Phẩm 11: Già Yếu - Phẩm Già Yếu (Jaraa Vagga) - Kệ ngôn 146 2. Tại sao tuệ giác được đề cập trong kinh Phật là pháp thoát khổ?Sư Trưởng. 3. Quan điểm của Phật giáo về ma ám như thế nào, tại sao có nhiều trường hợp Phật không can thiệp?Sư Trưởng. 4. Câu hỏi: Chúng ta đến với cõi ta-bà là để vay nợ và trả nợ với nhau phải không ?Hay vì một cái gì khác? Sư Trưởng. 5. Câu hỏi: Tai sao con người có các căn tánh khác nhau và người hay tham ái thì có tánh tham luyến người tham luyến cảnh và có đức tin cái gì cũng tin ai cũng tin. Có phải là do hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh xã hội hay do tích luỹ từ nhiều đời nhiều kiếp chồng chất đến kiếp này không? Có phải những người có đức tin tánh tham ái luôn đi kèm không? Người đó phải tu tập pháp môn nào để diệt trừ phiền não đó? TT Giác Đẳng: Trước khi nói về Phẩm thứ 11 Phẩm già chúng tôi xin được vài lời về chương trình giảng kinh pháp cú, được đề xướng bởi Sư Trưởng. Ngay từ ban đầu chúng tôi nghĩ rằng những phần giảng này sẽ mang tính cách rời rạc bởi vì sinh hoạt bất chừng. Nhưng về sau này chúng ta tìm thấy được sự liên tục và đặc biệt có sự quan tâm của Chư Tăng, Chư Tăng đã mỗi ngày cùng nhau gửi đến quý Phật tử những suy tư từng kệ ngôn Pháp cú. Do vậy hôm nay chúng ta bước sang phẩm thứ 11. Suốt cả quá trình để diễn giảng kinh Pháp cú này chúng ta nói rằng có thể đây là công trình độc đáo duy nhất mà một bộ kinh được giảng giải với nhiều giảng sư khác nhau thay vì một vị. Chúng ta có thể cảm nhận được nhận thức tương đối là phong phú của các vị Pháp sư qua những thể tài đôi khi mang tính cách trùng lập của kinh tạng. Chúng tôi cũng cảm nhận được niềm hoan hỷ lớn của quý Phật tử càng lúc về sau đã tập trung rất nhiều vào những đề tài được trình bày hơn là những câu hỏi ngoài đề. Mặc dù tất cả những câu hỏi liên quan đến Phật pháp đều được khuyến khích nhưng chúng ta đã bỏ ra rất nhiều suy tư cho đề tài này, như vậy chúng ta có đủ những lý do cần thiết, lý do tốt đẹp để tiếp tục chương trình. Trong Phẩm 11 này chúng ta đặc biệt nói về tuổi già. Tuổi già là một hiện tượng suy thoái và là cơn ám ảnh cho tất cả mọi người. Ở những quốc gia kỹ nghệ người ta thường nói đến quỹ hưu vọng, quỹ an sinh xã hội cho tuổi già. Ngày hôm nay dân chúng trên địa cầu tại các quốc gia kỹ nghệ lớn như Đức quốc, Nhật Bản người ta bắt đầu lên tiếng báo động dân chúng càng lúc càng già nua. Ngày xưa có thể năm bảy người trẻ tuổi đi làm để đóng thuế, để chu cấp cho một người lớn tuổi, bây giờ chỉ còn một người rưỡi và trong tương lai một người trẻ đi làm có thể phải chu cấp cho ngân quỹ an sinh của hai hoặc ba người già. Tại Đức quốc kể cả Nhật Bản ngày hôm nay đã có tình trạng báo động người phụ nữ không còn muốn sanh con cái nữa và số người đang sống 50, 60 tuổi thì nhờ vào kỹ thuật y khoa càng lúc càng tiến bộ người ta càng sống lâu hơn. Vì vậy thành phần chiếm đại đa số trong xã hội là những người lớn tuổi. Cho dù thích hay không thích đôi lúc mình nghe người khác nói rằng “ bạn đã già đi rồi”, chúng ta nghe không vui, không hài lòng nhưng rồi thưa quý vị chúng ta có thích hay không thích chúng ta cũng phải đối diện với tuổi già. Chúng tôi nhớ có một bài viết của Dorothy Kami, bà có đề nghị rằng chúng ta hãy trưởng thành chứ đừng già nua. Trưởng thành cở đây có nghĩa là tâm hồn thì già dặn nhưng thể xác đừng già nua. Đây là một điều tuy là dễ nói, rất là hay nhưng không phải dễ dàng thực hiện trong đời sống này. Đối với đạo Phật bất cứ vấn đề gì của kiếp nhân sinh cho dù chúng ta có hài lòng hay không hài lòng, hoan hỷ hay không hoan hỷ chúng ta cũng phải đối diện với những thứ này. Trong nền văn hoá cổ truyền Đông phương của chúng ta thì tuổi già cũng giống như ở bất cứ nơi nào khác, con người đến thời kỳ suy thoái của thể xác lưng cong má hóp, răng long tóc bạc lại có thêm một thứ mà ngày hôm nay ở tại các nước phương Tây lại không có được: đó là tuổi già được kính trọng. Niên trưởng của một người cuối cuộc đời thường được kính trọng ít nhất là trong gia đình, và những người ở chung quanh. Đặc biệt trong đạo Phật điều này cũng được nhắc đến. Có lẽ câu hỏi quan trọng nhất mà chúng ta tự đặt ra là đối diện với già nua, khi tóc trên đầu đã điểm sương, chúng ta là những người không thể nào tránh khỏi sự cằn cổi của cuộc sống và trong giai đoạn cuối đời của mình Phật Pháp soi sáng cho chúng ta những gì và cái gì chúng ta có thể làm được. Quý vị có thể có một chút thất vọng khi đọc những bài kệ trong chương này. Ngày hôm qua TT Trí Siêu có lưu ý một điểm là những bài kệ gom vào trong một thể tài, trong một đề tài của một phẩm không nhất thiết có sự tương đồng về nghĩa lý và đúng như vậy ở đây tuổi gìa được nhìn dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Có lúc tuổi già được nhìn thấy như là một hiện tượng thiên nhiên, hiện tượng đó có mãnh lực tuyệt đối, mãnh lực đó là đưa tất cả chúng sanh đến chỗ tử vong. Có một chỗ khác Đức Phật Ngài nhìn tuổi già, như một người lớn tuổi lớn xác mà không lớn trí tuệ giống như một con trâu già. Có một chỗ khác chúng ta nghe Đức Phật nói tuổi già để làm một điểm tựa nhắc nhở rằng thời còn trẻ còn khoẻ phải làm những gì nên làm cần làm đừng chờ đến tuổi già. Khi tuổi già đến, sức khoẻ đã cùn kiệt, tay chân không còn làm theo ý của mình nữa lúc bấy giờ chúng ta mới thấy rằng tuổi trẻ đã bị phung phí quá nhiều, không làm những việc thật sự cần thiết. Bài kệ này nếu chúng ta hiểu Phật Pháp, chúng ta đọc với tinh thần một người Phật tử hiểu đạo chúng ta sẽ thấy rõ ràng rằng với một sự việc không phải là điều vui trong cuộc sống, có một sự việc mà con người vốn tránh né nói tới thì đạo Phật lại nói tới một cách thật sảng khoái, hết sức rõ nét. Không phải nói đến như vậy để chúng ta bi quan chúng ta buồn bã mà nói đến để đánh động tỉnh thức trong người của chúng ta. Quả thật đề tài tuổi già là đề tài lớn, lớn lắm trong tứ đế, trong giáo lý thập nhị nhân duyên, ở trong nhiều bài kinh khác nhau ví dụ như bài kinh Thiên Sứ, tuổi già cũng được xem là một vị Thiên Sứ mang thông điệp đến cho trần gian này. Nói chung chúng ta có thể đọc được nhiều giai thoại rất thú vị trong kinh Phật kể cả một giai thoại “ Năm đó Đức Thế Tôn đang ở một thị trấn nhỏ tại nước Kosala, vua Ba-Tư-Nặc lúc bấy giờ tự nhiên khao khát mong muốn được gặp Đức Phật. Vua Ba-Tư-nặc đến gặp Đức Thế Tôn, để xe ngựa tận ngoài cửa và đi vào với đôi chân không của mình. Gặp Đức Phật vua quỳ xuống đãnh lễ, lấy trán của mình đụng vào bàn chân của Đức Phật. Đức Phật hỏi vua Ba-Tư-Nặc một câu rất thấm thía, “ Này Đại vương tại sao Đại vương lại đem thân của một vì Quốc vương để quỳ trước thân thể già nua này?” Vua Ba-Tư-Nặc đã nói lên những cảm khái của mình, tại sao thương và quý Đức Phật, trong đó có một câu rất thú vị, nhà vua nói rằng, “ Bạch Đức Thế Tôn, Ngài cũng 80 tuổi và con cũng 80 tuổi”. Ở một tuổi nào đó người ta đi tìm những con người tri kỷ, con người đồng điệu. Nhà vua ở ngôi vị Tôn chủ của thế gian, Đức Phật ở ngôi vị Tôn chủ của Chánh Pháp, một vị Pháp vương. Có lẽ nhà vua nghĩ rằng ngoài lòng cung kính còn một thứ giao tình, còn có một cái gì rất gần nhà vua tìm thấy nơi Đức Phật. Dĩ nhiên đây là sự cảm nhận rất phàm phu của một vị vua nhưng cũng là một giai thoại thú vị về tuổi già. Có vô số câu chuyện như vậy chúng ta có thể tìm thấy trong kinh và đặc biệt tại đây qua Phẩm Tuổi già chúng ta có một hình ảnh rõ nét về cái nhìn của Đạo Phật về một số hiện tượng thiên nhiên trực tiếp liên quan đến đời sống. Trong 11 bài kệ từ bài kệ 146 cho đến bài kệ 156 trong phẩm này chứa đựng hai bài kệ do chính kim khẩu Đức Phật thốt lên ngay sau khi Ngài thành đạo. Hai bài kệ quan trọng này tìm thấy trong kho tàng Phật ngôn của Tam tạng Kinh điển Pali. Bây giờ xin thỉnh TT Trí Siêu hoan hỷ bắt đầu cho buổi giảng hôm nay.
TT Trí Siêu :Câu kệ ngôn 146 trong Phẩm già ( Jaraa Vagga ) này, Đức Phật Ngài dạy một tư tưởng thiền quán hết sức đặc biệt, một sự gợi ý mà Đức Thế Tôn vì lợi ích cho chúng sanh vì lợi lạc cho đời, cho Chư Thiên và nhân loại và cho những ai có tâm muốn tu tập để thoát khỏi trầm luân khổ đau này. Khi đọc bài kệ chúng ta sẽ cảm nhận được một sự khuyến khích, một sự sách tấn vô cùng quan trọng. Ở đây thưa quý vị, trong đời sống hàng ngày của chúng ta kẻ phàm phu khi chưa giác ngộ được pháp của bậc Thánh có đôi lúc chúng ta sinh hoạt thật là nông nổi và cái nhìn của Bậc Thánh nhất là Đức Phật xem đó là một sự dễ duôi một sự phóng túng. Mặc dù trong bài kệ này không có danh từ nào để chỉ cho sự già, nhưng ở đây, từ trong ý nghĩa thâm sâu của bài kệ đã có nói lên sự già mà sau đây chúng tôi sẽ tuần tự trình bày. Duyên khởi của bài kệ như chúng ta được biết. Bài kệ này được Đức Phật thuyết ở Jetavana Vihara, Kỳ Viên tịnh xá đề cập đến những người bạn của bà Visakha. Tương truyền rằng các bà bạn của bà Visakha, mặc dù thường đi chung với bà Visakha thành một nhóm những người phụ nữ. Những người chồng của họ rất kính nể bà Visakha, do vậy chỉ cho phép những người vợ của mình giao du và tháp tùng vầy đòan với bà Visakha thôi. Nhưng vì bản chất của các bà này không phải là những người Phật tử thuần thành, không phải những người có ý thức cho nên các bà có sự dễ duôi. Một lần nọ các bà cùng với bà Visakha đi đến chùa để đãnh lễ Đức Phật và nghe Pháp. Những bà bạn của bà Visakha có mang theo một ít rượu, họ nghĩ rằng ở nhà sẽ bị những ông chồng rầy la và đánh đập nên họ không dám uống rượu, bây giờ họ được tự do tìm cách nhấm nháp một chút . Nhưng khi say rượu, họ không còn kềm chế không còn tự chủ được hành động của họ. Họ đã múa tay múa chân cười hát huyên thuyên. Lúc đó Ác ma tìm cách nhập vào những người phụ nữ say khướt này, làm cho họ có những cử chỉ không được tốt đẹp trước mặt Đức Thế Tôn hầu để làm nhục Ngài. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn quán xét, thấy vậy mới phóng hào quang làm cho thế gian này sáng chói và ánh mặt trời tắt mất khiến cho những người phụ nữ này cảm thấy hốt hoảng sợ hãi và tỉnh rượu, không còn say sưa nữa. Lúc đó Đức Thế Tôn mới thuyết lên bài kệ để giáo dục các bà. Đức Phật dạy rằng Cười gì hân hoan gì Thưa quý vị, đối với những ai có tâm hồn viễn ly thoát tục, có chí nguyện tu tập để hướng đến sự thoát ly hướng đến sự chấm dứt trầm luân sanh tử khổ thì những người đó khi đoc bài kệ này họ sẽ thấy được một ý nghĩa hết sức thâm trầm đặc biệt và chính đó là lời cảnh báo mà Đức Thế Tôn với trí tuệ siêu việt Ngài đã trình bày để đánh thức chúng sanh. Bài kệ có giá trị là như vậy. Có những khi chúng ta sống chúng ta gặp những cảnh thuận lòng khả ái khả lạc, chúng ta có được những hạnh phúc, có được những cuộc lễ vui vầy. Lúc bấy giờ những kẻ phàm phu của chúng ta vui cười hân hoan, chúng ta không thể tự chủ được không thể kềm chế được. Chúng ta quên đi rằng cụôc đời mãi bị thiêu, bị tối tăm bao trùm, chúng ta quên điều đó. Sự thật đây là một điều mà kẻ phàm phu của chúng ta đã dễ ngươi, hết sức là nguy hiểm. Ngay từ đầu chúng ta nói rằng trong bài kệ này có ý nghĩa liên quan đến sự già là như thế nào? Đức Phật Ngài hỏi chúng sanh rằng : Khi chúng ta biết được đời sống của chúng ta bị vô minh chi phối, bị bao trùm trong bóng tối, vô minh dầy đặc, chúng ta không dễ dàng phá vỡ màn vô minh tăm tối đó . Trên thế gian này chỉ có một hạng người duy nhất có thể tự mình phá vỡ vô minh đó là Đức Phật. Ngài đã từ bỏ hoàng thành để đi xuất gia, tầm chân lý. Trong 6 năm khổ hạnh Ngài đã đi tìm thân cận với đạo sĩ này đạo sĩ kia, tìm con đường giải thoát, nhưng tất cả những họ cũng chỉ lập hạnh tu cao lắm là đắc thiền vô sắc giới. Ngài nhận thức được rằng đối với loại thiền này, cảnh giới này chỉ đưa đến cảnh giới Phạm Thiên là cùng. Nếu như vậy vẫn không thoát được cảnh sanh tử luân hồi . Tự Ngài tìm ra con đường trung đạo và khi ánh sáng chân lý đã xuất hiện thì vô minh tăm tối không còn nữa, Ngài trở thành Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác.Vị duy nhất trên thế gian này tự mình phá vỡ màn vô minh đó. Mặc dầu nói như vậy không có nghĩa là ở đây Đức Phật Ngài dạy những điều chúng ta không thể thực hành. Danh từ ngọn đèn được dùng trong câu này (padiipa.m na gavessatha), Đức Phật Ngài chỉ cho tất cả các loại trí. Trí nào làm cho thiện pháp tăng trưởng và bất thiện pháp bị suy giảm thì trí đó là trí chúng ta cần phải tu tập. Còn trí trong đạo trong quả chúng tôi vừa trình bày, trí đó là trí thành tựu khi chúng ta tu hành viên mãn và chúng ta đắc chứng. Trong đời sống hằng ngày của chúng ta, ngọn đèn trí tuệ ở đây là trí tuệ trong tâm đại thiện hay trí tuệ trong tâm thiện dục giới chúng ta cố gắng phát triển. Phát triển cả ba mặt trí văn trí tư và trí tu. Ba loại trí chúng tôi vừa trình bày xem như là ngọn đèn để chúng ta thắp lên mà đi. mặc dầu trong đêm tối chúng ta chưa có thể có được ánh mặt trời để xua tan bóng tối nhưng chúng ta có ba ngọn đèn hay ba cây đuốc nho nhỏ này cũng có đủ ánh sáng soi đường để không bị lầm đường lạc lối. cũng vậy trong đời sống tu tập của chúng ta mặc dầu chúng ta chưa được ánh sáng trí tuệ đạo quả nhưng chúng ta có được ba loại trí văn trí tư trí tu tương đối trong đời sống hằng ngày chúng ta có thể chánh niệm tỉnh gíac có thể tự chủ thì ta hãy cố gắng tu tập và đi tìm ngọn đèn cho chính mình. Hãy tự thắp đuốc mà đi, điều đó chúng ta cũng đã biết. Vì đối với Phật giáo sự tu tập của chúng ta không nhờ cậy vào một tha lực khác. Chúng ta không ngồi lại chỉ nguyện suông, chúng ta phải ý thức được bản chất của cuộc đời như thế nào, khổ đau là như thế nào. Khi chúng ta nhàm chán chúng ta bắt đầu tìm ngọn đèn và ngọn đèn trí tuệ đó chỉ có trong nội tâm của chúng ta thôi . Chính sự tu tập ( sati sampajanna) chánh niệm tỉnh giác trong đời sống hằng ngày được xem như là loại trí tuệ đặc biệt, nó sẽ giúp chúng ta có thể có đủ mãnh lực để chúng ta xua tan bóng tối được. Tuy nhiên có những người chưa có nhân duyên để thành tựu tuệ quán Vipassana, thì bây giờ chúng ta hãy cố gắng có được trí văn và trí tư. Trí văn là chúng ta hiểu Phật Pháp bằng cách chúng ta nghe pháp, học pháp. Trí tư là hằng ngày chúng ta phải thẩm nghiệm thấy mình đau khổ, bệnh hoạn, có tóc bạc, da nhăn v.v chúng ta phải tự cảnh tỉnh rằng có thân này đây phải chịu sự khổ như thế. Hoặc giả khi chúng ta thấy người khác đau khổ thấy người khác rơi vào tinh trạng thống thiết chúng ta cũng suy xét bản chất thế gian đau khổ là như vậy, luân hồi sanh tử là như vậy. Đó là những trường hợp chúng ta cần suy xét. “Vui cười thích thú lẽ nào Chúng tôi xin kết thúc bài giảng tại đây./. |