out of the earth as if it were water. He walks on water without sinking as if it were dry land. Sitting crosslegged he flies through the air like a winged bird. With his hand he touches & strokes even the sun & moon, so mighty & powerful. He exercises influence with his body even as far as the Brahma worlds.

^^^^^

"Just as a tuft of cotton seed or a ball of thistle down, lightly wafted by the wind, rises effortlessly from the earth up into the sky, in the same way, whenever the Tathagata concentrates his body in his mind & his mind in his body, and remains having alighted on the perception of ease and buoyancy, then his body rises effortlessly from the earth up into the sky. He then experiences manifold supranormal powers...even as far as the Brahma worlds."

— SN 51.22

^^^^^

Simply talking a lot
doesn't maintain the Dhamma.
Whoever
— although he's heard next to nothing — 
	sees Dhamma through his body,
	is not heedless of Dhamma:
he's one who maintains the Dhamma

Dhp 259

Không phải v́ nói nhiều,
Mới xứng danh tŕ pháp,
Những ai tuy nghe ít,
Nhưng thân hành đúng pháp,
Không phóng túng chánh pháp,
Mới xứng danh tŕ pháp.

Dhp 259

They awaken, always wide awake:
	Gotama's disciples
whose mindfulness, both day & night,
is constantly immersed
	in the body.

Dhp 299

Đệ Tử Gotama
Thường tỉnh giác chánh niệm
Không luận ngày hay đêm
Thường tu tập thân quán

Dhp 299

"Once a hawk suddenly swooped down on a quail and seized it. Then the quail, as it was being carried off by the hawk, lamented, 'O, just my bad luck and lack of merit that I was wandering out of my proper range and into the territory of others! If only I had kept to my proper range today, to my own ancestral territory, this hawk would have been no match for me in battle.'

"Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, một con chim ưng cái th́nh ĺnh vồ xuống và chụp lấy một con chim cút. Rồi này các Tỷ-kheo, con chim cút bị con chim ưng cái bắt, than khóc như sau: "- Như thế này, thật bất hạnh cho tôi! Thật thiếu công đức cho tôi! V́ rằng tôi đă đi không phải chỗ hành xứ của ḿnh, đi vào cảnh giới của người khác. Nếu tôi đi trong chỗ hành xứ của tôi, trong cảnh giới của cha mẹ tôi, thời con chim ưng này không thể hơn tôi, nếu phải đánh nhau".

"'But what is your proper range?' the hawk asked. 'What is your own ancestral territory?'

"Này Chim cút, thế nào là chỗ hành xứ của ngươi, thế nào là cảnh giới của cha mẹ ngươi?"

"'A newly plowed field with clumps of earth all turned up.'

"Là vạt đất được lưỡi cày xới lên".

"So the hawk, without bragging about its own strength, without mentioning its own strength, let go of the quail. 'Go, quail, but even when you have gone there you won't escape me.'

Rồi này các Tỷ-kheo, con chim ưng cái không có siết mạnh sức mạnh của ḿnh, không có bóp chặt sức mạnh của ḿnh, thả con chim cút rồi nói: - "Hăy đi, này Chim cút. Sau khi đi tại chỗ ấy, ta sẽ không thả cho ngươi".

"Then the quail, having gone to a newly plowed field with clumps of earth all turned up and climbing up on top of a large clump of earth, stood taunting the hawk, 'Now come and get me, you hawk! Now come and get me, you hawk!'

Rồi này các Tỷ-kheo, con chim cút đi đến vạt đất được lưỡi cày xới lên, leo lên một ḥn đất lớn, đứng trên ấy và nói với con chim ưng: "- Này, hăy đến ta, Chim ưng! Này, hăy đến ta, này Chim ưng!"

"So the hawk, without bragging about its own strength, without mentioning its own strength, folded its two wings and suddenly swooped down toward the quail. When the quail knew, 'The hawk is coming at me full speed,' it slipped behind the clump of earth, and right there the hawk shattered its breast.

Rồi này các Tỷ-kheo, con chim ưng cái siết mạnh sức mạnh của ḿnh, bóp chặt sức mạnh của ḿnh, xếp cả hai cánh, th́nh ĺnh vồ lấy con chim cút. Này các Tỷ-kheo, khi con chim cút biết được: "Con chim ưng này đang vồ mạnh xuống ta", liền nấp sau ḥn đất ấy. Này các Tỷ-kheo, ở đây, con chim ưng bị bể ngực.

"This is what happens to anyone who wanders into what is not his proper range and is the territory of others.

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, đối với ai đi tới chỗ không phải hành xứ của ḿnh, đi đến cảnh giới của người khác.

"For this reason, you should not wander into what is not your proper range and is the territory of others. In one who wanders into what is not his proper range and is the territory of others, Mara gains an opening, Mara gains a foothold. And what, for a monk, is not his proper range and is the territory of others? The five strands of sensuality. Which five? Forms cognizable by the eye — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. Sounds cognizable by the ear...Smells cognizable by the nose...Tastes cognizable by the tongue...Tactile sensations cognizable by the body — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. These, for a monk, are not his proper range and are the territory of others.

"Do vậy, này các Tỷ-kheo, chớ có đi đến chỗ không phải hành xứ của ḿnh, chỗ cảnh giới của người khác. Này các Tỷ-kheo, đi đến chỗ không phải hành xứ của ḿnh, đi đến cảnh giới của người khác, thời Ác ma nắm được cơ hội, Ác ma nắm được đối tượng. Này các Tỷ-kheo, chỗ nào không phải hành xứ của Tỷ-kheo? Chỗ nào là cảnh giới của người khác? Chính là năm dục công đức. Thế nào là năm? -Có các sắc do mắt nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ư, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. -Có các tiếng do tai nhận thức... -Có các hương do mũi nhận thức... -Có các vị do lưỡi nhận thức... -Có các xúc do thân nhận thức khả lạc, khả hỷ, khả ư, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, đây là chỗ không phải hành xứ của Tỷ-kheo, chỗ cảnh giới của người khác.

"Wander, monks, in what is your proper range, your own ancestral territory. In one who wanders in what is his proper range, his own ancestral territory, Mara gains no opening, Mara gains no foothold. And what, for a monk, is his proper range, his own ancestral territory? The four frames of reference. Which four? There is the case where a monk remains focused on the body in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. He remains focused on feelings in & of themselves ... mind in & of itself ... mental qualities in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. This, for a monk, is his proper range, his own ancestral territory."

SN 47.6

"Này các Tỷ-kheo, hăy đi đến chỗ hành xứ của ḿnh, chỗ cảnh giới của cha mẹ ḿnh. Này các Tỷ-kheo, đi đến chỗ hành xứ của ḿnh, đến cảnh giới của cha mẹ ḿnh, thời Ác ma không nắm được cơ hội, không nắm được đối tượng. Và này các Tỷ-kheo, chỗ nào là chỗ hành xứ của Tỷ-kheo? Chỗ nào là cảnh giới của cha mẹ? Chính là bốn niệm xứ. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo: -Trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; -Trú, quán thọ trên các thọ...; -Trú, quán tâm trên tâm...; -Trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đây là chỗ hành xứ của ḿnh, chỗ cảnh giới của cha mẹ ḿnh."

SN 47.6

"There are in the Himalayas, the king of mountains, difficult, uneven areas where neither monkeys nor human beings wander. There are difficult, uneven areas where monkeys wander, but not human beings. There are level stretches of land, delightful, where both monkeys and human beings wander. In such spots hunters set a tar trap in the monkeys' tracks, in order to catch some monkeys. Those monkeys who are not foolish or careless by nature, when they see the tar trap, will keep their distance. But any monkey who is foolish & careless by nature comes up to the tar trap and grabs it with its paw, which then gets stuck there. Thinking, 'I'll free my paw,' he grabs it with his other paw. That too gets stuck. Thinking, 'I'll free both of my paws,' he grabs it with his foot. That too gets stuck. Thinking, 'I'll free both of my paws and my foot,' he grabs it with his other foot. That too gets stuck. Thinking, 'I'll free both of my paws and my feet as well,' he grabs it with his mouth. That too gets stuck. So the monkey, snared in five ways, lies there whimpering, having fallen on misfortune, fallen on ruin, a prey to whatever the hunter wants to do with him. Then the hunter, without releasing the monkey, skewers him right there, picks him up, and goes off as he likes.

"Này các Tỷ-kheo, tại núi chúa Tuyết sơn có khoảnh đất gồ ghề, không thăng bằng, chỗ ấy không có các loài vượn, loài người qua lại. Này các Tỷ-kheo, tại núi chúa Tuyết sơn có những khoảng đất ghồ ghề, không bằng phẳng, chỗ ấy chỉ có loài vượn qua lại, không có loài người. Tại núi chúa Tuyết sơn, có những khoảnh đất bằng phẳng, khả ái. Tại chỗ ấy có các loài vượn và loài người qua lại. Tại đấy, này các Tỷ-kheo, những người thợ săn đặt các bẫy nhựa (lepam) trên những con đường có vượn qua lại để bắt các con vượn. Ở đây, này các Tỷ-kheo, những con vượn nào tánh không ngu si, không tham ăn, thấy bẫy nhựa ấy liền tránh xa. C̣n con vượn nào ngu si, tham ăn, thấy bẫy nhựa ấy, tḥ tay nắm lấy và bị dính vào đấy. "Ta sẽ gỡ bàn tay ra", nó tḥ bàn tay thứ hai nắm lấy và bị dính ở đấy. "Ta sẽ gỡ hai tay ra", nó giơ chân nắm lấy và bị dính ở đấy. "Ta sẽ gỡ hai bàn tay và bàn chân ra", nó giơ bàn chân thứ hai nắm lấy và bị dính ở đấy. "Ta sẽ gỡ cả hai tay và hai chân", nó dùng miệng ngậm lấy và bị mắc dính ở đấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, con vượn bị bắt năm chỗ, liền rên la nằm xuống, rơi vào bất hạnh, rơi vào khổ năo, bị người thợ săn muốn làm ǵ th́ làm. Này các Tỷ-kheo, người thợ săn đâm chết nó, nướng nó trên đống than củi, và ra đi, theo sở thích của ḿnh.

"This is what happens to anyone who wanders into what is not his proper range and is the territory of others. For this reason, you should not wander into what is not your proper range and is the territory of others..."

SN 47.7

"Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, là người đi đến chỗ không phải hành xứ của ḿnh, chỗ cảnh giới của người khác..."

SN 47.7

"There is the case where a monk, seeing a form with the eye, is obsessed with pleasing forms, is repelled by unpleasing forms, and remains with body-mindfulness unestablished, with limited awareness. He does not discern, as it actually is present, the awareness-release, the discernment-release where any evil, unskillful mental qualities that have arisen utterly cease without remainder. (Similarly with ear, nose, tongue, body, & intellect.)

"Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, thiên chấp sắc khả ái, ghét bỏ sắc không khả ái, sống với thân niệm không an trú, với tâm nhỏ hẹp. Vị ấy không như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi đây, các ác bất thiện pháp ấy khởi lên không được đoạn diệt không có dư tàn. (Tương tự với tiếng, hương, vị, xúc, pháp).

"Just as if a person, catching six animals of different ranges, of different habitats, were to bind them with a strong rope. Catching a snake, he would bind it with a strong rope. Catching a crocodile...a bird...a dog...a hyena...a monkey, he would bind it with a strong rope. Binding them all with a strong rope, and tying a knot in the middle, he would set chase to them.

"Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bắt được sáu sanh vật, giới loại khác nhau, chỗ t́m món ăn khác nhau, và cột chúng với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con rắn, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con cá sấu,... con chim, ... con chó,... con giả can,... con khỉ, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi cột chúng với những sợi dây vững chắc, người ấy cột một cái gút ở chính giữa và thả chúng đi.

"Then those six animals, of different ranges, of different habitats, would each pull toward its own range & habitat. The snake would pull, thinking, 'I'll go into the anthill.' The crocodile would pull, thinking, 'I'll go into the water.' The bird would pull, thinking, 'I'll fly up into the air.' The dog would pull, thinking, 'I'll go into the village.' The hyena would pull, thinking, 'I'll go into the charnel ground.' The monkey would pull, thinking, 'I'll go into the forest.' And when these six animals became internally exhausted, they would submit, they would surrender, they would come under the sway of whichever among them was the strongest. In the same way, when a monk whose mindfulness immersed in the body is undeveloped & unpursued, the eye pulls toward pleasing forms, while unpleasing forms are repellent. The ear pulls toward pleasing sounds...the nose pulls toward pleasing smells...the tongue pulls toward pleasing tastes...the body pulls toward pleasing tactile sensations...the intellect pulls toward pleasing ideas, while unpleasing ideas are repellent. This, monks, is lack of restraint.

"Này các Tỷ-kheo, sáu sanh vật ấy, với giới loại sai khác, với chỗ t́m món ăn sai khác, mỗi con sẽ lôi kéo tùy theo chỗ t́m món ăn và giới loại sai biệt của ḿnh. Con rắn lôi kéo, nghĩ rằng: 'Ta sẽ đi vào g̣ mối.' Con cá sấu lôi kéo, nghĩ rằng: 'Ta sẽ đi vào trong nước.' Con chim lôi kéo, nghĩ rằng: 'Ta sẽ bay lên trời.' Con chó lôi kéo, nghĩ rằng: 'Ta sẽ đi vào làng.' Con giả can lôi kéo, nghĩ rằng: 'Ta sẽ đi vào nghĩa địa.' Con khỉ lôi kéo, nghĩ rằng: 'Ta sẽ đi vào rừng.' Này các Tỷ-kheo, khi nào sáu con sinh vật ấy trở thành mệt mỏi, khi ấy, con sinh vật nào mạnh hơn các sinh vật c̣n lại, được chúng đi theo, chúng tuân theo, chúng phục tùng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo thân niệm không tu tập, không làm cho sung măn, con mắt sẽ lôi cuốn vị ấy đối với các sắc khả ái và ghét bỏ đối với các sắc không khả ái. Tai sẽ lôi cuốn vị ấy đối với các tiếng khả ái,.... Mũi sẽ lôi cuốn vị ấy đối với các hương khả ái,... Lưỡi sẽ lôi cuốn vị ấy đối với các vị khả ái,... Thân sẽ lôi cuốn vị ấy đối với các xúc khả ái,.... Ư sẽ lôi cuốn vị ấy đối với các pháp khả ái và ghét bỏ đối với các pháp không khả ái. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không hộ tŕ.

"And what is restraint? There is the case where a monk, seeing a form with the eye, is not obsessed with pleasing forms, is not repelled by unpleasing forms, and remains with body-mindfulness established, with immeasurable awareness. He discerns, as it actually is present, the awareness-release, the discernment-release where all evil, unskillful mental qualities that have arisen utterly cease without remainder. (Similarly with ear, nose, tongue, body, & intellect.)

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hộ tŕ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không thiên chấp các sắc khả ái, không ghét bỏ các sắc không khả ái, sống với thân niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật rơ biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát; chính ở nơi đây, các ác bất thiện pháp khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn. (Tương tự với tiếng, hương, vị, xúc, pháp).

"Just as if a person, catching six animals of different ranges, of different habitats, were to bind them with a strong rope...and tether them to a strong post or stake. Then those six animals, of different ranges, of different habitats, would each pull toward its own range & habitat... And when these six animals became internally exhausted, they would stand, sit, or lie down right there next to the post or stake. In the same way, when a monk whose mindfulness immersed in the body is developed & pursued, the eye does not pull toward pleasing forms, and unpleasing forms are not repellent. The ear does not pull toward pleasing sounds...the nose does not pull toward pleasing smells...the tongue does not pull toward pleasing tastes...the body does not pull toward pleasing tactile sensations...the intellect does not pull toward pleasing ideas, and unpleasing ideas are not repellent. This, monks, is restraint.

"Ví như, này các Tỷ-kheo, có người bắt được sáu sinh vật, giới loại khác nhau, chỗ t́m món ăn khác nhau, và cột chúng với một sợi dây vững chắc. Sau khi bắt được con rắn,... con cá sấu,... con chim, ... con chó,... con giả can,... Sau khi bắt được con khỉ, người ấy cột với một sợi dây vững chắc. Sau khi cột chúng với những sợi dây vững chắc, người ấy cột vào một cái cột hay cái trụ vững chắc. Này các Tỷ-kheo, sáu con sinh vật ấy, với giới loại sai khác, với chỗ t́m món ăn sai khác, mỗi con sẽ lôi kéo tùy theo chỗ t́m món ăn và giới loại sai biệt của ḿnh. Này các Tỷ-kheo, khi nào sáu con sinh vật ấy trở thành mệt mỏi, chúng sẽ đứng gần bên, ngồi gần bên, nằm gần bên cái cột ấy hay cái trụ ấy. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Tỷ-kheo thân niệm được tu tập, được làm cho sung măn, con mắt không lôi cuốn vị ấy đối với các sắc khả ái và đối với các sắc không khả ái, không ghét bỏ. Tai không lôi cuốn vị ấy đối với các tiếng khả ái,.... Mũi không lôi cuốn vị ấy đối với các hương khả ái,... Lưỡi không lôi cuốn vị ấy đối với các vị khả ái,... Thân không lôi cuốn vị ấy đối với các xúc khả ái,.... Ư không lôi cuốn vị ấy đối với các pháp khả ái và đối với các pháp không khả ái không ghét bỏ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là hộ tŕ.

"The 'strong post or stake' is a term for mindfulness immersed in the body.

"Cái cột hay cái trụ vững chắc, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với thân niệm.

Thus you should train yourselves: 'We will develop mindfulness immersed in the body. We will pursue it, give it a means of transport, give it a grounding. We will steady it, consolidate it, and set about it properly.' That's how you should train yourselves."

SN 35.206

Do vậy, này các Tỷ-kheo, hăy học tập như sau: "Chúng ta sẽ tu tập thân niệm, làm cho sung măn, làm cho như thành cỗ xe, làm cho như thành cơ sở, an trú, tích tập, khéo nỗ lực". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập.

SN 35.206

"Suppose, monks, that a large crowd of people comes thronging together, saying, 'The beauty queen! The beauty queen!' And suppose that the beauty queen is highly accomplished at singing & dancing, so that an even greater crowd comes thronging, saying, 'The beauty queen is singing! The beauty queen is dancing!' Then a man comes along, desiring life & shrinking from death, desiring pleasure & abhorring pain. They say to him, 'Now look here, mister. You must take this bowl filled to the brim with oil and carry it on your head in between the great crowd & the beauty queen. A man with a raised sword will follow right behind you, and wherever you spill even a drop of oil, right there will he cut off your head.' Now what do you think, monks: Will that man, not paying attention to the bowl of oil, let himself get distracted outside?"

"No, lord."

"Ví như một số đông quần chúng, này các Tỷ-kheo, tụ họp lại và nói: "Cô gái hoa hậu của quốc độ. Cô gái hoa hậu của quốc độ!". Và người con gái hoa hậu quốc độ ấy với tất cả sự quyến rũ của ḿnh, múa (cho họ xem), với tất cả sự quyến rũ của ḿnh, hát (cho họ nghe). Và một số quần chúng c̣n đông hơn tụ họp lại và nói: "Cô gái hoa hậu của quốc độ múa và hát". Rồi một người đến, muốn sống, không muốn chết, muốn lạc, ghét khổ, họ nói với người ấy như sau: "Này Ông, hăy xem đây. Đây là cái bát đầy dầu. Ông hăy mang bát dầu ấy và đi ṿng quanh đám quần chúng lớn và người con gái hoa hậu của quốc độ. Và một người với cây kiếm giơ cao sẽ đi theo sau lưng Ông. Tại chỗ nào làm đổ một ít dầu, tại chỗ ấy, đầu Ông bị rơi xuống". Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, người ấy có thể không tác ư đến bát dầu, phóng tâm hướng ngoại không?"

"Thưa không, bạch Thế Tôn.."

"I have given you this parable to convey a meaning. The meaning is this: The bowl filled to the brim with oil stands for mindfulness immersed in the body. Thus you should train yourselves: 'We will develop mindfulness immersed in the body. We will pursue it, give it a means of transport, give it a grounding. We will steady it, consolidate it, and set about it properly.' That's how you should train yourselves."

SN 47.20

"Ví dụ này, này các Tỷ-kheo, Ta nói ra để nêu rơ ư nghĩa. Và đây là ư nghĩa của nó. Này các Tỷ-kheo, cái bát đầy dầu là đồng nghĩa với thân hành niệm. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập như sau: "Chúng ta sẽ tu tập thân hành niệm, làm cho sung măn, làm cho như thành cỗ xe, làm cho như thành đất nền, làm cho tiếp tục an trú, làm cho tích tập, làm cho khéo có hiệu năng (susamàraddhà)". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông cần phải học tập."

SN 47.20

With mindfulness immersed in the body
	well established, restrained
with regard to the six media of contact — 
	always centered, the monk
	can know Unbinding for himself.

Ud 3.5

Thân hành niệm an lập,
Sáu xúc xứ chế ngự,
Tỷ-kheo thường thiền định,
Tự chứng tri Niết Bàn.

Ud 3.5

Knowing this body
is like foam,
realizing its nature
	— a mirage — 
cutting out
the blossoms of Mara,
you go where the King of Death
	can't see.

Dhp 46

Biết thân dường bọt nổi
Hiểu thân là ảo hoá
Hủy tên hoa của ma
Vượt tầm mắt tử thần 

Dhp 46

"Whoever pervades the great ocean with his awareness encompasses whatever rivulets flow down into the ocean. In the same way, whoever develops & pursues mindfulness immersed in the body encompasses whatever skillful qualities are on the side of clear knowing."

^^^^^

"When one thing is practiced & pursued, the body is calmed, the mind is calmed, thinking & evaluating are stilled, and all qualities on the side of clear knowing go to the culmination of their development. Which one thing? Mindfulness immersed in the body."

^^^^^

"When one thing is practiced & pursued, ignorance is abandoned, clear knowing arises, the conceit 'I am' is abandoned, latent tendencies are uprooted, fetters are abandoned. Which one thing? Mindfulness immersed in the body."

^^^^^

"Those who do not taste mindfulness of the body do not taste the Deathless. Those who taste mindfulness of the body taste the Deathless."

^^^^^

"Those who are heedless of mindfulness of the body are heedless of the Deathless."

^^^^^

"Those who comprehend mindfulness of the body comprehend the Deathless."

— AN 1.225, 227, 230, 235, 239, 245

^^^^^

IV. [go up]
The Disadvantages of Attachment to the Body

^^^^^

All too soon, this body
will lie on the ground
	cast off,
bereft of consciousness,
like a useless scrap
	of wood.

Dhp 42

Thân xác này rồi đây
Sẽ nằm dài trên đất
Vất bỏ nằm vô thức
Như gỗ mục vô dụng 

Dhp 41

"The body is aflame. Tactile sensations are aflame. Bodily consciousness is aflame. Bodily contact is aflame. And whatever there is that arises in dependence on bodily contact — experienced as pleasure, pain or neither-pleasure-nor-pain — that too is aflame. Aflame with what? Aflame with the fire of passion, the fire of aversion, the fire of delusion. Aflame, I tell you, with birth, aging & death, with sorrows, lamentations, pains, distresses, & despairs...

^^^^^

"Seeing thus, the instructed disciple of the noble ones grows disenchanted with the body, disenchanted with tactile sensations, disenchanted with bodily consciousness, disenchanted with bodily contact. And whatever there is that arises in dependence on bodily contact, experienced as pleasure, pain or neither-pleasure-nor-pain: With that, too, he grows disenchanted.

^^^^^

"Disenchanted, he becomes dispassionate. Through dispassion, he is fully released. With full release, there is the knowledge, 'Fully released.' He discerns that 'Birth is depleted, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.'"

SN 35.204

^^^^^

Then Janussonin the brahman went to the Blessed One and, on arrival, exchanged courteous greetings with him. After an exchange of friendly greetings & courtesies, he sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One: "I am of the view & opinion that there is no one who, subject to death, is not afraid or in terror of death."

Rồi Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn: "Thưa Tôn giả Gotama, tôi nói như sau, tôi thấy như sau: "Không có một ai bản tánh bị chết mà không sợ hăi, không rơi vào run sợ, khi nghĩ đến chết".

[The Blessed One said:] "Brahman, there are those who, subject to death, are afraid & in terror of death. And there are those who, subject to death, are not afraid or in terror of death.

"Này Bà-la-môn, có người bản tánh bị chết, sợ hăi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết. Nhưng này Bà-la-môn, có người bản tánh bị chết, không sợ hăi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

"And who is the person who, subject to death, is afraid & in terror of death? There is the case of the person who has not abandoned passion, desire, fondness, thirst, fever, & craving for sensuality. Then he comes down with a serious disease. As he comes down with a serious disease, the thought occurs to him, 'O, those beloved sensual pleasures will be taken from me, and I will be taken from them!' He grieves & is tormented, weeps, beats his breast, & grows delirious. This is a person who, subject to death, is afraid & in terror of death.

"Và này Bà-la-môn, thế nào là người bản tánh bị chết, sợ hăi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết? Ở đây, này Bà-la-môn, có người không ly tham đối với các dục, không ly ham muốn, không ly luyến ái, không ly khát ái, không ly nhiệt năo, không ly tham ái. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự các dục khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ các dục khả ái". Người ấy sầu muộn, than văn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, sợ hăi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

"Then there is the case of the person who has not abandoned passion, desire, fondness, thirst, fever, & craving for the body. Then he comes down with a serious disease. As he comes down with a serious disease, the thought occurs to him, 'O, my beloved body will be taken from me, and I will be taken from my body!' He grieves & is tormented, weeps, beats his breast, & grows delirious. This, too, is a person who, subject to death, is afraid & in terror of death.

"Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có người không ly tham đối với thân ... Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự thân khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ thân khả ái". Người ấy sầu muộn, than văn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, sợ hăi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

"Then there is the case of the person who has not done what is good, has not done what is skillful, has not given protection to those in fear, and instead has done what is evil, savage, & cruel. Then he comes down with a serious disease. As he comes down with a serious disease, the thought occurs to him, 'I have not done what is good, have not done what is skillful, have not given protection to those in fear, and instead have done what is evil, savage, & cruel. To the extent that there is a destination for those who have not done what is good, have not done what is skillful, have not given protection to those in fear, and instead have done what is evil, savage, & cruel, that's where I'm headed after death.' He grieves & is tormented, weeps, beats his breast, & grows delirious. This, too, is a person who, subject to death, is afraid & in terror of death.

"Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người không làm điều lành, không làm điều thiện, không che chở kẻ sợ hăi, làm điều ác, làm điều hung bạo, làm điều phạm pháp. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta không làm điều lành, không làm điều thiện, không che chở kẻ sợ hăi, làm điều ác, làm điều hung bạo, làm điều phạm pháp". Tại sanh thú nào mà những người không làm điều lành, không làm điều thiện, không che chở kẻ sợ hăi, làm điều ác, làm điều hung bạo, làm điều phạm pháp, đi đến sau khi chết, ta đi đến sanh thú ấy. Người ấy sầu muộn, than văn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, sợ hăi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

"Then there is the case of the person in doubt & perplexity, who has not arrived at certainty with regard to the True Dhamma. Then he comes down with a serious disease. As he comes down with a serious disease, the thought occurs to him, 'How doubtful & perplexed I am! I have not arrived at any certainty with regard to the True Dhamma!' He grieves & is tormented, weeps, beats his breast, & grows delirious. This, too, is a person who, subject to death, is afraid & in terror of death.

"Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người nghi ngờ do dự, không đi đến kết luận đối với diệu pháp. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta có nghi ngờ do dự, không đi đến kết luận đối với diệu pháp". Người ấy sầu muộn, than văn, khóc lóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh.

"These, brahman, are four people who, subject to death, are afraid & in terror of death.

"Này Bà-la-môn, đây là bốn hạng người bản tánh bị chết, sợ hăi, rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

"And who is the person who, subject to death, is not afraid or in terror of death?

"Và này Bà-la-môn, thế nào là người bản tánh bị chết, không sợ hăi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết?

"There is the case of the person who has abandoned passion, desire, fondness, thirst, fever, & craving for sensuality. Then he comes down with a serious disease. As he comes down with a serious disease, the thought doesn't occur to him, 'O, those beloved sensual pleasures will be taken from me, and I will be taken from them!' He doesn't grieve, isn't tormented; doesn't weep, beat his breast, or grow delirious. This is a person who, subject to death, is not afraid or in terror of death.

"Ở đây, này Bà-la-môn, có hạng người ly tham đối với các dục, ly ham muốn, ly luyến ái ... Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự các dục khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ các dục khả ái". Người ấy không sầu muộn, không than văn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là người bản tánh bị chết, không sợ hăi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

"Then there is the case of the person who has abandoned passion, desire, fondness, thirst, fever, & craving for the body. Then he comes down with a serious disease. As he comes down with a serious disease, the thought doesn't occur to him, 'O, my beloved body will be taken from me, and I will be taken from my body!' He doesn't grieve, isn't tormented; doesn't weep, beat his breast, or grow delirious. This, too, is a person who, subject to death, is not afraid or in terror of death.

"Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có người không ly tham đối với thân, ly ham muốn, ly luyến ái ... Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự thân khả ái sẽ bỏ ta", hay "Ta sẽ từ bỏ thân khả ái". Người ấy không sầu muộn, không than văn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hăi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

"Then there is the case of the person who has done what is good, has done what is skillful, has given protection to those in fear, and has not done what is evil, savage, or cruel. Then he comes down with a serious disease. As he comes down with a serious disease, the thought occurs to him, 'I have done what is good, have done what is skillful, have given protection to those in fear, and I have not done what is evil, savage, or cruel. To the extent that there is a destination for those who have done what is good, what is skillful, have given protection to those in fear, and have not done what is evil, savage, or cruel, that's where I'm headed after death.' He doesn't grieve, isn't tormented; doesn't weep, beat his breast, or grow delirious. This, too, is a person who, subject to death, is not afraid or in terror of death.

"Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người không làm ác, không làm điều hung bạo, không làm điều phạm pháp, làm điều lành, làm điều thiện, có che chở kẻ sợ hăi. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta không làm ác, không làm điều hung bạo, không làm điều phạm pháp, làm điều lành, làm điều thiện, có che chở kẻ sợ hăi. Tại sanh thú nào mà những người không làm điều ác, không làm điều hung bạo, không làm điều phạm pháp, làm điều lành, làm điều thiện, có che chở kẻ sợ hăi đi đến sau khi chết, ta đi đến sanh thú ấy". Người ấy không sầu muộn, không than văn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hăi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

"Then there is the case of the person who has no doubt or perplexity, who has arrived at certainty with regard to the True Dhamma. Then he comes down with a serious disease. As he comes down with a serious disease, the thought occurs to him, 'I have no doubt or perplexity. I have arrived at certainty with regard to the True Dhamma.' He doesn't grieve, isn't tormented; doesn't weep, beat his breast, or grow delirious. This, too, is a person who, subject to death, is not afraid or in terror of death.

"Lại nữa, này Bà-la-môn, ở đây có hạng người không có nghi ngờ, không có do dự, đi đến kết luận đối với diệu pháp. Rồi một chứng bệnh trầm trọng khởi lên cho người ấy. Người ấy bị cảm thọ bởi chứng bệnh trầm trọng ấy, suy nghĩ như sau: "Thật sự ta không có nghi ngờ, không có do dự, đi đến kết luận đối với diệu pháp". Người ấy không có sầu muộn, không có than văn, không có khóc lóc, không có đập ngực, không rơi vào bất tỉnh. Này Bà-la-môn, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hăi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.

"These, brahman, are four people who, subject to death, are not afraid or in terror of death."

"Này Bà-la-môn, có bốn hạng người bản tánh bị chết, không có sợ hăi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết

[When this was said, Janussonin the brahman said to the Blessed One:] "Magnificent, Master Gotama! Magnificent! Just as if he were to place upright what was overturned, to reveal what was hidden, to show the way to one who was lost, or to carry a lamp into the dark so that those with eyes could see forms, in the same way has Master Gotama — through many lines of reasoning — made the Dhamma clear. I go to Master Gotama for refuge, to the Dhamma, and to the Sangha of monks. May Master Gotama remember me as a lay follower who has gone to him for refuge, from this day forward, for life."

AN 4.184

"Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama ... Mong Tôn giả Gotama chấp nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng."

AN 4.184

"And what is the perception of drawbacks? There is the case where a monk — having gone to the wilderness, to the foot of a tree, or to an empty dwelling — reflects thus: 'This body has many pains, many drawbacks. In this body many kinds of disease arise, such as: seeing-diseases, hearing-diseases, nose-diseases, tongue-diseases, body-diseases, head-diseases, ear-diseases, mouth-diseases, teeth-diseases, cough, asthma, catarrh, fever, aging, stomach-ache, fainting, dysentery, grippe, cholera, leprosy, boils, ringworm, tuberculosis, epilepsy, skin-diseases, itch, scab, psoriasis, scabies, jaundice, diabetes, hemorrhoids, fistulas, ulcers; diseases arising from bile, from phlegm, from the wind-property, from combinations of bodily humors, from changes in the weather, from uneven care of the body, from attacks, from the result of kamma; cold, heat, hunger, thirst, defecation, urination.' Thus he remains focused on drawbacks with regard to this body. This is called the perception of drawbacks.

AN 10.60

^^^^^

"I will teach you a Dhamma discourse on bondage & lack of bondage. Listen & pay close attention. I will speak."

"Yes, lord," the monks responded.

"Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Thầy pháp môn về hệ lụy, và ly hệ lụy, hăy lắng nghe và suy nghiệm kỹ. Ta sẽ thuyết."

"Thưa vâng, bạch Thế Tôn" Tỷ kheo vâng đáp lời Thế Tôn.

The Blessed One said: "A woman attends inwardly to her feminine faculties, her feminine gestures, her feminine manners, feminine poise, feminine desires, feminine voice, feminine charms. She is excited by that, delighted by that. Being excited & delighted by that, she attends outwardly to masculine faculties, masculine gestures, masculine manners, masculine poise, masculine desires, masculine voices, masculine charms. She is excited by that, delighted by that. Being excited & delighted by that, she wants to be bonded to what is outside her, wants whatever pleasure & happiness that arise based on that bond. Delighting, caught up in her femininity, a woman goes into bondage with reference to men. This is how a woman does not transcend her femininity.

Đức Thế Tôn nói: "Một nữ nhân, này các Tỷ-kheo, tác ư nội nữ căn, nữ hành, nữ y phục, nữ loại, nữ dục, nữ thanh, nữ trang sức, thời nữ nhân ấy tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy. Do tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy nên tác ư đến nam căn ở ngoài, nam hành, nam y phục, nam loại, nam dục, nam thanh, nam trang sức mà nữ nhân ấy tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy. Do tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy nên nữ nhân ấy ước muốn có sự hệ lụy ở ngoài. Do duyên với hệ lụy ấy, khởi lên lạc, hỷ nên nữ nhân ấy ước muốn lạc hỷ ấy. Này các Tỷ-kheo, do thích thú trong nữ tánh của ḿnh, các loài hữu t́nh đi đến hệ lụy với những người đàn ông. Như vậy, này các Tỷ-kheo, nữ nhân không có thoát được nữ tánh của ḿnh.

"A man attends inwardly to his masculine faculties, masculine gestures, masculine manners, masculine poise, masculine desires, masculine voice, masculine charms. He is excited by that, delighted by that. Being excited & delighted by that, he attends outwardly to feminine faculties, feminine gestures, feminine manners, feminine poise, feminine desires, feminine voices, feminine charms. He is excited by that, delighted by that. Being excited & delighted by that, he wants to be bonded to what is outside him, wants whatever pleasure & happiness that arise based on that bond. Delighting, caught up in his masculinity, a man goes into bondage with reference to women. This is how a man does not transcend his masculinity.

"Một nam nhân, này các Tỷ-kheo, tác ư nội nam căn, nam hành, nam y phục, nam loại, nam dục, nam thanh, nam trang sức mà nữ nhân ấy tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy. Do tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy nên tác ư đến nữ căn ở ngoài, nữ hành, nữ y phục, nữ loại, nữ dục, nữ thanh, nữ trang sức mà nam nhân ấy tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy. Do tham đắm trong ấy, thích thú tại đấy nên nam nhân ấy ước muốn có sự hệ lụy ở ngoài. Do duyên với hệ lụy ấy, khởi lên lạc hỷ nên nam nhân ấy ước muốn lạc hỷ ấy. Này các Tỷ-kheo, do thích thú trong nam tánh của ḿnh, các loài hữu t́nh đi đến hệ lụy với những người đàn bà. Như vậy, này các Tỷ-kheo, nam nhân không thoát khỏi nam tánh của ḿnh.

"And how is there lack of bondage? A woman does not attend inwardly to her feminine faculties ... feminine charms. She is not excited by that, not delighted by that ... does not attend outwardly to masculine faculties ... masculine charms. She is not excited by that, not delighted by that ... does not want to be bonded to what is outside her, does not want whatever pleasure & happiness that arise based on that bond. Not delighting, not caught up in her femininity, a woman does not go into bondage with reference to men. This is how a woman transcends her femininity.

"Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là không hệ lụy? Một nữ nhân, này các Tỷ-kheo, không tác ư nội nữ căn, nữ hành, nữ y phục, nữ loại, nữ dục, nữ thanh, nữ trang sức thời nữ nhân ấy không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy. Do không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy nên không tác ư đến nam căn ở ngoài, nam hành, nam y phục, nam loại, nam dục, nam thanh, nam trang sức mà nữ nhân ấy không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy. Do không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy nữ nhân ấy không muốn có sự hệ lụy ở ngoài. Do duyên hệ lụy ấy, khởi lên lạc, hỷ, nữ nhân ấy không ước muốn lạc, hỷ ấy. Này các Tỷ-kheo, do không thích thú trong nữ tánh của ḿnh, các loài hữu t́nh không đi đến hệ lụy với những người đàn ông. Như vậy, này các Tỷ-kheo, nữ nhân thoát được nữ tánh của ḿnh.

"A man does not attend inwardly to his masculine faculties ... masculine charms. He is not excited by that, not delighted by that ... does not attend outwardly to feminine faculties ... feminine charms. He is not excited by that, not delighted by that ... does not want to be bonded to what is outside him, does not want whatever pleasure & happiness that arise based on that bond. Not delighting, not caught up in his masculinity, a man does not go into bondage with reference to women. This is how a man transcends his masculinity.

"This is how there is lack of bondage. And this is the Dhamma discourse on bondage & lack of bondage."

AN 7.48

"Một nam nhân, này các Tỷ-kheo, không tác ư đến nội nam căn, nam hành, nam y phục, nam loại, nam dục, nam thanh, nam trang sức mà nữ nhân ấy không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy. Do không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy nên không tác ư đến nữ căn ở ngoài, nữ hành, nữ y phục, nữ loại, nữ dục, nữ thanh, nữ trang sức mà nam nhân ấy không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy. Do không tham đắm trong ấy, không thích thú tại đấy nên nam nhân ấy không ước muốn có sự hệ lụy ở ngoài. Do duyên với hệ lụy ấy, khởi lên lạc, hỷ nên nam nhân ấy ước muốn lạc, hỷ ấy. Này các Tỷ-kheo, do không thích thú trong nam tánh của ḿnh, các loài hữu t́nh không đi đến hệ lụy với những nữ nhân. Như vậy, này các Tỷ-kheo, nam nhân thoát được nam tánh của ḿnh.

"Này các Tỷ-kheo, đây là pháp môn hệ lụy và ly hệ lụy.

AN 7.48

[Ven. Ananda teaches a nun:] "'This body comes into being through food. And yet it is by relying on food that food is to be abandoned.' Thus it was said. And in reference to what was it said? There is the case, sister, where a monk, considering it thoughtfully, takes food — not playfully, nor for intoxication, nor for putting on bulk, nor for beautification — but simply for the survival & continuance of this body, for ending its afflictions, for the support of the holy life, [thinking,] 'Thus will I destroy old feelings [of hunger] and not create new feelings [from overeating]. I will maintain myself, be blameless, & live in comfort.' Then, at a later time, he abandons food, having relied on food. 'This body, sister, comes into being through food. And yet it is by relying on food that food is to be abandoned.' Thus it was said, and in reference to this was it said.

[Tôn giả Ànanda nói với Tỷ-kheo-ni:] "'Này chị, thân này do đồ ăn được tác thành, y cứ vào đồ ăn; đồ ăn cần phải đoạn tận. Như vậy, được nói đến, chính do duyên này được nói đến. Này chị, ở đây, Tỷ-kheo như lư quán sát thọ dụng món ăn không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp ḿnh, mà chỉ để thân này được sống lâu, và được bảo dưỡng, để thân này khỏi bị thương hại, để hỗ trợ Phạm hạnh, nghĩ rằng : "Như vậy, ta diệt trừ cảm thọ cũ và không cho khởi lên cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn". Vị ấy sau một thời gian, dầu cho y cứ vào đồ ăn, vẫn không đắm trước đồ ăn. Này chị, thân này do đồ ăn được tác thành, y cứ vào đồ ăn; đồ ăn cần phải đoạn tận. Như vậy, được nói đến, chính do duyên này được nói đến.

"'This body comes into being through craving. And yet it is by relying on craving that craving is to be abandoned.' Thus it was said. And in reference to what was it said? There is the case, sister, where a monk hears, 'The monk named such-and-such, they say, through the ending of the fermentations, has entered & remains in the fermentation- & discernment-release, having known & realized them for himself in the here & now.' The thought occurs to him, 'I hope that I, too, will — through the ending of the fermentations — enter & remain in the fermentation-free awareness-release & discernment-release, having directly known & realized them for myself right in the here & now.' Then, at a later time, he abandons craving, having relied on craving. 'This body comes into being through craving. And yet it is by relying on craving that craving is to be abandoned.' Thus it was said. And in reference to this was it said.

"'Này chị, thân này do ái được tác thành, y cứ vào ái; ái cần phải đoạn tận. Như vậy, được nói đến, y cứ vào ǵ được nói đến như vậy ? Ở đây, này chị, Tỷ-kheo nghe : "Tỷ-kheo tên này do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự ḿnh với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát". Vị ấy suy nghĩ : "Thật vậy, ta cũng do đoạn tận các lậu hoặc … ta sẽ chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát". Vị ấy, sau một thời gian, dầu y cứ vào ái, đoạn tận ái. Này chị, thân này do ái được tác thành, y cứ vào ái; ái cần phải đoạn tận. Như vậy, được nói đến, chính do duyên này được nói đến.

"'This body comes into being through conceit. And yet it is by relying on conceit that conceit is to be abandoned.' Thus it was said. And in reference to what was it said? There is the case, sister, where a monk hears, 'The monk named such-and-such, they say, through the ending of the fermentations, has entered & remains in the fermentation-free awareness-release & discernment-release, having directly known & realized them for himself right in the here & now.' The thought occurs to him, 'The monk named such-&-such, they say, through the ending of the fermentations, has entered & remains in the fermentation-free awareness-release & discernment-release, having directly known & realized them for himself right in the here & now. Then why not me?' Then, at a later time, he abandons conceit, having relied on conceit. 'This body comes into being through conceit. And yet it is by relying on conceit that conceit is to be abandoned.' Thus it was said, and in reference to this was it said.

"'Này chị, thân này do kiêu mạn được tác thành, y cứ vào kiêu mạn; kiêu mạn cần phải đoạn tận. Như vậy, được nói đến, y cứ vào ǵ được nói đến như vậy ? Ở đây, này chị, Tỷ-kheo nghe : "Tỷ-kheo tên này do đoạn diệt các lậu hoặc … vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát". Vị ấy suy nghĩ : "Vậy tại sao ta không như vậy ?". Vị ấy, sau một thời gian, dầu y cứ vào kiêu mạn, đoạn tận kiêu mạn.

"This body comes into being through sexual intercourse. Sexual intercourse is to be abandoned. With regard to sexual intercourse, the Buddha declares the cutting off of the bridge."

AN 4.159

"Này chị, thân này do dâm dục tác thành, dâm dục, sự phá đổ cây cầu được Thế Tôn nói đến."

AN 4.159

Look at the beautified image,
a heap of festering wounds, shored up:
ill, but the object
	of many resolves,
where there is nothing
	lasting or sure.

Worn out is this body,
a nest of diseases, dissolving.
This putrid conglomeration
is bound to break up,
for life is hemmed in with death.

On seeing these bones
	discarded
like gourds in the fall,
	pigeon-gray:
	       what delight?

A city made of bones,
plastered over with flesh & blood,
whose hidden treasures are:
	pride & contempt,
	aging & death.

Dhp 147-150

Hăy nh́n thân mỹ miều
Chất chứa lắm khổ đau
Nhiều lo toan, bệnh tật
Có ǵ bền vững đâu 

Khi thân này già nua
Bệnh hoạn và yếu ớt
Bài tiết bao uế trược
Kết thúc bằng sự chết 

Như bầu khô mùa thu
Bị vất nằm bừa băi
Xương trắng màu bồ câu
Có ǵ để luyến ái 

Thành tŕ dựng bằng xương
Quét tô bằng máu thịt
Trong chứa già và chết

Dhp 147-150

Whether walking, standing,
sitting, or lying down,
it flexes & stretches:
	this is the body's movement.
Joined together with tendons & bones,
plastered over with muscle & skin,
hidden by complexion,
	the body isn't seen
	for what it is:
filled with intestines, filled with stomach,
with the lump of the liver,
bladder, lungs, heart,
kidneys, spleen,
mucus, sweat, saliva, fat,
blood, synovial fluid, bile, & oil.
On top of that,
in nine streams,
filth is always flowing from it:
from the eyes : eye secretions,
from the ears : ear secretions,
from the nose : mucus,
from the mouth : now vomit,
	now phlegm,
	now bile.
from the body : beads of sweat.
And on top of that,
its hollow head is filled with brains.

The fool, beset by ignorance,
thinks it beautiful.
But when it lies dead,
	swollen, livid,
	cast away in a charnel ground,
even relatives don't care for it.
Dogs feed on it,
jackals, wolves, & worms.
Crows & vultures feed on it,
along with any other animals there.

Having heard the Awakened One's words,
the discerning monk
comprehends, for he sees it
	for what it is:
"As this is, so is that.
As that, so this."
Within & without,
he should let desire for the body
	fade away.
With desire & passion faded away,
the discerning monk arrives here:
	at the deathless,
	the calm,
	the undying state
	of Unbinding.

This two-footed, filthy, evil-smelling,
filled-with-various-carcasses,
oozing-out-here-&-there body:
Whoever would think,
on the basis of a body like this,
to exalt himself or disparage another:

   What is that
	if not blindness?

Sn 1.11

Hoặc là đi hay đứng,
Hoặc là ngồi hay nằm,
Hoặc co tay, duỗi tay,
Như vậy, thân dao động.

Ràng buộc với xương gân,
Trét thoa với da thịt,
Thân được da che đậy,
Như thật không thấy rơ.

Trong một bụng chứa đầy,
Cục gan, và bọng đái,
Quả tim và buồng phổi,
Cả thận, và tỳ tạng.

Nước mũi, và nước miếng,
Mồ hôi, và nước mỡ,
Máu, và nước khớp xương,
Mật, và bạch huyết cầu.

Từ chín nguồn nước này,
Bất tịnh luôn luôn chảy,
Từ mắt, đồ bẩn chảy,
Từ tai, đồ bẩn chảy.

Nước mũi từ lỗ mũi,
Từ miệng, có khi chảy,
Chảy mật, và niêm dịch,
Từ thân, mồ hôi bẩn.

Trong đầu thật trống rỗng,
Chứa đầy những óc, năo.
Bị vô minh dắt dẫn,
Kẻ ngu nghĩ tịnh sạch.

Khi bị chết nằm xuống,
Phồng lên, và xanh bầm,
Quăng bỏ trong nghĩa địa,
Bà con không đoái hoài.

Chó, dă can đến ăn,
Chó sói, các côn trùng,
Quạ, diều hâu đến ăn,
C̣n có hữu t́nh khác.

Được nghe lời Phật dạy,
Tỷ-kheo có trí tuệ,
Vị ấy liễu tri thân,
Thấy thân đúng như thật.

Đây thế nào, kia vậy,
Kia thế nào, đây vậy,
Đối với thân trong ngoài,
Từ bỏ mọi ḷng dục.

Từ bỏ ḷng tham dục,
Đây Tỷ-kheo có tuệ,
Chứng bất tử, tịch tịnh,
Niết-bàn giới thường trú.

Thân này với hai chân,
Bất tịnh và hôi thúi,
Đầy xác chết, chảy nước,
Lại được giữ, nâng niu.

Với thân thể như vậy,
Ai lại nghĩ đề cao,
Hay khinh miệt kẻ khác,
Trừ kẻ không thấy ǵ.

Sn 1.11

"Monks, it's just as if there were a boil that had been building for many years with nine openings, nine un-lanced heads. Whatever would ooze out from it would be an uncleanliness oozing out, a stench oozing out, a disgust oozing out. Whatever would be discharged from it would be an uncleanliness discharging, a stench discharging, a disgust discharging.

"Ví như, này chư Hiền, một ung nhọt đă trải nhiều. Nó có chín miệng vết thương, có chín miệng nứt rạn. Từ đấy có cái ǵ chảy ra, chắc chắn bất tịnh rỉ chảy, chắc chắn hôi thúi rỉ chảy, chắc chắn nhàm chán rỉ chảy. Có cái ǵ nứt chảy, chắc chắn bất tịnh nứt chảy, chắc chắn hôi thúi nứt chảy, chắc chắn nhàm chán nứt chảy.

"'A boil,' monks, is another word for this body composed of the four properties, born of mother & father, fed on rice & porridge, subject to inconstancy, rubbing & massaging, breaking-up & disintegrating. It has nine openings, nine un-lanced heads. Whatever would ooze out from it would be an uncleanliness oozing out, a stench oozing out, a disgust oozing out. Whatever would be discharged from it would be an uncleanliness discharging, a stench discharging, a disgust discharging. For that reason, you should become disenchanted with this body."

AN 9.15

"'Ung nhọt,' này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với thân này do bốn đại tác thành, do cha mẹ sinh ra, do cơm cháo chất chứa nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, tan nát, hủy hoại, hoại diệt. Có chín miệng vết thương, có chín miệng nứt rạn. Từ đấy có cái ǵ chảy ra, chắc chắn bất tịnh rỉ chảy, chắc chắn hôi thúi rỉ chảy, chắc chắn nhàm chán rỉ chảy. Có cái ǵ nứt chảy, chắc chắn bất tịnh nứt chảy, chắc chắn hôi thúi nứt chảy, chắc chắn nhàm chán nứt chảy. Do vậy, này các Tỷ-kheo, các Thầy hăy nhàm chán thân này."

AN 9.15

Pingiya:
I'm old & weak,
my complexion dull.
I've blurry eyes
and trouble hearing,
but may I not perish deluded,
	   confused!
Teach me the Dhamma
so that I may know
the abandoning here
	of birth & aging.
The Buddha:
Seeing people suffering
on account of their bodies — 
	heedless people are oppressed
	on account of their bodies — 
then heedful, Pingiya,
let go of the body
	for the sake of no further becoming.
Pingiya:
In the four cardinal directions,
the four intermediate,
above & below
	— the ten directions — 
there is nothing in the world
	unseen, unheard,
	unsensed, uncognized by you.
Teach me the Dhamma
so that I may know
the abandoning here
	of birth & aging.
The Buddha:
Seeing people,
	victims of craving — 
	aflame, overwhelmed with aging — 
then heedful, Pingiya,
let go of craving
	for the sake of no further becoming.

Sn 5.16

Pingiya:

Tôn giả Pin-gi-ya:
Con đă già, yếu đuối,
Không c̣n có dung sắc,
Mắt không thấy rơ ràng,
Tai không nghe thông suốt,
Để con khỏi mệnh chung,
Với tâm tư si ám,
Mong Ngài nói Chánh pháp,
Nhờ rơ biết pháp ấy,
Chính tại ở đời này,
Con đoạn tận sanh già.
Thế Tôn:
Thế Tôn đáp lại rằng:
Hỡi này Pin-gi-ya,
Thấy được sự tác hại,
Trong các loại sắc pháp,
Chúng sanh sống phóng dật,
Bị phiền lụy trong sắc,
Do vậy, Pin-gi-ya,
Ông chớ có phóng dật,
Hăy từ bỏ sắc pháp
Chớ đi đến tái sanh.
Pingiya:
Bốn phương chính, bốn phụ,
Cộng thêm trên và dưới,
Như vậy có mười phương,
Và trong thế giới này,
Không có sự việc ǵ,
Mà Ngài không được thấy,
Không nghe, không nghĩ đến,
Và không được thức tri,
Hăy nói đến Chánh pháp,
Nhờ rơ biết pháp này,
Con ngay tại đời này,
Đoạn tận được sanh già.
Thế Tôn:
Thế Tôn nói như sau:
Hỡi này Pin-gi-ya!
Thấy chúng sanh loài Người,
Rơi vào trong khát ái,
Bị già nua đốt cháy,
Bị già nua chinh phục
Do vậy, Pin-gi-ya,
Ông chớ có phóng dật
Hăy từ bỏ khát ái,
Không c̣n bị tái sanh.

Sn 5.16

Manava:
On seeing an old person;
	& 
a person in pain, diseased;
	& 
a person dead, gone to life's end,
	I left 
for the life gone forth,
abandoning the sensuality
	that entices the heart.

Thag 1.73

Manava:

Ta thấy một người già,
Một người khổ bệnh hoạn,
Ta thấy một người chết,
Với tuổi thọ kiệt quệ,
Do vậy ta thoát ra,
Sống đời sống xuất gia,
Từ bỏ mọi dục vọng,
Hấp dẫn và thích ư. 

Thag 1.73

All too soon, this body
will lie on the ground
	cast off,
bereft of consciousness,
like a useless scrap
	of wood.

Dhp 41

Thân xác này rồi đây
Sẽ nằm dài trên đất
Vất bỏ nằm vô thức
Như gỗ mục vô dụng. 

Dhp 41

Look at the beautified image,
a heap of festering wounds, shored up:
ill, but the object
	of many resolves,
where there is nothing
	lasting or sure.

Dhp 147

Hăy nh́n thân mỹ miều
Chất chứa lắm khổ đau
Nhiều lo toan, bệnh tật
Có ǵ bền vững đâu 

Dhp 147

A city made of bones,
plastered over with flesh & blood,
whose hidden treasures are:
	pride & contempt,
	aging & death.

Dhp 150

Thành tŕ dựng bằng xương
Quét tô bằng máu thịt
Trong chứa già và chết

Dhp 150

This unlistening man
matures like an ox.
His muscles develop,
his discernment     not.

Dhp 152

Người ít chịu học hỏi
Như trâu già lớn xác
Bắp thịt th́ nở nang
Nhưng trí năng cùng mạt 

Dhp 152

Kimbila:
As if sent by a curse,
it drops on us — 
	   aging.
The body seems  other,
though it's still the same one.
I'm still here
& have never been absent from it,
but I remember myself
as if somebody else's.

Thag 1.118

Kimbila:

Như bị lời trù yếm,
Tuổi già đến áp đảo,
Dung sắc bị đổi khác,
Nhưng cũng dung sắc trước;
Vị ấy như thế nào,
Không có ǵ thay đổi,
Nhưng ta chớ tự ngă,
Có ǵ đă đổi khác. 

Thag 1.118

Mahakala:
This swarthy woman
[preparing a corpse for cremation]
	— crow-like, enormous — 
breaking a thigh & then the other
	thigh,
breaking an arm & then the other
	       arm,
cracking open the head,
	like a pot of curds,
she sits with them heaped up beside her.

Whoever, unknowing,
makes acquisitions
	— the fool — 
returns over & over
to suffering & stress.
So, discerning,
don't make acquisitions.
	May I never lie
	with my head cracked open
	   again.

Thag 2.16

Mahakala:

Nữ Kàĺ, đẫy đà,
Dung sắc như quạ đen,
Bẻ gẫy một bắp vế,
Lại bẻ bắp vế nữa,
Bẻ gẫy một cánh tay,
Lại bẻ cánh tay nữa,
Lại bẻ gẫy cái đầu,
Như bát đựng sữa đông.
Này Kàĺ ngồi xuống,
Với ḷng tin sẵn sàng.

Ai không rơ biết vậy,
Lại tác thành sanh y,
Kẻ ngu bước đi đến,
Chịu khổ đau liên tục,
Do vậy ai hiểu biết,
Không tạo nên sanh y,
Ta sẽ không nằm xuống,
Với đầu bị bẻ nát.

Thag 2.16

Rajadata:
I, a monk,
gone to the charnel ground,
saw a woman cast away,
	discarded
there in the cemetery.

Though some were disgusted,
seeing her — dead, evil — 
	       lust
	appeared,
as if I were blind
	to the oozings.

In less time than it takes
for rice to cook,
I got out of that place.
Mindful, alert, I
sat down to one side.
Then apt attention arose in me,
the drawbacks appeared,
	disenchantment stood
	at an even keel:

With that, my heart was released.
See the Dhamma's true rightness!
The three knowledges
have been attained;
the Awakened One's bidding,
	   done.

Thag 5.1

Rajadata:

Một Tỷ-kheo đi đến
Tại một băi tha ma,
Thấy thân một đàn bà,
Bị quăng tại chỗ ấy,
Vất bỏ trong nghĩa địa,
Làm mồi cho sâu ăn.

Có kẻ sinh nhàm chán,
Thấy thân chết khốn nạn,
Trong ta, dục tham hiện,
Như mù, ta bị trói.

Mau hơn cơm sôi trào,
Chỗ ấy, ta đi thoát,
Chánh niệm, ta tỉnh giác,
Ta đến, ngồi một bên.

Rồi ta tự ư tác,
Như lư khởi tư duy,
Các hiểm nguy hiển lộ,
Nhàm chán ta an trú.

Và tâm ta giải thoát,
Thấy Pháp nhĩ là vậy,
Ba minh chứng đạt được, 
Lời Phật dạy làm xong.

Thag 5.1

As Subha the nun was going through Jivaka's delightful mango grove, a libertine (a goldsmith's son) blocked her path, so she said to him:

'What wrong have I done you
that you stand in my way?
It's not proper, my friend,
that a man should touch
a woman gone forth.
I respect the Master's message,
the training pointed out by the one well-gone.
I am pure, without blemish:
	Why do you stand in my way?
You — your mind agitated, impassioned;
I — unagitated, unimpassioned,
with a mind entirely freed:
	Why do you stand in my way?'

'You are young & not bad-looking,
what need do you have for going forth?
Throw off your ochre robe — 
	Come, let's delight in the flowering grove.
A sweetness they exude everywhere,
the towering trees with their pollen.
The beginning of spring is a pleasant season — 
	Come, let's delight in the flowering grove.
The trees with their blossoming tips
moan, as it were, in the breeze:
What delight will you have
if you plunge into the grove alone?
Frequented by herds of wild beasts,
disturbed by elephants rutting & aroused:
you want to go
	unaccompanied
into the great, lonely, frightening grove?
Like a doll made of gold, you will go about,
like a goddess in the gardens of heaven.
With delicate, smooth Kasi fabrics,
you will shine, O beauty without compare.
I would gladly do your every bidding
if we were to dwell in the glade.
For there is no creature dearer to me
	than you, O nymph with the languid regard.
If you do as I ask, happy, come live in my house.
Dwelling in the calm of a palace,
	have women wait on you,
	wear delicate Kasi fabrics,
	adorn yourself with garlands & creams.
I will make you many & varied ornaments
	of gold, jewels, & pearls.
Climb onto a costly bed,
scented with sandalwood carvings,
with a well-washed coverlet, beautiful,
spread with a woolen quilt, brand new.
Like a blue lotus rising from the water
where no human beings dwell,
you will go to old age with your limbs unseen,
if you stay as you are in the holy life.'

'What do you assume of any essence,
here in this cemetery grower, filled with corpses,
this body destined to break up?
What do you see when you look at me,
	you who are out of your mind?'

   'Your eyes
are like those of a fawn,
like those of a sprite in the mountains.
Seeing your eyes, my sensual delight
	grows all the more.
Like tips they are, of blue lotuses,
in your golden face
	— spotless:
Seeing your eyes, my sensual delight
	grows all the more.
Even if you should go far away,
I will think only of your pure,
	long-lashed gaze,
for there is nothing dearer to me
	than your eyes, O nymph with the languid regard.'

'You want to stray from the road,
you want the moon as a plaything,
you want to jump over Mount Sineru,
you who have designs on one born of the Buddha.
For there is nothing anywhere at all
in the cosmos with its gods,
that would be an object of passion for me.
	I don't even know what that passion would be,
	for it's been killed, root & all, by the path.
Like embers from a pit — scattered,
like a bowl of poison — evaporated,
	I don't even see what that passion would be,
	for it's been killed, root & all, by the path.
Try to seduce one who hasn't reflected on this,
or who has not followed the Master's teaching.
But try it with this one who knows
	and you suffer.
For in the midst of praise & blame,
	pleasure & pain,
my mindfulness stands firm.
Knowing the unattractiveness
	of things compounded,
my mind cleaves to nothing at all.
I am a follower of the one well-gone,
riding the vehicle of the eightfold way:
My arrow removed, effluent-free,
I delight, having gone to an empty dwelling.
For I have seen well-painted puppets,
hitched up with sticks & strings,
made to dance in various ways.
When the sticks & strings are removed,
thrown away, scattered, shredded,
smashed into pieces, not to be found,
	in what will the mind there make its home?
This body of mine, which is just like that,
when devoid of dhammas doesn't function.
When, devoid of dhammas, it doesn't function,
	in what will the mind there make its home?
Like a mural you've seen, painted on a wall,
smeared with yellow orpiment,
there your vision has been distorted,
meaningless your human perception.
Like an evaporated mirage,
like a tree of gold in a dream,
like a magic show in the midst of a crowd — 
	you run blind after what is unreal.
Resembling a ball of sealing wax,
set in a hollow,
with a bubble in the middle
and bathed with tears,
eye secretions are born there too:
The parts of the eye
are rolled all together
in various ways.'

Plucking out her lovely eye,
with mind unattached
she felt no regret.

'Here, take this eye. It's yours.'

Straightaway she gave it to him.
Straightaway his passion faded right there,
and he begged her forgiveness.

'Be well, follower of the holy life.
	This sort of thing
	won't happen again.
Harming a person like you
is like embracing a blazing fire,
It is as if I have seized a poisonous snake.
So may you be well. Forgive me.'

And released from there, the nun
went to the excellent Buddha's presence.
When she saw the mark of his excellent merit,
	her eye became
	as it was before.

Thig 14

Trong rừng xoài tươi đẹp của ông Jivaka, Tỷ-kheo-ni Subhà đang bộ hành đi tới. Có chàng trẻ ăn chơi ngăn chặn Subhà lại. Nàng nói lên người ấy những lời nói như sau:

Ta đă xúc phạm ǵ,
Để chàng đứng chận tôi?
Thật là không xứng đáng
Để một người đàn ông
Xúc phạm nữ xuất gia,
Hỡi Hiền giả, hiểu cho.

Bậc Tôn sư ta dạy,
Chính học pháp như vậy,
Được bậc Thiện Thệ thuyết,
Là con đường thanh tịnh,
Không có cấu uế nào.
Sao chàng đứng chận ta.

Tâm ta thật thanh tịnh,
Tâm người không thanh tịnh,
Tâm người đầy tham ái,
Ta không tham, không uế,
Mọi nơi, ư giải thoát
Sao chàng đứng chận ta?

Nàng trẻ, không ác pháp,
Nàng xuất gia làm ǵ?
Hăy bỏ áo Cà sa!
Đến, lạc hưởng rừng hoa.

Toàn hoa tỏa hương ngát,
Cây rưới bụi muôn hoa,
Xem tuổi xuân tuổi trẻ,
Là thời tiết hạnh phúc,
Hăy đến thọ hưởng lạc
Trong rừng nở trăm hoa.

Con đường dưới ṿm hoa,
Xào xạc gió lay động,
Nàng được lạc thú ǵ,
Khi một ḿnh vào rừng.

Trú xứ chúng thú dữ,
Vang tiếng voi rống dục,
Rừng lớn trống không người,
Nhiều hiện tượng hăi hùng,
Nàng lại muốn đi vào,
Không một ai bạn đường?

Như búp bê vàng chói,
Giống tiên nữ vườn trời,
Nàng đắp vải Kàsi,
Đẹp mịn, sáng chói nàng.

Ta sống nô lệ nàng,
Nếu nàng sống ở rừng,
Không một sanh loại nào,
Mà ta yêu hơn nàng,
Hỡi nàng mắt dịu hiền,
Như mắt Kin-na-ŕ.

Nếu nàng theo lời ta,
Nàng sẽ được hạnh phúc,
Hạnh phúc sống gia đ́nh,
Sống lâu đài che gió,
Sống có các nữ nhân,
Hầu hạ phục vụ nàng.

Mang lụa mịn Kàsi,
Dùng ṿng hoa, sáp đỏ,
Ta làm nhiều trang sức,
Vàng châu báu ngọc ngà.

Nàng leo lên giường quư,
Gỗ chiên đàn, lỏi thơm,
Che màn đẹp tinh sạch,
Trải nệm mới lông dài.

Như sen vươn từ nước,
Phục vụ cho phi nhân,
Như vậy nàng Phạm hạnh,
Sống toàn hảo đến già.

Ở đây là cái ǵ,
Chàng xem là tuyệt diệu,
Trong nghĩa địa ứ đầy,
Tràn đầy những thân xác,
Chàng được thấy cái ǵ,
Trong thân xác hủy hoại,
Khi chàng thốt ra lời,
Si mê, vô ư thức?

Chính mắt như sơn dương,
Như Kinri giữa rừng,
Ta thấy con mắt nàng,
Dục lạc liền tăng trưởng.

Trong gương mặt không uế,
Sáng chói như vàng ṛng,
Chẳng khác ǵ hoa sen,
Đặt chính giữa đài sen,
Thấy con mắt của nàng,
Ḷng dục liền tăng trưởng.

Tuy xa ta vẫn nhớ,
Lông mi dài tuyệt đẹp,
Không ǵ ta yêu hơn,
Mắt Kinri của nàng.

Chàng muốn dùng phi đạo,
T́m mặt trăng mà chơi,
Muốn nhảy qua Mê-ru,
Muốn t́m đến con Phật.

Trên đời này, cơi trời,
Ta nay không tham ái.
Ta không biết người ấy,
Người ấy như thế nào,
Đường đạo đă giết sạch,
Giết hại tận gốc rễ.

Quăng đi như hố than,
Than hừng đang cháy đỏ,
Đánh giá như thuốc độc,
Đang xâm nhập đến thân,
Ta không biết người ấy,
Người ấy như thế nào,
Đường đạo đă giết sạch,
Giết hại đến gốc rễ.

Hăy cám dỗ nữ nhân,
Không có biết quán sát,
Hay Đạo Sư người ấy,
Đang c̣n phải học tập,
Chàng mê hoặc người ấy,
Làm hại được người ấy.

C̣n ta đă chánh niệm,
Đối khen chê lạc khổ,
Biết hữu vi bất tịnh,
Bám chặt tư tưởng ấy.

Ta là đệ tử Ni,
Của bậc đại Thiện Thệ,
Ta đă dấn thân bước
Trên đường đạo tám ngành,
Mũi tên đă nhổ lên
Không c̣n các lậu hoặc,
Ta đi đến nhà trống,
Tâm tư ta hoan hỷ.

Ta đă được thấy nó,
Một búp bê khéo vẽ,
Với trục quay gỗ mới,
Khéo cột với dây que,
Búp bê ấy nhảy múa,
Nhiều điệu múa khác nhau.

Dây que ấy được rút,
Mở ḷng rời phân tán,
Thành trống không, miếng nhỏ,
Chỗ nào ư say đắm.

Thân ta ví dụ vậy,
Không bộ phận không động.
Không bộ phận, không động.
Chỗ này ư say đắm.

Như thấy một bức vẽ,
Tô màu đỏ trên tường,
Cái thấy chàng đảo lộn,
V́ trí người thiếu sót.

Ảo thuật xem tối thượng,
Như cây vàng trong mộng,
Mù ḷa ngươi chạy theo,
Cái trống không, không thực,
Như cái tṛ múa rối,
Được xem giữa quần chúng.

Mắt nàng như ḥn bi,
Đặt lỗ trống của cây,
Như những bong bóng nước,
Đầy dẫy những nước mát,
Những con người đa dạng,
Sanh ra những mủ ghèn.

Thiếu nữ đẹp tuyệt ấy,
Với tâm không chấp trước,
Bóc một con mắt nàng.
Trao liền cho người ấy,
Và nói hăy cầm lấy,
Con mắt này của người.

Khi ấy tham liền diệt,
Chàng khẩn cầu xin lỗi,
Mong rằng Phạm hạnh ni,
Được an ổn trở lại,
Tôi sẽ không c̣n dám,
Xâm phạm thế này nữa.

Hại hạng người thế này,
Chẳng khác ôm lửa hừng,
Tôi như nắm rắn độc,
Mong an ổn tha thứ.

Thoát khỏi bị xúc phạm,
Vị Tỷ-kheo-ni ấy,
Từ đấy đi đến gần
Bậc Giác ngộ thù thắng,
Thấy được tướng công đức,
Tốt đẹp và thù thắng,
Mắt của nàng hồi phục,
Được trở lại như xưa.

Thig 14

Ornamented, finely clothed
	garlanded, adorned,
her feet stained red with lac,
	she wore slippers:
	   a courtesan.

Stepping out of her slippers — 
	her hands raised before me,
	palm-to-palm over her heart — 
she softly, tenderly,
	in measured words
	spoke to me first:
"You are young, recluse.
	Heed my message:
Partake of human sensuality.
	I will give you luxury.
Truly I vow to you,
	I will tend to you as to a fire.
When we are old,
	both leaning on canes,
then we will both become contemplatives,
	winning the benefits of both worlds."

And seeing her before me — 
	a courtesan, ornamented, finely clothed,
	hands palm-to-palm over her heart — 
	   like a snare of death laid out,
apt attention arose in me,
	the drawbacks appeared,
	   disenchantment stood
	   at an even keel:
With that, my heart was released. See the Dhamma's true rightness! The three knowledges have been attained; the Buddha's bidding, done.

Thag 7.1

Trang sức mặc áo đẹp,
Đeo ṿng hoa trang điểm,
Chân bôi sơn màu đỏ,
Một kỹ nữ đi dép.

Chân rút ra khỏi dép,
Chấp tay, hướng phía trước,
Nàng với giọng nhẹ dịu,
Mở đầu nói với ta;

Chàng trẻ tuổi xuất gia,
Hăy dừng, lănh vực em,
Thọ hưởng năm dục vọng,
Em cho chàng phương tiện,
Em hứa chàng sự thật,
Em đem chàng lửa thề.

Khi chàng em đều già,
Cả hai đều chống gậy,
Cả hai cùng xuất gia,
Hai phần được vận may.

Thấy người kỹ nữ ấy,
Chấp tay lời van xin,
Trang sức, mặc áo đẹp,
Như thần chết gieo mồi.

Rồi ta tự tác ư,
Như lư khởi tư duy,
Các hiểm nguy hiển lộ,
Nhàm chán ta an trú.

Và tâm ta giải thoát,
Thấy Pháp nhĩ là vậy,
Ba minh chứng đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.

Thag 7.1

Kappa:
Full of the many clans of impurities,
the great manufacturer of excrement,
like a stagnant pool,
	a great tumor,
	great wound,
full of blood & lymph,
immersed in a cesspool,
trickling liquids,      the body
is oozing foulness — always.
Bound together with sixty sinews,
plastered with a stucco of muscle,
wrapped in a jacket of skin,
this foul body is of no worth at all.
Linked together with a chain of bones,
stitched together with tendon-threads,
it produces its various postures,
from being hitched up together.
Headed surely to death,
in the presence of the King of Mortality,
the man who learns to discard it right here,
	goes wherever he wants.

Covered with ignorance,
the body's tied down with a four-fold tie,[1]
	sunk in the floods,[2]
	caught in the net of latencies,[3]
	conjoined with five hindrances,[4]
	given over to thought,
	accompanied with the root of craving,
	roofed with delusion's roofing.
That's how the body functions,
compelled by the compulsion of kamma,
	but its attainment ends
	   in ruin.
	Its many becomings go
	   to ruin.

These who hold to this body as mine
— blind fools, people run-of-the-mill — 
fill the horrific cemetery,
taking on further becoming.
Those who stay uninvolved with this body
— as they would with a serpent
	smeared with dung — 
disgorging the root of becoming,[5]
from lack of effluent,
	will be totally Unbound.

Thag 10.5

Kappa:

Đầy nhiều loại uế vật,
Chỗ chưa c̣n phần uế,
Như vũng nước đọng lâu,
Ung nhọt vết thương lớn.

Đầy những máu và mủ,
Ch́m đắm, trong hố phân,
Thân ứ nước rỉ chảy,
Luôn chảy nước bất tịnh.

Trói bởi sáu mươi gân,
Trét dùng thịt làm hồ,
Mặc áo giáp bằng da,
Thân hôi thúi vô dụng.

Nối thành dây xúc xương,
Cột lại với dây gân,
Do chúng nhiều hợp sức,
Tác thành những uy nghi.

Thường tiến đến sự chết,
Đến gần cảnh tử thần,
Ở đấy, bị quăng bỏ,
Con người đi theo dục.

Thân bị vô minh che,
Trói bởi bốn trói buộc,
Thân ch́m trong bộc lưu, 
Mắc vào lưới tùy miên,

Hệ lụy năm triền cái,٭ảnh bởi tâm tư,
Đi theo gốc khát ái,
Che trùm bởi màn si.

Thân này luân chuyển vậy,
Dẫn đi bởi xe nghiệp,
Khi thành công, khi bại,
Chịu đựng nhiều ái sanh.

Ai nghĩ 'thân của tôi',
Là phàm phu ngu muội,
Tăng mộ phần đáng sợ,
Chấp chặt sự tái sanh.

Ai tránh né thân này,
Như tránh rắn dính phân,
Họ bỏ gốc sanh hữu,
Chứng Niết-bàn, vô lậu.

Thag 10.5

Notes

1. The four-fold tie: greed, ill will, attachment to precepts & practice, and dogmatic obsession with views.

2. Floods: passion for sensuality, becoming, views, and ignorance. See SN 45.171. These are identical with the four yokes. See AN 4.10.

3. Latencies: pride, ignorance, lust, aversion, uncertainty, delusion, and craving for becoming.

4. Hindrances: sensual desire, ill will, sloth & drowsiness, restlessness & anxiety, and uncertainty.

5. The root of becoming: craving.

^^^^^

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang trước Trang kế | trở về đầu trang | Home page |