7. Những
điều lầm lẫn về bố thí
Qua những phần trước, ta đã có một
ý niệm về thế nào là bố thí trong sạch, hay không trong
sạch, đúng đắn hay không đúng đắn. Nhưng đó là trên phương
diện giáo lý tổng quát. Sợ có nhiều người tâm tính thành
thật, chất phác không hiểu rõ, nên trong phần này ta hạy
tạm lấy những thí dụ cụ thể xảy ra thường xuyên trong
đời sống sinh hoạt của chùa chiền, để mọi người hiểu
rõ hơn.
* Về Pháp thí :
Thường đi song song với pháp thí
là sự khinh người. Nếu ta là một vị thầy, thì ta không
thể thực hành tài thí được, mà chỉ có thể bố thí Pháp
thôi.
Bố thí pháp là một việc rất
tốt, nhưng nếu không khéo thì song song với việc bố thí
ta sẽ nhiễm phải cái tánh khinh người. Tánh này là một
tánh rất xấu, không những đạo Phật mà tất cả các đạo
khác đều khuyên ta phải trừ bỏ nó. Trong một Hội Ðoàn
Phật Giáo, Tăng già khinh Tăng trẻ, Tăng trẻ khinh Phật tử
già, Phật tử già khinh Phật tử trẻ thì hậu quả của nó
sẽ ra sao? Hậu quả sẽ là Phật tử trẻ bất kính Phật
tử già, Phật tử già bất kính Tăng trẻ, Tăng trẻ bất
kính Tăng già. Và trong một Hội Ðoàn mà từ trên xuống dưới,
từ dưới lên trên có một sự khinh thường và bất kính
như vậy thì chắc là Hội viên sẽ sớm rút lui. Ðạo phật
không dạy ta khinh người, mà ngược lại dạy ta tánh bình
đẳng, có nghĩa là kính trọng tất cả mọi người như nhau.
Xưa kia đức Phật đâu có khinh ai, ngay cả đối với một
em bé cũng vậy (Xem tích chuyện Asoka). Chúng ta hãy noi theo
hạnh của Thường Bất Khinh Bồ Tát trong Kinh Pháp Hoa, gặp
ai ngài cũng lễ lạy và nói : "Tôi chẳng dám khinh quý vị,
vì quý vị đều sẽ làm Phật".
Nếu ta có cơ duyên học nhiều,
hiểu rộng thì khi có người đến hỏi đạo, ta nên vui lòng
chỉ dẫn. Trong trường hợp ta bận tu trì, tụng niệm hay
nghiên cứu thì ta có thể dời lại khi khác, chứ ta không
nên khinh người đến hỏi ta, cho họ là chúng sinh ngu tối
không biết gì. Chính vì không biết nên họ mới đến hỏi,
chứ nếu biết rồi thì họ đâu có đến, mà nếu họ không
đến thì làm sao ta có cơ hội bố thí pháp? Vì vậy ta cần
phải cảm ơn họ. Trước khi, trong khi và sau khi bố thí Pháp,
ta cũng nên phát nguyện và hồi hướng. Nguyện cho người
hỏi đạo trước mặt ta mau có được trí huệ sáng suốt
và hồi hướng công đức pháp thí này cho sự giải thoát
luân hồi, hoặc quả vị Phật (nếu ta là Bồ Tát).
Hoặc giả ta tu lâu năm, có chùa
to mà khinh người mới tu, có chùa nhỏ, thì ta coi chừng sẽ
có một ngày đức Phật hiện ra trách mắng ta đó! Nhưng chỉ
sợ lúc đó ta lại không nhận ra đức Phật, hoặc nếu có
nhận ra đi nữa ta cũng làm bộ nhắm mắt bịt tai không muốn
nghe. Nếu vậy thì đức Phật cũng phải lắc đầu chịu thua.
Và nếu ta để ý một chút thì
ta sẽ thấy danh từ "Tu" rất nguy hiểm, vì nó gây ra nhiều
hiểu lầm và tai hại.
Ðối với một người tánh tình
chất phác, khi họ nghe nói ta tu lâu rồi, họ sẽ nể và kính
trọng ta lắm, vì họ nghĩ rằng ta đã chứng được gì rồi,
không chứng được A La Hán thì chắc cũng chứng được Thượng
Tọa hay Ðại Ðức. Trong tâm họ, cho "Tu" là được cái gì,
giống như đi lính vậy. Vì đi lính lâu năm thì được lên
chức quan ba, quan năm, có quyền ra oai với lính binh nhì, binh
nhất hay sĩ quan dự bị. Nhưng sự thực thì không phải vậy,
Tu có nghĩa là sửa. Thí dụ ta có một chiếc xe hơi mới mua
mà bị hư, thì ta phải sửa nó. Nếu ta là một người thợ
giỏi thì chỉ trong một ngày là ta sửa xong. Nhược bằng
sửa năm ngày rồi mà chưa xong, thì ta quả là một người
thợ dở. Trong trường hợp này, ta sẽ không dám chạy cùng
làng khắp xóm mà la lên rằng: 'Tôi sửa (xe) lâu rồi, tôi
sửa lâu rồi'. Cũng như thế, khi ta nói với mọi người rằng
ta Tu lâu năm rồi, đó có nghĩa là ta sửa lâu năm rồi. Sửa
cái gì? Sửa những tánh hư, tật xấu, nhất là cái tánh ngã
mạn của ta. Sửa xong chưa?
Ở đây có hai giả thuyết. Nếu
xong rồi thì ai lại đi nó rằng tôi sửa (tu) lâu! Nếu nói
rằng tôi sửa (tu) lâu tức là chưa xong. Nếu sửa chưa xong
thì ta phải biết mắc cở chứ ! Ta tu theo đạo Phật cốt
để trừ bỏ cái tánh ngã mạn và khinh người của ta, nhưng
không khéo ta lại để cho chính chữ "Tu" nó đánh lừa ta,
làm cho lòng ngã mạn, khinh người của ta lại tăng thêm. Nếu
ý thức được sự tai hại tạo nên do chữ "Tu" thì ta đừng
ngần ngại thưa và đề nghị với quý Thầy từ nay trở đi
không dùng chữ "Tu" nữa mà thay thế bằng chữ "Sửa". Hơn
nữa chữ "Tu" là một danh từ Hán việt, còn chữ "Sửa" là
tiếng Việt, nó chính xác, rõ ràng, và dể hiểu hơn, và nó
lại có công năng rất lớn, khiến cho ta ý thức được luôn
luôn là mình có những tánh hư tật xấu cần phải sửa cho
xong, và cũng diệt được cái tánh ngã mạn, khinh người của
ta nữa.
Chỉ có người dại dột mới hay
khinh người. Vì sao? Vì khinh người tức là khinh mình vậy
! Nếu ta khinh người thì người sẽ khinh lại ta, đó tức
là ta khinh ta. Nhân quả là thế ! Nếu ta hay khinh người mà
lại thích người kính trọng ta thì không thể có được.
Trừ ra trường hợp ta làm quan lớn dùng thế lực hay quyền
hành bắt người khác phải kính phục ta thì có. Ngoài mặt
thì họ kính phục ta, nhưng ta đâu có biết trong tâm họ chửi
rủa ta. Và nếu ta không biết điều đó thì ta vẫn là kẻ
ngu mà thôi !
Trên đây là nói về Pháp thí khinh
người, đó thuộc vào loại Pháp thí không trong sạch (avisuddha
dana). Trong trường hợp ta học nhiều, hiểu rộng mà lại
có tài có tài ăn nói nữa, thì rất là may mắn cho đạo Pháp.
Nhưng nếu ta ưa thuyết pháp với mục đích cho mọi người
nể ta, kính trọng ta thì đó là Pháp thí cầu danh, cũng thuộc
vào loại pháp thí không trong sạch.
Trong sự Pháp thí không trong sạch
này, hiệu quả của nó cũng có hai loại: lợi và hại. Trước
hết là xét về giáo lý mà ta bố thí, xem đúng hay sai với
chánh pháp. Ðúng, là khi người nhận nghe theo đó hành trì,
tu tâm sửa tánh, tạo thiện nghiệp (kusalakarma), trong trường
hợp này thì người nhận được lợi, còn ta chả được
gì cả vì lửa ngã mạn đã đốt hết rừng công đức Pháp
thí của ta. Trong trường hợp giáo lý sai với chánh pháp thì
cả hai bên đều bị hại cả.
* Về Tài thí :
Là Phật tử tại gia tức Ưu bà
tắc (Upàsaka), Ưu bà di (Upàsika), ta có bổn phận phải hộ
trì Tam Bảo, có nghĩa là giúp đỡ và gìn giữ cho Phật giáo
được dài lâu. Tại sao dài lâu? Vì ta biết rõ Phật giáo
dạy ta con đường giải thoát, có lợi ích cho tất cả mọi
người nên ta muốn nó dài lâu. Tùy theo khả năng cá nhân,
ta có thể giúp đỡ, bố thí tiền của hay sức lực.
Như ta đã đọc qua các phần trước,
bố thí là một việc rất tốt đem lại nhiều phước báu
cho ta, và bố thí lại là một hạnh đầu tiên của Bồ Tát.
Nhưng bố thí mà không biết cách bố thí thì không đem lại
lợi ích gì cả! Ta hãy tự nhìn lại mình xem, sau bao năm bố
thí, bây giờ ta thế nào? Ta bỏ chùa, ở nhà tu rị (tức
là tu một mình) ta sợ đến chùa vì đến đó có người ra
quyên tiền ta, rồi ta bất mãn rao lên rằng chùa này làm tiền,
chùa kia làm tiền. Tất cả những cái đó có là do tại ta,
vì trước kia ta đã không học cách bố thí. Gặp Thầy nào
bố thí Thầy đó, nhất là hay ưa bố thí các Thầy tu lâu
để được phước hay để lấy danh. Rồi Thầy muốn cái
gì là ta dâng cái ấy. Dâng riết đến lúc hết dâng được
thì ta chạy trốn luôn, không dám gặp Thầy nữa.
Khi đến chùa, gặp một việc kêu
gọi bố thí hay cúng dường thì ít nhất ta phải suy tư một
chút, xem việc đó nếu có lợi cho Thầy, cho ta, cho mọi người
thì ta hãy vui lòng bố thí. Nếu việc đó không có lợi cho
Thầy, hoặc cho ta mà có lợi cho tất cả mọi người thì
ta cũng sẵn lòng bố thí (trong trường hợp ta là Bồ Tát).
Ngoài ra đúng theo như luật xưa
đức Phật để lại thì bổn phận của cận sự nam (upasaka)
và cận sự nữ (upasika) là bố thí cúng dường bốn việc
cho chư Tăng : nơi ở, quần áo, thức ăn và thuốc men. Nơi
ở thì có chùa, ta có thể đóng góp hàng tháng cho Hội, rồi
Hội chi phí cho chùa. Quần áo thì ở xứ Tây phương này quý
Thầy, người nào cũng rất là đầy đủ. Thức ăn thì ta
xem chừng, lâu lâu mua gạo, hay mua rau cải đến tiếp tế,
hoặc nếu không có thời giờ thì ta có thể đưa tiền cho
vị Tri khố lo giùm. Còn về thuốc men thì ta cần lưu ý, vì
ở bên Pháp này quý Thầy không đi làm chính thức nên không
có 'bảo hiểm xã hội' (Sécurité sociale), tức là khi có bệnh
tật gì thì quý Thầy ráng chịu. Vì lý do đó ta không nên
bắt quý Thầy tụng đám, cầu an, cầu siêu nhiều quá, rủi
quý Thầy cảm cúm, ho lao ... hay mệnh hệ nào thì ta không
có đủ tiền lo thuốc men, lúc đó ta sẽ ân hận lắm đấy!
Ða số quý thầy ngày nay thường
hay kêu gọi ta đóng góp để làm chùa to. Có nhiều người
không hiểu, cho rằng thầy tu gì mà còn ham danh lợi. Sau đó
đi rao là chùa làm tiền hoặc chùa giàu, vv... Là Phật tử
chúng ta nên hiểu rằng quý thầy do lòng từ bi muốn độ
nhiều chúng sinh, đền đáp ơn Tam Bảo, hoằng truyền chánh
pháp mà bất đắc dĩ phải làm như thế. Nếu quý thầy ích
kỷ chỉ lo ngồi yên trong một cái cốc nhỏtự tu tự độ
thì đỡ khổ cho quý thầy biết mấy. Kêu gọi như vậy vừa
nhọc mệt lại thêm mang tiếng, đâu có vui thú gì !
* Khi Ta bố thí cho chùa,
ta phải tập ý thức việc làm của ta, có nghĩa là ta biết
lý do và mục đích của sự bố thí, còn có nghĩa là ta phải
biết phát nguyện và hồi hướng công đức bố thí của mình.
Ðược vậy thì ta sẽ không ân hận, hay hối tiếc, mà ngược
lại sẽ cảm thấy vui vẻ và an tâm. Ðây gọi là Ý thức
bố thí.
* Khi bố thí (cúng dường)
cho quý Thầy. Cũng vậy, ta phải tập ý thức việc
bố thí của mình. Quý Thầy là đối tượng của sự bố
thí, còn gọi là ruộng phước (punyaksetra). Vì sao? Vì chính
nơi quý Thầy là chỗ để ta gieo hạt giống phước nên gọi
là ruộng phước.
- Khi ta thương hại hay tội nghiệp
một vị Thầy nào đó, tu hành khổ cực mà ta bố thí, thì
vị Thầy đó trở thành ruộng phước nhỏ, vì được gieo
bởi những hạt giống thương hại (karunà), nên sẽ cho ta
cây lúa nhỏ.
- Khi ta kính trọng một vị Thầy
nào mà ta bố thí, thì vị Thầy đó trở thành ruộng phước
lớn, vì được gieo bởi những hạt giống kính trọng (satkàra),
nên sẽ cho ta những cây lúa lớn.
- Nếu ta vừa kính trọng vừa thương
hại mà bố thí thì ta sẽ gặt được cả hai loại lúa lớn
có nhỏ có.
Trước khi cúng dường cho quý Thầy
ta biết được vì thương hại hay kính trọng, và khi đang
cúng dường ta cũng biết được là ta đang cúng dường, cúng
dường xong ta biết hồi hướng công đức mà ta vừa tạo
cho sự giải thoát sinh tử của mình, hay cho quả vị Phật
(nếu ta là Bồ Tát). Ðó gọi là Bố thí trong sạch và ý
thức. Ta đừng lầm lẫn 'ý thức' với 'chấp trước'. 'Ý
thức' ở đây có nghĩa là chánh niệm, biết ta đang làm gì,
phải làm gì, sẽ làm gì. Còn bố thí chấp trước không nằm
trong bố thí trong sạch, vì khi bố thí cho rằng ta đây là
người cho, đây là vật bố thí, còn kia là người nhận,
rồi khởi tâm ngã mạn khinh người, hoặc trước khi bố thí
đã có cái tâm cầu danh hay ngã mạn rồi, nên khi vừa tác
động thì sự bố thí đã là bố thí chấp trước rồi.
- Khi gặp một vị Thầy nào, ta
lấy tài của ra gọi là cúng dường hoặc có nhiều khi ta
đưa cho vị Thầy ấy mà chả nói chả rằng gì cả, thì đó
là bố thí vô tâm và vô ý thức. Bố thí vô ý thức ta đã
thấy ở trên rồi. Còn vô tâm là sao? Vô tâm ở đây cũng
có nghĩa là vô ý thức nhưng thêm vào vô ký và vô tư. Ta
học trong Kinh Kim Cang thấy nói rằng bố thí mà không bố
thí mới thực là bố thí, hoặc bố thí mà không thấy có
ta là người bố thí, đây là vật bố thí, và kia là người
được bố thí. Học như vậy xong nên khi bố thí ta không
dám nghĩ gì cả, vì sợ suy nghĩ thì rơi vào chấp trước,
hoặc có bố thí thì làm sao cho nhanh để khỏi kịp ý thức
được việc làm của mình, hoặc trong lúc bố thí thì miệng
nói, mắt nhìn chổ khác. Ðó gọi là bố thí vô tâm. Bố
thí vô tâm cũng phát xuất từ một tấm lòng tốt, nhưng vì
không hiểu đạo nên phước báo của nó thuộc loại hữu
lậu.
Ta không nên lầm lẫn vô tâm bố
thí với Tánh Không bố thí. Vô tâm bố thí là tâm không nghĩ
và không ý thức được sự bố thí trong lúc đang bố thí.
Còn tánh không bố thí thì hiểu và thực hiện được tánh
Không của sự bố thí trong lúc đang bố thí. Tánh Không bố
thí chính là Bố thí Ba La Mật (dànaparamità), nghĩa là thấy
cả ba yếu tố tạo ra sự Bố thí đều không có tự tánh.
Trước khi thực hành Tánh Không bố thí, ta cần phải thực
tập quán chiếu nhiều về lý nhân duyên, tức thấy được
sự tương duyên tương sinh của mọi vật, thấy rằng các
pháp phải nương vào nhau mà hiện hữu, nên không có một
tự thể riêng biệt. Khi ta quán chiếu thuần thục về Tánh
Không của các pháp rồi, ta đem sự quán chiếu đó áp dụng
vào việc Bố thí, đó gọi là Tánh Không bố thí.
Khi thực hành bố thí, ta hãy nên
thành thực với chính ta, xem lại ta còn chấp trước hay không
chấp trước, có lầm tánh Không với Vô tâm không? Nếu có
thì ta sửa lại, vì đó là việc nội tâm của mình, bên ngoài
không ai hay cả, cũng không có ai chấm điểm hay thưởng phạt
ta cả, chỉ có chính hành động của ta thưởng phạt ta mà
thôi.
Cũng cần nói thêm về Tánh Không
(Sùnyata). Tánh Không là con dao hai lưỡi. Nếu ta hiểu được
nó thì nó giúp ta sớm chặt đứt các giây vô minh trói buộc
ta. Còn ngược lại, nếu ta hiểu lầm thì nó sẽ khiến ta
tạo những hành động vô phước. Vì thế Cổ nhơn có câu:
'Thà chấp có như núi Tu Di còn hơn chấp không như hạt cải'.
Nếu ta chưa hiểu được tánh Không thì ta cứ thực hành hữu
tướng bố thí, tức là phát nguyện, ý thức, và hồi hướng,
trước khi, trong khi và sau khi bố thí. Ðó gọi là biết cách
bố thí.
- Trên đây là nói qua trường hợp
bố thí vì thương hại hay vì kính trọng một vị Thầy mà
ta bố thí. Còn trong trường hợp đối với một Thầy từ
xa mới đến mà ta chưa quen biết thì sao? Thì đó lại là
một việc dễ xử đối với ta, vì ta không biết quá khứ
riêng tư của Thầy đó, nên ta dễ khởi tâm kính trọng mà
bố thí. Và trong lúc bố thí ta có thể nguyện như vầy: 'Con
thành tâm cúng dường Thầy, cầu cho Thầy mau đắc đạo để
cứu khổ chúng sinh'. Ta có thể niệm thầm hoặc nói thẳng
ra ngoài được thì càng tốt. Ðây là một sự bố thí trong
sạch và quả báo của nó sẽ vô lượng. Vì sao? Vì người
cho thành tâm và người nhận được kính trọng . Người nhận
được kính trọng hay không là tùy ở nơi tâm người cho.
Nếu ta khôn khéo biết được phước bào do sự bố thí của
mình sẽ vô lượng hay hữu lượng tùy ở nơi tâm người
cho thì ta sẽ luôn luôn khởi tâm kính trọng người nhận.
Ðó là biết cách bố thí vậy.
- Bây giờ nếu có trường hợp
ta không thương hại, không kính trọng, mà cũng không ưa một
vị Thầy nữa thì ta phải làm gì? Có phải bố thí không?
Ở đây lại là một vấn đề khác.
Ta cần tự xét lại mình trước. Tại sao không ưa? Không ưa
chỗ nào? Sau khi xét lại nội tâm xong ta có thể xin đến
gặp vị Thầy đó để giải tỏa những điều thắc mắc
đã tạo ra sự bất hòa (khi có một sự bất hòa thì cả
hai bên đều có lỗi cả). Trong trường hợp thầy và trò
đều có chí cầu tiến và phục thiện thì tốt quá. Nhưng
nếu cả thầy lẫn trò đều nhận thấy mình là đúng và
người kia sai thì lúc đó đường ai nấy đi, ta được quyền
rút lui nhưng phải có trật tự, nghĩa là không được tạo
khẩu nghiệp. Sau khi rút lui xong ta nên đi tìm một vị Thầy
khác để nương cậy. Vì sao? Vì ta là một cận sự nam hay
cận sự nữ. Cận sự có nghĩa là ở gần để giúp đở
và học hỏi.
Không phải vì không ưa một Thầy
mà ta ghét tất cả các Thầy khác. Không phải vì không ưa
một chùa mà ta xa lánh tất cả các chùa khác. Nếu làm như
vậy thì gọi là 'Vơ đũa cả nắm'. Thái độ nầy không tốt
vì nó làm cho ta không mở mang được kiến thức, không thực
hiện được các hạnh tốt, cùng lúc đó thì cái gọi là
'ngã kiến' của ta sẽ tăng trưởng. Và nếu ta cứ giữ mãi
thái độ 'Vơ đũa cả nắm' thì ta sẽ biến thành 'Con ếch
ngồi đáy giếng'.
* Lầm lẫn bố thí với trả
công
Bố thí là một hành động phát
ra từ tấm lòng thành, muốn cho người nhận được an vui
hạnh phúc.
Còn trả công là một hành động
vô tình, tức là không có tình nghĩa gì cả, nó dựa trên
một sự đổi chác.
Khi ta đi ra ngoài đường gặp một
người nghèo xin ăn, ta lấy năm cắc ra cho họ. Ta cho vì ta
thương hại, chứ không phải vì người đó làm gì cho ta.
Ta cho mà không cần được trả lại, ta chỉ cần người đó
nhận cho là ta đã vui rồi. Ðó gọi là bố thí.
Còn trả công thì khác, nó là kết
quả của một sự đổi chác. Thí dụ như ta là ông chủ một
hãng. Ðến cuối tháng ta phát tiền cho nhân viên. Hành động
phát tiền của ta không được gọi là bố thí mà phải gọi
là trả công. Vì sao? Vì suốt một tháng vừa qua nhân viên
đã làm việc cho ta, nên bây giờ ta phải trả lương cho họ.
Và khi ta đưa tiền cho họ, trong tâm của họ đâu có mang
ơn ta, vì họ biết đó là tiền của họ phải được. Trong
tâm ta cũng vậy, tuy nhân viên làm việc cực nhọc suốt tháng
vừa qua cho sự sản xuất của hãng ta, nhưng ta cũng đâu có
mang ơn họ, vì ta trả tiền cho họ rồi mà! Giữa hai bên
không có tình nghĩa gì hết, cũng không ai mang ơn ai cả. Ta
đưa tiền vì người kia đưa công, người kia đưa công vì
ta đưa tiền.
Sau khi hiểu rõ thấy được sự
khác biệt giữa bố thí và trả công rồi, ta hãy đưa mắt
nhìn về chùa của mình xem sao? Xem mình có phạm cái lỗi lầm
đó không?
Ngày thường ta chả bao giờ đến
chùa, tự nhiên đến bố thí hay cúng dường các Thầy. Ðến
khi trong gia đình có cha mẹ chết, lúc đó ta mới đến chùa
thưa thỉnh lễ phép rước Thầy về nhà tụng Kinh cầu siêu
cho cha mẹ ta. Rồi sau khi đám sám xong, ta rút vài tờ giấy
bạc bỏ vào phong bì cúng dường cho Thầy. Làm xong việc như
vậy, ta ra về thở phào nhẹ nhõm, trong tâm nghĩ rằng đã
làm xong bổn phận đối với cha mẹ, đã làm xong bổn phận
đối với ông Thầy, và cùng lúc lại làm phước nữa chứ!
Thử hỏi hành động của ta được gọi là gì? Tuy nhiên trong
cuộc thì cũng có người được chút ít. Ðó là người được
thí, tức ông Thầy : ông Thầy có được vài trăm bỏ túi
đi xe lửa. Vì lầm lẫn như thế nên ta cứ tiếp tục bố
thí cái kiểu trả công. Riết rồi ban đầu Thầy đi xe lửa,
sau đến xe hơi, rồi đến tàu bay. Tới lúc đó thì ta la lên
rằng chùa giàu! Chùa giàu hay nghèo đều do ta cả. Ta phải
tự hỏi ta chứ! Chùa giàu để làm gì? Nghèo để làm gì?
Nếu ta ý thức rằng sự phát triển của chùa có lợi cho
chúng ta nên phải cần tài chánh thì ta làm cho chùa giàu. Còn
nếu thấy cần nghèo thì ta làm cho chùa nghèo. Giàu không phải
là một cái tội, nghèo cũng không phải là một cái phước.
Tiền dùng đúng tiền
hiền như Phật,
Bạc xài lầm bạc ác hơn ma.
Phật, ma cũng tại người ta
Chớ tiền bạc nó vốn là vô
tri. (Thanh Sĩ)
Ngoài ra ta phải thông cảm cho quý
Thầy chứ! Ban đầu vì lòng từ bi mà Thầy đi cầu siêu.
Cầu siêu xong ta lại bố thí cái kiểu trả công cho Thầy.
Vì sự si mê của ta, ta đã biến lòng từ bi của Thầy, ban
đầu vô giá, dần dần xuống giá còn khoảng hai ba trăm bạc.
Rồi tội nghiệp quý Thầy, cứ phải è cổ ra nhận tiền
của người chết. Ta đã biến quý Thầy thành giống như các
nhà Hòm (pompes de funèbre) tức là sống nhờ người chết.
Thật đáng buồn cho đạo Phật! Sao ta có thể nhẩn tâm được
như vậy?
Nói như vậy không có nghĩa là từ
nay về sau ta không cầu an, cầu siêu cho cha mẹ ta, hoặc cầu
siêu xong ta không trả công cho quý Thầy nữa. Ta vẫn tiếp
tục làm, nhưng phải biết các, thêm vào nữa là lâu lâu ta
lui tới chùa xem trong chùa có cần gì giúp đỡ không thì ta
phát tâm bố thí cúng dường, không phải chờ đến khi có
ai chết hay đau mới tới. Còn trong trường hợp rước Thầy
đi tụng đám xong mà ta muốn cúng dường thì ta phải tập
suy nghĩ như vầy: 'Thầy đã vì lòng từ bi tụng niệm cho
cha mẹ ta, công ơn thật vô cùng, ta chỉ biết thành tâm phát
nguyện tu học Phật để mau thoát sinh tử luân hồi và hồi
hướng công đức (bố thí, phát nguyện) này cầu cho cha mẹ
ta được siêu sanh Cực lạc'. Từ lúc trước khi, trong khi,
và sau khi cúng dường, ta phải lập đi lập lại như vậy.
Ta thành tâm, phát nguyện và hồi hướng, cùng lúc đó ta xem
vị Thầy trước mắt tượng trưng cho Từ bi (chứ không phải
thợ tụng) và ta hết lòng kính trọng. Nếu làm được như
vậy thì ta đã biến sự trả công thành sự bố thí trong
sạch.
* Không phải chỉ có chùa chiền
mới là nơi cho ta thực hiện hạnh Bố thí
Ta có thể thực hiện bố thí ở
khắp nơi với tất cả mọi loài : như cho con chó một khúc
xương, con chim một mẩu bánh mì, con kiến một hạt đường,
v...v.... Cụ thể nhất là khi ta đi ngoài đường bố thí cho
người xin ăn. Tuy nhiên khi bố thí ta cũng phải tập bố thí
cho đàng hoàng không được khinh người. Bố thí đàng hoàng
hay trong sạch là ta biết phát nguyện, ý thức, và hồi hướng
trước khi, trong khi và sau khi bố thí. Thí dụ như ta gặp
một bà lão ở trong góc Metro đứng xin tiền. Ta lại gần
lấy tiền ra, nhưng không đưa liền, đứng ngay lại sửa soạn
phát nguyện. Có hai trường hợp:
1) Ta xem đối tượng tức bà lão
là một vị Bồ Tát hóa thân làm bà già để ta thực hiện
bố thí. Như vậy ta sẽ phát nguyện thành Phật để cứu
độ chúng sinh và hồi hướng công đức bố thí này cho quả
vị Phật.
2) Nếu ta không thể xem bà lão là
một hóa thân Bồ Tát được thì ta nguyện như vầy: 'Nguyện
cho bà mau thoát khỏi cảnh khổ của sinh, già, bệnh, chết,
và ta hồi hướng công đức bố thí này cầu mau giải thoát
sinh tử, hoặc mau thành Phật' (nếu ta là Bồ Tát).
Có một điều lầm lẫn mà ta hay
phạm phải, đó là khi ta không ưa một vị Thầy nào rồi
thì ta ngưng luôn việc bố thí ! Một vị Thầy không phải
là đối tượng duy nhất của sự Bố thí. Ta có thể về
nhà bố thí cho con cho cháu, cho gia đình họ hàng, hay cho bạn
bè, xa hơn nữa là bố thí cho các Hội Từ Thiện (Croix Rouge,
Unicef, Médecins du Monde, Médecins sans frontières, ...) hoặc cho
những loài khác như chim, gà, kiến, ... Ðối tượng của sự
bố thí rất rộng rãi và bao la, quan trọng ở chỗ là ta có
muốn bố thí hay không? Nếu muốn thì ta luôn luôn tìm thấy
đối tượng, còn không thì ta sẽ chả thấy ai là người
đáng cho ta bố thí cả.
* Ta nên bố thí trực tiếp
Lâu lâu nhớ đến Phật, ta mua hoa
quả đem vào chùa cúng dường cho Phật. Nhưng khi vào chùa
ta không nên đưa hết cho vị Hương đăng mà nói rằng: 'Này,
cô hay chú cúng hộ tôi cho Phật'. Làm như vậy mất cả tình
nghĩa của ta đối với Phật. Và hơn nữa là ta sẽ không
có cơ hội phát nguyện và hồi hướng công đức của sự
bố thí. Như thế thì dù cho ta có mua mấy xe hoa đem vào chùa
cúng Phật, cũng chả được phước đức gì cả, nhiều lắm
là làm cho chùa thêm vui mắt mà thôi. Ở ngoài đời người
ta còn biết nói 'của ít lòng nhiều', huống chi ta là con Phật
mà lại bố thí 'của nhiều lòng ít' hay sao?
-oOo-
|