(Mahamudra) Ouang
Tchuk Dorjé
|
Thích Trí Siêu
Lời giới thiệu Nói đến tu Thiền, một số trong chúng ta vẫn còn bì bõm trong hoang mang. Nay tu theo "Thiền biết vọng" của Tào Ðộng (Soto), mai tu theo "Thiền công án" của Lâm Tế (Rinzai). Nếu tu theo biết vọng thì vọng là gì? Khi hết vọng thì cái gì xảy ra? Phải làm gì tiếp theo? Có nhiều người ngồi thiền, lâu lâu vọng niệm tự ngưng, tâm thần sáng suốt rỗng lặng, nhưng rồi không biết làm gì tiếp; sau khi xả thiền thấy vấn đề sinh tử phiền não vẫn còn. Dần dà chán nản, quay sang tu Thiền công án. Nhưng thử hỏi ngày nay ai là người có thể cho ta một câu công án phù hợp với căn cơ và khả năng của ta? Nếu công án không hợp thì làm sao khởi nghi tình? Vả lại, dù cho ngẫu nhiên phát khởi nghi tình đi nữa, thì ai là người có khả năng ra tay đúng lúc tháo đinh nhổ chốt cho ta "đại ngộ"? Một vấn đề khác cần được nêu ra, đó là ngày nay, chúng ta Phật tử, có còn hoàn toàn hết lòng tin tưởng nơi sự hướng đạo của chư Tăng không? Dù tu theo pháp môn nào đi nữa, chúng ta vẫn cần một sự chuẩn bị tâm linh. Riêng Phật Giáo Tây Tạng nhấn mạnh đến hai điều, đó là gieo tạo căn lành (mérites) và nhiệt tâm kính trọng tin tưởng nơi vị Thầy (dévotion au Guru). Nếu đầy đủ hai điều trên thì sự tiến tu đạo nghiệp mới mau thành tựu, như diều gặp gió vậy. Giáo pháp của đức Phật tuy vô lượng vô biên nhưng cũng không ngoài chữa hai bệnh: chấp ngã và chấp pháp. Ði sâu một bước, hành giả có thể đặt câu hỏi: Ai chấp ngã? Ta chấp hay tâm chấp? Mà ta là ai? Tâm là gì chứ? Tùy căn cơ và nghiệp duyên của mỗi người, chúng ta có thể lựa chọn tu tập trên hai phương diện: pháp tướng và pháp tánh. Pháp tướng bao gồm các trường phái: Câu Xá (Kosa), Duy Thức (Vijnanavada), Trung Quán (Madhyami-ka)..., chuyên về giảng giải phân tách Kinh tạng, dùng luận lý để hiểu rõ pháp giới và tiến gần đến chân lý. Pháp tánh tông thì ngược lại, nhấn mạnh về vấn đề tu tập thiền quán để chứng ngộ bản tâm và pháp giới, gồm các trường phái: Thiền (Chan, Zen), Du Già (Yoga), Mật tông (Tantrayana)... Ta có thể xắp các trường phái thuộc pháp tướng vào Hiển giáo và pháp tánh vào Mật giáo, vì nó được "biệt truyền" không đi qua văn tự Kinh điển. Mật tông Tây Tạng cũng vậy, hành giả phải tự thân tu tập thiền quán để đạt giác ngộ và giải thoát. Có một số thành kiến sai lầm về Mật giáo, cho đó là một tông phái chuyên môn tu luyện bùa chú, phù phép trừ ma ếm quỷ. Sở dĩ được gọi là Mật giáo vì đa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation). Những người ngoài cuộc, chưa được trực tiếp thọ giáo thì dù có thông hiểu cũng khó có thể tu tập thành tựu được, vì nó tùy thuộc sự giao ước (samaya) của người đệ tử và sự gia hộ thiêng liêng của các bậc Thầy Tổ trong tông phái. Sự kiện này không có gì đáng phải bình luận, vì mỗi tông phái đều có truyền thống riêng biệt và những tinh túy thâm sâu mà chúng ta, những người tầm đạo, cần có một tâm học hỏi cầu tiến biết nhìn khách quan và rút tỉa điều hay lẽ phải áp dụng vào sự tu hành bản thân. Ðúng ra tu tập Mật giáo cần phải có sự đích truyền (lung, dbang), nếu không thì không thể tiến xa được. Nhưng nếu giữ đúng như vậy thì nó sẽ mai một và những người thiếu duyên sẽ không có cơ hội biết đến. Do đó tôi đành mạo muội phiên dịch tập sách này, trước hết giới thiệu thiền Ðại Thủ Ấn, sau là nói lên rằng tu thiền cần phải có sự hướng dẫn của một vị Thầy (Guru, Lama) với những phương thức rõ ràng. Tu tập về Ðại Thủ Ấn có hai phương pháp: 1) Theo sáu phép Du Già của Naropa,Phương pháp thứ nhất rất phức tạp và nguy hiểm, hoàn toàn thuộc Mật giáo, phương pháp thứ hai, được trình bày ở đây, có nhiều điểm tương đồng với các pháp môn thiền quán của Thiên Thai, Tứ Niệm Xứ và nhất là Thiền tông Trung Hoa. Tác giả tập Ðại Thủ Ấn này là ngài Ouang Tchuk Dorjé Karmapa, tổ thứ 9 của phái Kagyupa (phái áo vải), một trong bốn phái chính của Tây Tạng. Ðây là một tài liệu quý giá nhưng giản dị, không dùng thi văn, kệ ngôn diễn tả nửa úp nửa mở mà nó trình bày thứ lớp mạch lạc các tiến trình tu tập khảo sát nội tâm, để cuối cùng giúp hành giả nhận ra bản tánh của tâm tức Ðại Thủ Ấn (Mahamudra). Tôi xin cảm tạ Lama Shérab Dorjé viện trưởng tu viện Kagyu Ling và nhà xuất bản Yiga Tcheudzinn đã đồng ý cho tôi dịch tập sách này, cùng ghi tạc công đức của Ganden Rinpoché và Guendune Rinpoché đã giúp đỡ rất nhiều về tinh thần và giáo lý cho tôi. Riêng về bản dịch, vì du tăng không đủ phương tiện, tài liệu và khả năng nên chắc chắn có nhiều thiếu sót, mong bạn đọc hội ý quên lời để đôi bên lưỡng lợi, và các bậc cao minh hoan hỷ lượng thứ chỉ giáo cho. Xin hồi hướng công đức này cầu cho tất cả chúng sanh ý thức được sự vô thường, đau khổ của cuộc đời và đồng pháp tâm cầu giác ngộ giải thoát. Hàn Thảo Lộ, tháng ba năm
1989.
-ooOoo- Ghi chú: Những chữ thẳng
là nguyên văn của ngài Karmapa đệ IX. Những chữ nghiêng là
lời bình giảng của Bérou Khyentsé Rinpoché. Những chú thích
ở cuối trang là do dịch giả thêm vào để giúp đọc giả
hiểu rõ hơn.
Lời tựa Từ lâu các triết gia, đạo gia và chúng ta, hàng phật tử, đều đã băn khoăn tìm hiểu tâm, vì tâm là đầu dây mối nhợ sinh ra các pháp: "Tâm sanh các pháp đều sanh, tâm diệt các pháp đều diệt". Nhưng tâm là gì? Hoạt động của nó ra sao? Ðó là những câu hỏi rất thường được đặt ra. Như một tấm gương, tâm có thể cho ta thấy tất cả hình ảnh của sự vật, nhưng khi muốn tìm lại, thì không thể thấy. Nó tựa như vô hình vậy. Ðôi khi cái tấm "gương tâm" này như bị mờ đục, có lúc lại nhu trong và sáng tựa như không có gì hiện ở trong, hoặc có lúc nó lại bị những ý niệm nổi lên ào ào như những cơn gió lốc. Mặc dù trong tâm hiện ra những hình ảnh, âm thanh hoặc những ý niệm hay bất cứ cái gì đi nữa, nó vẫn luôn luôn có một tánh hiểu biết (nói cho dễ hiểu là một cái biết) trong sáng tiềm tàng. Nếu ý thức được sự hiện hữu của "cái biết" này, ta sẽ không khó chịu hay ưa thích đối với những cái gì hiển hiện trên mặt "gương tâm". Một khi nhận ra cái tánh ngàn xưa (bổn tánh) của gương này thì bất cứ việc gì xảy đến, ta cũng không ngại, vì ta chính là "yên lặng và trong sáng". Nhưng nếu không ý thức được điều trên thì những vọng niệm, ảo ảnh (vốn trống rỗng và không thực) sẽ trở nên thực có và do đó chúng tạo cho ta muôn điều sợ hãi, lo âu cũng như ham muốn và đau khổ. Ðại Thủ Ấn, Mahamudra, là một phép thiền quán khảo sát nội tâm, nhằm loại trừ tất cả ảo tưởng và phú chướng từ đời vô thỉ đã bao phủ dầy đặc bản tâm. Tuy nhiên trước khi thực sự tiến bước trên con đường quán chiếu, hành giả cần trải qua một sự "dự bị tu tập" (pratiques préliminaires). Có dự bị kỹ càng thì tiến tu mới thuận lợi và chắc chắn. Ðiều trước tiên là phải ý thức rằng có được thân người là một điều hy hữu. Trong các Kinh, đức Phật vẫn thường nhắc nhở: thân người khó được, nhưng lại dễ mất. Cái chết luôn luôn đến quá sớm, quá bất ngờ. Khi nó đến thì ngay cả gia đình, bạn bè, tài sản, danh vọng đều bất lực không cứu giúp gì được cho ta, chỉ có những hành động tạo tác trong lúc sống là đi theo ta như hình với bóng mà thôi. Do đó, trong lúc thân thể còn khoẻ mạnh, lưng chưa còng, mắt chưa lòa, ta hãy cố gắng sống một cuộc đời ý nghĩa bằng cách đem lại an vui và hạnh phúc cho mọi người, thương yêu và thông cảm lẫn nhau. Ðược vậy, ngày ra đi ta có thể mỉm cười với tâm hồn thanh thản. Tuy nhiên theo luật nhân quả thì ta vẫn phải tái sanh. Còn tái sanh là còn bị chi phối bởi sinh, già, bệnh, chết. Dù tái sanh làm trời, người, vua, thú vật hay quỷ đói đi nữa, ta vẫn còn bị đau khổ ràng buộc. Sự khao khát một chân hạnh phúc luôn luôn bị ngăn che bởi tham dục, sân hận và tâm hồn quá ích kỷ của ta. Ðiều đầu tiên chúng ta cần làm là suy ngẫm, quán chiếu về sự đau khổ vô thường của cuộc đời, sau đó quyết tâm mãnh liệt phát nguyện giải thoát khỏi luân hồi. Tiếp theo ta quán chiếu rằng không phải chỉ có riêng một mình ta chịu đau khổ, mà tất cả chúng sanh đều như vậy. Ngay cả một con bọ nhỏ cũng cố gắng vùng vẫy chạy thoát khi bị lùng bắt. Hãy nghĩ lại xem, đời sống và hạnh phúc của ta đều liên quan và tùy thuộc rất nhiều người, do đó ta không thể làm ngơ đi tìm hạnh phúc cá nhân và bỏ quên những người khác. Suy nghĩ được vậy mới có thể khởi lòng thương yêu và cứu giúp tất cả mọi người. Khởi tâm xong chưa đủ, ta cần phải thực hiện. Nhưng làm sao thực hiện được khi chính bản thân ta chưa trừ được tham sân si, phiền não, chưa làm chủ được thân tâm. Do đó điều quan trọng thứ hai là làm sao đạt được giác ngộ giải thoát một cách nhanh chóng hầu cứu giúp tất cả chúng sanh. Muốn vậy ta cần phát Bồ Ðề Tâm (Bodhicitta), tức phát nguyện thành Phật để cứu độ chúng sanh. Hai điều trên, phát nguyện giải thoát khỏi luân hồi và nguyện thành Phật để cứu độ chúng sanh, là những nền tảng căn bản nhưng tối quan trọng trong việc chuẩn bị và chuyển hướng tâm linh cho hành giả. Sau khi phát nguyện mạnh mẽ, ta có thể bước sang phần thực tập sơ khởi, hay dự bị tu tập. Phần này nhằm mục đích thanh lọc, tiêu trừ những nghiệp chướng thô kệch, giúp ta tích tụ thêm nhiều công đức để sau này ít gặp trở ngại và tiến nhanh đến đạo quả. Phần thực tập sơ khởi đầu tiên là lạy Phật. Trong lúc lạy Phật, ta phải quán chiếu luôn sự quy y Tam Bảo, khởi lòng tin chắc rằng nương về Tam Bảo là phương tiện duy nhất giúp ta thoát khỏi sự lặn hụp trong đau khổ của luân hồi. Lạy Phật cũng giúp ta chừa bỏ tánh cống cao ngã mạn, và sự kham nhẫn chịu đựng sẽ tẩy trừ bớt những nghiệp xấu của ta. Bài thực tập kế là thiền quán về Kim Cang Tát Ðỏa (Vajrasattva méditation). Pháp này cũng nhằm tẩy trừ nghiệp xấu. Tiếp theo sau là cúng dường Mạn Ðà La (offrande du Mandala), phần này giúp ta tích tụ rất nhiều công đức. Cuối cùng là bài tập về Guru Yoga, phần này củng cố mối giây liên hệ giữa ta với vị Thầy (Lama hay Guru) và tất cả những vị Tổ trong tông phái. Qua trung gian bài thực tập này ta tiếp nhận được sự chân truyền và gia hộ của chư Tổ. Sau khi hoàn tất phần tu tập dự bị cũng như nghe giảng giáo lý và suy tư về những chỉ thị của vị Thầy, ta có thể bước vào phần chính của thiền Ðại Thủ Ấn: đó là tu tập miên man về pháp Ðịnh Tâm (Samatha) và quán chiếu thâm sâu (Vipasyana). Thành tựu pháp Ðịnh Tâm sẽ giúp ta nhận ra (hay nhận lại) bổn tánh của tâm. Quán chiếu thâm sâu sẽ giúp ta thực chứng "tánh Không" (Vacuité, Sunyata) hay thực tướng của vạn pháp. Tu tập đứng đắn và thành tựu được hai pháp này chắc chắn sẽ gột sạch vô minh và tất cả phiền não từ lâu đã phủ dày tâm ta. Trở về sống hoàn toàn với "cái biết" (hay tánh giác) từ ngàn xưa, trong sáng, tròn đầy và đồng thời phát triển cùng cực tâm Bồ Ðề (Bodhicitta), danh từ nhà Phật thường gọi là Ðại Trí và Ðại Bi, lúc đó ta có thể cất tiếng ca hát khúc khải hoàn, vì ta đã đầy đủ năng lực vô cùng tận để cứu giúp chúng sanh vô số lượng. Theo truyền thuyết Tây Tạng, xưa kia khi thuyết về Hiển giáo, đức Phật đã dùng hóa thân là Thích Ca Mâu Ni Phật, nhưng khi thuyết về Mật giáo thì lại dùng hóa thân là đức Phật Vajradhara, và chính hóa thân này đã truyền dạy về Ðại Thủ Ấn. Giòng truyền thừa này bắt nguồn từ Ấn Ðộ do ngài Tilopa truyền cho Naropa, sau đó nhà đại dịch giả Marpa đã đem về xứ Tây Tạng truyền lại cho đệ tử là Milarépa, nhà đại hành giả Du Già Tây Tạng, nổi tiếng là đã đạt được giác ngộ hoàn toàn ngay trong một đời, nhờ sự tu hành khổ cực và tinh tấn cũng như hết lòng tôn kính vị Thầy của mình. Tiếp theo là Gampopa, vị này truyền lại cho nhiều đệ tử, trong số đó có ngài Tusum Khyenpa, tức là Karmapa đệ I, sáng Tổ của giòng "Karma-Kagyu". Giòng này tiếp tục truyền thừa cho đến ngày nay và vị Tổ hiện đại là ngài Karmapa đệ XVI. Kinh sách Tây Tạng luôn luôn nhắc nhở rằng tu hành theo Phật Pháp, nhất là Ðại Thủ Ấn hay những pháp môn phức tạp của Mật giáo (Tantra), rất cần sự hướng dẫn cẩn thận và tỉ mỉ của một vị Thầy (Lama, Guru), nếu không sẽ rất dễ lạc đường. Hơn nữa vị Thầy chính là trung tâm điểm của pháp quán Guru Yoga, một pháp quán trọng yếu và căn bản của tất cả trường phái Phật Giáo Tây Tạng. Như vậy vị Thầy cần phải là một người đã giác ngộ và đắc đạo, có khả năng tiếp độ dẫn dắt đệ tử nhận ra bổn tánh của tâm. Do đó người đệ tử cần đối xử và xem vị Thầy của mình không khác một đức Phật sống. Sự tôn kính và phục vụ một vị Thầy như vậy chắc chắn sẽ làm tăng trưởng nhiều căn lành, và đương nhiên sẽ dẫn đến đạo quả một cách nhanh chóng. Tuy vậy việc này không phải là dễ làm, vì dù cho hết lòng tin tưởng nơi vị Thầy (mà ta cho là đắc đạo), đôi lúc ta cũng cảm thấy hình như vị Thầy của mình còn mang vài tật xấu. Nhưng thực ra hành động của vị Thầy chỉ là sự phản ảnh của những vô minh nghiệp chướng còn lưu lại trong tâm ta mà thôi. Có một phương thức tu tập tên là "Lo Djong" của trường phái Kadam Tây Tạng, mà ngài Gampopa đã phối hợp với Ðại Thủ Ấn, dạy rằng mỗi khi có một sự tranh chấp xảy ra, ta hãy nhận phần lỗi về mình và phần phải về đối phương. Làm được như thế ta sẽ chuyển tất cả nghịch cảnh thành những thiện duyên lợi ích cho sự tu hành. Mong rằng tập sách này sẽ đem lại lợi ích cho mọi đọc giả và hành giả. Alexander Berzin
-ooOoo- Mở đầu Xin thành tâm xưng tán và đảnh lễ tất cả chư Tổ của phái Kagyu. Tuy đã giác ngộ và trở về với Pháp thân từ vô lượng kiếp, các ngài vẫn luôn luôn thị hiện dưới nhiều hình thức để cứu độ chúng sinh. Chỉ cần nghe danh của các ngài cũng đủ khiếp phục mọi lo âu và đem lại tin tưởng. Sau khi đảnh lễ Thầy Bổn Sư (Lama) và chư Tổ của tông phái, tôi xin nói đôi lời về Ðại Thủ Ấn, tinh hoa thâm thúy của Kim Cang thừa (Vajrayana) để khuyến khích những đệ tử đang tìm cầu giải thoát. Ðây là con đường độc nhất mà chư Phật đã đi qua, và đã được truyền khẩu từ thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni cho đến vị Thầy Bổn Sư [1] của ta. Nó là tinh hoa của tâm chư Phật ba đời, là phương pháp dẫn đến giác ngộ giải thoát ngay trong một đời. Muốn tu học Phật pháp một cách hữu hiệu cần phải có một chí nguyện chân chính. Cái gì đã thúc đẩy ta đi tìm cầu giải thoát? Trôi lăn trong sinh tử luân hồi từ đời vô thỉ đến nay, tất cả chúng sinh, ít nhất trong một kiếp nào đó, đều đã làm cha mẹ ta và chắc chắn đã thương yêu đối xử rất tốt với ta. Cũng như ta, tất cả chúng sinh đều muốn sung sướng an vui, nhưng vì bị vô minh che lấp nên chỉ tạo điều ác và gây khổ cho nhau. Do đó ta cần phải giác ngộ giải thoát để trước cứu mình (tự độ), sau cứu người (độ tha) thoát khỏi vô minh, đau khổ. Theo Kim Cang thừa, ước nguyện thành Phật để cứu độ cha mẹ (là tất cả chúng sinh) được gọi là Bồ Ðề Tâm. Nhờ Bồ Ðề Tâm thúc đẩy, ta sẽ tinh cần học hỏi và tu tập Phật pháp một cách chân chính. Trước hết có ba điều sai lầm cần phải tránh. Thứ nhất: không nên giống như một cái chậu úp ngược, tâm thức hạn hẹp, khiến cho giáo pháp không thể thấm nhuần. Thứ hai: không nên giống như một cái chậu lủng đáy, nghe nhiều nhưng không nhớ được gì cả. Thứ ba: không nên giống như một cái chậu dơ, với những lầm đoán, những khái niệm biên kiến, khiến ta luôn luôn nghi ngờ và bóp méo giáo pháp. Tiếp theo là sáu phiền não cần phải trừ bỏ trong khi nghe giảng giáo lý: - Kiêu ngạo: khinh thường giáo phápNgoài ra còn có năm cách thâu nhận (nghe giảng) không đứng đắn: 1) ghi nhớ văn tự mà không hiểu ý nghĩa; 2) ghi nhớ ý nghĩa bỏ quên văn tự; 3) và 4) cho rằng văn tự và ý nghĩa đều không quan trọng; 5) ghi nhận giáo pháp sai thứ tự hoặc hiểu lầm. Tóm lại nếu ý thức được tự thân là một bệnh nhân, vọng tưởng vô minh là căn bệnh, vị Thầy (Lama) là bác sĩ, và Phật pháp là thuốc hay, chắc chắn ta sẽ được nhiều lợi lạc. Chú thích: [1] Lama-racine: Dịch là Thầy Bổn Sư. Theo Tây Tạng thì không hẳn là vị Thầy mà ta đã quy y hay thọ giới, vì ta có thể có nhiều Thầy. Vị Thầy nào đã làm cho ta giác ngộ (bổn tánh) thì vị đó được xem là Bổn Sư. Trong trường hợp chưa giác ngộ thì vị Thầy nào hướng dẫn, giúp đỡ ta nhiều nhất có thể được xem là Bổn Sư. [Trở về] |