I have heard that at one time the Blessed One was staying in Savatthi at Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. There he addressed the monks, saying, "Monks."

"Yes, lord," the monks responded to him.




Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo"
--"Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

 

The Blessed One said, "Monks, Sariputta is wise, of great discernment, deep discernment, wide... joyous... rapid... quick... penetrating discernment. For half a month, Sariputta clearly saw insight1 into mental qualities one after another. This is what occurred to Sariputta through insight into mental qualities one after another:

-- Này các Tỷ-kheo, Sariputta (Xá-lợi-phất) là bậc Hiền trí; này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Đại tuệ; này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Quảng tuệ; này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Hỷ tuệ (Hasupanna); này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Tiệp tuệ (javanapanna); này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Lợi tuệ (tikkhapanna); này các Tỷ-kheo, Sariputta là bậc Quyết trạch tuệ (nibbedhikapanna). Này các Tỷ-kheo, cho đến nửa tháng, Sariputta quán bất đoạn pháp quán. Này các Tỷ-kheo, đây là do bất đoạn pháp quán của Sariputta:

 

"There was the case where Sariputta — quite withdrawn from sensual pleasures, withdrawn from unskillful qualities — entered & remained in the first jhana. Whatever qualities there are in the first jhana — directed thought, evaluation, rapture, pleasure, singleness of mind, contact, feeling, perception, intention, consciousness,2 desire, decision, persistence, mindfulness, equanimity, & attention — he ferreted them out one after another. Known to him they arose, known to him they remained, known to him they subsided. He discerned, 'So this is how these qualities, not having been, come into play. Having been, they vanish.' He remained unattracted & unrepelled with regard to those qualities, independent, detached, released, dissociated, with an awareness rid of barriers. He understood, 'There is a further escape,' and pursuing it, he confirmed that 'There is.'


Ở đây, này các Tỷ-kheo, Sariputta ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Và những pháp thuộc về Thiền thứ nhất như tầm, tứ, hỷ, lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ư; các pháp ấy được an trú bất đoạn. Các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi an trú, được Sariputta biết đến khi đoạn diệt. Sariputta biết rơ như sau: "Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt". Sariputta đối với những pháp ấy, cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: "C̣n có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, c̣n có nhiều việc phải làm hơn nữa".

 

"Furthermore, with the stilling of directed thought & evaluation, Sariputta entered & remained in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. Whatever qualities there are in the second jhana — internal assurance, rapture, pleasure, singleness of mind, contact, feeling, perception, intention, consciousness, desire, decision, persistence, mindfulness, equanimity, & attention — he ferreted them out one after another. Known to him they arose, known to him they remained, known to him they subsided. He discerned, 'So this is how these qualities, not having been, come into play. Having been, they vanish.' He remained unattracted & unrepelled with regard to those qualities, independent, detached, released, dissociated, with an awareness rid of barriers. He understood, 'There is a further escape,' and pursuing it, he confirmed that 'There is.'


Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Sariputta diệt tầm và tứ, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhứt tâm. Và những pháp thuộc về Thiền thứ hai như nội tĩnh, hỷ, lạc, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ư, những pháp ấy được an trú bất đoạn. Các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta biết rơ như sau: "Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt". Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: "C̣n có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, c̣n có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".

 

"Furthermore, with the fading of rapture, Sariputta — remaining in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive to pleasure — entered & remained in the third jhana, of which the noble ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' Whatever qualities there are in the third jhana — equanimity-pleasure, singleness of mind, contact, feeling, perception, intention, consciousness, desire, decision, persistence, mindfulness, equanimity, & attention — he ferreted them out one after another. Known to him they arose, known to him they remained, known to him they subsided. He discerned, 'So this is how these qualities, not having been, come into play. Having been, they vanish.' He remained unattracted & unrepelled with regard to those qualities, independent, detached, released, dissociated, with an awareness rid of barriers. He understood, 'There is a further escape,' and pursuing it, he confirmed that 'There is.'



Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Sariputta ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Và những pháp thuộc về Thiền thứ ba, như xả, lạc, niệm, tỉnh giác, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, xả, tác ư; những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: "C̣n có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, c̣n có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".

 

"Furthermore, with the abandoning of pleasure & stress — as with the earlier disappearance of elation & distress — Sariputta entered & remained in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither-pleasure-nor-pain. Whatever qualities there are in the fourth jhana — a feeling of equanimity, neither pleasure nor pain; an unconcern due to serenity of awareness;3 singleness of mind, contact, feeling, perception, intention, consciousness, desire, decision, persistence, mindfulness, equanimity, & attention — he ferreted them out one after another. Known to him they arose, known to him they remained, known to him they subsided. He discerned, 'So this is how these qualities, not having been, come into play. Having been, they vanish.' He remained unattracted & unrepelled with regard to those qualities, independent, detached, released, dissociated, with an awareness rid of barriers. He understood, 'There is a further escape,' and pursuing it, he confirmed that 'There is.'



Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Sariputta xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm, thanh tịnh. Và những pháp thuộc về Thiền thứ tư, như xả, bất khổ bất lạc thọ, thọ (passivedana), vô quán niệm tâm (Cetaso anabhogo), thanh tịnh nhờ niệm, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ư; những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: "C̣n có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, c̣n có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".

 

"Furthermore, with the complete transcending of perceptions of [physical] form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, thinking, 'Infinite space,' Sariputta entered & remained in the dimension of the infinitude of space. Whatever qualities there are in the dimension of the infinitude of space — the perception of the dimension of the infinitude of space, singleness of mind, contact, feeling, perception, intention, consciousness, desire, decision, persistence, mindfulness, equanimity, & attention — he ferreted them out one after another. Known to him they arose, known to him they remained, known to him they subsided. He discerned, 'So this is how these qualities, not having been, come into play. Having been, they vanish.' He remained unattracted & unrepelled with regard to those qualities, independent, detached, released, dissociated, with an awareness rid of barriers. He understood, 'There is a further escape,' and pursuing it, he confirmed that 'There is.'



Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ư đối với dị tưởng, nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Và những pháp thuộc về Không vô biên xứ như hư không, vô biên xứ tưởng, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ư; những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn, các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy, không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: "C̣n có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, c̣n có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".

 

"Furthermore, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of space, thinking, 'Infinite consciousness,' Sariputta entered & remained in the dimension of the infinitude of consciousness. Whatever qualities there are in the dimension of the infinitude of consciousness — the perception of the dimension of the infinitude of consciousness, singleness of mind, contact, feeling, perception, intention, consciousness, desire, decision, persistence, mindfulness, equanimity, & attention — he ferreted them out one after another. Known to him they arose, known to him they remained, known to him they subsided. He discerned, 'So this is how these qualities, not having been, come into play. Having been, they vanish.' He remained unattracted & unrepelled with regard to those qualities, independent, detached, released, dissociated, with an awareness rid of barriers. He understood, 'There is a further escape,' and pursuing it, he confirmed that 'There is.'



Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Và những pháp thuộc về Thức vô biên xứ như Thức vô biên xứ tưởng, nhất tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ư; những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn; các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: "C̣n có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, c̣n có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".

 

"Furthermore, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of consciousness, thinking, 'There is nothing,' Sariputta entered & remained in the dimension of nothingness. Whatever qualities there are in the dimension of nothingness — the perception of the dimension of nothingness, singleness of mind, contact, feeling, perception, intention, consciousness, desire, decision, persistence, mindfulness, equanimity, & attention — he ferreted them out one after another. Known to him they arose, known to him they remained, known to him they subsided. He discerned, 'So this is how these qualities, not having been, come into play. Having been, they vanish.' He remained unattracted & unrepelled with regard to those qualities, independent, detached, released, dissociated, with an awareness rid of barriers. He understood, 'There is a further escape,' and pursuing it, he confirmed that 'There is.'



Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật ǵ", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Và những pháp thuộc về Vô sở hữu xứ, như Vô sở hữu xứ tưởng, nhứt tâm, và xúc, thọ, tưởng, tư, tâm, dục, thắng giải, tinh tấn, niệm, xả, tác ư; những pháp ấy được Sariputta an trú bất đoạn; các pháp ấy được Sariputta biết đến khi chúng khởi lên, được Sariputta biết đến khi chúng an trú, được Sariputta biết đến khi chúng đoạn diệt. Sariputta đối với những pháp ấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không có hạn chế. Sariputta biết: "C̣n có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, c̣n có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".

 

 "Furthermore, with the complete transcending of the dimension of nothingness, Sariputta entered & remained in the dimension of neither perception nor non-perception. He emerged mindfully from that attainment. On emerging mindfully from that attainment, he regarded the past qualities that had ceased & changed: 'So this is how these qualities, not having been, come into play. Having been, they vanish.' He remained unattracted & unrepelled with regard to those qualities, independent, detached, released, dissociated, with an awareness rid of barriers. He understood, 'There is a further escape,' and pursuing it, he confirmed that 'There is.'4



Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Sariputta vượt lên hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Với chánh niệm, Sariputta xuất khỏi định ấy. Sau khi với chánh niệm xuất khỏi định ấy, Sariputta thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị đoạn diệt, bị biến hoại: "Như vậy các pháp ấy trước không có nơi ta, nay có hiện hữu, sau khi hiện hữu chúng đoạn diệt". Sariputta đối với những pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không hạn chế. Sariputta biết: "C̣n có sự giải thoát hơn thế nữa. Đối với Sariputta, c̣n có nhiều việc phải làm hơn thế nữa".

 

"Furthermore, with the complete transcending of the dimension of neither perception nor non-perception, Sariputta entered & remained in the cessation of feeling & perception. Seeing with discernment, his fermentations were totally ended. He emerged mindfully from that attainment. On emerging mindfully from that attainment, he regarded the past qualities that had ceased & changed: 'So this is how these qualities, not having been, come into play. Having been, they vanish.' He remained unattracted & unrepelled with regard to those qualities, independent, detached, released, dissociated, with an awareness rid of barriers. He understood, 'There is no further escape,' and pursuing it, he confirmed that 'There isn't.'



Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Sariputta vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và an trú Diệt thọ tưởng (định). Sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn tận. Với chánh niệm, Sariputta xuất khỏi định ấy. Sau khi với chánh niệm xuất khỏi định ấy, Sariputta thấy các pháp ấy thuộc về quá khứ, bị đoạn diệt, bị biến hoại: "Như vậy các pháp ấy, trước không có nơi ta, sau có hiện hữu, sau khi hiện hữu, chúng đoạn diệt". Sariputta đối với các pháp ấy cảm thấy không luyến ái, không chống đối, độc lập, không trói buộc, giải thoát, không hệ lụy, an trú với tâm không hạn chế. Sariputta biết: "Không có sự giải thoát nào vô thượng hơn thế nữa. Đối với Sariputta, không có việc phải làm nhiều hơn thế nữa".

 

"If a person, rightly saying it of anyone, were to say, 'He has attained mastery & perfection in noble virtue... noble concentration... noble discernment... noble release,' he would be rightly saying it of Sariputta if he were to say: 'He has attained mastery & perfection in noble virtue... noble concentration... noble discernment... noble release.'



Này các Tỷ-kheo, nếu nói một cách chơn chánh, một người có thể nói về người ấy như sau: "Người này được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giới, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh định, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh tuệ, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải thoát. Nói một cách chơn chánh về Sariputta, người ấy có thể nói như sau: "Sariputta được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giới, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh định, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh tuệ, được tự tại, được cứu cánh trong Thánh giải thoát".

"If a person, rightly saying it of anyone, were to say, 'He is the Blessed One's son, his offspring — born of his mouth, born of the Dhamma, created by the Dhamma, his heir in the Dhamma, not his heir in material things,' he would be rightly saying it of Sariputta if he were to say: 'He is the Blessed One's son, his offspring — born of his mouth, born of the Dhamma, created by the Dhamma, his heir in the Dhamma, not his heir in material things.' Sariputta, monks, takes the unexcelled wheel of Dhamma set rolling by the Tathagata, and keeps it rolling rightly."



Này các Tỷ-kheo, nếu nói một cách chơn chánh, một người có thể nói về người ấy như sau: "Người này là con chánh tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, sanh ra từ Pháp, do Pháp hóa thành, thừa tự Chánh pháp, không thừa tự vật chất". Nói một cách chơn chánh về Sariputta, người ấy có thể nói như sau: "Sariputta là con chánh tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, sanh ra từ Pháp, do Pháp hóa thành, thừa tự Chánh pháp, không thừa tự vật chất". Sariputta, này các Tỷ-kheo, chơn chánh chuyển Pháp luân vô thượng đă được Như Lai chuyển vận.

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words.



Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các vị Tỷ-kheo hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy

Notes

1. "Clearly saw insight": In Pali, this is vipassanam vipassi, which could be translated literally as "clearly saw clear seeing" or "insighted insight." The Commentary states that the half month mentioned here refers to the half month between Ven. Sariputta's ordination and his attainment of arahantship, described in MN 74. (These two suttas treat Sariputta's attainment from two different perspectives. This sutta shows it from the standpoint of his mastery of the four jhanas and the formless attainments based on the fourth jhana. That sutta shows it as occurring when he starts reflecting on a point while listening to a discourse that the Buddha is giving to his nephew. To put the two suttas together, we can infer that prior to the discourse given in MN 74, Sariputta had mastered the dimension of neither perception nor non-perception. While listening to the discourse, he reflected on the point that the Buddha recommended abandoning all mental qualities through direct knowledge. This would have led him to the cessation of perception and feeling (during which he would not be listening to the discourse) and so to Awakening.

^^^^^

2. Reading viññanam with the Thai edition of the Canon. The Burmese and PTS editions read cittam, which could mean "mind" or "intent" (as in the four bases of success).

^^^^^

3. Reading passaddhattaa with the Burmese edition. The Thai edition reads, parisuddhattaa, "through purity." The Sinhalese edition reads pasiddhataa, which would mean "empowerment" (? — this term is not listed in the PTS Dictionary). The PTS edition reads passi vedanaa, which is unintelligible.

^^^^^

4. Notice that, with each of the previous levels of attainment, Sariputta was able to ferret out the various mental qualities arising there while he was still in the attainment. With this attainment and the following one, however, he was not able to analyze the mental qualities present and absent there until after he had left the attainment. The difference here is related to the point made in AN IX.36 that all the attainments up through the dimension of nothingness are "perception-attainments." And that, "As far as the perception-attainments go, that is as far as gnosis-penetration goes. As for these two dimensions — the attainment of the dimension of neither perception nor non-perception & the attainment of the cessation of feeling & perception — I tell you that they are to be rightly explained by those monks who are meditators, skilled in attaining, skilled in attaining & emerging, who have attained & emerged in dependence on them."

^^^^^

For a discussion of how insight can be developed in the context of jhana, see The Wings to Awakening, IIIF.

^^^^^

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | trở về đầu trang | Home page |