Dẫn nhập
Thân cận
bậc Chân nhân là Dự lưu phần.
Nghe diệu
pháp là Dự lưu phần.
Như lý
tác ý là Dự lưu phần.
Thực
hành pháp và tùy pháp là Dự lưu phần.
[Tương Ưng
55.11]
Dự lưu là
quả vị đầu tiên của bốn quả vị thánh giải thoát (Dự
lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán). Danh từ "Dự lưu" có nghĩa
là nhập dòng, để chỉ một người đã nhập dòng thánh giải
thoát chắc chắn đưa đến Niết-bàn. Vị đó sẽ hoàn toàn
giác ngộ, chậm nhất là trong bảy kiếp sống, và trong các
kiếp đó sẽ không bao giờ tái sinh tại các đọa xứ (thú
vật, địa ngục, ngạ quỷ, a-tu-la).
Các đoạn
kinh trích dẫn ở đây được sắp xếp theo bốn yếu tố
nêu ra ở trên, và đồng thời có liên hệ đến những câu
hỏi của các thiền sinh, cho dù pháp hành của họ có nhắm
đến Giác ngộ hay không: Làm thế nào để nhận biết một
vị chân sư? Làm thế nào để phân biệt Chân pháp và Ngụy
pháp? Lắng nghe Diệu Pháp sẽ được lợi ích gì? Chúng ta
phải tự vấn như thế nào trong quá trình tu tập? Các pháp
hành nào là tương hợp với Chánh pháp? Trong khi tu tập, chúng
ta cần phải tăng trưởng các phẩm hạnh nào để được
nhiều lợi lạc?
-----*-----
1. Thân
cận bậc Chân nhân
Đối với
vị Tỳ-khưu hữu học, Ta không thấy một chi phần nào khác,
được nhiều lợi ích như vậy, này các Tỳ-khưu, tức là
làm bạn với thiện. Này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu làm bạn
với thiện, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện.
Tỳ-khưu
làm bạn thiện,
Tôn kính
và kính trọng,
Làm theo
những lời nói,
Của bạn
bè thân hữu,
Tỉnh
giấc và chánh niệm,
Vị ấy
sẽ tuần tự,
Ðạt
được sự hoại diệt,
Tất cả
mọi kiết sử.
[Phật
thuyết như vậy, 17]
*
Tôn giả
Ànanda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Tôn giả Ànanda
bạch Thế Tôn:
-- Một nửa
Phạm hạnh này, bạch Thế Tôn, là thiện bạn hữu (kalyàsamittatà),
thiện bạn đãng (kalyànasahàyatà), thiện thân tình (kalyàsam-pavankatà).
-- Chớ có
nói vậy, này Ànanda! Chớ có nói vậy, này Ànanda! Toàn bộ
Phạm hạnh này, này Ànanda, là thiện bạn hữu, thiện bạn
đãng, thiện thân tình. Với Tỳ-khưu thiện bạn hữu, thiện
bạn đãng, thiện thân tình, này Ànanda, thời được chờ
đợi Thánh đạo Tám ngành được tu tập, Thánh đạo Tám
ngành được làm cho viên mãn.
Và này Ànanda,
thế nào là Tỳ-khưu thiện bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện
thân tình, tu tập và làm cho viên mãn Thánh đạo Tám ngành?
Ở đây, này Ànanda, Tỳ-khưu tu tập chánh tri kiến liên hệ
đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến đoạn
diệt, hướng đến từ bỏ. Tỳ-khưu tu tập chánh tư duy...
tu tập chánh ngữ... tu tập chánh nghiệp... tu tập chánh mạng...
tu tập chánh tinh tấn... tu tập chánh niệm... tu tập chánh
định liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ
đến đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Như vậy, này Ànanda,
là Tỳ-khưu thiện bạn hữu, thiện bạn đãng, thiện thân
tình, tu tập Thánh đạo Tám ngành, làm cho sung mãn Thánh đạo
Tám ngành.
Này Ànanda,
chính với pháp môn này, các Ông cần phải hiểu thế nào
toàn bộ Phạm hạnh này là thiện bạn hữu, thiện bạn đãng,
thiện thân tình. Do Ta lấy thiện làm bạn hữu, này Ànanda,
nên các chúng sanh bị sanh được giải thoát khỏi sanh; các
chúng sanh bị già được giải thoát khỏi già; các chúng sanh
bị chết được giải thoát khỏi chết; các chúng sanh bị
sầu, bi, khổ, ưu, não được giải thoát khỏi sầu, bi, khổ,
ưu, não. Chính với pháp môn này, này Ànanda, các Ông cần
phải hiểu thế nào toàn bộ Phạm hạnh này là thiện bạn
hữu, thiện bạn đãng, thiện thân tình.
[Tương
Ưng, 45.2]
*
Này cư sĩ
Byagghapajja, thế nào là làm bạn với thiện? Ở đây, này
Byagghapajja, thiện nam tử sống tại làng hay tại thị trấn.
Tại đấy có gia chủ hay con người gia chủ, những trẻ được
nuôi lớn trong giới đức, hay những người lớn tuổi được
lớn lên trong giới đức, đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới
đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ, vị ấy làm
quen, nói chuyện, thảo luận. Với những người đầy đủ
lòng tin, vị ấy học tập với đầy đủ lòng tin. Với những
người đầy đủ giới đức, vị ấy học tập với đầy
đủ giới đức. Với những người đầy đủ bố thí, vị
ấy học tập với đầy đủ bố thí. Với những người đầy
đủ trí tuệ, vị ấy học tập với đầy đủ trí tuệ.
Này Byagghapajja, đây gọi là làm bạn với thiện.
Và này Byagghapajja,
thế nào là đầy đủ lòng tin? Ở đây, này Byagghapajja, thiện
nam tử có lòng in, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai:
"Ðây là bậc Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện
thệ, Thế gian giải, Vô Thượng Sĩ, Điều ngự trượng phu,
Thiên Nhân sư, Phật, Thế Tôn". Này Byagghapajja, đây gọi là
đầy đủ lòng in.
Và này Byagghapajja,
thế nào là đầy đủ giới đức? Ở đây, này Byagghapajja,
thiện nam tử từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho,
từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, từ bỏ đắm say rượu
men, rượu nấu. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ giới
đức.
Và này Byagghapajja,
thế nào là đầy đủ bố thí? Ở đây, này Byagghapajja, thiện
nam tử sống ở gia đình, với tâm không bị cấu uế, xan
tham chi phối, bố thí rộng rãi, với bàn tay mở rộng, vui
thích từ bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, vui thích chia
xẻ vật bố thí. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ bố
thí.
Và này Byagghapajja,
thế nào là đầy đủ trí tuệ? Ở đây, này Byagghapajja, thiện
nam tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh diệt, với
thánh thể nhập (quyết trạch), chơn chánh chấm dứt khổ
đau. Này Byagghapajja, đây gọi là đầy đủ trí tuệ.
[Tăng
Chi, 8.54]
*
Phàm một
người nào đã vi phạm một pháp, Ta nói rằng không có ác
nghiệp nào vị ấy không làm được. Thế nào là một pháp?
Này các Tỳ-khưu, tức là rõ biết mà nói láo.
Người
nào đã nói láo,
Là vi
phạm một pháp,
Không
kể đến đời sau,
Không
ác gì không làm.
[Phật
thuyết như vậy, 25]
*
- Này các
Tỳ-khưu, có đầy đủ ba đức tánh, một người bạn cần
được thân cận. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
Tỳ-khưu cho điều khó cho, làm điều khó làm, nhẫn điều
khó nhẫn. Này các Tỳ-khưu, đầy đủ ba đức tánh, một
người bạn cần được thân cận.
[Tăng
Chi, 3.133]
*
Ba pháp này,
này các Tỳ-khưu, được người Hiền trí tuyên bố, được
bậc Chân nhân tuyên bố. Thế nào là ba? Bố thí, này các
Tỳ-khưu, được người Hiền trí tuyên bố, được bậc Chân
nhân tuyên bố. Xuất gia, này các Tỳ-khưu, được người
Hiền trí tuyên bố, được bậc Chân nhân tuyên bố. Hầu
hạ cha mẹ, này các Tỳ-khưu, được người Hiền trí tuyên
bố, được bậc Chân nhân tuyên bố. Ba pháp này, này các
Tỳ-khưu, được người Hiền trí tuyên bố, được bậc Chân
nhân tuyên bố.
[Tăng
Chi, 3.45]
*
Này các Tỳ-khưu,
thế nào là địa vị bậc không phải Chân nhân? Người không
phải Chân nhân, này các Tỳ-khưu, không biết ơn, không nhớ
ơn. Ðối với những người độc ác, đây là đặc tánh của
họ được biết đến, này các Tỳ-khưu, tức là không biết
ơn, không nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị kẻ không Chân
nhân, này các Tỳ-khưu, tức là không biết ơn, không nhớ
ơn. Còn bậc Chân nhân, này các Tỳ-khưu, là biết ơn, là
nhớ ơn. Ðối với những thiện nhân, đây là đặc tánh của
họ được biết đến, này các Tỳ-khưu, tức là biết ơn,
nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị bậc Chân nhân, này các
Tỳ-khưu, tức là biết ơn, nhớ ơn.
[Tăng
Chi 2.31]
*
Này các Tỳ-khưu,
với cộng trú, giới cần phải được hiểu biết, như vậy,
trong một thời gian dài, không thể khác được, có tác ý,
không có không tác ý, với trí tuệ, không phải với liệt
tuệ.
Này các Tỳ-khưu,
với cùng một nghề, thanh tịnh liêm khiết cần phải được
hiểu biết, như vậy, trong một thời gian dài, không thể khác
được, có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ, không
phải với liệt tuệ.
Này các Tỳ-khưu,
trong những hoạn nạn, sức kiên trì cần phải được hiểu
biết, như vậy, trong một thời gian dài, không thể khác được,
có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ, không phải
với liệt tuệ.
Này các Tỳ-khưu,
với đàm luận, trí tuệ cần phải được hiểu biết, như
vậy, trong một thời gian dài, không thể khác được, có tác
ý, không có không tác ý, với trí tuệ, không phải với liệt
tuệ.
(1) Này các
Tỳ-khưu, với cộng trú, giới cần phải được hiểu biết,
như vậy, trong một thời gian dài, không thể khác được,
có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ, không phải
với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên gì được
nói đến như vậy?
Ở đây,
này các Tỳ-khưu, có người do cộng trú với một người
khác biết được như sau: "Trong một thời gian dài, vị Tôn
giả này làm giới bị bể vụn, làm giới bị cắt xén, làm
giới bị vết nhơ, làm giới bị chấm, đen, làm việc không
có liên tục, hạnh kiểm không có liên tục trong các giới.
Ác giới là Tôn giả này, Tôn giả này không giữ giới".
Nhưng ở
đây, này các Tỳ-khưu, người này do cộng trú với người
kia, biết như sau: "Trong một thời gian dài, vị Tôn giả này
không làm giới bị bể vụn, không làm giới bị cắt xén,
không làm giới bị vết nhơ, không làm giới bị chấm, đen,
làm việc có liên tục, hạnh kiểm có liên tục trong các giới.
Giữ giới là Tôn giả này, Tôn giả này không phải ác giới".
Này các Tỳ-khưu,
với cộng trú, giới cần phải được hiểu biết, như vậy,
trong một thời gian dài, không có tác ý vấn đề khác, không
có không tác ý, với trí tuệ, không phải với liệt tuệ.
Như vậy được nói đến, do duyên này được nói đến như
vậy.
(2) Này các
Tỳ-khưu, với cùng chung làm một nghề, thanh tịnh liêm khiết
cần phải được hiểu biết. Như vậy trong một thời gian
dài, không thể khác được, có tác ý, không có không tác
ý, với trí tuệ, không phải với liệt tuệ, như vậy được
nói đến. Do duyên gì được nói đến như vậy?
Ở đây,
này các Tỳ-khưu, một người do cùng làm một nghề với một
người khác, biết được như sau: "Khác thay, vị Tôn giả
này khi làm việc với một người; khác thay, với hai người;
khác thay, với ba người; khác thay, với nhiều người, làm
trái ngược là vị Tôn giả này, các sở hành trước khác
với sở hành sau. Không thanh tịnh là sở hành của vị Tôn
giả này. Vị Tôn giả này có sở hành không thanh tịnh. Nhưng
ở đây, này các Tỳ-khưu, một người do cùng làm một nghề
với một người khác, biết được như sau: "Như thế nào,
Tôn giả này khi làm việc với một người, như thế ấy với
hai người, như thế ấy với ba người, như thế ấy với
nhiều người, không làm trái ngược là vị Tôn giả này,
các sở hành trước giống với sở hành sau. Thanh tịnh là
sở hành của vị Tôn giả này."
Này các Tỳ-khưu,
với cùng chung làm một nghề, thanh tịnh liêm khiết cần phải
được hiểu biết, như vậy trong một thời gian dài, không
thể khác được, có tác ý, không có không tác ý, với trí
tuệ, không phải với liệt tuệ, như vậy được nói đến.
Do duyên này được nói đến như vậy.
(3) Này các
Tỳ-khưu, trong các hoạn nạn, sức kiên trì cần phải được
hiểu biết. Như vậy trong một thời gian dài, không thể khác
được, có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ, không
phải với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên gì
được nói đến như vậy?
Ở đây,
này các Tỳ-khưu, có người cảm thọ bà con bị ách nạn,
cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức khỏe bị ách
nạn, suy nghĩ như sau: "Bản chất như vậy là sự an trú thế
giới này; Bản chất như vậy là bản tánh tự ngã có được
này; Bản chất như vậy là sự an trú thế giới. Bản chất
như vậy là có được bản tánh tự ngã. Tám thế giới pháp
này vận chuyển thế giới, và thế giới vận chuyển tám
pháp, tức là, lợi và thất lợi, không danh tiếng và danh
tiếng, chê và khen, lạc và khổ". Người ấy, cảm thọ bà
con bị ách nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ
sức khỏe bị ách nạn, sầu muộn, than van, khóc lóc, đập
ngực, rơi vào bất tỉnh.
Nhưng ở
đây, này các Tỳ-khưu, có người cảm thọ bà con bị ách
nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn, cảm thọ sức khỏe
bị ách nạn, suy nghĩ như sau: "Bản chất như vậy là sự
an trú thế giới này; Bản chất như vậy là bản tánh tự
ngã có được này; Bản chất như vậy là sự an trú thế
giới. Bản chất như vậy là có được bản tánh tự ngã.
Tám thế giới pháp này vận chuyển thế giới, và thế giới
vận chuyển tám pháp, tức là, lợi và thất lợi, không danh
tiếng và danh tiếng, chê và khen, lạc và khổ". Người ấy
cảm thọ bà con bị ách nạn, cảm thọ tài sản bị ách nạn,
cảm thọ sức khỏe bị ách nạn, không sầu muộn, không than
van, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh.
Này các Tỳ-khưu,
trong các hoạn nạn, sức mạnh kiên trì cần phải được
hiểu biết. Như vậy trong một thời gian dài, không thể khác
được, có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ, không
phải với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên này
được nói đến như vậy.
(4) Này các
Tỳ-khưu, trong đàm luận, trí tuệ cần phải được hiểu
biết. Như vậy trong một thời gian dài, không thể khác được,
có tác ý, không có không tác ý, với trí tuệ, không phải
với liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên gì được
nói đến như vậy?
Ở đây,
này các Tỳ-khưu, có người, do đàm luận với một người
khác, biết như vầy: "Vị Tôn giả này, đối một câu hỏi
như vậy, phản ứng là như vậy, giải đáp câu hỏi là như
vậy, thời liệt tuệ là Tôn giả này, Tôn giả này không
có trí tuệ. Vì sao? Vì Tôn giả này không nói lên câu nghĩa
sâu sắc an tịnh, thù thắng, vượt ngoài lý luận suông, tế
nhị, được người hiền trí cảm thọ. Còn về pháp, vị
này thuyết giảng, vị ấy không có khả năng, hoặc tóm tắt,
hoặc rộng rãi, nói lên ý nghĩa, thuyết giảng, trình bày,
an lập, mở rộng, phân tích, phát lộ. Liệt tuệ là vị Tôn
giả này, vị Tôn giả này không có trí tuệ". Ví như, này
các Tỳ-khưu, một người có mắt, đứng trên bờ một hồ
nước, thấy một con cá nhỏ nổi lên, người ấy suy nghĩ
như sau: "Như vậy, con cá này nổi lên; như vậy, làm cho gợn
sóng; như vậy là độ nhanh của nó. Nhỏ bé là con cá này,
con cá này không lớn".
Cũng vậy,
này các Tỳ-khưu, có người do đàm luận với một người
khác, biết như vầy: "Vị Tôn giả này, đối một câu hỏi
như vậy, phản ứng là như vậy, giải đáp câu hỏi là như
vậy, thời có trí tuệ là Tôn giả này, Tôn giả này không
phải là liệt tuệ. Vì sao? Vì Tôn giả này nói lên câu nghĩa
sâu sắc an tịnh, thù thắng, vượt ngoài luận lý suông, tế
nhị, được người hiền trí cảm thọ. Còn về pháp, vị
này thuyết giảng, vị này có khả năng, hoặc tóm tắt, hoặc
rộng rãi, nói lên ý nghĩa, thuyết giảng, trình bày, an lập,
mở rộng, phân tích, phát lộ. Có trí tuệ là vị Tôn giả
này, vị Tôn giả này không phải là liệt tuệ". Ví như, này
các Tỳ-khưu, một người có mắt, đứng trên bờ một hồ
nước, thấy một con cá lớn nổi lên, người ấy suy nghĩ
như sau: "Như vậy, con cá này nổi lên; như vậy, con cá này
làm cho gợn sóng; như vậy là độ nhanh của nó. To lớn là
con cá này, con cá này không nhỏ".
Này các Tỳ-khưu,
trong đàm luận, trí tuệ cần phải được hiểu biết. Như
vậy trong một thời gian dài, không thể khác được, có tác
ý, không phải không tác ý với trí tuệ, không phải với
liệt tuệ, như vậy được nói đến. Do duyên này được
nói đến như vậy.
[Tăng
Chi, 4.192]
*
-- Này các
Tỳ-khưu, một người bất chánh (asappurisa) có thể biết
một người bất chánh: "Người bất chánh là vị này", hay
không?
-- Bạch Thế
Tôn, không biết được.
-- Lành thay,
này các Tỳ-khưu! Này các Tỳ-khưu, không thể có sự tình,
không thể có sự kiện, một người bất chánh có thể biết
một người bất chánh: "Người bất chánh là vị này." Này
các Tỳ-khưu, nhưng một người bất chánh có thể biết một
người chơn chánh: "Người chơn chánh là vị này" hay không?
-- Bạch Thế
Tôn, không biết được.
-- Lành thay,
này các Tỳ-khưu! Này các Tỳ-khưu, không thể có sự tình,
không thể có sự kiện một người bất chánh có thể biết
được một người chơn chánh: "Người chơn chánh là vị này".
Người bất
chánh, này các Tỳ-khưu, là người đầy đủ pháp bất chánh,
giao du với người bất chánh, suy tư như người bất chánh,
tư lường như người bất chánh, nói năng như người bất
chánh, hành động như người bất chánh, có tà kiến như người
bất chánh, bố thí như người bất chánh.
Và này các
Tỳ-khưu, như thế nào là người bất chánh đầy đủ pháp
bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, người bất chánh bất
tín, vô tàm, vô quý, nghe ít, biếng nhác, thất niệm, liệt
tuệ. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người bất chánh đầy
đủ pháp bất chánh.
Và này các
Tỳ-khưu, như thế nào là người bất chánh giao du với những
người bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, những vị Bà-la-môn
nào bất tín, vô tàm, vô quý, ít nghe, biếng nhác, thất niệm,
liệt tuệ, những vị ấy là bạn, là thân hữu với người
bất chánh ấy. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người bất
chánh giao du với người bất chánh.
Và này các
Tỳ-khưu, như thế nào là người bất chánh suy tư như người
bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, người bất chánh suy
nghĩ tự làm hại mình, suy nghĩ làm hại người khác, suy nghĩ
làm hại cả hai.. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người bất
chánh suy tư như người bất chánh.
Và này các
Tỳ-khưu, như thế nào là người bất chánh tư lường như
người bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, người bất
chánh tư lường tự làm hại mình, tư lường làm hại người,
tư lường làm hại cả hai. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là
người bất chánh tư lường như người bất chánh.
Và này các
Tỳ-khưu, như thế nào là người bất chánh nói năng như người
bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, người bất chánh nói
lời nói láo, nói lời hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù
phiếm. Như vậy này các Tỳ-khưu, là người bất chánh nói
năng như người bất chánh.
Và này các
Tỳ-khưu, như thế nào là người bất chánh hành động như
người bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, người bất
chánh sát sanh, lấy của không cho, làm các tà hạnh trong các
dục. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người bất chánh hành
động như người bất chánh.
Và này các
Tỳ-khưu, như thế nào là người bất chánh có tà kiến như
người bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, người bất
chánh có tà kiến như sau: "Không có bố thí, không có lễ
hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp
thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có
cha, không có mẹ, không có loại hóa sanh. Ở đời, không có
những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng, chánh
hạnh đã tự mình chứng đạt với thượng trí đời này
và đời khác, và truyền dạy lại". Như vậy, này các Tỳ-khưu,
là người bất chánh có tà kiến như người bất chánh.
Và này các
Tỳ-khưu, thế nào là người bất chánh bố thí như người
bất chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, người bất chánh bố
thí một cách vô lễ, bố thí không phải tự tay, bố thí
không có suy tư kỹ lưỡng, bố thí những vật không cần
dùng, bố thí không nghĩ đến tương lai. Như vậy, này các
Tỳ-khưu, là người bất chánh bố thí như người bất chánh.
Này các Tỳ-khưu,
người bất chánh ấy, đầy đủ pháp bất chánh như vậy,
giao du với người bất chánh như vậy, suy tư như người bất
chánh như vậy, tư lường như người bất chánh như vậy,
nói năng như người bất chánh như vậy, hành động như người
bất chánh như vậy, có tà kiến như người bất chánh như
vậy, bố thí như người bất chánh như vậy, sau khi thân hoại
mạng chung, sanh vào cảnh giới của những người bất chánh.
Và này các Tỳ-khưu, thế nào là cảnh giới của những người
bất chánh? Ðịa ngục hay là bàng sanh.
Này các Tỳ-khưu,
một người chơn chánh có thể biết được một người chơn
chánh: "Người chơn chánh là vị này" hay không?
-- Thưa biết
được, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay,
này các Tỳ-khưu! Sự tình này xảy ra là người chơn chánh
có thể biết được người chơn chánh: "Người chơn chánh
là vị này". Nhưng này các Tỳ-khưu, người chơn chánh có
thể biết được người bất chánh: "Người bất chánh là
vị này" hay không?
-- Thưa biết
được, bạch Thế Tôn.
-- Lành thay,
này các Tỳ-khưu! Này các Tỳ-khưu, có sự tình này là người
chơn chánh có thể biết được người bất chánh: "Người
bất chánh là vị này". Này các Tỳ-khưu, người chơn chánh
đầy đủ Chánh pháp, giao du với các bậc chơn chánh, suy nghĩ
như các bậc chơn chánh, tư lường như các bậc chơn chánh,
nói năng như bậc chơn chánh, hành động như bậc chơn chánh,
có chánh kiến như bậc chơn chánh, bố thí như bậc chơn chánh.
Và này các
Tỳ-khưu, thế nào là người chơn chánh đầy đủ Chánh pháp?
Ở đây, này các Tỳ-khưu, người chơn chánh có lòng tin, có
lòng tàm, có lòng quý, có nghe nhiều, có tinh cần, tinh tấn,
có chánh niệm, có trí tuệ. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là
người chơn chánh đầy đủ những Chánh pháp.
Và này các
Tỳ-khưu, thế nào là người chơn chánh giao du với các bậc
chơn chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, những vị Sa-môn, Bà-la-môn
nào có lòng tin, có lòng tàm, có lòng quý nghe nhiều, tinh cần,
tinh tấn, chánh niệm, có trí tuệ, những vị ấy là bạn,
là thân hữu của vị chơn chánh ấy. Như vậy, này các Tỳ-khưu,
là người chơn chánh giao du với các bậc chơn chánh.
Và này, các
Tỳ-khưu, như thế nào là người chơn chánh suy tư như người
chơn chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, người chơn chánh không
suy nghĩ tự làm hại mình, không suy nghĩ làm hại người khác,
không suy nghĩ làm hại cả hai. Như vậy, này các Tỳ-khưu,
là người chơn chánh suy tư như người chơn chánh.
Và này, các
Tỳ-khưu, như thế nào là người chơn chánh tư lường như
người chơn chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, người chơn
chánh không tư lường tự làm hại mình, không tư lường làm
hại người khác, không tư lường làm hại cả hai. Như vậy,
này các Tỳ-khưu, là người chơn chánh tư lường như người
chơn chánh?
Và này các
Tỳ-khưu, như thế nào là người chơn chánh nói năng như người
chơn chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, người chơn chánh từ
bỏ không nói láo, từ bỏ không nói hai lưỡi, từ bỏ không
nói ác khẩu, từ bỏ không nói phiếm luận. Như vậy, này
các Tỳ-khưu, là người chơn chánh nói năng như người chơn
chánh.
Và này các
Tỳ-khưu, thế nào là người chơn chánh hành động như người
chơn chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, người chơn chánh từ
bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ làm các tà
hạnh trong dâm dục. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người
chơn chánh hành động như người chơn chánh.
Và này các
Tỳ-khưu, thế nào là người chơn chánh có chánh kiến như
bậc chơn chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, người chơn chánh
có chánh kiến như sau: "Có bố thí, có lễ hy sinh, có tế
tự, có quả dị thục các nghiệp thiện ác, có đời này,
có đời khác, có cha, có mẹ, có loại hóa sanh. Ở đời có
những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng, chánh
hạnh, đã tự mình chứng đạt với thượng trí đời này
và đời khác, và truyền dạy lại. Như vậy, này các Tỳ-khưu,
là người chơn chánh có chánh kiến như người chơn chánh.
Và này các
Tỳ-khưu, thế nào là người chơn chánh bố thí như người
chơn chánh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, người chơn chánh bố
thí một cách lễ độ, bố thí với tự tay, bố thí có suy
tư kỹ lưỡng, bố thí những vật cần dùng, bố thí có nghĩ
đến tương lai. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là người chơn
chánh bố thí như người chơn chánh.
Này các Tỳ-khưu,
người chơn chánh ấy, đầy đủ Chánh pháp như vậy, giao
du với người chơn chánh như vậy, suy tư như người chơn
chánh như vậy, tư lường như người chơn chánh như vậy,
nói năng như người chơn chánh như vậy, hành động như người
chơn chánh như vậy, có chánh kiến như người như người
chơn chánh như vậy, bố thí như người chơn chánh như vậy,
sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cảnh giới của những
người chơn chánh. Và này các Tỳ-khưu, thế nào là cảnh
giới của những người chơn chánh? Ðại tánh của chư Thiên
hay đại tánh của loài Người.
[Trung
Bộ, 110]
*
Nếu
thấy bậc hiền trí,
Chỉ lỗi
và khiển trách,
Như chỉ
chỗ chôn vàng,
Hãy thân
cận người trí !
Thân cận
người như vậy,
Chỉ tốt
hơn, không xấu.
[Pháp
Cú, 76]
Chớ
thân với bạn ác,
Chớ thân
kẻ tiểu nhân.
Hãy thân
người bạn lành,
Hãy thân
bậc thượng nhân.
[Pháp
Cú, 78]
-ooOoo-
2. Biết
nghe Diệu Pháp
Đức Phật
giảng cho thanh niên Kapadika Bharadvaja:
-- Trước
hết, này Bharadvaja, Ông đi đến lòng tin, nay Ông nói đến
tùy văn. Này Bharadvaja, năm pháp này có hai quả báo ngay trong
hiện tại. Thế nào là năm? Tín, tùy hỷ, tùy văn, cân nhắc
suy tư các lý do và chấp nhận quan điểm. Này Bharadvaja, năm
pháp này có hai quả báo ngay trong hiện tại. Tuy vậy, này
Bharadvaja, có điều được khéo tin tưởng, có thể là trống
không, trống rỗng, hư vọng. Trái lại, có điều không được
khéo tin tưởng, có thể là thật, chân, không thay đổi. Lại
nữa này Bharadvaja, có điều được khéo tùy hỷ... được
khéo tùy văn... được khéo cân nhắc suy tư... được khéo
chấp nhận, có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng.
Trái lại, có điều không được khéo chấp nhận, có thể
là thật, chân, không thay đổi. Hộ trì chân lý, này Bharadvaja
không đủ để một người có trí đi đến kết luận một
chiều là: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm"
-- Nhưng thưa
Tôn giả Gotama, cho đến mức độ nào là hộ trì chân lý?
Cho đến mức độ nào, chân lý được hộ trì? Chúng con hỏi
Tôn giả Gotama về hộ trì chân lý.
-- Này Bharadvaja,
nếu có người có lòng tin và nói: "Ðây là lòng tin của tôi",
người ấy hộ trì chân lý, nhưng người ấy không đi đến
kết luận một chiều: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều
là sai lầm". Cho đến như vậy, này Bharadvaja, là sự hộ trì
chân lý. Cho đến như vậy, chân lý được hộ trì. Và cho
đến như vậy, chúng tôi chủ trương hộ trì chân lý. Nhưng
ở đây, chưa phải là giác ngộ chân lý. Này Bharadvaja, nếu
có người có lòng tùy hỷ.... Này Bharadvaja, nếu có người
có lòng tùy văn... Này Bharadvaja, nếu có người có sự cân
nhắc suy tư các lý do... Này Bharadvaja, nếu có người chấp
nhận một quan điểm và nói: "Ðây là sự chấp nhận quan
điểm của tôi", người ấy hộ trì chân lý. Nhưng người
ấy không đi đến kết luận một chiều: "Chỉ đây là sự
thật, ngoài ra là sai lầm". Cho đến như vậy, này Bharadvaja,
là hộ trì chân lý. Cho đến như vậy, này Bharadvaja, chúng
tôi chủ trương hộ trì và cho đến như vậy, này Bharadvaja,
chúng tôi chủ trương hộ trì chân lý. Nhưng ở đây chưa
phải sự giác ngộ chân lý.
-- Cho đến
như vậy, thưa Tôn giả Gotama, là hộ trì chân lý. Cho đến
như vậy, thưa Tôn giả Gotama, chân lý được hộ trì. Cho
đến như vậy, thưa Tôn giả Gotama, chúng con nhìn thấy thộ
trì chân lý. Nhưng thưa Tôn giả Gotama, cho đến mức độ
nào là giác ngộ chân lý? Cho đến mức độ nào chân lý được
giác ngộ? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama về giác ngộ chân
lý?
-- Ở đây,
này Bharadvaja, Tỳ-khưu sống gần một làng hay một thị trấn.
Một gia chủ hay con trai một gia chủ đi đến vị ấy và tìm
hiểu vị ấy trong ba pháp, tức là tham pháp, sân pháp, si pháp.
Người này nghĩ rằng: "Không hiểu vị Tôn giả ấy có tham
ái hay không, do những tham ái này, tâm vị ấy bị chi phối
đến nỗi dầu không biết vẫn nói: "Tôi biết", dầu không
thấy vẫn nói: "Tôi thấy", hay xui khiến người khác có những
hành động khiến người ấy không được hạnh phúc, phải
đau khổ lâu dài". Trong khi xem xét vị ấy, người này biết
như sau: "Vị Tôn giả ấy không có những tham pháp, do những
tham pháp này tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không
biết vẫn nói: "Tôi biết", dầu không thấy vẫn nói: "Tôi
thấy"; hay xui khiến người khác có những hành động khiến
người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài.
Thân hành của vị ấy là như vậy, khẩu hành là như vậy,
là hành động của một người không có lòng tham. Còn Tôn
giả ấy thuyết pháp, pháp ấy thâm sâu, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, thù thắng, vượt ngoài luận lý suông, tế nhị,
được người trí chấp nhận; pháp ấy không thể do một
người có lòng tham khéo giảng".
Sau khi xem
xét vị ấy và thấy vị ấy trong sạch không có những tham
pháp, người kia lại xem xét thêm vị ấy về các sân pháp:
"Không hiểu vị Tôn giả ấy có sân pháp hay không, do những
sân pháp này, tâm vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không
biết vẫn nói: "Tôi biết", dầu không thấy vẫn nói: "Tôi
thấy", hay xui khiến người khác có những hành động khiến
người ấy không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài".
Trong khi xem xét vị ấy, người này biết như sau: "Tôn giả
ấy không có những sân pháp, do những sân pháp này, tâm vị
ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết vẫn nói: "Tôi
biết", dầu không thấy vẫn nói: "Tôi thấy", hay xui khiến
người khác có những hành động, khiến người ấy không
được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài. Thân hành của vị
ấy là như vậy, khẩu hành là như vậy, là hành động của
một người không có lòng sân. Còn Tôn giả ấy thuyết pháp,
pháp ấy thâm sâu, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, thù thắng,
vượt ngoài luận lý suông, tế nhị, được người trí chấp
nhận, pháp ấy không thể do một người có lòng sân khéo
giảng".
Sau khi xem
xét vị ấy và thấy vị ấy trong sạch, không có những sân
pháp, người kia lại xem xét thêm vị ấy về các si pháp:
"Không hiểu tôn giả ấy có si pháp hay không, do những si pháp
này, tâm của vị ấy bị chi phối đến nỗi dầu không biết,
vẫn nói: "Tôi biết", dầu không thấy vẫn nói: "Tôi thấy",
hay xui khiến người khác có hành động khiến người ấy
không được hạnh phúc, phải đau khổ lâu dài". Trong khi xem
xét vị ấy, người này biết như sau: "Tôn giả ấy không
có những si pháp, do những si pháp này, tâm vị ấy bị chi
phối đến nỗi dầu không biết, vẫn nói: "Tôi biết", dầu
không thấy, vẫn nói: "Tôi thấy", hay xui khiến người khác
có những hành động khiến người ấy không được hạnh
phúc, phải đau khổ lâu dài. Thân hành của vị ấy là như
vậy, khẩu hành là như vậy, là hành động của một người
không có lòng si. Còn Tôn giả ấy thuyết pháp, pháp ấy thâm
sâu, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, thù thắng, vượt ngoài
luận lý suông, tế nhị, được người trí chấp nhận, pháp
ấy không thể do một người có lòng si khéo giảng".
Sau khi xem
xét vị ấy và thấy vị ấy trong sạch, không có những si
pháp, người này sanh lòng tin đối với vị ấy, với lòng
tin sanh, người này đến gần, khi đến gần liền thân cận
giao thiệp, do thân cận giao thiệp, nên lóng tai, lóng tai, người
ấy nghe pháp, sau khi nghe, liền thọ trì pháp, rồi tìm hiểu
ý nghĩa các pháp được thọ trì; trong khi tìm hiểu ý nghĩa,
các pháp được hoan hỷ chấp nhận; khi các pháp được hoan
hỷ chấp nhận, ước muốn sanh, khi ước muốn sanh, liền
cố gắng, sau khi cố gắng liền cân nhắc, sau khi cân nhắc,
người ấy tinh cần. Trong khi tinh cần, người ấy tự thân
chứng ngộ tối thượng chân lý, và khi thể nhập chân lý
ấy với trí tuệ, người ấy thấy. Cho đến mức độ này,
này Bharadvaja là sự giác ngộ chân lý, cho đến mức độ
này, chân lý được giác ngộ, và cho đến mức độ này,
chúng tôi chủ trương sự giác ngộ chân lý, nhưng như vậy
chưa phải là chứng đạt chân lý.
-- Cho đến
như vậy, thưa Tôn giả Gotama, là giác ngộ chân lý, cho đến
như vậy, chân lý được giác ngộ, và cho đến như vậy chúng
con thấy giác ngộ chân lý. Nhưng thưa Tôn giả Gotama, cho đến
mức độ nào là chứng đạt được chân lý, cho đến mức
độ nào chân lý được chứng đạt. Chúng con hỏi Tôn giả
Gotama về sự chứng đạt chân lý.
-- Này Bharadvaja,
chính nhờ luyện tập, tu tập và hành tập nhiều lần, chân
lý mới được chứng đạt. Cho đến như vậy, này Bharadvaja,
là chứng đạt chân lý, cho đến như vậy, chân lý được
chứng đạt, cho đến như vậy, chúng tôi chủ trương sự
chứng đạt chân lý.
-- Cho đến
như vậy, thưa Tôn giả Gotama, là chứng đạt chân lý, cho
đến như vậy chân lý được chứng đạt, và cho đến như
vậy, chúng con thấy chứng đạt chân lý. Nhưng trong sự chứng
đạt chân lý, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì
nhiều? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự chứng đạt
chân lý, pháp nào được hành trì nhiều.
-- Trong sự
chứng đạt chân lý, này Bharadvaja, tinh cần được hành trì
nhiều. Nếu không tinh cần theo đuổi chân lý thì không thể
chứng đạt chân lý. Nhưng nếu tinh cần thì chứng đạt được
chân lý. Do vậy, trong sự chứng đạt chân lý, tinh cần được
hành trì nhiều.
-- Trong sự
tinh cần, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều?
Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự tinh cần, pháp nào được
hành trì nhiều.
-- Trong sự
tinh cần, này Bharadvaja, sự cân nhắc được hành trì nhiều.
Nếu không cân nhắc thì không thể tinh cần theo đuổi chân
lý. Nếu có cân nhắc sẽ được tinh cần; do vậy, trong sự
tinh cần, cân nhắc được hành trì nhiều.
-- Trong sự
cân nhắc, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều?
Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự cân nhắc, pháp nào
được hành trì nhiều.
-- Trong sự
cân nhắc, này Bharadvaja, cố gắng được hành trì nhiều.
Nếu không cố gắng thì không thể cân nhắc. Nhưng nếu có
cố gắng thì có cân nhắc; do vậy trong sự cân nhắc, thì
cố gắng được hành trì nhiều.
-- Trong sự
cố gắng, Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều?
Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự cố gắng, pháp nào
được hành trì nhiều.
-- Trong sự
cố gắng, này Bharadvaja, ước muốn được hành trì nhiều.
Nếu ước muốn đối với chân lý ấy không khởi lên thì
không có cố gắng. Vì ước muốn có khởi lên nên có cố
gắng, do vậy, trong sự cố gắng, ước muốn được hành
trì nhiều.
-- Trong ước
muốn, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều?
Chúng con muốn hỏi Tôn giả Gotama, trong ước muốn, pháp nào
được hành trì nhiều.
-- Trong ước
muốn, này Bharadvaja, hoan hỷ chấp nhận pháp được hành trì
nhiều. Nếu không hoan hỷ chấp nhận pháp thì ước muốn
không khởi lên. Vì có hoan hỷ chấp nhận pháp nên ước muốn
khởi lên; do vậy, trong ước muốn, hoan hỷ chấp nhận pháp
được hành trì nhiều.
-- Nhưng trong
sự hoan hỷ chấp nhận pháp, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào
được hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong
sự hoan hỷ chấp nhận pháp, pháp nào được hành trì nhiều.
-- Trong sự
hoan hỷ chấp nhận pháp, này Bharadvaja, tìm hiểu ý nghĩa được
hành trì nhiều. Nếu không tìm hiểu ý nghĩa thì không hoan
hỷ chấp nhận pháp. Và vì có tìm hiểu ý nghĩa nên có sự
chấp nhận pháp; do vậy, trong sự hoan hỷ chấp nhận pháp,
tìm hiểu ý nghĩa được hành trì nhiều.
-- Nhưng trong
sự tìm hiểu ý nghĩa, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được
hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự tìm
hiểu ý nghĩa, pháp nào được hành trì nhiều.
-- Trong sự
tìm hiểu ý nghĩa, này Bharadvaja, thọ trì pháp được hành
trì nhiều. Nếu không có thọ trì pháp thì không tìm hiểu
ý nghĩa. Và vì có thọ trì pháp, nên có tìm hiểu ý nghĩa;
do vậy, trong sự tìm hiểu ý nghĩa, thọ trì pháp được hành
trì nhiều.
-- Trong sự
thọ trì pháp, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì
nhiều? Trong sự thọ trì pháp, chúng con hỏi Tôn giả Gotama,
pháp nào được hành trì nhiều.
-- Trong sự
thọ trì pháp, này Bharadvaja, nghe pháp được hành trì nhiều.
Nếu không nghe pháp thì không có thọ trì pháp. Và do có nghe
pháp nên có thọ trì pháp; do vậy, trong sự thọ trì pháp,
nghe pháp được hành trì nhiều.
-- Trong sự
nghe pháp, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều?
Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự nghe pháp, pháp nào được
hành trì nhiều.
-- Trong sự
nghe pháp, này Bharadvaja, lóng tai được hành trì nhiều. Nếu
không có lóng tai thì không có nghe pháp. Và vì có lóng tai
nên có nghe pháp; do vậy, trong sự nghe pháp, lóng tai được
hành trì nhiều.
-- Trong sự
lóng tai, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì nhiều?
Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự lóng tai, pháp nào được
hành trì nhiều.
-- Trong sự
lóng tai, này Bharadvaja, thân cận giao thiệp được hành trì
nhiều. Nếu không có thân cận giao thiệp thì không có lóng
tai. Vì có thân cận giao thiệp nên có lóng tai; do vậy, trong
sự lóng tai, thân cận giao thiệp được hành trì nhiều.
-- Trong sự
thân cận giao thiệp, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được
hành trì nhiều? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự thân
cận giao thiệp, pháp nào được hành trì nhiều.
-- Trong sự
thân cận giao thiệp, này Bharadvaja, đi đến gần được hành
trì nhiều. Nếu không đi đến gần thì không có thân cận
giao thiệp. Và vì có đi đến gần nên có thân cận giao thiệp;
do vậy, trong sự thân cận giao thiệp, đi đến gần được
hành trì nhiều.
-- Trong sự
đi đến gần, thưa Tôn giả Gotama, pháp nào được hành trì
nhiều? Chúng con hỏi Tôn giả Gotama, trong sự đi đến gần,
pháp nào được hành trì nhiều.
-- Trong sự
đi đến gần, này Bharadvaja, lòng tin được hành trì nhiều.
Nếu lòng tin không sanh thì không đi đến gần. Và vì lòng
tin sanh, nên có đi đến gần; do vậy, trong sự đi đến gần,
lòng tin được hành trì nhiều.
[Trung
Bộ, 95]
*
... Sau khi
ngồi xuống một bên, các người Kàlàmà ở Kesaputta bạch
Thế Tôn:
- Có một
số Sa-môn, Bà-la-môn, bạch Thế Tôn, đi đến Kesaputta. Họ
làm sáng tỏ, làm chói sáng quan điểm của mình, nhưng họ
bài xích quan điểm người khác, khinh miệt, chê bai, xuyên
tạc. Bạch Thế Tôn, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn khác
cũng đi đến Kesaputta, họ làm sáng tỏ, làm chói sáng quan
điểm của mình, nhưng họ bài xích quan điểm người khác,
khinh miệt, chê bai, xuyên tạc. Ðối với họ, bạch Thế Tôn,
chúng con có những nghi ngờ phân vân: "Trong những Tôn giả
Sa-môn này, ai nói sự thật, ai nói láo?"
- Ðương
nhiên, này các Kàlàmà, các Ông có những nghi ngờ! Ðương
nhiên, này các Kàlàmà, các Ông có những phân vân! Trong những
trường hợp đáng nghi ngờ, các Ông đương nhiên khởi lên
phân vân.
Này các Kàlàmà,
chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết;
chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh
điển truyền tụng; chớ có tin vì lý luận suy diễn; chớ
có tin vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh giá hời
hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến;
chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin
vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.
Nhưng này
các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau: "Các pháp này
là bất thiện; Các pháp này là đáng chê; Các pháp này bị
các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực hiện
và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau", thời này Kàlàmà,
hãy từ bỏ chúng.
Các Ông nghĩ
thế nào, này Kàlàmà! Lòng tham khởi lên trong nội tâm người
nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc hay bất hạnh?
- Bất hạnh,
bạch Thế Tôn.
- Người
này có tham, này các Kàlàmà, bị tham chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ
người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy.
Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài
hay không?
- Thưa có,
bạch Thế Tôn.
- Các Ông
nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, lòng sân khi khởi lên trong
nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh
phúc hay bất hạnh?
- Bất hạnh,
bạch Thế Tôn.
- Người
này có sân, này các Kàlàmà, bị sân chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ
người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy.
Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài
hay không?
- Thưa có,
bạch Thế Tôn..
- Các Ông
nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, lòng si khi khởi lên trong nội
tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh phúc
hay bất hạnh?
- Bất hạnh,
bạch Thế Tôn.
- Người
này có si, này các Kàlàmà, bị si chinh phục, tâm bị xâm
chiếm, giết các sinh vật, lấy của không cho, đi đến vợ
người, nói láo, khích lệ người khác cũng làm như vậy.
Như vậy, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài
hay không?
- Thưa có,
bạch Thế Tôn.
- Các Ông
nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, các pháp này là thiện hay
bất thiện?
- Là bất
thiện, bạch Thế Tôn.
- Đáng chê
hay không đáng chê?
- Có tội,
bạch Thế Tôn.
- Bị người
có trí quở trách hay không bị người có trí quở trách?
- Bị người
có trí quở trách, bạch Thế Tôn.
- Nếu được
thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến bất hạnh đau
khổ không? Hay ở đây, là như thế nào?
- Ðược
thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa
đến bất hạnh, đau khổ, ở đây, đối với chúng con là
vậy.
- Như vậy,
này các Kàlàmà, điều Ta vừa nói với các Ông: "Chớ có
tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ
có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển
truyền tụng; chớ có tin vì lý luận suy diễn; chớ có tin
vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh giá hời hợt
những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến;
chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin
vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình."
Nhưng này
các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau: "Các pháp này
là bất thiện; Các pháp này là đáng chê; Các pháp này bị
các người có trí quở trách; Các pháp này nếu thực hiện
và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau", thời này Kàlàmà,
hãy từ bỏ chúng! Ðiều đã được nói lên như vậy, chính
do duyên như vậy được nói lên.
Này các Kàlàmà,
chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết;
chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh
điển truyền tụng; chớ có tin vì lý luận suy diễn; chớ
có tin vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh giá hời
hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến;
chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin
vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.
Nhưng này
các Kàlàmà, khi nào tự mình biết như sau: "Các pháp này là
thiện; Các pháp này là không đáng chê; Các pháp này không
bị các người có trí chỉ trích; Các pháp này nếu thực
hiện và chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc", thời này
Kàlàmà, hãy tự đạt đến và an trú.
Các Ông nghĩ
thế nào, này các Kàlàmà, không tham, khi khởi lên trong nội
tâm người nào, khởi lên như vậy, là đưa lại hạnh phúc
hay bất hạnh cho người ấy?
- Hạnh phúc,
bạch Thế Tôn.
- Người
này không tham, này các Kàlàmà, không bị tham chinh phục, tâm
không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của
không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ
người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có làm cho người
ấy hạnh phúc an lạc lâu dài hay không?
- Thưa có,
bạch Thế Tôn.
- Các Ông
nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không sân, khi khởi lên trong
nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh
phúc hay bất hạnh cho người ấy?
- Hạnh phúc,
bạch Thế Tôn.
- Người
này không sân, này các Kàlàmà, không bị sân chinh phục, tâm
không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của
không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ
người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có đem lại đem lại
hạnh phúc, an lạc lâu dài cho người ấy hay không?
- Thưa có,
bạch Thế Tôn.
- Các Ông
nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, không si khi khởi lên trong
nội tâm người nào, khởi lên như vậy là đưa lại hạnh
phúc hay bất hạnh cho người ấy?
- Hạnh phúc,
bạch Thế Tôn.
- Người
này không si, này các Kàlàmà, không bị si chinh phục, tâm
không bị xâm chiếm, không giết các sinh vật, không lấy của
không cho, không đi đến vợ người, không nói láo, khích lệ
người khác cũng làm như vậy. Như vậy, có đem lại hạnh
phúc an lạc lâu dài cho người ấy hay không?
- Thưa có,
bạch Thế Tôn.
- Các Ông
nghĩ thế nào, này các Kàlàmà, các pháp này là thiện hay
bất thiện?
- Là thiện,
bạch Thế Tôn.
- Các pháp
này là đáng chê hay không đáng chê?
- Không đáng
chê, bạch Thế Tôn.
- Bị người
có trí quở trách hay được người có trí tán thán?
- Ðược
người trí tán thán, bạch Thế Tôn.
- Nếu được
thực hiện, được chấp nhận, có đưa đến hạnh phúc an
lạc không, hay ở đây, là như thế nào?
- Ðược
thực hiện, được chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng đưa
đến hạnh phúc, an lạc. Ở đây, đối với chúng con là vậy.
- Này các
Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền
thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được
kinh điển truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu
hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin
vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù
hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có
uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.
Nhưng này
các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau: "Các pháp này
là thiện; Các pháp này là không có tội; Các pháp này được
người có trí tán thán; Các pháp này nếu được thực hiện,
được chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc", thời này
Kàlàmà, hãy chứng đạt và an trú. Ðiều đã được nói
lên như vậy, chính do duyên như vậy được nói lên.
[Tăng
Chi, 3.65]
*
Đức Phật
giảng cho Tỳ-khưu ni Mahàpajàpatì Gotamì:
-- Này Gotamì,
những pháp nào bà biết: "Những pháp này đưa đến tham dục,
không phải ly tham; đưa đến hệ phước, không đưa đến
ly hệ phước; đưa đến tích tập, không đưa đến không
tích tập; đưa đến dục lớn, không đưa đến ít dục; đưa
đến không biết đủ, không đưa đến biết đủ; đưa đến
tụ hội, không đưa đến nhàn tịnh; đưa đến biếng nhác,
không đưa đến tinh tấn; đưa đến khó nuôi dưỡng, không
đưa đến dễ nuôi dưỡng". Này Gotamì, hãy thọ trì nhứt
hướng rằng: "Ðó là không phải Pháp, đó là không phải
Luật, đó là không phải lời dạy của bậc Ðạo sư".
Và này Gotamì,
những pháp nào bà biết: "Những pháp đưa đến ly tham, không
đưa đến tham dục; đưa đến ly hệ phước, không đưa đến
hệ phước; đưa đến không tích tập, không đưa đến tích
tập; đưa đến ít dục, không đưa đến dục lớn; đưa đến
biết đủ, không đưa đến không biết đủ; đưa đến nhàn
tịnh, không đưa đến tụ hội; đưa đến tinh tấn, không
đưa đến biếng nhác; đưa đến dễ nuôi dưỡng, không đưa
đến khó nuôi dưỡng". Này Gotamì, hãy thọ trì nhứt hướng
rằng: "Ðó là Pháp, đó là Luật, đó là lời dạy của bậc
Ðạo sư".
[Tăng
Chi, 8.53]
*
- Này các
Tỳ-khưu, nghe pháp có năm lợi ích này. Thế nào là năm?
1) Ðược
nghe điều chưa nghe,
2) Làm cho
trong sạch điều được nghe,
3) Đoạn
trừ nghi,
4) Làm cho
tri kiến chánh trực,
5) Làm cho
tâm tịnh tín.
Này các Tỳ-khưu,
nghe pháp có năm lợi ích này.
[Tăng
Chi, 5.202]
*
Thành tựu
sáu pháp, này các Tỳ-khưu, nếu có nghe diệu pháp, có thể
bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào
là sáu? Không thành tựu nghiệp chướng, không thành tựu phiền
não chướng, không thành tựu dị thục chướng, có lòng tin,
có ước muốn, và có trí tuệ.
Thành tựu
sáu pháp này, này các Tỳ-khưu, nếu có nghe diệu pháp, có
thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.
[Tăng
Chi, 6.86]
*
Thành tựu
sáu pháp, này các Tỳ-khưu, nếu được nghe diệu pháp, có
thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế
nào là sáu? Khi Pháp và Luật được Như Lai thuyết giảng,
có ưa nghe, có lóng tai, có an trú tâm liễu giải, nắm giữ
điều lợi ích, bỏ qua điều không lợi ích, thành tựu tùy
thuận nhẫn nhục.
Thành tựu
sáu pháp này, này các Tỳ-khưu, nếu được nghe diệu pháp,
có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.
[Tăng
Chi 6.88]
*
Thế
nào là giới đức?
Thế nào
là chánh hạnh?
Cần phải
làm tăng trưởng.
Thân khẩu
ý nghiệp nào?
Ðể người
chánh nhập cuộc,
Ðạt
được đích tối thượng?
Kính lễ
bậc trưởng thượng [1],
Không
ganh tị một ai,
Cần phải
biết thời gian,
Ðể yết
kiến Ðạo sư [2],
Biết
được đúng thời khắc,
Thuyết
pháp bắt đầu giảng,
Hãy cẩn
thận lắng nghe,
Lời giảng
được khéo nói.
Hãy đi
đến đúng thời,
Trước
mặt vị Ðạo Sư,
Từ bỏ
tánh cứng đầu,
Với thái
độ khiêm tốn,
Hãy nhớ
nghĩ ức niệm,
Hãy chơn
chánh hành trì,
Mục đích
và Chánh pháp,
Chế ngự
và Phạm hạnh
Vui thích
trong Chánh Pháp
Hoan hỷ
trong Chánh Pháp,
An trú
trên Chánh pháp,
Biết
phân tích Chánh pháp,
Sở hành
không làm gì,
Có lời
uế nhiễm pháp [3],
Chịu
hướng dẫn lãnh đạo,
Lời trung
thực khéo nói.
Bỏ cười
đùa, lắm miệng,
Khóc than
và sân hận,
Làm những
điều man trá,
Lừa đảo,
tham, kiêu mạn,
Bồng
bột và bạo ngôn,
Cứng
rắn và đam mê,
Sống
từ bỏ tất cả,
Ly say
đắm, kiên trì.
Thức tri
được cốt lõi,
Những
lời đươc khéo nói,
Ðươc
nghe khéo thức tri,
Cốt lõi
của thiền định,
Với con
người hấp tấp,
Lại phóng
dật buông lung,
Trí tuệ,
đều được nghe,
Không
có thể tăng trưởng.
An vui thích
Chánh pháp,
Do bậc
Thánh tuyên thuyết,
Họ trở
thành vô thượng,
Về lời
ý và nghiệp,
Họ an
tịnh nhu hòa,
An trú
trên thiền định,
Chứng
đạt được cốt lõi [4],
Pháp được
nghe, trí tuệ.
[Kinh
Tập, 2.9]
Ghi chú:
[1] Theo Chú
giải, bậc Trưởng thượng là người có trí tuệ hơn ta,
có nhiều kinh nghiệm hành thiền và các phương diện tu tập
khác, và đã tu tập nhiều năm hơn ta.
[2] Chú giải
ghi rằng thời điểm để đến gặp vị đạo sư là khi chúng
ta đã chế ngự được tham, sân, si, và khi chúng ta không thể
tự mình tìm lời giải đáp. Đây cũng là lời khuyên của
ngài Trưởng lão Đại Ca-chiên-diên (Maha Kaccana), ghi
trong Tăng Chi 6.26, rằng thời điểm thích hợp để đến tham
vấn vị đạo sư là khi chúng ta cần hướng dẫn để chế
ngự một trong năm triền cái, hay khi ta không có được một
đề mục quán niệm thích nghi để đoạn trừ các lậu hoặc
trong tâm thức.
[3] Chú giải
cho rằng "lời uế nhiễm pháp" là xem như tương đương với
"thú thoại" (animal talk - nói chuyện hạ cấp, nhảm nhí).
Có thể xem thêm các giải thích trong Luật tạng, giới Ưng
đối trị (Pacittiya).
[4] Cốt lõi
của học tập và trí tuệ là Giải thoát.
-ooOoo-
3. Như
lý tác ý
-- Này các
Tỳ-khưu, với vị Tỳ-khưu hữu học, tâm chưa thành tựu,
đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi các triền ách,
sau khi làm thành nội chi phần, Ta không thấy một chi phần
nào khác, được nhiều lợi ích như vậy, này các Tỳ-khưu,
tức là Như lý tác ý. Này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu như
lý tác ý, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện.
Vị Tỳ-khưu
hữu học,
Hành như
lý tác ý,
Không
một pháp nào khác,
Nhiều
lợi ích như vậy.
Ðể đạt
cho bằng được,
Lợi ích
thật tối thượng.
Vị Tỳ-khưu
như lý,
Tinh tấn
và tinh cần,
Có thể
thành đạt được,
Sư đoạn
diệt khổ đau.
[Phật
thuyết như vậy, 16]
*
Này các Tỳ-khưu,
ở đây có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc
Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập
pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhơn,
không thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, không tu tập pháp
các bậc Chơn nhơn, không tuệ tri các pháp cần phải tác ý,
không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý; vị này vì
không tuệ tri các pháp cần phải tác ý, vì không tuệ tri
các pháp không cần phải tác ý nên tác ý các pháp không cần
phải tác ý và không tác ý các pháp cần phải tác ý.
Này các Tỳ-khưu,
và thế nào là các pháp không cần phải tác ý mà vị ấy
tác ý? Này các Tỳ-khưu, nghĩa là các pháp do vị ấy tác
ý mà dục lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu đã
sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh được sanh
khởi, hay hữu lậu đã sanh được tăng trưởng, hay vô minh
lậu chưa sanh được sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được
tăng trưởng. Những pháp ấy là những pháp không cần phải
tác ý mà vị ấy tác ý.
Này các Tỳ-khưu,
và thế nào là các pháp cần phải tác ý mà vị ấy không
tác ý? Này các Tỳ-khưu, nghĩa là các pháp do vị ấy tác
ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đã
sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanh khởi,
hay hữu lậu đã sanh được trừ diệt, hay vô minh lậu chưa
sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừ diệt.
Những pháp ấy là những pháp cần phải tác ý mà các vị
ấy không tác ý. Do vị ấy tác ý các pháp không nên tác ý,
do vị ấy không tác ý các pháp cần phải tác ý, nên các
lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã
sanh được tăng trưởng.
Vị ấy không
như lý tác ý như sau: "Ta có mặt trong thời quá khứ, hay ta
không có mặt trong thời quá khứ? Ta có mặt trong thời quá
khứ như thế nào? Ta có mặt trong thời quá khứ hình vóc
như thế nào? Trước kia ta là gì và ta đã có mặt như thế
nào trong thời quá khứ? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay
ta sẽ không có mặt trong thời vị lai? Ta sẽ có mặt trong
thời vị lai như thế nào? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai,
hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta sẽ có mặt
như thế nào trong thời vị lai?" Hay nay vị ấy có nghi ngờ
về mình trong thời hiện tại: "Ta có mặt hay ta không có mặt?
Ta có mặt như thế nào? Ta có mặt hình vóc như thế nào?
Chúng sanh này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi đâu?".
Với người
không như lý tác ý như vậy, một trong sáu tà kiến này khởi
lên: "Ta có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy
như thật, như chơn; "Ta không có tự ngã", tà kiến này khởi
lên với người ấy như thật như chơn; "Do tự mình, ta tưởng
tri ta có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy
như thật, như chơn; "Do tự mình, ta tưởng tri ta không có
tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật,
như chơn. "Không do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã", tà
kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn; hay
tà kiến này khởi lên với người ấy: "Chính tự ngã của
ta nói, cảm giác, hưởng thọ quả báo các nghiệp thiện ác
đã làm chỗ này, chỗ kia, chính tự ngã ấy của ta là thường
trú, thường hằng, hằng tồn, không chuyển biến, và sẽ
vĩnh viễn tồn tại". Này các Tỳ-khưu, như vậy gọi là tà
kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh
chấp, kiến kiết phược. Này các Tỳ-khưu, trói buộc bởi
kiến kiết sử, kẻ phàm phu ít nghe không được giải thoát
khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói kẻ ấy
không thoát khỏi khổ đau.
Này các Tỳ-khưu,
và vị Thánh đệ tử nghe nhiều, được thấy các bậc Thánh,
thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh;
được thấy các bậc Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc
Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, tuệ tri các pháp
cần phải tác ý, tuệ tri các pháp không cần phải tác ý.
Vị này, nhờ tuệ tri các pháp cần phải tác ý, nhờ tuệ
tri các pháp không cần phải tác ý, nên không tác ý các pháp
không cần phải tác ý và tác ý các pháp cần phải tác ý.
Và này các
Tỳ-khưu, thế nào là các pháp không cần phải tác ý và vị
này không tác ý? Này các Tỳ-khưu, những pháp nào do vị ấy
tác ý mà dục lậu chưa sanh được sanh khởi, hay dục lậu
đã sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh được
sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được tăng trưởng, hay vô
minh lậu chưa sanh được sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh
được tăng trưởng. Ðó là những pháp không nên tác ý và
vị ấy không tác ý.
Và này các
Tỳ-khưu, thế nào là các pháp cần phải tác ý và vị ấy
tác ý? Này các Tỳ-khưu, những pháp nào do vị ấy tác ý
mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đã sanh
được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanh khởi, hay
hữu lậu đã sanh được trừ diệt, hay vô minh lậu chưa sanh
không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừ diệt,
đó là những pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý. Nhờ
vị ấy không tác ý các pháp không cần phải tác ý, tác ý
các pháp cần phải tác ý nên các lậu hoặc chưa sanh không
sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.
Vị ấy như
lý tác ý: "Ðây là khổ", như lý tác ý: "Ðây là khổ tập",
như lý tác ý: "Ðây là khổ diệt", như lý tác ý: "Ðây là
con đường đưa đến khổ diệt". Nhờ vị ấy tác ý như
vậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giới
cấm thủ. Này các Tỳ-khưu, các pháp ấy được gọi là pháp
do tri kiến mà các lậu hoặc được đoạn trừ.
[Trung
Bộ, 2]
*
Trưởng lão
Kotthika hỏi Trưởng lão Sàriputta (Xá-lợi-phất):
-- Thưa Hiền
giả Sàriputta, những pháp gì Tỳ-khưu giữ giới cần phải
như lý tác ý?
-- Này Hiền
giả Kotthika, Tỳ-khưu giữ giới cần phải như lý tác ý năm
thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên,
bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô
ngã.
Thế nào
là năm? Tức là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ
uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này Hiền giả Kotthika,
vị Tỳ-khưu giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn
là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh,
ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
Này Hiền
giả, sự kiện này xảy ra: Tỳ-khưu giữ giới do như tác
ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt,
mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng
không, vô ngã, có thể chứng được quả Dự lưu.
-- Với Tỳ-khưu
đã chứng quả Dự lưu, này Hiền giả Sàriputta, những pháp
gì cần phải như lý tác ý?
-- Với Tỳ-khưu
đã chứng quả Dự lưu, này Hiền giả Kotthika, cần phải
như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh
hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ,
hủy hoại, rỗng không, vô ngã. Sự kiện này có thể xảy
ra, này Hiền giả, Tỳ-khưu Dự lưu, do như lý tác ý năm thủ
uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên,
bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô
ngã, có thể chứng được quả Nhứt lai.
-- Nhưng Tỳ-khưu
Nhứt lai, này Hiền giả Sàriputta, phải như lý tác ý các
pháp gì?
-- Tỳ-khưu
Nhứt lai, này Hiền giả Kotthika, phải như lý tác ý năm thủ
uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên,
bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô
ngã. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền giả, Tỳ-khưu
Nhứt lai, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường,
khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người
lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã, có thể chứng được
quả Bất lai.
-- Nhưng Tỳ-khưu
Bất lai, này Hiền giả Sàriputta, cần phải như lý tác ý
những pháp gì?
-- Tỳ-khưu
Bất lai, này Hiền giả Kotthika, cần phải như lý tác ý năm
thủ uẩn này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi
tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không,
vô ngã. Sự kiện này có thể xảy ra, này Hiền giả, Tỳ-khưu
Bất lai, do như lý tác ý năm thủ uẩn này là vô thường,
khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người
lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã, có thể chứng được
quả A-la-hán.
-- Nhưng vị
A-la-hán, này Hiền giả Sàriputta, cần phải như lý tác ý
các pháp gì?
-- Vị A-la-hán,
này Hiền giả Kotthika, cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn
này là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất
hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.
Với vị
A-la-hán, này Hiền giả, không có gì phải làm nữa, hay không
có phải thêm gì nữa trong công việc làm. Nhưng sự tu tập,
làm cho sung mãn những pháp này sẽ đưa đến hiện tại lạc
trú và chánh niệm tỉnh giác.
[Tương
Ưng, 22.122]
-ooOoo-
4. Thực
hành pháp và tùy pháp
-- Và này
các Tỳ-khưu, Ta nói minh giải thoát có thức ăn, không phải
không có thức ăn. Và cái gì là thức ăn cho minh giải thoát?
Bảy giác chi, cần phải trả lời như vậy. Này các Tỳ-khưu,
Ta nói rằng Bảy giác chi có thức ăn, không phải không có
thức ăn. Và cái gì là thức ăn cho Bảy giác chi? Bốn niệm
xứ, cần phải trả lời như vậy. Này các Tỳ-khưu, Ta nói
rằng Bốn niệm xứ có thức ăn, không phải không có thức
ăn. Cái gì là thức ăn cho Bốn niệm xứ ? Ba thiện hành,
cần phải trả lời như vậy. Này các Tỳ-khưu, Ta nói như
rằng ba thiện hành có thức ăn, không phải không có thức
ăn. Cái gì là thức ăn cho ba thiện hành? Các căn được chế
ngự, cần phải trả lời như vậy. Này các Tỳ-khưu, Ta nói
rằng các căn được chế ngự có thức ăn, không phải không
có thức ăn. Cái gì là thức ăn cho các căn được chế ngự?
Chánh niệm tỉnh giác, cần phải trả lời như vậy. Này các
Tỳ-khưu, chánh niệm tỉnh giác có thức ăn, không phải không
có thức ăn. Cái gì là thức ăn cho chánh niệm tỉnh giác?
Như lý tác ý, cần phải trả lời như vậy. Này các Tỳ-khưu,
Ta nói rằng, như lý tác ý có thức ăn, không phải không có
thức ăn. Cái gì là thức ăn cho như ý tác ý? Lòng tin, cần
phải trả lời như vậy. Này các Tỳ-khưu, Ta nói lòng tin
có thức ăn, không phải không có thức ăn. Cái gì là thức
ăn cho lòng tin? Nghe diệu pháp, cần phải trả lời như vậy.
Này các Tỳ-khưu, Ta nói rằng nghe diệu pháp có thức ăn,
không phải không có thức ăn. Cái gì là thức ăn cho nghe diệu
pháp? Giao thiệp với bậc Chân nhân, cần phải trả lời như
vậy.
Như vậy,
này các Tỳ-khưu, giao thiệp với bậc Chân nhân được viên
mãn thời làm viên mãn nghe diệu pháp; nghe diệu pháp được
viên mãn thời làm viên mãn lòng tin; lòng tin được viên mãn,
thời làm viên mãn như lý tác ý; như lý tác ý được viên
mãn, thời làm viên mãn chánh niệm tỉnh giác; chánh niệm
tỉnh giác được viên mãn, thời làm viên mãn các căn được
chế ngự; các căn được chế ngự được viên mãn, thời
làm viên mãn ba thiện hành; ba thiện hành được viên mãn,
thời làm viên mãn Bốn niệm xứ; Bốn niệm xứ được viên
mãn, thời làm viên mãn Bảy giác chi; Bảy giác chi được
viên mãn, thời làm viên mãn minh giải thoát.
Như vậy,
đây là thức ăn của minh giải thoát, và như vậy là sự
viên mãn.
Ví như, này
các Tỳ-khưu, trên một ngọn núi có mưa rơi nặng hột, nước
mưa chảy xuống theo sườn dốc, làm đầy các hang núi, các
kẽ núi, các thung lũng; sau khi làm đầy đầy các hang núi,
các kẽ núi, các thung lũng, chúng làm đầy các hồ nhỏ. Sau
khi làm đầy các hồ nhỏ, chúng làm đầy các hồ lớn. Sau
khi làm đầy các hồ lớn, chúng làm đầy các sông nhỏ. Sau
khi làm đầy các sông nhỏ, chúng làm đầy các sông lớn.
Sau khi làm đầy các sông lớn, chúng làm đầy biển cả. Như
vậy, là thức ăn của biển lớn, của đại dương, và như
vậy là sự viên mãn.
Cũng vậy,
này các Tỳ-khưu, giao thiệp với bậc Chân nhân được viên
mãn, thời làm viên mãn nghe diệu pháp; nghe diệu pháp được
viên mãn, thời làm viên mãn lòng tin; lòng tin được viên
mãn thời làm viên mãn như lý tác ý; như lý tác ý được
viên mãn, thời làm viên mãn chánh niệm tỉnh giác; chánh niệm
tỉnh giác được viên mãn, thời làm viên mãn các căn được
chế ngự; các căn chế ngự được viên mãn, thời làm viên
mãn ba thiện hành; ba thiện hành được viên mãn, thời làm
viên mãn Bốn niệm xứ; Bốn niệm xứ được viên mãn, thời
làm viên mãn Bảy giác chi; Bảy giác chi được viên mãn, thời
làm viên mãn minh giải thoát.
Như vậy
là thức ăn của minh giải thoát, và như vậy là viên mãn.
[Tăng
Chi, 10.61]
*
Chánh niệm
và Tỉnh giác:
-- Này các
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu hãy trú chánh niệm, tỉnh giác. Ðây là
lời giáo giới của Ta cho các Ông.
Và này các
Tỳ-khưu, thế nào là Tỳ-khưu chánh niệm? Ở đây, này các
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tỳ-khưu trú,
quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Tỳ-khưu trú, quán tâm
trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham
ưu ở đời. Tỳ-khưu trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Như vậy, này các Tỳ-khưu, là Tỳ-khưu chánh niệm.
Và này các
Tỳ-khưu, như thế nào là Tỳ-khưu tỉnh giác? Ở đây, này
các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu biết rõ ràng các cảm thọ khởi lên,
biết rõ ràng các cảm thọ an trú, biết rõ ràng các cảm
thọ đi đến tiêu mất; biết rõ ràng các tưởng khởi lên,
biết rõ ràng các tưởng an trú, biết rõ ràng các tưởng
đi đến tiêu mất. Như vậy, này các Tỳ-khưu, là Tỳ-khưu
tỉnh giác.
Này các Tỳ-khưu,
Tỳ-khưu hãy trú chánh niệm, tỉnh giác. Ðây là lời giáo
giới của Ta cho các Ông.
[Tương
Ưng, 47.35]
*
Hộ trì
các căn
Thế nào
là vị Tỳ-khưu hộ trì các căn? Khi mắt thấy sắc, vị Tỳ-khưu
không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng.
Những nguyên nhân gì, khiến nhãn căn không được chế ngự,
khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, Tỳ-khưu
tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành
sự hộ trì nhãn căn.
Khi tai nghe
tiếng, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ
tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến nhĩ căn không được
chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi
lên, Tỳ-khưu chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhĩ căn, thực
hành sự hộ trì nhĩ căn.
Khi mũi ngửi
hương, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ
tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến tỷ căn không được
chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi
lên, Tỳ-khưu chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì tỷ căn, thực
hành sự hộ trì tỷ căn.
Khi lưỡi
nếm vị, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ
tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến thiệt căn không
được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện
pháp khởi lên, Tỳ-khưu chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì
thiệt căn, thực hành sự hộ trì thiệt căn.
Khi thân cảm
xúc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng
riêng. Những nguyên nhân gì khiến thân căn không được chế
ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên,
Tỳ-khưu chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì thân căn, thực
hành sự hộ trì thân căn.
Khi ý nhận
thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không
nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn
không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất
thiện pháp khởi lên, Tỳ-khưu chế ngự nguyên nhân ấy, hộ
trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn.
Vị ấy,
nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy, nên hưởng lạc thọ
nội tâm, không vẩn đục. Như vậy, vị Tỳ-khưu hộ trì
các căn.
[Trường
Bộ, 2]
*
Ba Thiện
hành
Đức Phật
giảng cho cư sĩ Cunda (Thuần-đà), con người thợ rèn:
-- Này Cunda,
tịnh hạnh về thân có ba, tịnh hạnh về lời có bốn, tịnh
hạnh về ý có ba.
Này Cunda,
thế nào là tịnh hạnh về thân có ba? Ở đây, này Cunda,
có người đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, bỏ trượng,
bỏ kiếm; biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến
hạnh phúc tất cả chúng sanh, và loài hữu tình. Ðoạn tận
lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho; bất cứ vật
gì của người khác, hoặc tại thôn làng, hoặc tại rừng
núi, không có cho người ấy, người ấy không lấy với ý
niệm trộm cắp. Ðoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ
tà hạnh trong các dục, không hành tà hạnh với hạng nữ
nhân có mẹ che chở, có cha che chở, có anh che chở, có chị
che chở, có bà con che chở, có pháp che chở, đã có chồng,
được hình phạt gậy gộc bảo vệ, cho đến những nữ nhân
được trang sức bằng vòng hoa (đám cưới). Như vậy, này
Cunda, tịnh hạnh về thân có ba.
Và này Cunda,
thế nào là tịnh hạnh về lời có bốn? Ở đây, này Cunda
có người đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, đến chỗ
tập hội hay đến chỗ chúng tội, hay đến giữa các thân
tộc, hay đến giữa các tổ hợp, hay đến giữa các vương
tộc, khi bị dẫn xuất làm chứng và được hỏi: "Này người
kia, hãy nói những gì người biết". Nếu không biết, người
ấy nói: "Tôi không biết". Nếu biết, người ấy nói: "Tôi
biết". Hay nếu không thấy, người ấy nói: "Tôi không thấy".
Nếu thấy, người ấy nói: "Tôi thấy". Như vậy lời nói
của người ấy không trở thành cố ý vọng ngữ, hoặc nguyên
nhân vì mình, hoặc nguyên nhân vì người, hoặc nguyên nhân
vì một vài quyền lợi gì. Ðoạn tận nói hai lưỡi, từ
bỏ nói hai lưỡi; nghe điều gì ở chỗ này, không đi đến
chỗ kia nói, để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều
gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này, để sanh
chia rẽ ở những người kia. Như vậy, người ấy sống hòa
hợp những kẻ ly gián, tăng trưởng những kẻ hòa hợp, thích
thú hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Ðoạn tận
lời nói độc ác, từ bỏ lời nói độc ác; người ấy nói
những lời nói nhu hòa, êm tai, dễ thương, thông cảm đến
tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui ý nhiều người.
Ðoạn tận lời nói phù phiếm; người ấy nói đúng thời,
nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói Pháp, nói Luật, nói những
lời đáng được gìn giữ. Vì nói hợp thời, nên lời nói
thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, lợi ích. Như vậy, này
Cunda, tịnh hạnh về lời nói có bốn.
Và này Cunda,
thế nào là tịnh hạnh về ý có ba? Ở đây, này Cunda, có
người không tham ái, không tham lam tài vật kẻ khác, không
nghĩ rằng: "Ôi! Mong rằng mọi tài vật của người khác trở
thành của mình". Không có sân tâm, khởi lên hại ý, hại
niệm, nhưng nghĩ rằng: "Mong rằng những loài hữu tình này
sống lo tự ngã, không thù hận, không sân hận, không nhiễm
loạn, được an lạc". Có chánh kiến, không có tư tưởng
điên đảo, nghĩ rằng: "Có bố thí, có cúng thí, có tế lễ,
các hành vi thiện ác, có kết quả dị thục, có đời này,
có đời sau, có mẹ, có cha, có các loại hóa sanh, trong đời
có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành
tựu, sau khi tự tri, tự chứng, lại tuyên bố cho đời này
và cho đời sau". Như vậy, này Cunda, tịnh hạnh về ý có
ba.
Này Cunda,
đó là mười thiện nghiệp đạo.
[Tăng
Chi, 10.176]
*
Bốn Niệm
xứ
Và như thế
nào, này các Tỳ-khưu, là nhập tức xuất tức niệm được
tu tập? Như thế nào là làm cho sung mãn, khiến bốn niệm
xứ được viên mãn?
Khi nào, này
các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu thở vô dài, vị ấy biết: "Tôi thở
vô dài". Hay khi thở ra dài, vị ấy biết "Tôi thở ra dài".
Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở vô ngắn". Hay khi
thở ra ngắn, vị ấy biết: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác
cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả
toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ
thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thân trên thân, này
các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỳ-khưu, đối
với các thân, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra.
Do vậy, này các Tỳ-khưu, trong khi tùy quán thân trên thân,
vị Tỳ-khưu trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế
ngự tham ưu ở đời.
Khi nào, này
các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu nghĩ: "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra",
vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy
tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm
giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm
hành tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành tôi
sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thọ trên các
thọ, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu trú, nhiệt tâm, tỉnh giác,
chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỳ-khưu,
đối với các cảm thọ, Ta nói đây là một, tức là thở
vô thở ra. Do vậy này các Tỳ-khưu, trong khi tùy quán thọ
trên các cảm thọ, Tỳ-khưu trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm để chế ngự tham ưu ở đời.
Khi nào, này
các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu nghĩ: "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở vô",
vị ấy tập. "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.
"Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tu tập. "Với
tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm Thiền
định, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định,
tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ
thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán tâm trên tâm, này các Tỳ-khưu,
Tỳ-khưu trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế
ngự tham ưu ở đời. Này các Tỳ-khưu, sự tu tập nhập tức
xuất tức niệm không thể đến với kẻ thất niệm, không
có tỉnh giác. Do vậy, này các Tỳ-khưu, trong khi tùy quán
tâm trên tâm, Tỳ-khưu trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm
để chế ngự tham ưu ở đời.
Khi nào này
các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu nghĩ: "Quán vô thường, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị
ấy tập. "Quán ly tham... quán đoạn diệt... quán từ bỏ,
tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán trên các pháp, này các
Tỳ-khưu, Tỳ-khưu an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm
để chế ngự tham ưu ở đời. Vị ấy, do đoạn trừ tham
ưu, sau khi thấy với trí tuệ, khéo nhìn (sự vật) với niệm
xả ly. Do vậy, này các Tỳ-khưu, trong khi tùy quán pháp trên
các pháp, Tỳ-khưu trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm
để chế ngự tham ưu ở đời.
Nhập tức
xuất tức niệm, này các Tỳ-khưu, được tu tập như vậy,
được làm cho sung mãn như vậy, khiến cho bốn niệm xứ được
viên mãn.
[Trung
Bộ, 118]
*
Bảy Giác
chi
Và bốn niệm
xứ, này các Tỳ-khưu, được tu tập như thế nào, được
làm sung mãn như thế nào, khiến cho bảy giác chi được viên
mãn?
Này các Tỳ-khưu,
trong khi tùy quán thân trên thân, Tỳ-khưu trú, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời, trong
khi ấy, niệm không hôn mê của vị ấy được an trú. Trong
khi niệm không hôn mê của vị ấy cũng được an trú, này
các Tỳ-khưu, trong khi ấy niệm giác chi được bắt đầu
khởi lên với Tỳ-khưu. Trong khi ấy, Tỳ-khưu tu tập niệm
giác chi. Trong khi ấy, niệm giác chi được Tỳ-khưu tu tập
đi đến viên mãn.
Vị ấy an
trú với chánh niệm như vậy, suy tư, tư duy, thẩm sát pháp
ấy với trí tuệ. Này các Tỳ-khưu, trong khi trú với chánh
niệm như vậy, Tỳ-khưu với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm
sát pháp ấy, trong khi ấy trạch pháp giác chi được bắt
đầu khởi lên với Tỳ-khưu. Trong khi ấy, Tỳ-khưu tu tập
trạch pháp giác chi. Trong khi ấy, trạch pháp giác chi được
Tỳ-khưu tu tập đi đến viên mãn.
Trong khi Tỳ-khưu
với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, sự tinh tấn
không thụ động bắt đầu khởi lên với vị Tỳ-khưu. Này
các Tỳ-khưu, trong khi Tỳ-khưu với trí tuệ suy tư, tư duy,
thẩm sát pháp ấy, trong khi ấy sự tinh tấn không thụ động
bắt đầu khởi lên với Tỳ-khưu ấy. Trong khi ấy tinh tấn
giác chi được bắt đầu khởi lên nơi Tỳ-khưu. Trong khi
ấy, Tỳ-khưu tu tập tinh tấn giác chi. Trong khi ấy, tinh tấn
giác chi được Tỳ-khưu tu tập đi đến viên mãn.
Hỷ không
liên hệ đến vật chất được khởi lên nơi vị tinh tấn
tinh cần. Này các Tỳ-khưu, trong khi hỷ không liên hệ đến
vật chất khởi lên nơi Tỳ-khưu tinh tấn tinh cần, trong khi
ấy, hỷ giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ-khưu. Trong khi
ấy, hỷ giác chi được vị Tỳ-khưu tu tập. Trong khi ấy
hỷ giác chi được Tỳ-khưu tu tập đi đến viên mãn.
Thân của
vị ấy được tâm hoan hỷ trở thành khinh an, tâm cũng được
khinh an. Này các Tỳ-khưu, trong khi Tỳ-khưu với ý hoan hỷ
được thân khinh an, được tâm cũng khinh an, trong khi ấy,
khinh an giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ-khưu. Trong khi
ấy, khinh an giác chi được Tỳ-khưu tu tập. Trong khi ấy,
khinh an giác chi được Tỳ-khưu làm cho đi đến sung mãn.
Một vị
có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh. Này
các Tỳ-khưu, trong khi Tỳ-khưu có thân khinh an, an lạc, tâm
vị ấy được định tĩnh, trong khi ấy, định giác chi bắt
đầu khởi lên nơi Tỳ-khưu. Trong khi ấy, định giác chi được
Tỳ-khưu tu tập. Trong khi ấy định giác chi được Tỳ-khưu
làm cho đi đến sung mãn.
Vị ấy với
tâm định tĩnh như vậy, khéo nhìn (sự vật) với ý niệm
xả ly. Này các Tỳ-khưu, trong khi Tỳ-khưu với tâm định
tĩnh như vậy, khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả ly, trong
khi ấy, xả giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ-khưu. Trong
khi ấy, xả giác chi được Tỳ-khưu tu tập. Trong khi ấy xả
giác chi, được Tỳ-khưu làm cho đến sung mãn.
Này các Tỳ-khưu,
trong khi quán thọ trên các cảm thọ, ...
Này các Tỳ-khưu,
trong khi quán tâm trên tâm, ...
Này các Tỳ-khưu,
trong khi quán pháp trên các pháp, Tỳ-khưu an trú, nhiệt tâm,
tỉnh giác, chánh niệm với mục đích điều phục tham ưu
ở đời, trong khi ấy niệm của vị ấy được an trú, không
có hôn mê. Này các Tỳ-khưu, trong khi niệm của Tỳ-khưu được
an trú, không có hôn mê, niệm giác chi, trong khi ấy, được
bắt đầu khởi lên nơi Tỳ-khưu. Niệm giác chi trong khi ấy
được Tỳ-khưu tu tập. Niệm giác chi trong khi ấy, được
Tỳ-khưu làm cho đi đến sung mãn. Vị ấy an trú với chánh
niệm như vậy, suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy với trí
tuệ. Này các Tỳ-khưu, trong khi an trú với chánh niệm như
vậy, vị ấy suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy với trí tuệ.
Trạch pháp giác chi trong khi ấy được bắt đầu khởi lên
nơi Tỳ-khưu. Trạch pháp giác chi trong khi ấy được Tỳ-khưu
tu tập. Trạch pháp giác chi trong khi ấy đi đến sung mãn,
tinh tấn không thụ động bắt đầu khởi lên nơi vị ấy.
Này các Tỳ-khưu, trong khi Tỳ-khưu suy tư, tư duy, thẩm sát
pháp ấy với trí tuệ, và tinh tấn không thụ động bắt
đầu khởi lên nơi vị ấy, tinh tấn giác chi trong khi ấy
bắt đầu khởi lên nơi vị Tỳ-khưu. Tinh tấn giác chi được
Tỳ-khưu tu tập. Tinh tấn giác chi được Tỳ-khưu làm cho
đi đến sung mãn. Ðối với vị ấy, tinh cần tinh tấn, hỷ
không liên hệ đến vật chất khởi lên. Này các Tỳ-khưu,
trong khi Tỳ-khưu tinh cần tinh tấn và hỷ không liên hệ đến
vật chất khởi lên, hỷ giác chi trong khi ấy bắt đầu được
khởi lên nơi Tỳ-khưu. Hỷ giác chi trong khi ấy được Tỳ-khưu
tu tập. Hỷ giác chi trong khi ấy được Tỳ-khưu làm cho đi
đến sung mãn. Thân của vị ấy được tâm hoan hỷ trở thành
khinh an, tâm cũng được khinh an. Này các Tỳ-khưu, trong khi
Tỳ-khưu với ý hoan hỷ được thân khinh an, được tâm cũng
khinh an, trong khi ấy khinh an giác chi bắt đầu khởi lên nơi
Tỳ-khưu. Trong khi ấy, khinh an giác chi được Tỳ-khưu tu tập.
Trong khi ấy, khinh an giác chi được Tỳ-khưu làm cho đi đến
sung mãn. Một vị có tâm khinh an, an lạc, tâm vị ấy được
định tĩnh. Này các Tỳ-khưu, trong khi vị ấy có thân khinh
an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh, trong khi ấy định
giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ-khưu. Trong khi ấy, định
giác chi được Tỳ-khưu tu tập. Trong khi ấy định giác chi
được Tỳ-khưu làm cho đi đến sung mãn. Vị ấy với tâm
định tĩnh như vậy khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả
ly. Này các Tỳ-khưu, trong khi Tỳ-khưu với tâm định tĩnh
như vậy, khéo nhìn (sự vật) với ý niệm xả ly, trong khi
ấy xả giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỳ-khưu. Trong khi
ấy, xả giác chi được Tỳ-khưu tu tập. Trong khi ấy xả
giác chi được Tỳ-khưu làm cho đi đến sung mãn.
Này các Tỳ-khưu,
bốn niệm xứ được tu tập như vậy, được làm cho sung
mãn như vậy khiến cho bảy giác chi được sung mãn.
[Trung
Bộ, 118]
*
Minh giải
thoát
Và này các
Tỳ-khưu, bảy giác chi được tu tập như thế nào, được
làm cho sung mãn như thế nào, khiến cho minh giải thoát được
viên mãn?
Ở đây,
này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu tu tập niệm giác chi, liên hệ
đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến diệt,
hướng đến xả ly; Tỳ-khưu tu tập trạch pháp giác chi...;
Tỳ-khưu tu tập tinh tấn giác chi...; Tỳ-khưu tu tập hỷ giác
chi...; Tỳ-khưu tu tập khinh an giác chi...; Tỳ-khưu tu tập
định giác chi...; Tỳ-khưu tu tập xả giác chi, liên hệ đến
viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến diệt, hướng
đến xả ly. Này các Tỳ-khưu, bảy giác chi được tu tập
như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, khiến cho minh giải
thoát được viên mãn.
[Trung
Bộ, 118]
-ooOoo-
Kết luận
- Này các
Tỳ-khưu, thế nào là tám tư niệm của bậc Ðại nhân?
Này các Tỳ-khưu,
Pháp này để cho người ít dục, Pháp này không phải để
cho người nhiều dục; Này các Tỳ-khưu, Pháp này để cho
người biết đủ, pháp này không phải để cho người không
biết đủ; Này các Tỳ-khưu, Pháp này để cho người sống
thanh vắng, pháp này không phải để cho người ưa hội chúng;
Này các Tỳ-khưu, Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn,
pháp này không phải để cho người biếng nhác; Này các Tỳ-khưu,Pháp
này để cho người trú niệm, pháp này không phải để cho
người thất niệm; Này các Tỳ-khưu, Pháp này để cho người
Thiền định, pháp này không phải để cho người không Thiền
định; Này các Tỳ-khưu, Pháp này để cho người có trí tuệ,
Pháp này không phải để cho người ác tuệ; Này các Tỳ-khưu,
Pháp này để cho người không ưa hý luận, không thích hý
luận, Pháp này không phải để cho người ưa hý luận, thích
hý luận.
(1) Này các
Tỳ-khưu, "Pháp này để cho người ít dục, Pháp này không
để cho người có dục lớn", như vậy đã được nói đến.
Do duyên gì được nói như vậy?
Này các Tỳ-khưu,
ở đây, Tỳ-khưu ít dục không muốn: "Mong người ta biết
tôi là ít dục"; biết đủ, không muốn: "Mong người ta biết
tôi là biết đủ"; sống viễn ly, không muốn: "Mong người
ta biết tôi sống viễn ly"; tinh cần tinh tấn, không muốn:
"Mong người ta biết tôi sống tinh cần tinh tấn"; trú niệm,
không muốn: "Mong người ta biết tôi trú niệm"; có định,
không muốn: "Mong người ta biết tôi có định"; có tuệ, không
muốn: "Mong người ta biết tôi là người có tuệ "; không
thích hý luận, không muốn: "Mong người ta biết tôi không
thích hý luận". Này các Tỳ-khưu, Pháp này để cho người
ít dục, Pháp này không để cho người có dục lớn", đã
được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.
(2) Này các
Tỳ-khưu, "Pháp này để cho người biết đủ, Pháp này không
để cho người không biết đủ", như vậy đã được nói
đến. Do duyên gì được nói như vậy?
Ở đây,
này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu biết đủ với bất cứ vật dụng
gì như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh. Này các Tỳ-khưu, "Pháp này để cho người biết đủ,
Pháp này không phải để cho người không biết đủ", đã
được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.
(3) Này các
Tỳ-khưu, Pháp này để cho người sống viễn ly, "Pháp này
không phải để cho người ưa thích hội chúng", như vậy đã
được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy?
Ở đây,
này các Tỳ-khưu, Với Tỳ-khưu sống viễn ly, có nhiều người
đến thăm như Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-Ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ,
vua chúa, đại thần, các ngoại đạo sư, đệ tử của các
ngoại đạo sư. Ở đây, Tỳ-khưu với tâm thuận về viễn
ly, hướng về viễn ly, nhập vào viễn ly, trú vào viễn ly,
thích thú xuất ly, nói lời hoàn toàn liên hệ đến lánh xa.
Này các Tỳ-khưu, Pháp này để cho người viễn ly, "Pháp này
không phải để cho người không ưa hội chúng", đã được
nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.
(4) Này các
Tỳ-khưu, Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn, "Pháp
này không phải để cho người biếng nhác", như vậy đã được
nói đến. Do duyên gì được nói như vậy?
Ở đây,
này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu sống tinh cần tinh tấn, đoạn
tận các pháp bất thiện, thành tựu các pháp thiện, nỗ lực
kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp.
Này các Tỳ-khưu, Pháp này để cho người tinh cần tinh tấn,
"Pháp này không phải để cho người biếng nhác", đã được
nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.
(5) Này các
Tỳ-khưu, Pháp này để cho người trú niệm, "Pháp này không
phải để cho người thất niệm", như vậy đã được nói
đến. Do duyên gì được nói như vậy?
Ở đây,
này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu đầy đủ niệm, thành tựu niệm
tuệ tối thắng, ức nhớ tùy niệm những điều đã làm,
nói đã lâu. Này các Tỳ-khưu, "Pháp này để cho người trú
niệm, Pháp này không phải để cho người thất niệm", đã
được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.
(6) Này các
Tỳ-khưu, Pháp này để cho người thiền định, "Pháp này
không phải để cho người không thiền định", như vậy đã
được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy?
Ở đây các
Tỷ-kheo ly các dục, ly các bất thiện pháp, chứng đạt và
an trú vào Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly
dục sanh, có tầm, có tứ.
Lại nữa,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng đạt và
an trú vào Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất tâm.
Tỷ-kheo ly
hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ
mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng đạt
và an trú vào Thiền thứ ba.
Tỷ-kheo xả
lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng đạt
và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm
thanh tịnh.
Này các Tỳ-khưu,
Pháp này để cho người thiền định, "Pháp này không phải
để cho người không thiền định", đã được nói đến như
vậy. Do duyên này được nói như vậy.
(7) Này các
Tỳ-khưu, Pháp này để cho người có trí tuệ, "Pháp này không
phải để cho người không trí tuệ", như vậy đã được
nói đến. Do duyên gì được nói như vậy?
Ở đây,
này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu có trí tuệ, có trí tuệ về sanh
diệt, thành tựu Thánh thể nhập (quyết trạch), đưa đến
chơn chánh đoạn diệt khổ đau. Này các Tỳ-khưu, "Pháp này
để cho người có trí tuệ, Pháp này không phải để cho người
không trí tuệ", đã được nói đến như vậy. Do duyên này
được nói như vậy
(8) Này các
Tỳ-khưu, Pháp này để cho người không ưa hý luận, không
thích hý luận, "Pháp này không phải để cho người ưa hý
luận, thích hý luận", như vậy đã được nói đến. Do duyên
gì được nói như vậy?
Này các Tỳ-khưu,
ở đây, Tỳ-khưu đối với đoạn diệt hý luận, tâm được
phấn chấn, tịnh tín, an trú, hướng đến. Này các Tỳ-khưu,
Pháp này để cho người không ưa hý luận, không thích hý
luận, "Pháp này không phải để cho người ưa hý luận, thích
hý luận", đã được nói đến như vậy. Do duyên này được
nói như vậy.
[Tăng
Chi, 8.30]
*
-- Thành tựu
bảy pháp, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu đáng được cung kính,
đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng được
chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời.
Thế nào
là bảy? Ở đây, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu là vị biết
pháp, biết nghĩa, biết tự ngã, biết ước lượng, biết
thời, biết hội chúng, biết người thắng kẻ liệt.
(1) Và này
các Tỳ-khưu, thế nào là Tỳ-khưu biết pháp? Ở đây, này
các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu biết pháp: Khế Kinh, Ứng tụng, Ký
thuyết, Phúng tụng, Vô vấn tự thuyết, Như thị thuyết,
Bổn sanh, Pháp chưa từng có, Phương quảng. Này các Tỳ-khưu,
nếu Tỳ-khưu không biết pháp: Khế kinh, Ứng tụng... Phương
quảng, vị ấy ở đây không được gọi là vị biết pháp.
Và này các Tỳ-khưu, nếu Tỳ-khưu biết pháp: Khế kinh, Ứng
tụng... Phương quảng; do vậy, vị ấy được gọi là vị
biết pháp. Như vậy là biết pháp.
(2) Thế nào
là biết nghĩa? Ở đây, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu biết ý
nghĩa của lời thuyết này, của lời thuyết kia: "Ðây là
ý nghĩa của lời nói này, đây là ý nghĩa của lời nói này".
Này các Tỳ-khưu, nếu Tỳ-khưu không biết ý nghĩa của lời
thuyết này, của lời thuyết kia: "Ðây là ý nghĩa của lời
nói này, đây là ý nghĩa của lời nói này", thời ở đây,
vị ấy không được gọi là vị biết nghĩa. Và này các Tỳ-khưu,
nếu Tỳ-khưu biết ý nghĩa của lời thuyết này, của lời
thuyết kia: "Ðây là ý nghĩa của lời nói này, đây là ý
nghĩa của lời nói này"; do vậy, vị ấy được gọi là vị
biết nghĩa. Ðây là biết pháp, biết nghĩa.
(3) Thế nào
là tự biết? Ở đây, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu tự biết;
"Cho đến như vậy, tôi có lòng tin, giữ giới, nghe nhiều,
bố thí, trí tuệ, biện tài". Này các Tỳ-khưu, nếu Tỳ-khưu
không biết tự ngã như vầy: "Cho đến như vậy, tôi có lòng
tin, giữ giới, nghe nhiều, bố thí, trí tuệ, biện tài", thời
ở đây, vị ấy không được gọi là vị biết tự ngã. Nếu
Tỳ-khưu, này các Tỳ-khưu, biết tự ngã: "Cho đến như vậy,
tôi có lòng tin, giữ giới, nghe nhiều, bố thí, trí tuệ,
biện tài"; do vậy, vị ấy được gọi là vị biết tự ngã.
Ðây là biết pháp, biết nghĩa, tự biết.
(4) Và thế
nào là biết ước lượng? Ở đây, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu
biết ước lượng (vừa đủ) trong khi nhận các vật dụng
như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Này các Tỳ-khưu, nếu Tỳ-khưu không biết ước lượng vừa
đủ khi nhận các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng
tọa, dược phẩm trị bệnh, thời vị ấy ở đây không được
gọi là vị biết ước lượng vừa đủ. Này các Tỳ-khưu,
nếu Tỳ-khưu biết ước lượng vừa đủ khi nhận các vật
dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị
bệnh; do vậy vị ấy được gọi là vị biết ước lượng
vừa đủ. Ðây là biết pháp, biết nghĩa, tự biết, biết
ước lượng.
(5) Và thế
nào là biết thời? Ở đây, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu biết
thời: "Ðây là thời để tuyên thuyết, đây là thời chất
vấn, đây là thời tu tập, đây là thời Thiền tịnh". Này
các Tỳ-khưu, nếu Tỳ-khưu không biết thời: "Ðây là thời
tuyên thuyết, đây là thời chất vấn, đây là thời tu tập,
đây là thời Thiền tịnh", thời ở đây, vị ấy được
gọi là không biết thời. Và này các Tỳ-khưu, nếu Tỳ-khưu
biết thời: Ðây là thời tuyên thuyết, đây là thời chất
vấn, đây là thời tu tập, đây là thời Thiền tịnh"; do
vậy, vị ấy được gọi là vị biết thời. Ðây là biết
pháp, biết nghĩa, tự biết, biết vừa đủ, biết thời.
(6) Và thế
nào là biết hội chúng? Ở đây, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu
biết hội chúng: "Ðây là hội chúng Sát-đế-lỵ, đây là
hội chúng Bà-la-môn, đây là hội chúng Gia chủ, đây là hội
chúng Sa-môn. Ở đây, nên đi đến như vậy, nên đứng như
vậy, nên ngồi như vậy, nên nói như vậy, nên im lặng như
vậy". Này các Tỳ-khưu, nếu Tỳ-khưu không biết hội chúng:
"Ðây là hội chúng Sát-đế-lỵ, đây là hội chúng Bà-la-môn,
đây là hội chúng Gia chủ, đây là hội chúng Sa-môn. Ở đây,
nên đi đến như vậy, nên đứng như vậy, nên ngồi như vậy,
nên nói như vậy, nên im lặng như vậy", thời ở đây, vị
ấy không được gọi là "Vị biết hội chúng". Và này các
Tỳ-khưu, nếu Tỳ-khưu biết hội chúng: "Ðây là hội chúng
Sát-đế-lỵ, đây là hội chúng Bà-la-môn, đây là hội chúng
Gia chủ, đây là hội chúng Sa-môn. Ở đây, nên đi đến như
vậy, nên đứng như vậy, nên ngồi như vậy, nên nói như
vậy, nên im lặng như vậy"; do vậy, được gọi là "Vị biết
hội chúng". Ðây là biết pháp, biết nghĩa, tự biết, biết
vừa đủ, biết thời, biết hội chúng.
(7) Và thế
nào là biết người thắng liệt? Ở đây, này các Tỳ-khưu,
với vị Tỳ-khưu, loài Người được biết theo hai hạng:
một hạng ưa thấy các bậc Thánh, một hạng không ưa thấy
các bậc Thánh. Người này không ưa thấy các bậc Thánh, do
có việc ấy, đáng bị quở trách. Còn người này ưa thấy
các bậc Thánh, do việc ấy, đáng được tán thán. Có hai
hạng người nghe diệu pháp: một hạng người ưa nghe diệu
pháp, một hạng người không ưa nghe diệu pháp. Hạng người
này không ưa nghe diệu pháp, do sự việc ấy, đáng bị quở
trách. Hạng người này ưa nghe diệu pháp, do sự việc ấy,
đáng được tán thán. Có hai hạng người nghe diệu pháp:
một hạng người lắng tai nghe diệu pháp, một hạng người
không lắng tai nghe diệu pháp. Hạng người này không lắng
tai nghe diệu pháp, do sự việc ấy, đáng bị quở trách. Hạng
người này lắng tai nghe diệu pháp, do sự việc ấy, đáng
được tán thán. Có hai hạng người lắng tai nghe pháp: một
hạng người nghe xong, thọ trì pháp; một hạng người nghe
xong, không thọ trì pháp. Người này nghe xong không thọ trì
pháp, do sự việc ấy, đáng bị quở trách. Người này nghe
xong thọ trì pháp, do sự việc ấy, đáng được tán thán.
Có hai hạng người nghe xong thọ trì pháp: một hạng người
quán sát ý nghĩa các pháp được thọ trì, một hạng người
không quán sát ý nghĩa các pháp được thọ trì. Hạng người
này không quán sát ý nghĩa các pháp được thọ trì, do sự
việc ấy, đáng được quở trách. Hạng người này quán sát
ý nghĩa các pháp được thọ trì, do sự việc ấy, đáng được
tán thán. Có hai hạng người quán sát ý nghĩa các pháp được
thọ trì: một hạng người sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu
pháp, đã thực hành pháp; tùy pháp; một hạng người sau khi
hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, không thực hành pháp, tùy pháp.
Hạng người này sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp, không
thực hành pháp, tùy pháp, do sự việc ấy, đáng bị quở
trách. Hạng người này sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp,
thực hành pháp, tùy pháp, do sự việc ấy, đáng được tán
thán. Có hai hạng người sau khi hiểu nghĩa, sau khi hiểu pháp
đã thực hành pháp; tùy pháp: một hạng người thực hành
với mục đích tự lợi, không có lợi tha; một hạng người
thực hành với mục đích tự lợi và lợi tha. Hạng người
này thực hành với mục đích tự lợi, không có lợi tha,
do sự việc ấy, đáng bị quở trách. Hạng người này thực
hành với mục đích tự lợi và lợi tha, do sự việc ấy,
đáng được tán thán. Như vậy, này các Tỳ-khưu, đối với
Tỳ-khưu, loài Người được biết theo hai hạng. Như vậy,
này các Tỳ-khưu, là Tỳ-khưu biết hạng người thắng liệt.
Do thành tựu
bảy pháp này, này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu đáng được cung
kính, đáng được tôn trọng, đáng được cúng dường, đáng
được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời.
[Tăng
Chi, 7.64]
*
(Trong ngày
cuối cùng còn tại thế) Đức Như Lai nói với tôn giả Ànanda:
-- Này Ànanada,
các cây sàlà song thọ tự nhiên trổ hoa trái mùa tràn đầy
cành lá, những đóa hoa này rơi lên, gieo khắp và tung vãi
trên thân Như Lai để cúng dường. Những thiên hoa Mandàrava
từ trên hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi
trên thân Như Lai để cúng dường. Bột trời chiên đàn từ
trên hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên
thân Như Lai để cúng dường. Nhạc trời trên hư không trổi
dậy để cúng dường Như Lai. Thiên ca trên hư không vang lên
để cúng dường Như Lai.
Nhưng, này
Ànanda, như vậy không phải kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ,
cúng dường hay lễ kính Như Lai. Này Ànanda, nếu có Tỳ-khưu,
Tỳ-khưu ni, cư sĩ nam hay cư sĩ nữ nào thành tựu Chánh pháp
và Tùy pháp, sống chơn chánh trong Chánh pháp, hành trì đúng
Chánh pháp, thời người ấy kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ,
cúng dường Như Lai với sự cúng dường tối thượng. Do vậy,
này Ànanda, hãy thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn
chánh trong Chánh pháp và hành trì đúng Chánh pháp. Này Ànanda,
quý vị cần phải học tập như vậy.[Trường Bộ, 16] |