153 |
153 |
The Buddha's Passing Away |
|
Now at that time Subhadda the Wanderer was staying in Kusinara. He heard that 'Tonight, in the last watch of the night, the total Unbinding of Gotama the contemplative will take place.' Then this thought occurred to him, 'I have heard the elder wanderers, teachers of teachers, saying that only once in a long, long time do Tathagatas — worthy ones, rightly self-awakened — appear in the world. Tonight, in the last watch of the night, the total Unbinding of Gotama the contemplative will take place. Now there is a doubt that has arisen in me, but I have faith that he could teach me the Dhamma in such a way that I might abandon that doubt.' |
Lúc bấy giờ, du sĩ ngoại đạo Subhadda ở tại Kusinàrà. Du sĩ ngoại đạo Subhadda được nghe: "Tối nay canh cuối cùng, Sa-môn Gotama sẽ diệt độ". Và du sĩ ngoại đạo Subhadda suy nghĩ: "Ta nghe các du sĩ ngoại đạo niên cao lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng: "Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy hữu. Và đêm nay, vào canh cuối cùng Sa-môn Gotama sẽ diệt độ". Nay có nghi vấn này khởi lên trong tâm ta. Ta tin Sa-môn Gotama có thể thuyết pháp và giải được nghi vấn cho ta". |
So he went to the Mallan Sal Tree grove and, on arrival, said to Ven. Ananda, 'I have heard the elder wanderers, teachers of teachers, saying that only once in a long, long time do Tathagatas — worthy ones, rightly self-awakened — appear in the world. Tonight, in the last watch of the night, the total Unbinding of Gotama the contemplative will take place. Now there is a doubt that has arisen in me, but I have faith that he could teach me the Dhamma in such a way that I might abandon that doubt. It would be good, Ven. Ananda, if you would let me see him.' |
. Rồi du sĩ ngoại đạo Subhadda đi đến Upavattana, khu rừng Sàla của dân Mallà, đến tại chỗ tôn giả Ananda và thưa với tôn giả: - Hiền giả Ananda, tôi nghe các du sĩ ngoại đạo, niên cạo lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng: "Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy hữu, và đêm nay, vào canh cuối cùng, Sa-môn Gotama sẽ diệt độ". Nay có nghi vấn này khởi lên trong tâm tôi. Tôi tin Sa-môn Gotama có thể thuyết pháp giải được nghi vấn cho tôi. Hiền giả Ananda, hăy cho phép tôi được yết kiến Sa-môn Gotama. |
When this was said, Ven. Ananda said to him, 'Enough, friend Subhadda. Do not bother the Blessed One. The Blessed One is tired.' |
Khi được nói vậy, tôn giả Ananda nói với du sĩ ngoại đạo Subhadda : - Thôi đi Hiền giả Subhadda, chớ có phiền nhiễu Như Lai. Thế Tôn đang mệt. |
For a second time... For a third time, Subhadda the Wanderer said to Ven. Ananda, '...It would be good, Ven. Ananda, if you would let me see him.' |
Lần thứ hai, du sĩ ngoại đạo Subhadda ... Lần thứ ba, du sĩ ngoại đạo Subhadda nói với tôn giả Ananda : - Hiền giả Ananda, tôi nghe các du sĩ ngoại đạo, niên cạo lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng: "Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy hữu, và đêm nay, vào canh cuối cùng, Sa-môn Gotama sẽ diệt độ". Nay có nghi vấn này khởi lên trong tâm tôi. Tôi tin Sa-môn Gotama có thể thuyết pháp giải được nghi vấn cho tôi. Hiền giả Ananda, hăy cho phép tôi được yết kiến Sa-môn Gotama. |
For a third time, Ven. Ananda said to him, 'Enough, friend Subhadda. Do not bother the Blessed One. The Blessed One is tired.' |
Lần thứ ba, tôn giả Ananda nói với du sĩ ngoại đạo Subhadda: - Thôi đi Hiền giả Subhadda, chớ có phiền nhiễu Như Lai. Thế Tôn đang mệt. |
Now, the Blessed One heard the exchange between Ven. Ananda and Subhadda the Wanderer, and so he said to Ven. Ananda, 'Enough, Ananda. Do not stand in his way. Let him see the Tathagata. Whatever he asks me will all be for the sake of knowledge, and not to be bothersome. And whatever I answer when asked, he will quickly understand.' |
Thế Tôn nghe được câu chuyện của tôn giả Ananda với du sĩ ngoại đạo Subhadda, Ngài liền nói với tôn giả Ananda: - Thôi Ananda, chớ có ngăn trở Subhadda, Ananda, hăy để cho Subhadda được phép yết kiến Như Lai. Những ǵ Subhadda hỏi Ta là hỏi để hiểu biết chớ không phải để phiền nhiễu Ta. Và những ǵ ta trả lời các câu hỏi, Subhadda sẽ hiểu ư nghĩa một cách mau lẹ. |
So Ven. Ananda said to Subhadda the Wanderer, 'Go ahead, friend Subhadda. The Blessed One gives you his leave.' |
Tôn giả Ananda liền nói với du sĩ ngoại đạo Subhadda: - Này Hiền giả Subhadda, hăy vào. Thế Tôn đă cho phép Hiền giả. |
Then Subhadda went to the Blessed One and exchanged courtesies, and after the exchange of courtesies sat to one side. As he was sitting there, he said to the Blessed One, 'Lord, these priests and contemplatives, each with his group, each with his community, each the teacher of his group, an honored leader, well-regarded by people at large — i.e., Purana Kassapa, Makkhali Gosala, Ajita Kesakambalin, Pakudha Kaccayana, Sañjaya Belatthaputta, and the Nigantha Nathaputta: Do they all have direct knowledge as they themselves claim, or do they all not have direct knowledge, or do some of them have direct knowledge and some of them not?' |
Rồi du sĩ ngoại đạo Subhadda đến chỗ Thế Tôn, nói lên những lời chúc tụng hỏi thăm xă giao, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi một bên, du sĩ ngoại đạo Subhadda bạch Thế Tôn: - Tôn giả Gotama, có những Sa-môn, Bà-la-môn là những vị hội chủ, vị giáo trưởng, vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, như các ngài Pàrana Kassapa, Makkhali Gosàla, Ajita Kesakambaĺ, Pakadha Kaccàyana, Sanjaya Belatthiputta, Nigantha Nàthaputta, tất cả những vị này có phải là giác ngộ như các vị đă tự cho như vậy, hay tất cả chưa giác ngộ, hay một số đă giác ngộ và một số chưa giác ngộ |
'Enough, Subhadda. Put this question aside. I will teach you the Dhamma. Listen, and pay close attention. I will speak.' |
- Thôi Subhadda, hăy để vấn đề này yên một bên: "Tất cả những vị này có phải là đă giác ngộ như các vị đă tự cho như vậy, hay tất cả chưa giác ngộ, hay một số đă giác ngộ và một số chưa giác ngộ". Này Subhadda, Ta sẽ thuyết pháp cho Ngươi. Hăy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng. |
'Yes, lord,' Subhadda answered, |
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn ! Du sĩ ngoại đạo Subhadda vâng lời Thế Tôn. |
At age twenty-nine I went forth, seeking what might be skillful, and since my going forth more than fifty years have past. Outside of the realm of methodical Dhamma, there is no contemplative. |
Này Subhadda, năm hai mươi chín, |
And no contemplative of the second... third... fourth order. Other teachings are empty of knowledgeable contemplatives. And if the monks dwell rightly, this world will not be empty of arahants.' |
Ngoài lănh vực này, không có Sa-môn (đệ nhứt) cũng không có Sa-môn đệ nhị, cũng không có Sa-môn đệ tam, cũng không có Sa-môn đệ tứ. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Này Subhadda, nếu những Tỷ-kheo sống chơn chánh, th́ đời này không vắng những vị A-la-hán. |
Then Subhadda the Wanderer said, 'Magnificent, lord, magnificent! In many ways has the Blessed One made the Dhamma clear — just as if one were to place upright what has been overturned, to reveal what has been hidden, to point out the way to one who is lost, or to set out a lamp in the darkness so that those with eyes might see forms. I go to the Blessed One for refuge, and to the Dhamma and to the community of monks. Let me obtain the going forth in the Blessed One's presence, let me obtain admission.' |
. Khi được nói vậy, du sĩ ngoại đạo Subhadda bạch Thế Tôn: - Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những ǵ bị quăng ngă xuống, phơi bày ra những ǵ bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, chánh pháp đă được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện tŕnh bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong con được xuất gia với Thế Tôn. Con xin thọ đại giới. |
'Anyone, Subhadda, who has previously belonged to another sect and who desires the going forth and admission in this doctrine and discipline must first undergo probation for four months. If, at the end of four months, the monks feel so moved, they give him the going forth and admit him to the monk's state. But I know distinctions among individuals in this matter.' |
Này Subhadda, ai trước kia là ngoại đạo, nay muốn xuất gia muốn thọ đại giới trong Pháp, Luật này phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt trú, các vị Tỷ-kheo nếu đồng ư sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng Ta nhận thấy cá tánh con người sai biệt nhau |
'Lord, if that is so, I am willing to undergo probation for four years. If, at the end of four years, the monks feel so moved, let them give me the going forth and admit me to the monk's state.' |
- Bạch Thế Tôn, nếu những người xưa kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt thú, các vị Tỷ-kheo nếu đồng ư sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới, thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm, sau khi sống biệt trú bốn năm, nếu các vị Tỷ-kheo đồng ư, hăy cho con xuất gia, cho con thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. |
Then the Blessed One said to Ven. Ananda, 'Very well then, Ananda, give Subhadda the going forth.' 'Yes, lord,' Ananda answered. |
Và Thế Tôn nói với tôn giả Ananda: - Này Ananada, hăy xuất gia cho Subhadda. - Xin vâng, bạch Thế Tôn ! Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn. |
Then Subhadda said to Ven. Ananda, 'It is a gain for you, Ananda, a great gain, that you have been anointed here in the Teacher's presence with the pupil's anointing.' |
Du sĩ ngoại đạo Subhadda nói với tôn giả Ananda: - Thật là lợi ích, thưa Tôn giả Ananda, thật là thiện lợi, thưa Tôn giả Ananda, được thọ lễ quán đảnh làm đệ tử trước mặt bậc Đạo Sư ! |
Then Subhadda the Wanderer received the going forth and the admission in the Blessed One's presence. And not long after his admission — dwelling alone, secluded, heedful, ardent, and resolute — he in no long time reached and remained in the supreme goal of the holy life, for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing and realizing it for himself in the here and now. He knew: 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for the sake of this world.' And thus Ven. Subhadda became another one of the arahants, the last of the Blessed One's face-to-face disciples... |
Và du sĩ ngoại đạo Subhadda được xuất gia được thọ đại giới với Thế Tôn. Thọ đại giới không bao lâu, đại đức Subhadda ở một ḿnh, an tịnh, không phóng dật, tinh tấn, sống nhiệt tâm, cần mẫn. Và không bao lâu, vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đă xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh hướng đến. Đó là vô thượng phạm hạnh ngay trong hiện tại, tự giác chứng và an trú. Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, những ǵ nên làm đă làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa. Và đại đức Subhadda trở thành một A-la-hán nữa. Đại đức là vị đệ tử cuối cùng được Thế Tôn thế độ. |
Then the Blessed One addressed the monks, 'I exhort you, monks: All processes are subject to decay. Bring about completion by being heedful.' Those were the Tathagata's last words. |
Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo, nếu có Tỷ-kheo nào nghi ngờ hay phân vân ǵ về đức Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp,thời này các Tỷ-kheo, các Ngừơi hăy hỏi đi. Sau chớ có hối tiếc |
Then the Blessed One entered the first jhana. Emerging from that he entered the second. Emerging from that, he entered the third... the fourth... the dimension of the infinitude of space... the dimension of the infinitude of consciousness... the dimension of nothingness... the dimension of neither perception nor non-perception... the cessation of perception and feeling. |
Rồi Thế Tôn nhập định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, Ngài nhập Nhị thiền. Xuất Nhị thiền Ngài nhập Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập Tứ thiền, Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Không vô biên xứ. Xuất Không vô biên xứ, Ngài nhập định Thức vô biên xứ. Xuất Thức vô biên xứ, Ngài nhập định Vô sở hữu xứ. Xuất Vô Sở hữu xứ, Ngài nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài nhập Diệt thọ tưởng định. |
Then Ven. Ananda said to Ven. Anuruddha, "The Blessed One, sir, has entered total Unbinding." |
. Khi ấy tôn giả Ananda nói với tôn giả Anuruddha : - Thưa Tôn giả, Thế Tôn đă diệt độ. |
"No, friend, the Blessed One has not entered total Unbinding. He has attained the cessation of perception and feeling." |
|
Then emerging from the cessation of perception and feeling, the Blessed One entered the dimension of neither perception nor non-perception... the dimension of nothingness... the dimension of the infinitude of consciousness... the dimension of the infinitude of space... the fourth jhana... the third... the second... the first jhana. Emerging from the first jhana he entered the second... the third... the fourth jhana. Emerging from the fourth jhana, he entered total Unbinding in the interim... |
. Rồi xuất Diệt thọ tưởng định. Ngài nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài nhập Vô sở hữu xứ định. Xuất Vô sở hữu xứ, Ngài nhập Thức vô biên xứ định. Xuất thức Vô biên xứ, Ngài nhập Hư không vô biên xứ định. Xuất Hư không vô biên xứ, Ngài nhập định Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, Ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập định Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập định Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài lập tức diệt độ. |
When the Blessed One had attained total Unbinding, Sakka, ruler of the gods, uttered this stanza: |
Khi Thế Tôn diệt độ, Phạm thiên Sahampati, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này. |
How inconstant are compounded things! Their nature: to arise and pass away. They disband as they are arising. Their total stilling is bliss. — D 16 |
Chúng sanh ở trên đời, |
DhammaBasic PrinciplesPhenomena are preceded by the heart, ruled by the heart, made of the heart. If you speak or act with a corrupted heart, then suffering follows you — as the wheel of the cart, the track of the ox that pulls it. Phenomena are preceded by the heart, ruled by the heart, made of the heart. If you speak or act with a calm, bright heart, happiness follows you, like a shadow that never leaves. — Dhp 1-2 |
|
Heedfulness: the path to the Deathless; Heedlessness: the path to death. The heedful do not die; The heedless are as if already dead. Knowing this as a true distinction, those wise in heedfulness rejoice in heedfulness, enjoying the range of the noble ones. |
21 Không phóng dật: đường sống |
There are these five facts that one should reflect on often, whether one is a woman or a man, lay or ordained. Which five? "I am subject to aging, have not gone beyond aging"... "I am subject to illness, have not gone beyond illness"... "I am subject to death, have not gone beyond death"... "I will grow different, separate from all that is dear and appealing to me"... "I am the owner of my actions (kamma), heir to my actions, born of my actions, related through my actions, and have my actions as my arbitrator. Whatever I do, for good or for evil, to that will I fall heir"... |
Có năm sự kiện này, này các Tỷ-kheo, cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia. Thế nào là năm? |
These are the five facts that one should reflect on often, whether one is a woman or a man, lay or ordained. |
Có năm sự kiện này, này các Tỷ-kheo, cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia. |
Now, based on what line of reasoning should one often reflect... that "I am subject to aging, have not gone beyond aging"? There are beings who are intoxicated with a [typical] youth's intoxication with youth. Because of that intoxication with youth, they conduct themselves in a bad way in body... in speech... and in mind. But when they often reflect on that fact, that youth's intoxication with youth will either be entirely abandoned or grow weaker... |
Và do duyên lợi ích như thế nào, này các Tỷ-kheo, "Ta phải bị già, không thoát khỏi già", là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia. Có những loài hữu t́nh, này các Tỷ-kheo, đang c̣n trẻ, kiêu măn trong tuổi trẻ, say đắm trong kiêu mạn ấy, thân làm ác, miệng nói ác, ư nghĩ ác. Do vị ấy thường xuyên quán sát sự kiện này, sự kiêu mạn tuổi trẻ trong tuổi trẻ được hoàn toàn đoạn tận hay được giảm thiểu. Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, "Ta phải bị già, không thoát khỏi già", cần phải thường xuyên quán sát như vậy bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia. |
Now, based on what line of reasoning should one often reflect... that "I am subject to illness, have not gone beyond illness"? There are beings who are intoxicated with a [typical] healthy person's intoxication with health. Because of that intoxication with health, they conduct themselves in a bad way in body... in speech... and in mind. But when they often reflect on that fact, that healthy person's intoxication with health will either be entirely abandoned or grow weaker... |
Do duyên lợi ích như thế nào, này các Tỷ-kheo, "Ta phải bị bệnh, ta không thoát khỏi bệnh" là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia? Có những loài hữu t́nh khỏe mạnh, này các Tỷ-kheo, kiêu mạn trong khỏe mạnh. Do say đắm trong kiêu mạn ấy, thân làm ác, miệng nói ác, ư nghĩ ác. Do vị ấy thường xuyên quán sát sự kiện này, sự kiêu mạn khỏe mạnh trong khỏe mạnh được hoàn toàn đoạn tận hay được giảm thiểu. Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, "Ta phải bị bệnh, không thoát khỏi bệnh" cần phải thường xuyên quán sát như vậy bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia. |
Now, based on what line of reasoning should one often reflect... that "I am subject to death, have not gone beyond death"? There are beings who are intoxicated with a [typical] living person's intoxication with life. Because of that intoxication with life, they conduct themselves in a bad way in body... in speech... and in mind. But when they often reflect on that fact, that living person's intoxication with life will either be entirely abandoned or grow weaker... |
Do duyên lợi ích như thế nào, này các Tỷ-kheo, "Ta phải bị chết, ta không thoát khỏi chết", là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia? Có những lời hữu t́nh đang sống, này các Tỷ-kheo, kiêu mạn trong sự sống. Do say đắm trong kiêu mạn ấy, thân làm ác, miệng nói ác, ư nghĩ ác. Do vị ấy thường xuyên quán sát sự kiện này, sự kiêu mạn sự sống trong sự sống được hoàn toàn đoạn tận hay được giảm thiểu. Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, "Ta phải bị chết, không thoát khỏi chết", cần phải thường xuyên quán sát như vậy bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia. |
Now, based on what line of reasoning should one often reflect... that "I will grow different, separate from all that is dear and appealing to me"? There are beings who feel desire and passion for the things they find dear and appealing. Because of that passion, they conduct themselves in a bad way in body... in speech... and in mind. But when they often reflect on that fact, that desire and passion for the things they find dear and appealing will either be entirely abandoned or grow weaker... |
Do duyên lợi ích như thế nào, này các Tỷ-kheo, "Tất cả pháp khả ái, khả hỷ đối với ta sẽ phải đổi khác, sẽ phải biến diệt" là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia? Có những loài hữu t́nh, này các Tỷ-kheo, có ḷng tham dục đối với các vật khả ái. Do say đắm với ḷng tham dục ấy, thân làm ác, miệng nói ác, ư nghĩ ác Do vị ấy thường xuyên quán sát sự kiện ấy, nên tham dục đối với các vật khả ái được đoạn tận hoàn toàn hay được giảm thiểu. Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, "Tất cả pháp khả ái, khả hỷ đối với ta sẽ phải biến diệt" là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia. |
Now, based on what line of reasoning should one often reflect... that "I am the owner of my actions (kamma), heir to my actions, born of my actions, related through my actions, and have my actions as my arbitrator. Whatever I do, for good or for evil, to that will I fall heir"? There are beings who conduct themselves in a bad way in body... in speech... and in mind. But when they often reflect on that fact, that bad conduct in body, speech, and mind will either be entirely abandoned or grow weaker... |
Và do duyên lợi ích như thế nào, này các Tỷ-kheo, "Ta là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào ta sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy" là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia? Có những loài hữu t́nh, này các Tỷ-kheo, thân làm ác, miệng nói ác, ư nghĩ ác. Do vị ấy thường xuyên quán sát như vậy, ác hạnh được hoàn toàn đoạn tận hay được giảm thiểu. Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, "Ta là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào ta sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy" là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia. |
Now, a noble disciple considers this: "I am not the only one subject to aging, who has not gone beyond aging. To the extent that there are beings — past and future, passing away and re-arising — all beings are subject to aging, have not gone beyond aging." When he/she often reflects on this, the [factors of the] path take birth. He/she sticks with that path, develops it, cultivates it. As he/she sticks with that path, develops it and cultivates it, the fetters are abandoned, the latent tendencies destroyed. (Similarly with each of the other contemplations.) — A V.57 |
Nếu vị Thánh đệ tử, này các Tỷ-kheo, suy tư như sau: "Không phải chỉ một ḿnh ta già, không thoát khỏi già, nhưng phàm có những loài hữu t́nh nào có đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả loài hữu t́nh ấy phải bị già, không thoát khỏi già". Do vị ấy thường xuyên quán sát sự kiện ấy, con đường được sanh khởi. Vị ấy sử dụng con đường ấy, tu tập, làm cho sung măn. Do vị ấy sử dụng con đường ấy, tu tập, làm cho sung măn nên các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
— A V.57 |
The non-doing of any evil, the performance of what is skillful, the cleansing of one's own mind: This is the Buddhas' teaching. Not disparaging, not injuring, restraint in line with the Patimokkha, moderation in food, dwelling in seclusion, commitment to the heightened mind: This is the Buddhas' teaching. |
Không làm mọi điều ác. |
I do not see any one quality by which unarisen skillful qualities arise, and arisen unskillful qualities subside, like friendship with admirable people. When a person is friends with admirable people, unarisen skillful qualities arise, and arisen unskillful qualities subside. — A I.72 |
Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, do pháp ấy, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp bất thiện đă sanh được đoạn tận, này các Tỷ-kheo, như làm bạn với thiện. Với người làm bạn với thiện, này các Tỷ-kheo, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp bất thiện đă sanh được đoạn tận.
— A I.72 |
Now what, TigerPaw (Byagghapajja), is friendship with admirable people? There is the case where a lay person, in whatever town or village he may dwell, spends time with householders or householders' sons, young or old, who are advanced in virtue. He talks with them, engages them in discussions. He emulates consummate conviction [in the principle of kamma] in those who are consummate in conviction, consummate virtue in those who are consummate in virtue, consummate generosity in those who are consummate in generosity, and consummate discernment in those who are consummate in discernment. This is called friendship with admirable people. |
Ở đây, này Byagghapajja, thiện nam tử sống tại làng hay tại thị trấn. Tại đấy có gia chủ hay con người gia chủ, những trẻ được nuôi lớn trong giới đức, hay những người lớn tuổi được lớn lên trong giới đức, đầy đủ ḷng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ, vị ấy làm quen, nói chuyện, thảo luận. Với những người đầy đủ ḷng tin, vị ấy học tập với đầy đủ ḷng tin. Với những người đầy đủ giới đức, vị ấy học tập với đầy đủ giới đức. Với những người đầy đủ bố thí, vị ấy học tập với đầy đủ bố thí. Với những người đầy đủ trí tuệ, vị ấy học tập với đầy đủ trí tuệ. Này Byagghapajja, đây gọi là làm bạn với thiện. Và này Byagghapajja, thế nào là sống thăng bằng, điều ḥa? |
A female noble disciple who grows in terms of these five types of growth grows in the noble growth, grasps hold of what is essential, what is excellent in the body. Which five? She grows in terms of conviction, in terms of virtue, in terms of learning, in terms of generosity, in terms of discernment. Growing in terms of these five types of growth, the female noble disciple grows in the noble growth, grasps hold of what is essential, what is excellent in the body. Growing in conviction and virtue discernment, generosity, and learning, a virtuous female lay disciple such as this takes hold of the essence within herself. — S XXXVII.34 |
|
'Kamma should be known. The cause by which kamma comes into play should be known. The diversity in kamma should be known. The result of kamma should be known. The cessation of kamma should be known. The path of practice for the cessation of kamma should be known.' Thus it has been said. Why was it said? |
Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các nghiệp như vậy, rơ biết các nghiệp sanh khởi như vậy, rơ biết các nghiệp sai biệt như vậy, rơ biết các nghiệp dị thục như vậy, rơ biết các nghiệp như vậy, cần phải biết con đường đưa đến các nghiệp đoạn diệt, đă được nói như vậy. Do duyên ǵ đă được nói như vậy ? |
Intention, I tell you, is kamma. Intending, one does kamma by way of body, speech, and intellect. |
Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng suy tư là nghiệp ; sau khi suy tư, tạo nghiệp về thân, về lời, về ư. |
And what is the cause by which kamma comes into play? Contact... |
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các nghiệp sanh khởi ? Này các Tỷ-kheo, xúc là các nghiệp sanh khởi. |
And what is the diversity in kamma? There is kamma to be experienced in purgatory, kamma to be experienced in the realm of common animals, kamma to be experienced in the realm of the hungry shades, kamma to be experienced in the human world, kamma to be experienced in the celestial worlds... |
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các nghiệp sai biệt ? Này các Tỷ-kheo, có nghiệp đưa đến cảm thọ ở địa ngục, có nghiệp đưa đến cảm thọ loài bàng sanh, có nghiệp đưa đến cảm thọ cơi ngạ quỷ, có nghiệp đưa đến cảm thọ thế giới loài Người, có nghiệp đưa đến cảm thọ thế giới chư Thiên. |
And what is the result of kamma? The result of kamma is of three sorts, I tell you: that which arises right here and now, that which arises later [in this lifetime], and that which arises following that... |
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là các nghiệp sai biệt. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các nghiệp dị thục ? Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng có ba loại nghiệp dị thục : Ở ngay đời hiện tại, hay ở đời sau, hay ở một đời sau nữa. Này các Tỷ-kheo, đây là các nghiệp dị thục. |
And what is the cessation of kamma? From the cessation of contact is the cessation of kamma... |
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là nghiệp đoạn diệt ? Xúc đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, là nghiệp đoạn diệt. Đây là Thánh đạo tám ngành, con đường đưa đến các nghiệp đoạn diệt. Đó là chánh tri kiến,chánhtư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm,chánh định. |
And what is the way leading to the cessation of kamma? Just this noble eightfold path: right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration. |
|
Now when a noble disciple discerns kamma in this way, the cause by which kamma comes into play in this way, the diversity of kamma in this way, the result of kamma in this way, the cessation of kamma in this way, and the path of practice leading to the cessation of kamma in this way, then he discerns this penetrative holy life as the cessation of kamma. — A VI.63 |
Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử rơ biết các nghiệp như vậy, rơ biết các nghiệp sanh khởi như vậy, rơ biết các nghiệp sai biệt như vậy, rơ biết các nghiệp dị thục như vậy, rơ biết các nghiệp đoạn diệt như vậy, rơ biết con đường đưa đến các nghiệp đoạn diệt như vậy, khi ấy, vị ấy rơ biết Phạm hạnh thể nhập này như là các nghiệp đoạn diệt.
— A VI.63 |
The Buddha: What do you think, Rahula: What is a mirror for? Rahula: For reflection, sir. |
Này Rahula, Ông nghĩ thế nào ? Mục đích của cái gương là ǵ ? |
The Buddha: In the same way, Rahula, bodily acts, verbal acts, and mental acts are to be done with repeated reflection. |
Đức Phật: Cũng vậy, này Rahula, sau khi phản tỉnh nhiều lần, hăy hành thân nghiệp. Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hăy hành khẩu nghiệp. Sau khi phản tỉnh nhiều lần, hăy hành ư nghiệp. |
Whenever you want to perform a bodily act, you should reflect on it: 'This bodily act I want to perform — would it lead to self-affliction, to the affliction of others, or to both? Is it an unskillful bodily act, with painful consequences, painful results?' If, on reflection, you know that it would lead to self-affliction, to the affliction of others, or to both; it would be an unskillful bodily act with painful consequences, painful results, then any bodily act of that sort is absolutely unfit for you to do. But if on reflection you know that it would not cause affliction... it would be a skillful bodily act with happy consequences, happy results, then any bodily act of that sort is fit for you to do. (Similarly with verbal acts and mental acts.) |
Này Rahula, như Ông muốn làm một ư nghiệp ǵ, hăy phản tỉnh ư nghiệp ấy như sau: "Ư nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai, ư nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ". Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh, Ông biết: "Ư nghiệp này ta muốn làm. Ư nghiệp này của ta có thể đưa đến tự hại, có thể đưa đến hại người, có thể đưa đến hại cả hai; thời ư nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đưa đến quả báo đau khổ". Một ư nghiệp như vậy, này Rahula, Ông nhất định chớ có làm. Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh, ông biết: "Ư nghiệp này ta muốn làm. Ư nghiệp này của ta không có thể đưa đến tự hại, không có thể đưa đến hại người, không có thể đưa đến hại cả hai; thời ư nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Ư nghiệp như vậy, này Rahula, Ông nên làm. |
While you are performing a bodily act, you should reflect on it: 'This bodily act I am doing — is it leading to self-affliction, to the affliction of others, or to both? Is it an unskillful bodily act, with painful consequences, painful results?' If, on reflection, you know that it is leading to self-affliction, to affliction of others, or both... you should give it up. But if on reflection you know that it is not... you may continue with it. (Similarly with verbal acts and mental acts.) |
Này Rahula, khi Ông đang làm một ư nghiệp, Ông cần phải phản tỉnh ư nghiệp ấy như sau: "Ư nghiệp này ta đang làm. Ư nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời ư nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đưa đến quả báo đau khổ". Này Rahula, nếu trong khi phản tỉnh, Ông biết: "Ư nghiệp này ta đang làm. Ư nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời ư nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem lại quả báo đau khổ". Này Rahula, Ông hăy từ bỏ một ư nghiệp như vậy. Nhưng nếu, này Rahula, khi phản tỉnh Ông biết như sau: "Ư nghiệp này ta đang làm. Ư nghiệp này của ta không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai; thời ư nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Ư nghiệp như vậy, này Rahula, Ông phải tiếp tục làm. |
Having performed a bodily act, you should reflect on it... If, on reflection, you know that it led to self-affliction, to the affliction of others, or to both; it was an unskillful bodily act with painful consequences, painful results, then you should confess it, reveal it, lay it open to the Teacher or to a knowledgeable companion in the holy life. Having confessed it... you should exercise restraint in the future. But if on reflection you know that it did not lead to affliction... it was a skillful bodily act with happy consequences, happy results, then you should stay mentally refreshed and joyful, training day and night in skillful mental qualities. (Similarly with verbal acts.) |
Sau khi Ông làm xong một ư nghiệp, này Rahula, Ông cần phải phản tỉnh ư nghiệp âư như sau: "Ư nghiệp này ta đă làm. Ư nghiệp này của ta đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; thời ư nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đem lại quả báo đau khổ, đem đến quả báo đau khổ". Nếu trong khi phản tỉnh, này Rahula, Ông biết như sau: "Ư nghiệp này ta đă làm. Ư nghiệp này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai; ư nghiệp này là bất thiện, đưa đến đau khổ, đưa đến quả báo đau khổ". Một ư nghiệp như vậy, này Rahula, Ông cần phải lo âu, cần phải tàm quư, cần phải nhàm chán. Sau khi lo âu, tàm quư, nhàm chán, cần phải pḥng hộ trong tương lai. C̣n nếu trong khi phản tỉnh, này Rahula, Ông biết: "Ư nghiệp này ta đă làm. Ư nghiệp này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, ư nghiệp này là thiện, đưa đến an lạc, đem đến quả báo an lạc". Do vậy, này Rahula, Ông phải an trú trong niềm hoan hỷ, tự ḿnh tiếp tục tu học ngày đêm trong các thiện pháp. |
Having performed a mental act, you should reflect on it... If, on reflection, you know that it led to self-affliction, to the affliction of others, or to both; it was an unskillful mental act with painful consequences, painful results, then you should feel horrified, humiliated, and disgusted with it. Feeling horrified... you should exercise restraint in the future. But if on reflection you know that it did not lead to affliction... it was a skillful mental act with happy consequences, happy results, then you should stay mentally refreshed and joyful, training day and night in skillful mental qualities. |
^^^^^ |
Rahula, all the priests and contemplatives in the course of the past who purified their bodily acts, verbal acts, and mental acts, did it through repeated reflection on their bodily acts, verbal acts, and mental acts in just this way. |
Này Rahula, trong thời quá khứ, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào đă tịnh hóa thân nghiệp, đă tịnh hóa khẩu nghiệp, đă tịnh hóa ư nghiệp, tất cả những vị ấy, sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần đă tịnh hóa thân nghiệp, sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần, đă tịnh hóa khẩu nghiệp, sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần, đă tịnh hóa ư nghiệp. |
All the priests and contemplatives in the course of the future... All the priests and contemplatives at present who purify their bodily acts, verbal acts, and mental acts, do it through repeated reflection on their bodily acts, verbal acts, and mental acts in just this way. |
Này Rahula, trong thời vị lai, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào sẽ tịnh hóa thân nghiệp, sẽ tịnh hóa khẩu nghiệp, sẽ tịnh hóa ư nghiệp, tất cả những vị ấy; sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần, sẽ tịnh hóa thân nghiệp, sau khi phản tỉnh như vậy nhiều lần, sẽ tịnh hóa khẩu nghiệp, sau khi phản tỉnh nhiều lần, sẽ tịnh hóa ư nghiệp. |
Therefore, Rahula, you should train yourself: 'I will purify my bodily acts through repeated reflection. I will purify my verbal acts through repeated reflection. I will purify my mental acts through repeated reflection.' Thus you should train yourself. |
Do vậy, này Rahula: "Sau khi phản tỉnh nhiều lần, tôi sẽ tịnh hóa thân nghiệp; sau khi phản tỉnh nhiều lần, tôi sẽ tịnh hóa khẩu nghiệp, sau khi phản tỉnh nhiều lần, tôi sẽ tịnh hóa ư nghiệp". Như vậy, này Rahula, Ông cần phải tu học. |
That is what the Blessed One said. Pleased, Ven. Rahula delighted in the Blessed One's words. — M 61 |
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Rahula, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn giảng.
— M 61 |
These five things are welcome, agreeable, pleasant, and hard to obtain in the world. Which five? Long life... beauty... pleasure... status... rebirth in heaven... Now, I tell you, these five things are not to be obtained by reason of prayers or wishes. If they were to be obtained by reason of prayers or wishes, who here would lack them? It is not fitting for the noble disciple who desires long life to pray for it or to delight in doing so. Instead, the noble disciple who desires long life should follow the path of practice leading to long life. In so doing, he will attain long life, either human or divine. (Similarly with beauty, pleasure, status, and rebirth in heaven.) — A V.43 |
Có năm pháp này, này Gia chủ, khả lạc, khả hỷ, khả ư, khó t́m được ở đời. Thế nào là năm? Tuổi thọ khả lạc, khả hỷ, khả ư khó t́m được ở đời. Dung sắc khả lạc, khả hỷ, khả ư khó t́m được ở đời . An lạc khả lạc, khả hỷ, khả ư khó t́m được ở đời . Tiếng đồn tốt khả lạc, khả hỷ, khả ư khó t́m được ở đời . Cơi trời khả lạc, khả hỷ, khả ư khó t́m được ở đời. Này Gia chủ, năm pháp này, khả lạc, khả ư khó t́m được ở đời. Này Gia chủ, năm pháp khả lạc, khả hỷ, khả ư khó t́m được ở đời này, Ta tuyên bố không phải do nhân cầu xin, không phải do nhân ước vọng mà có được. Này Gia chủ, nếu năm pháp khả lạc, khả hỷ, khả ư khó t́m được ở đời này, do nhân cầu xin, do nhân ước vọng mà có được, thời ai ở đời này lại héo ṃn v́ một lẽ ǵ? Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có thọ mạng, không có thể do cầu xin thọ mạng hay tán thán đề làm nhân đem lại thọ mạng. Vị Thánh đệ tử muốn có thọ mạng cần phải thực hành con đường dẫn đến thọ mạng. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến thọ mạng, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lănh được thọ mạng, vị ấy nhận lănh được thọ mạng hoặc Chư Thiên, hoặc loài Người. (cũng như vậy với dung sắc khả lạc, khả hỹ, khả y' khó t́m được ở đời, và tái sanh ở cơi trời.)
— A V.43 |
I have heard that at one time the Blessed One was staying in Savatthi at Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Then a certain deva, in the far extreme of the night, her extreme radiance lighting up the entirety of Jeta's Grove, approached the Blessed One. On approaching, having bowed down to the Blessed One, she stood to one side. As she was standing there, she addressed him with a verse. |
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi một Thiên nhân, khi đêm đă gần măn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, vị Thiên nhân ấy với bài kệ bạch Thế Tôn: |
258 "Many devas and humans beings give thought to protective charms, desiring well-being. Tell, then, the highest protective charm." [The Buddha:] 259 "Not consorting with fools,consorting with the wise, homage to those deserving of homage: This is the highest protective charm. 260 Living in a civilized land, having made merit in the past, directing oneself rightly: This is the highest protective charm. 261 Broad knowledge, skill, well-mastered discipline, well-spoken words: This is the highest protective charm. 262 Support for one's parents, assistance to one's wife and children, consistency in one's work: This is the highest protective charm. 263 Giving, living in rectitude, assistance to one's relatives, deeds that are blameless: This is the highest protective charm. 264 Avoiding, abstaining from evil; refraining from intoxicants, being heedful of the qualities of the mind: This is the highest protective charm. 265 Respect, humility, contentment, gratitude, hearing the Dhamma on timely occasions: This is the highest protective charm. 266 Patience, compliance, seeing contemplatives, discussing the Dhamma on timely occasions: This is the highest protective charm. 267 Austerity, celibacy, seeing the Noble Truths, realizing Unbinding: This is the highest protective charm. 268 A mind that, when touched by the ways of the world, is unshaken, sorrowless, dustless, secure: This is the highest protective charm. 269 Everywhere undefeated when acting in this way, people go everywhere in well-being: This is their highest protective charm." — Sn 2.4 |
Thiên nhân: — Sn 2.4 |
GenerosityThese are the five rewards of generosity: One is dear and appealing to people at large, one is admired by good people, one's good name is spread about, one does not stray from the rightful duties of the householder, and with the break-up of the body at death, one reappears in a good destination, in the heavenly worlds. — A V.35 What the miser fears, that keeps him from giving, is the very danger that comes when he doesn't give. — S I.32 No misers go to the world of the devas. Those who don't praise giving are fools. The enlightened express their approval for giving and so finds ease in the world beyond. — Dhp 177 |
- Này các Tỷ-kheo, có năm lợi ích này của bố thí. Thế nào là năm? Được nhiều người ái mộ, ưa thích; được bậc Thiện nhân, Chân nhân thân cận; tiếng đồn tốt đẹp được truyền đi; không có sai lệch pháp của người gia chủ; khi thân hoại mạng chung được sanh lên cơi lành, Thiên giới. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là lợi ích của bố thí.
— A V.35 — Dhp 177 |
If beings knew, as I know, the results of giving and sharing, they would not eat without having given, nor would the stain of miserliness overcome their minds. Even if it were their last bite, their last mouthful, they would not eat without having shared, if there were someone to receive their gift. But because beings do not know, as I know, the results of giving and sharing, they eat without having given. The stain of miserliness overcomes their minds. — Iti 26 |
Điều này đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đă được nghe: Này các Tỷ-kheo, nếu các chúng sanh có thể biết như Ta đă biết, quả dị thục của sự san sẻ bố thí họ sẽ không thụ hưởng nếu họ không bố thí và uế nhiễm xan tham không có ám ảnh tâm của họ và an trú. Dầu là miếng cuối cùng của họ, dầu là miếng ăn tối hậu, họ sẽ không thọ hưởng nếu họ không san sẻ, khi có người nhận của họ. Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu các chúng sanh không biết như Ta đă biết quả dị thục của san sẻ bố thí họ sẽ thọ hưởng, không có bố thí, và uế nhiễm xan tham ám ảnh tâm của họ và an trú. Thế Tôn đă nói lên ư nghĩa này. Ở đấy, điều này được nói đến
— Iti 26 |
Now on that occasion Princess Sumana — with an entourage of 500 ladies-in-waiting riding on 500 carriages — went to where the Buddha was staying. On arrival, having bowed down, she sat to one side. As she was sitting there, she said to the Blessed One, |
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, Jetavana, tại khu vườn của Anàthapindika. Rồi Sumanà, con gái vua, với năm trăm thiếu nữ hộ tống trên năm trăm cỗ xe, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Sumanà, con gái vua bạch Thế Tôn: |
"Yes, there would," said the Blessed One. "The one who was a giver of alms, on becoming a deva, would surpass the other in five areas: in divine life span, divine beauty, divine pleasure, divine status, and divine power..." |
Thế Tôn đáp: |
"And if they were to fall from there and reappear in this world: Having become human beings, would there be any distinction, any difference between the two?" |
Bạch Thế Tôn, nếu họ từ đây mạng chung, trở lại trạng thái này, khi họ trở lại làm người, bạch Thế Tôn, có sự đặc thù ǵ, có sự sai khác ǵ? |
"Yes, there would," said the Blessed One. "The one who was a giver of alms, on becoming a human being, would surpass the other in five areas: in human life span, human beauty, human pleasure, human status, and human power..." |
Có sự sai biệt, này Sumanà. |
"And if they were to go forth from home into the homeless life of a monk: Having gone forth, would there be any distinction, any difference between the two?" |
Bạch Thế Tôn, nếu cả hai đều xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Giữa hai người xuất gia ấy, bạch Thế Tôn có thể có những đặc thù ǵ, những sai khác ǵ? |
"Yes, there would," said the Blessed One. "The one who was a giver of alms, on going forth, would surpass the other in five areas: He would often be asked to make use of robes; it would be rare that he wouldn't be asked. He would often be asked to take food... to make use of shelter... to make use of medicine; it would be rare that he wouldn't be asked. His companions in the holy life would often treat him with pleasing actions... pleasing words... pleasing thoughts... and present him with pleasing gifts, and rarely with unpleasing..." |
Có sự sai biệt, này Sumanà. |
"And if both were to attain arahantship, would there be any distinction, any difference between their attainments of arahantship?" |
Nhưng bạch Thế Tôn, nếu cả hai đều chứng quả A-la-hán. Với hai vị chứng đạt A-la-hán ấy, bạch Thế Tôn có sự đặc thù nào, có sự sai khác nào? |
"In that case, I tell you that there would be no difference between the two as to their release." |
Ở đây, này Sumanà, Ta nói không có sự sai khác nào, tức là so sánh giải thoát với giải thoát. |
"It is awesome, lord, and astounding. Just this is reason enough to give alms, to make merit, in that it benefits one as a deva, as a human being, and as a monk." A V.31 |
Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Xa cho đến như vậy là vừa đủ để bố thí, là vừa đủ để làm cho các công đức. V́ rằng chúng là những giúp đỡ, những công đức cho chư Thiên, chúng là những giúp đỡ, những công đức cho loài Người, chúng là những giúp đỡ, những công đức cho các người xuất gia.
A V.31 |
Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng. Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com |
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006 Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp |