Người Cư Sĩ [ Trở Về ] [ Trang Chủ ]
Phật tử
Thích Thiện Châu
(Bấm lên số để tới tiết mục muốn tham khảo)[4.]Giáo Hội[24.] Cho biết chữ Tăng già (sangha) là gì?[5.] Phật tử
[25.] Những ai có thể trở thành Tỷ kheo, Tỷ kheo ni?
[26.] Tại sao có vị mặc áo nâu, có vị quấn cà sa vàng?
[27.] Nam Tông và Bắc Tông khác nhau như thế nào?
[28.] Ðạo Phật Việt Nam thuộc Nam Tông hay Bắc Tông?
[29.] Cho biết sơ tổ chức đạo Phật Việt Nam ngày nay?
[30.] Cho biết qua tình hình Phật giáo thế giới gần đây và hiện nay?[31.] Cho biết sơ qua bổn phận của một phật tử ?[6.]Linh tinh
[32.] Thế nào là tu dưỡng bản thân ?
[33.] Giải thích thêm về Bi, Trí, Dũng.
[34.] Phật hóa gia đình là thế nào ?
[35.] Làm sao để cải tạo xã hội ?
[36.] Cho biết thái độ phật tử đối với việc xây dựng hòa bình ?
[37.] Vì sao phải phổ biến chánh pháp ?
[38.] Muốn phổ biến chánh pháp nên theo những quy tắc nào ?[39.] Quy y là gì ?
[40.] Có nên đi chùa và gặp các người tu hành không ?
[41.] Thờ Phật trong nhà có lợi ích gì ?
[42.] Cho biết ý nghĩa của sự tụng kinh ?
[43.] Sám hối là gì ?
[44.] Niệm Phật là thế nào ?
[45.] Tu thiền là gì ?
[46.] Vì sao phật tử ăn chay ?
[47.] Phật tử phải kỵ giỗ như thế nào cho hợp đạo ?
[48.] Cầu an là gì ?
[49.] Gia đình phật tử nên tổ chức lễ cưới cho con cháu như thế nào ?
[50.] Xin cho biết thái độ của gia đình phật tử đối với vấn đề hạn chế sinh sản.
[51.] Phải làm gì khi trong nhà có người chết ?
[52.] Phật tử phải đối với người khác tư tưởng, khác đạo như thế nào ?
[ Tiểu sử Hòa Thượng Thích Thiện Châu ] [ Trang trước ]
4. Giáo Hội 24. Cho biết chữ Tăng già (sangha) là gì?
- Tăng già gọi tắt là Tăng, đoàn thể của tất cả những người chấp nhận đạo Phật làm lý tưởng. Nhưng chữ tăng già trong nghĩa hẹp thì chỉ cho đoàn thể Tỳ khưu, (bhikhu, bhikshu) và Tỳ khưu ni (bhikkhuni, bhikshuni), những người rời bỏ gia đình riêng tư, sống đời đạo hạnh lợi tha, chuyên lo tu học và hướng dẫn mọi người sống đạo.25. Những ai có thể trở thành Tỷ kheo, Tỷ kheo ni?
- Tất cả, không phân biệt nòi giống, màu da, địa vị xã hội, với điều kiện là phải đủ nhân tướng, không có tật bệnh thân thể cũng như tinh thần, có ý chí hướng thượng và khả năng tu hành. Tu sĩ nam gọi là Tỷ kheo sống theo Tăng bộ. Tu sĩ nữ gọi là Tỷ kheo ni sống theo Ni bộ.26. Tại sao có vị mặc áo nâu, có vị quấn cà sa vàng?
- Nâu hay vàng đều là màu "giải thoát". Tuy nhiên, tổng quát mà nói thì các vị quấn cà sa vàng thuộc Nam Tông. Các vị mặc áo nâu thuộc về Bắc Tông. Các vị thuộc hệ phái khất sĩ cũng quấn y vàng song phần đông tu học theo giáo lý Bắc Tông. Phật giáo ngày nay đang có một khuynh hướng tổng hợp Bắc và Nam Tông, nên có những vị xuất gia ở Bắc Tông cũng quấn cà sa vàng và những vị thuộc Nam Tông cũng mặc áo tràng nâu, nhất là khi phải sống ở các xứ lạnh hay ở Âu Mỹ.27. Nam Tông và Bắc Tông khác nhau như thế nào?
- Sự thật thì chỉ có một đạo Phật. Tất cả Phật tử đều thờ kính Phật Gotama hay Thích Ca (sâkyamuni), chấp nhận và tu học các đạo lý Duyên khởi, Vô ngã, Vô thường, Bốn Thánh đế vv... Sở dĩ có Nam Tông, Bắc Tông là vì có vài quan điểm khác nhau về giáo lý và phong tục địa phương. Ðạo Phật ở các nước Tích Lan, Miến Ðiện, Campuchia, Lào... chịu ảnh hưởng của Thượng tọa bộ (Theravâda) từ Ấn Ðộ truyền về phương nam (Tích Lan) nên được gọi là Nam Tông. Trong khi đó, đạo Phật ở các nước Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Mông Cổ, Triều Tiên, Nhật Bản... phần nhiều chịu ảnh hưởng của Ðại thừa (Mahâyâna) trong đó có ảnh hưởng của Ðại chúng bộ (Mahâsanghika), Nhất thế hữu bộ (Sarvâtivâda), Ðộc tử bộ (Vâtsiputriya)... từ Ấn Ðộ truyền về phương Bắc (Trung Á, Trung Hoa) nên được gọi là Bắc Tông. Theo ý kiến chung thì Nam Tông, nhờ bảo thủ mà còn giữ được nhiều tính chất nguyên thủy của đạo Phật. Còn Bắc Tông do phóng khoáng và canh tân nên đã hòa hợp với nếp sống địa phương hay quốc gia. Hiện nay đạo Phật, với các tổ chức quốc tế, đang cố gắng đi đến một nền Phật giáo tổng hợp, không phân biệt tông phái, địa phương. Hiện có nhiều tổ chức Phật giáo đề cao tinh thần "về nguồn" và ứng dụng đạo Phật một cách sáng tạo trong thời đại ngày nay.28. Ðạo Phật Việt Nam thuộc Nam Tông hay Bắc Tông?
- Ðạo Phật Việt Nam vào những thế kỷ đầu tiên (I-V) do các Phật tử Ấn Ðộ và gần Ấn Ðộ truyền vào. Song suốt dòng lịch sử đạo Phật Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của Bắc Tông Trung Hoa đến. Gần đây, trong thời kỳ Pháp thuộc, ở miền Nam có thêm ảnh hưởng của Nam Tông từ Campuchia sang. Tuy chịu nhiều ảnh hưởng của Bắc Tông Trung Hoa song nhờ phong trào chấn hưng và canh tân (từ 1930), đạo Phật Việt Nam có một bộ mặt sáng sủa, linh hoạt và gần đạo lý Nguyên Thủy.Từ năm 1945, đạo Phật Việt Nam, tùy theo địa phương và hoàn cảnh, phát triển khác nhau do có nhiều sắc thái khác nhau. Nói chung, ở "miền Bắc", đạo Phật vẫn giữ nguyên truyền thống Bắc Tông, trong khi đó ở "miền Nam" có cả Bắc Tông, Nam Tông. Ðạo Phật Việt Nam có chịu ảnh hưởng của các phong trào chấn hưng đạo Phật ở các nước như Trung Hoa, Nhật Bản, Tích Lan, Ấn Ðộ.
29. Cho biết sơ tổ chức đạo Phật Việt Nam ngày nay?
- Ðạo Phật vốn không có giáo quyền tập trung như Thiên chúa giáo. Vì hoàn cảnh đất nước trong quá khứ, đạo Phật Việt Nam, mãi đến năm 1981 mới có cơ quan chỉ đạo trung ương cho cả nước: Giáo hội Phật giáo Việt Nam gồm Hội đồng chứng minh và Hội đồng Trị sự. Dầu sao, Phật giáo liên tục có mặt ở Việt Nam trong suốt 2000 năm nay trong khi đó Phật giáo ở Ấn Ðộ và vùng Ðông Nam Á bị tiêu diệt mà nguyên nhân chủ yếu là nạn Hồi giáo.30.Cho biết qua tình hình Phật giáo thế giới gần đây và hiện nay?
- Ðạo Phật phát sinh từ Ấn độ và được truyền rộng ra các nước lân cận ngay sau khi Phật viên tịch độ ba trăm năm dưới triều đại Asoka. Ðạo Phật tiếp tục phát triển ở Ấn độ cho đến thế kỷ thứ XIII thì bị tiêu diệt hoàn toàn do sự tàn phá của Hồi giáo. Tuy nhiên, đạo Phật ở các nước ngoài Ấn độ vẫn phát triển. Về sau, chính phong trào tìm thuộc địa của Tây phương đã làm cho đạo Phật ở Viễn Ðông, Ðông Nam Á bị đàn áp, lu mờ và bị bỏ quên.Nhưng, trong những người đến với các nước Phật giáo có một số học giả làm quen rồi yêu chuộng nền văn hóa Ðông phương nói chung và đạo Phật nói riêng như bác sĩ Peebles, đại tá Olcott, ông bà giáo sư Ryhs Davids, bà Blavatsky... Chính những học giả Âu Mỹ này đã làm cho nhiều người Ðông phương, chú ý đến sự sáng đẹp của Ðạo Phật. Về sau nhờ những Phật tử có lòng như đại đức Dharmpâla, đại sư Thái Hư... quyết tâm phục hưng đạo Phật. Chỉ trong thời gian độ 50 năm lại đây đạo Phật trở nên một đạo có uy tín; bên ngoài thì được các học giả Âu Á lưu tâm nghiên cứu và bên trong thì các Phật tử cố gắng tu học và phổ biến. Hiện nay số Phật tử khắp thế giới càng ngày càng tăng và các tổ chức Phật học càng ngày càng nhiều.
Hiện có nhiều cơ quan quốc tế của Phật giáo. Song những cơ quan nầy chỉ là những cơ quan chỉ đạo tối cao. - Âu Mỹ cũng có các hội Phật giáo. Tại các trường Ðại học ở Londres,Paris, Louvain, Munchen v.v... đều có người nghiên cứu và giảng dạy Phật học. Kinh sách đạo Phật cũng được dịch, viết ra bằng các sinh ngữ Pháp, Anh, Ðức...
Nhiều học giả Âu Mỹ nghĩ rằng đạo Phật là một lẽ sống thích hợp với con người tiến bộ và hy vọng rằng đạo Phật sẽ giúp loài người giải thoát sự thác loạn do văn minh máy móc gây nên.
5. Phật tử 31. Cho biết sơ qua bổn phận của một phật tử ?
- Phật tử chân chánh là người biết thể hiện chánh pháp trong những bổn phận sau đây : tu dưỡng bản thân, phật hóa gia đình, cải tạo xã hội.32. Thế nào là tu dưỡng bản thân ?
- Mục đích đầu tiên mà người phật tử nhắm đến là "người giác ngộ ". Do đó tu dưỡng bản thân là việc rất cần thiết. Tu dưỡng nghĩa là cải tạo : về tình cảm, chuyển đổi tham lam tàn bạo thành yêu thương giúp đề (từ bi), về lý trí, chuyển đổi si mê lầm lạc thành giác ngộ sáng suốt (trí tuệ), về ý chí, chuyển đổi hèn nhát thụ động, sợ sệt thành quả cảm tinh tấn. Ðủ Bi, Trí, Dũng là người giác ngộ.33. Giải thích thêm về Bi, Trí, Dũng.
- Bi hay từ bi có nghĩa là thương yêu giúp đề. Từ bi không phải là lòng thương hại những kẻ xấu số mà là lòng thương yêu bình đẳng, sự giúp đề chân thành như tình thương và sự lo lắng của bà mẹ hiền đối với đứa con một. Chúng ta hiện thiếu hoặc có rất ít tình cảm tốt đẹp rộng rãi ấy. Do đó, chúng ta nên tu dưỡng lòng từ bi bằng cách chân thành thương yêu và giúp đề những người thân yêu như cha mẹ, anh em, bà con rồi đến đồng bào, đồng loại và tất cả chúng sinh. Từ bi làm cho con người hoàn toàn về tình cảm.Trí hay trí tuệ có nghĩa là sự hiểu biết sự vật đúng như sự thật (yathâbhuta). Chúng ta có kiến thức song chưa có trí tuệ vì chúng ta chưa ra khỏi ảnh hưởng của vô minh (avijjâ) và còn bị tình cảm vẩn đục chi phối. Do đó, muốn thấu rõ sự vật đúng như thật, chúng ta cần phải trau dồi trí tuệ bằng cách không chủ quan, tự mãn mà thành khẩn học hỏi, suy nghĩ khách quan (cintâ) và thực nghiệm thấu đáo (bhâvanâ). Sự phát triển trí tuệ đầy đủ làm cho con người hoàn toàn về lý trí.
Dũng hay dũng cảm có nghĩa là mạnh dạn, dám hành động trong chiều hướng cao đẹp. Phần đông chúng ta chưa có đủ dũng cảm vì chúng ta còn sợ khó, nếu không nói là hèn nhát. Nhiều khi thấy chính nghĩa song không dám dấn thân vì sợ nguy hại cho quyền lợi, danh dự và tính mạng. Có người dám nói, dám làm song lại thiếu từ bi, trí tuệ nên thường manh động hơn hành động. Do đó, chúng ta phải phát triển dũng cảm bằng cách tự thắng những tính xấu ác trong chúng ta rồi vận động sức mạnh của mình, liên tục ngăn trừ điều xấu ác đã sinh, phát khởi điều lành ích chưa có và làm cho điều lành ích đã có tăng trưởng. Dũng cảm làm cho con người hoàn toàn về ý chí.
34. Phật hóa gia đình là thế nào ?
- Chấp nhận đạo Phật là lẽ sống cao đẹp, người phật tử ở nhà ngoài việc tu dưỡng bản thân, còn có bổ phận với gia đình. Trong nhiều kinh như kinh Chơn hạnh phúc (Mahâmangala), kinh Thiện sanh (Sigalovâda)... Ðức Phật khuyến khích người cư sĩ làm tròn bổn phận của chồng đối với vợ, của vợ đối với chồng, của cha mẹ đối với con cái, của con cái đối với cha mẹ... Người gia trưởng, không những phải lo chu đáo đời sống vật chất của gia đình mà còn phải hướng dẫn quyến thuộc sống theo chánh đạo để gia đình có hạnh phúc chân thật, nghĩa là phật hóa gia đình. Nếu gia đình được phật hóa thì chính những người trong gia đình là bạn tốt của nhau, khuyến khích giúp đề lẫn nhau hướng thiện và hướng thượng.35. Làm sao để cải tạo xã hội ?
- Theo đạo lý Duyên khởi thì sự hình thành của sự vật do nhiều nhân duyên ; những nhân duyên này liên hệ mật thiết với nhau " Cái này có thì cái kia có, cái này tốt thì cái kia tốt " ; do đó, muốn cho cuộc sống riêng và chung được an lành thì không những phải tu dưỡng bản thân, phật hóa gia đình mà còn phải cải tạo xã hội. Phật tử có bổn phận đóng góp vào công cuộc cải tạo xã hội, muốn đóng góp của mình có kết quả tốt đẹp thì trước tiên phải tự cách mạng bản thân : loại bỏ tâm mưu cầu danh lợi, đào luyện chí nguyện lợi tha, rồi quyết tâm phục vụ cho quyền lợi đồng bào và xã hội. Tài năng tuy cần thiết song đạo đức vẫn là yếu tố không thể thiếu trong công việc ích người lợi xã hội. Cư sĩ, nếu có đủ khả năng nên tham dự tất cả công tác xã hội như chính trị, kinh tế, y tế... Ðạo lý Duyên khởi dạy cho người phật tử biết linh động trong việc khảo sát sự vật và thực hiện công tác tu dưỡng bản thân cũng như cải tạo xã hội. Có thể đặt vấn đề tu dưỡng cá nhân trước và cải tạo xã hội sau, cũng có thể cải tạo xã hội trước và tu dưỡng cá nhân sau, tùy theo sự quan trọng của vấn đề trong hoàn cảnh nào đó, hoặc cả hai vấn đề có thể được thực hiện một lần.36. Cho biết thái độ phật tử đối với việc xây dựng hòa bình ?
- Xét về đạo lý và lịch sử thì đạo Phật quả là đạo hòa bình. Mục đích cao nhất của đạo Phật là Nirvâna mà một trong nhiều định nghĩa là hòa bình (Santi, Sun, 204). Ðức Phật cũng được gọi là ông Hoàng Hòa bình (Santirâja). Phương thức tu dưỡng do Phật chỉ dạy là lối sống hòa hợp (samacariya) với con người.Theo đạo lý Duyên khởi thì sự vật do nhiều nhân duyên mà phát sinh và hiện hữu. Nếu đã nhờ nhau nương nhau mà sống còn thì loài người phải làm cho những tương quan, tương duyên tốt đẹp để cùng nhau vui hưởng an lành.
Ðể phá về sự ngăn cách chống đối giữa những cá nhân, giữa những tập thể thì không gì tốt đẹp hơn là tu học theo đạo lý vô ngã (anâtta). Ðạo lý này chủ trương con người cũng như sự vật không hề có cái ta biệt lập - nguyên nhân của ích kỷ, tự tôn, tự kiêu... Xã hội và tập thể không phải là những cấu trúc cứng nhắc, không biến đổi mà chỉ là những giả hợp của nhiều yếu tố như nhân sự, kinh tế, chính trị... Do đó, muốn sống cao đẹp thì phải sống theo tinh thần vô ngã, lợi tha, muốn tổ chức xã hội một cách hợp lý, công bình thì nên tổ chức theo tinh thần cộng đồng, hòa hợp.
Về phần đào luyện đạo đức thì hầu hết phương pháp tu dưỡng trong đạo Phật đều nhằm mục đích diệt trừ tham lam, thù hận và xây dựng an lành cho mình, cho người trong tinh thần từ bi :
Ngoài ra, Phật còn dạy nhiều phương pháp xây dựng hòa bình một cách xác thực mà 6 nguyên tắc sau đây là căn bản : 1. thân hòa cùng chung sống, 2. miệng hòa không cãi cọ, 3. ý hòa cùng vui vẻ, 4. kiến (tư tưởng) hòa cùng thông cảm, 5. giới (kỷ luật) hòa cùng tôn trọng, 6. lợi hòa cùng hưởng thụ."Như mẹ hiền thương yêu con một
Dám hy sinh bảo vệ cho con
Với muôn loài ân cần không khác
Lòng ái từ như bể như non
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ
Mở rộng lòng thương không giới hạn."
(Kinh từ bi, Sun, 1.8)Như vậy phật tử khi xây dựng hòa bình cho mình cho người không phải chỉ làm theo lời khuyên đạo đức mà hành động đúng theo cơ sở đạo lý của Phật.
37. Vì sao phải phổ biến chánh pháp ?
- Phật tử phải phổ biến chánh pháp bởi vì chánh pháp là ánh sáng chân lý, là nguồn vui bất diệt cho loài người. Phật tử phải vận dụng mọi phương tiện tốt để đem chánh pháp đến cho đời : nghĩa là làm cho mọi người hiểu và sống Ðạo. Phật tử làm công việc này với mục đích "đem an vui đến cho muôn người " chứ không phải để gây thanh thế cho đạo của mình. Người cư sĩ không những chỉ ủng hộ chư tăng trong công việc truyền bá chánh pháp, mà còn phải tự mình truyền bá chánh pháp. Chính người cư sĩ, với hình thức tại gia, rất thích hợp và dễ dàng Phổ biến chánh pháp bằng cách sống đạo để làm gương và khuyến khích những người gần gũi mình hướng thiện. Sự tồn tại của đạo Phật không chỉ ở nơi sự nguy nga tráng lệ của chùa chiền, sự giàu có và uy quyền của giáo hội mà ở nơi sự sống đạo của phật tử và mọi người. Vì thế phổ biến chánh pháp tức là bảo vệ chánh pháp.38. Muốn phổ biến chánh pháp nên theo những quy tắc nào ?
Ai muốn phổ biến chánh pháp, trước hết nên phát tâm từ bi đối với tất cả mọi người. Rồi tùy theo hoàn cảnh, tìm những người gần mình hoặc có duyên với mình để dìu dắt họ hướng về lý tưởng giác ngộ. Trong khi dìu dắt cố gắng áp dụng bốn phương pháp nhiếp người sau đây :1. San sẻ (bố thí) : chia sớt vật chất, công sức và văn hóa.
2. Ðẹp lời (ái ngữ) : nói năng hòa nhã, dịu dàng, dễ nghe.
3. Ích người (lợi hành) : phục vụ một cách không vụ lợi mà chỉ nhằm lợi ích cho người khác.
4. Gần gũi (đồng sự) : hiểu biết trình độ, thông cảm nếp sống, tâm tình của người, sống gần và nói, làm như người mình muốn dìu dắt (cũng có nghĩa là phục vụ một cách bình đẳng không phân biệt).Bốn phương pháp nhiếp người trên đây là nghệ thuật dìu dắt người trong mục đích phổ biến chánh pháp.
- Quy y nghĩa là hướng về và sống theo Phật, Pháp, Tăng. Sự quy y làm chúng ta trở thành phật tử. Bất cứ ai biết hướng về và sống theo "ba ngôi báu" đều là người đã quy y. Song theo phong tục thì một người được nhận là đã quy y sau khi tham dự lễ "nhập đạo" do một hay nhiều thầy chứng minh. Trong lễ này, người quy y xác nhận sự hướng về các đấng giác ngộ, sống theo đạo lý giác ngộ và bằng lòng sự hướng dẫn của những người có kinh nghiệm giác ngộ và sống hòa hợp với các bạn cùng lý tưởng.
6. Linh tinh Sau phần trên, người quy y được đặt cho một tên đạo (pháp danh, như : Tâm Minh, Nguyên Quang...) và được khuyến khích tu học theo năm điều nên học (giới). Quy y còn có nghĩa là ý thức và phát triển khả năng giác ngộ (Phật), chân lý nhiệm mầu (Pháp) và đức tính hòa hợp (Tăng) sẵn có trong mỗi người.
40. Có nên đi chùa và gặp các người tu hành không ?
- Nên, ít nhất một tháng hai lần cùng đi lễ Phật, tụng kinh, tham thiền và góp phần xây dựng giáo hội với các phật tử khác. Không khí đạo vị ở chùa viện giúp chúng ta tăng trưởng niềm tin và ý chí hướng thượng. Sự hòa hợp với những người đồng đạo giúp chúng ta tiến bộ trong đời sống đạo. Phật tử nên gần gũi tăng ni để học hỏi đạo lý và kinh nghiệm tu dưỡng.41. Thờ Phật trong nhà có lợi ích gì ?
- Sự thờ Phật trong nhà đem lại ảnh hưởng tốt đẹp cho việc tu dưỡng và cho hòa khí trong gia đình. Chọn nơi trang nghiêm nhất trong nhà, trang trí một tượng hay ảnh Phật đẹp. Trên bàn thờ Phật không nên bày biện rộn ràng : một bình hoa, một lư hương, một đôi đèn là đủ.Hình ảnh Bi, Trí, Dũng của đức Phật ảnh hưởng thường xuyên lời nói và việc làm của chúng ta, nhắc nhở chúng ta cố gắng trên đường giác ngộ.
42. Cho biết ý nghĩa của sự tụng kinh ?
- Tụng kinh không phải là cầu khẩn mà là đọc tụng những kinh nghiệm giác ngộ của Phật và những lời cao đẹp của Ngài. Tụng kinh là một trong những cách huân tập (xông ướp) chân lý cao siêu, ý đạo nhiệm mầu vào tâm tư.Nên đọc tụng các kinh bằng thứ chữ mà mình hiểu nghĩa lý một cách rõ ràng để sự huân tập được sâu sắc. Nên tụng kinh hàng ngày nơi tôn nghiêm vào lúc trước khi đi ngủ hoặc sau khi vừa thức dậy. Nếu không có bàn thờ Phật thì có thể tụng kinh ngay trong phòng ngủ hay ở bàn làm việc. Chuông mõ chỉ là những nhạc cụ giúp cho sự hòa nhịp, nhất là lúc nhiều người đồng tụng. Vì thế có thể tụng kinh mà không có chuông mõ. Nên chọn những kinh có ý nghĩa và thích hợp mà tụng, "Tụng trăm bài kệ vô nghĩa chẳng bằng tụng một lời đúng chánh pháp, mà khi nghe đến người ta được an lành" (Pháp cú, 102).
- Sám hối nghĩa là ăn năn những lỗi lầm đã phạm và hứa nguyện không tái phạm. Muốn tiến bộ trên đường giác ngộ, phải sám hối hàng ngày. Sau khi tụng kinh, tham thiền hoặc trước khi đi ngủ, nên ngồi yên lặng trong năm phút, lấy năm điều tu học (giới) để xét việc làm, lời nói và ý nghĩ trong ngày. Nếu thấy có những hành động không tốt thì nên sám hối ngay. Nếu được thì nên dự các lễ sám hối vào ngày 14 hay 30 âm lịch tại chùa. Tốt hơn nữa là mời một vài người mình tin tưởng và kính mến chứng minh cho sự sám hối các lỗi nặng. Trong khi tĩnh tâm xét mình, nếu thấy đã có những hành động thuận hợp năm điều tu học thì nên hoan hỷ và nguyện cố gắng phát triển. - Niệm Phật là tưởng nhớ các đấng Giác ngộ bằng cách đọc lên các danh hiệu các vị ấy, như đọc "Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật" hay đọc vắn tắt "Nam mô Phật" (nghĩa là kính lễ đức Giác ngộ). Chiêm ngưỡng hình tượng của Phật cũng là cách khác của sự niệm Phật. Qua danh hiệu và hình tượng của Phật, người niệm Phật tưởng nhớ đến đức tính từ bi, hỷ xả của Phật. Sự nhớ tưởng này làm phát sinh và tăng trưởng đức tính từ bi hỷ xả nơi người niệm Phật.Có thể niệm Phật trong bất cứ lúc nào, song niệm Phật trước khi đi ngủ là tốt nhất vì thiện tâm sẽ được nảy nở liên tục ngay trong giấc ngủ, nhờ đó mà được an lành và không có ác mộng.
- Tu thiền là tu tập các phương pháp chỉ (samatha) và quán (vipassanâ). Chỉ nghĩa là kiểm soát tư tưởng và tập trung tâm lực. Phương pháp "chú ý hơi thở " là phương pháp chỉ tốt nhất. Quán nghĩa là phát triển khả năng nhận thức theo kinh nghiệm giác ngộ của Phật để ngộ đạt chân lý. Tùy theo trình độ mà người tham thiền được các vị thiền sư dạy cho các đề mục khác nhau. Ví như người hay nóng giận thì tu tập đề mục từ bi (mettâ), người hay cố chấp thì tu tập đề mục vô ngã (anattâ)...Dù tu tập đề mục gì cũng phải tuân theo những điều cần yếu như giữ gìn các điều tu học căn bản, ở nơi thanh tịnh, gần gũi thầy sáng, bạn lành, ăn uống tiết độ, mặc quần áo rộng rãi, ngồi đúng cách... Có thiền định mới có trí tuệ, do đó muốn đạt đạo không thể không tu thiền.
- Ăn chay là ăn toàn rau trái mà không ăn thịt cá. Ăn chay là biểu lộ lòng từ bi đối với loài vật, tuy ngu si hèn yếu hơn người nhưng vẫn ham sống sợ chết. Ăn chay nếu ăn đủ chất bổ, giúp chúng ta được nhẹ nhàng khoẻ khoắn, dễ dàng tu dưỡng. Phật tử ăn chay là vì từ bi mà không phải vì sợ và kính thú vật như người theo Ấn độ giáo hay vì kiêng cử như người theo các tôn giáo khác.Phật tử ở nhà nếu chưa ăn chay thường xuyên (trường trai) thì nên cố gắng ăn chay một tháng hai ngày (rằm và mồng một). Trong những ngày ăn chay, nếu được nên phát nguyện tu dưỡng theo tám điều tu học (bát quan trai) : năm điều tu học thường và thêm ba nữa là : không ăn quá ngọ, không xem nghe ca múa, không trang điểm và ngồi nằm trên giường ghế cao đẹp. Sự tu dưỡng theo tám điều tu này giúp ta dễ dàng có định tâm và phát triển trí tuệ.
47. Phật tử phải kỵ giỗ như thế nào cho hợp đạo ?
- Kỵ giỗ là một phong tục tốt vì đó là sự tỏ lòng tưởng nhớ, thương mến và biết ơn đối với người đã qua đời. Trong khi kỵ giỗ, lòng thành là quan trọng chứ không phải phẩm vật hay hình thức cúng kính rộn ràng? Do đó phật tử nên tổ chức kỵ giỗ càng trang nghiêm càng tốt. Không nên tiêu phí tiền bạc, thì giờ, ăn uống linh đình. Nên nhân những ngày kỵ giỗ để đoàn kết gia đình, bạn bè và học tập những đức tính cao thượng tốt đẹp của tiền nhân. Có thể kỵ giỗ trong hình thức cầu siêu ở nhà hoặc ở chùa để thêm phần ý nghĩa và trang trọng. - Phật dạy :"Người nào muốn phụng sự Như Lai thì hãy săn sóc người bệnh". Do đó phật tử, đối với người đau ốm tật bệnh phải lưu tâm thăm viếng, săn sóc hỏi han, tùy theo bệnh hết lòng thuốc men giúp đề, không nên tin nhảm nhí vào đồng cốt dị đoan. Trong khi tụng kinh, niệm Phật nên rải lòng từ bi đến người bệnh và cầu mong cho họ được chóng bình phục và an lành.49. Gia đình phật tử nên tổ chức lễ cưới cho con cháu như thế nào ?
- Từ lâu người ta thường nghĩ rằng việc hỏi cưới là việc đời không dính gì đạo. Các tu sĩ Phật giáo Việt nam cũng ít khi làm lễ cưới cho phật tử tại chùa hoặc tại hội quán. Theo giới luật của người xuất gia thì các thầy không được làm mai mối, song có thể chứng minh cho lễ giao ước sống chung và xây dựng gia đình của hai phật tử hay của một phật tử với một không phật tử, miễn là hai người này thuận tình và tôn trọng lý tưởng của nhau. - các nước Phật giáo nguyên thủy, các tu sĩ vẫn chứng minh cho lễ cưới của phật tử tại nhà.Ðể hòa hợp với lễ giáo dân tộc hoặc phong tục xã hội, gia đình phật tử có thể tổ chức hai lễ : một lễ tại nhà riêng với những thủ tục phải làm tại trụ sở hành chánh cùng sự tham dự của tất cả những người thân hay liên hệ, một lễ khác tại chùa hoặc tại hội quán với sự chứng minh của các thầy và các đạo hữu. Trong trường hợp muốn giản dị hóa nghi lễ thì phần đầu có thể làm nhẹ đi và phần thứ hai là phần chính. Trong phần nghi lễ tại chùa hay hội quán, nếu hai vợ chồng chưa chính thức quy y "ba ngôi báu" và chưa hứa nguyện giữ gìn năm điều tu học thì sẽ được thầy chủ lễ, trước hết là truyền ba quy y và năm điều tu học, kế đó là được thầy khuyên nhủ bằng cách đọc và giảng những điều dạy của đức Phật về bổn phận của chồng đối với vợ, vợ đối với chồng, cha mẹ đối với con cái... (nếu cần trích dẫn phần quan trọng trong kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt (Sigalovâda) Trường bộ kinh số 31). Thầy chủ lễ cũng nên giảng ý nghĩa của chiếc nhẫn mà người chồng đeo cho vợ và vợ đeo cho chồng là biểu trưng của hạnh phúc gia đình trong sự nhẫn nhục tha thứ, hiểu biết và thông cảm cho nhau. Cuối cùng, một buổi trà đạo có thể được tổ chức ở phòng khách của chùa hay hội quán.
Theo đạo Phật, lễ cưới là một lễ rất long trọng của hai người khác phái muốn làm bạn với nhau để xây dựng hạnh phúc gia đình. Vì thế cốt yếu của lễ cưới là làm sao cho vợ chồng mới hiểu biết bổn phận đối với nhau, nghệ thuật sống chung với nhau và nhất là hứa nguyện thương yêu chân thành, đối xử bình đẳng và sẵn sàng giúp nhau tiến bộ trong cuộc sống an lành, cao đẹp và hy sinh cho con cháu về sau. Gia đình phật tử phải hiểu và tổ chức lễ cưới cho con cháu trong ý nghĩa ấy. Ðiều nên tránh là không nên phỏng theo ý nghĩa và hình thức nghi lễ của các tôn giáo khác mà nội dung giáo lý về hôn nhân khác hẳn đạo Phật. Và cũng nên giảm bớt hình thức ồn ào, nghi lễ nặng nề và nhất là không nên xa xỉ, mê tín.
50. Xin cho biết thái độ của gia đình phật tử đối với vấn đề hạn chế sinh sản.
- Ngày nay người ta thường bàn đến vấn đề hạn chế sinh sản và thái độ của những người có tôn giáo đối với vấn đề này. Có một vài tôn giáo xem vấn đề hạn chế sinh sản là một "tội lỗi" vì nó chống trái với giáo điều của họ. Phật tử không bị mắc kẹt trong vấn đề này. Bởi vì theo đạo Phật sự sống của con người được hình thành trong lúc đầu tiên bởi ba yếu tố :1. Noãn châu của người mẹ đang ở trong thời kỳ có thể sinh con.
2. Tinh trùng người cha.
3. Thần thức (gandharva) sẵn sàng để được sinh (xem Majjhimanikâya, II.156 và Abhidharmakosa, III.12 trang 37 ghi chú số I).Như vậy nếu không có sự hòa hợp của cả ba yếu tố trên thì bào thai không thể hình thành. Do đó gia đình phật tử, sau khi xét khả năng sinh đẻ và nuôi dưỡng con cái của mình, có thể hạn chế sinh sản bằng cách áp dụng những phương pháp hạn chế sinh sản mà khoa học đã tìm ra. Tuy nhiên, hạn chế sinh sản không có nghĩa là phá hoại sự sống của con cái. Cũng như người yêu hoa giữ gìn hạt hoa và nụ hoa, Phật tử luôn luôn tôn trọng, bảo vệ sự sống kể cả mầm sống.
"... Không bỏ sót một hữu tình nào,
Kẻ ốm yếu hoặc người khoẻ mạnh,
Giống lớn to hoặc loại dài cao,
Cỡ trung bình, hoặc ngắn, nhỏ, thô.Có hình tướng hay không hình tướng,
Ở gần ta hoặc ở nơi xa,
Ðã sinh rồi hoặc sắp sinh ra,
Cầu cho tất cả đều an lạc."
(Kinh Từ bi - Mettâ Sutta)- Khi biết người thân sắp từ trần thì người trong nhà không nên kêu khóc mà nên xếp dọn chung quanh chỗ người chết, trang trí tượng Phật hay hoa, mời thầy hoặc người mà người sắp chết kính mến đến để khuyên bảo người sắp chết không nên sợ hãi, buồn rầu mà nên nhớ lại những công đức đã làm và nhất tâm thiền định hay niệm Phật. Ngay lúc người thân gần trút hơi thở cuối cùng, tất cả mọi người trong nhà họp lại, tỉnh táo niệm Phật để cho người thân chết một cách nhẹ nhàng an lành. Nên để người chết nằm yên vài giờ, không nên đụng mạnh vào thân thể vì có thể làm cho người đang mất đau đớn mà sinh nóng giận, có hại. Nên tổ chức lễ an táng một cách giản dị, ít tốn kém. Tránh ma chay, đãi đằng linh đình. Cũng không nên tiêu phí quá nhiều trong việc xây cất mồ mả. Nếu giầu có nên làm việc phước thiện để hồi hướng công đức cho người chết.
51. Phải làm gì khi trong nhà có người chết ?Tính theo ngày chết, cứ bảy ngày thì làm một lễ cầu siêu giản dị (cắm hoa, thắp hương và ngồi tưởng niệm và nếu có thể thì tụng kinh Từ bi) một lần để tưởng nhớ, cầu nguyện cho người thân, đủ 49 ngày thì thôi. Về lễ cầu siêu thì có thể tổ chức tại nhà hoặc ở chùa. Ngoài bàn thờ Phật nên thiết một bàn thờ nhỏ gồm có hình ảnh người thân đã mất, nến, hoa và hương. Nếu có thầy chủ lễ thì quí, không thì bà con trong gia đình và đạo hữu tụnh kinh cầu siêu và quán từ bi (mettâbhâvanâ) để cầu cho người chết được sinh về nơi an lành.
52. Phật tử phải đối với người khác tư tưởng, khác đạo như thế nào ?
- Ðối với người khác đạo, khác tư tưởng, phật tử không nên kỳ thị, kiêu hãnh mà nên chân thành tìm hiểu so sánh tư tưởng hay tín ngưỡng của người khác. Nhất quyết không nên tranh luận với mục đích chống đối, chinh phục hay khinh miệt tín ngưỡng, tư tưởng của kẻ khác. Cũng như người yêu hoa, mình có quyền yêu thứ hoa mà mình thích nhất nhưng không ai lại chê bai thứ hoa mà người khác thích. Phật tử yêu kính đạo Phật nhưng luôn luôn tìm hiểu, khoan dung và tôn trọng tư tưởng cũng như tín ngưỡng của người khác.Thích Thiện Châu
[ Trở Về ] [ Trang trước ]
Tiểu Sử
Hòa thượng Thích Thiện ChâuHòa thượng họ Hồ Ðắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Ðắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần.
Ðọc tại buổi lễ tưởng niệm và lễ Trà Tỳ Hòa thượng Thích Thiện Châu Thầy xuất gia năm 16 tuổi (1947) và thọ giới tỳ kheo năm 1952. Bổn sư của Thầy là Cố Ðại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nguyên, Viện chủ Tổ Ðình Tây Thiên (Huế).
Từ năm 1948 đến năm 1958, Thầy theo học tại trường Phật học Báo Quốc. Ra trường năm 1958, với một căn bản Phật học và Hán Văn vững chắc, một tinh thần năng nổ hết lòng vì Ðạo, Thầy trở thành giảng sư xuất sắc và trẻ nhất vào thời đó, thuyết giảng tại các tỉnh miền Trung: Quảng Trị, Huế, Ðà Nẵng, Ðà Lạt, Phan Thiết, Nha Trang, Ban Mê Thuột... và cuối cùng là Sài Gòn, trước khi lên đường du học sang Ấn Ðộ vào năm 1961.
Tại Ấn Ðộ, Thầy đã đậu bằng Cử nhân Pâli (Pàlyacharya) và Cử nhân Anh Văn (năm 1965).
Năm 1966 Thầy qua Anh theo học tại Học viện Ðông Phương và Phi Châu (School of Oriental and African Studies).
Ðến năm 1967 Thầy qua Pháp, thể theo lời mời của Phật tử Việt Nam tại đây, đang cần người hướng dẫn tu học.
Năm 1971, Thầy đậu bằng Tiến Sĩ Triết Học (Docteur 3e cycle-Sorbonne).
Năm 1972, Thầy trở thành Nghiên Cứu Viên của Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Quốc Gia Pháp (CNRS).
Năm 1978, Thầy đậu bằng Tiến Sĩ Quốc Gia Văn Học và Khoa Học Nhân Văn (Docteur d'Etat ès lettres et sciences humaines), tức là bằng cao nhất có thể đạt được trong môn này.Song song với học chữ, Thầy còn hướng dẫn tu học cho Phật tử Việt kiều tại Pháp và Tây Ðức, và tham gia tích cực vào Phong Trào đòi Hòa Bình của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ.
Ngay từ năm 1966, tuy ở tại Anh Quốc Thầy vẫn thường qua Pháp hướng dẫn tu học cho Phong trào Việt kiều Phật tử tại đây, mà nòng cốt là Ðoàn Sinh Viên Phật tử, đang gặp khó khăn trầm trọng về tổ chức. Ðến năm 1967 thì Thầy ở lại hẳn bên Pháp. Dưới sự hướng dẫn tinh thần của Thầy, Ðoàn Sinh Viên Phật Tử đã được củng cố lại và vào những năm 68, 69, trở thành một trong những tổ chức vững mạnh nhất của Việt kiều tại Pháp vào thời bấy giờ, với tờ báo Gió Nội. Cùng khoảng thời gian đó, Ðoàn Sinh Viên Phật Tử Việt Nam tại Tây Ðức được thành lập. Hai Ðoàn kết hợp lại thành Liên Ðoàn Sinh Viên Phật Tử Việt Nam tại Âu Châu (1-7-1970), hàng năm đều tổ chức trại sinh viên, hè tại Pháp đông tại Tây Ðức. Thầy luôn luôn có mặt tại các trại, hướng dẫn tu thiền và giảng dạy giáo lý cho các trại sinh.
Hội Phật Tử Việt Kiều Hải Ngoại, Chi Bộ Pháp, do Thầy trực tiếp lãnh đạo với tư cách là chủ tịch Hội bao gồm Ðoàn Sinh Viên Phật tử và nhiều phân hội khác, quy tụ công nhân, trí thức, thương gia... Song song với tờ báo Gió Nội, đo doàn Sinh Viên Phật Tử VN tại Pháp đảm trách, bám chặt thời cuộc, và cũng là phương tiện đấu tranh cho Hòa Bình tại Việt Nam, Thầy còn cho ra thêm tờ Tin Phật (1968), nhắm các giới trung và cao niên, và thiên nặng về giáo lý phổ thông hơn. Bên Ðức có tờ Ði Tới do Ðoàn Sinh Viên Phật Tử Việt Nam Tại Tây Ðức chủ trương, sau đó được thay thế bằng tờ Biển Ðông, cả hai đều nhận sự chỉ đạo của Thầy.
Về Phật sự, thời đó chưa có chùa. Các buổi lễ Phật được tổ chức tại các phòng công cộng, thuê hoặc mượn. Vào đầu thập niên 70, các buổi Lễ Tết quy tụ hàng ngàn người.
Nghi thức tụng niệm hoàn toàn bằng tiếng Việt, chỉ có phần "Tam quy, ngũ giới" thì bằng chữ Pali, có dịch chữ Việt, vì thuở đó, trong các buổi lễ có rất nhiều phật tử Pháp hay người nước khác. Khi đông người ngoại quốc thì đọc Tam Quy Ngũ Giới bằng Pali, còn thông thường đọc bằng chữ Việt.
Vào năm 1975, các Ðoàn Sinh Viên Phật tử tại Pháp và Ðức giải thể, Ðoàn viên phân tán đi mọi nơi. Cùng một số người cũ, Thầy thành lập Hội Phật tử Việt Nam tại Pháp, và ra tờ báo Hương Sen (1975). Ðầu năm 1977, Thầy cùng với Ni Sư Mạn Ðà La khởi công quyên góp xây Trúc Lâm Thiền Viện với ý nguyện xây dựng "một ngôi chùa Việt Nam trên đất Pháp", thực sự Việt Nam. Sau đó Thầy Phước Ðường, đang trụ trì một chùa ở Nha Trang, được mời qua tiếp sức. Năm 1980, Trúc Lâm Thiền Viện được khởi công xây, và đến năm 1990 làm lễ khánh thành. Trong khoảng thời gian này, Thầy thường đi thuyết giảng và dạy Thiền tại một số trường Ðại Học hay trường cao đẳng ở các nước Pháp, Tây Ðức, Thụy Sĩ, các Trung tâm tôn giáo quốc tế, Tin Lành hay Gia Tô Giáo...
Từ năm 1995 đến năm 1998, Thầy tổ chức nhiều buổi hội thảo, với mục tiêu vận dụng giáo lý Phật để tìm câu trả lời cho những vấn đề lớn của thời đại như: Sinh Ðạo Ðức, Môi Sinh, vị trí của nữ giới, vai trò của người cư sĩ, Thiền định với cuộc sống hôm nay, Sống thời đại theo tinh thần Ðức Phật ... Những buổi hội thảo này quy tụ rất nhiều trí thức Việt kiều đang sinh sống tại các nước phương tây, như Pháp, Ðức, Mỹ... với sự tham gia của nhiều vị Tôn Ðức từ trong nước qua như Hòa Thượng Thích Minh Châu, Hòa Thượng Thích Trí Quảng, Thượng Tọa Thích Chơn Thiện, nhiều Cư sĩ kỳ cựu của Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo như CS Võ Ðình Cường, CS Tống Hồ Cầm, GS Minh Chi, GS Trần Tuấn Mẫn...
Thầy cũng thường về nước tham dự công việc Hoằng Pháp Lợi Sinh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, và đã giữ những trách nhiệm:
- Ủy Viên Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
- Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
- Phó Chủ Tịch Hội Ðồng Phiên Dịch và Ấn Hành Ðại Tạng Kinh Việt Nam
- Phó Viện Trưởng Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Huế
- Ðại Diện Giáo Hội PGVN ở Hải Ngoại
- Chủ Tịch sáng lập Hội Phật Tử Việt Nam tại Pháp
- Viện Chủ Trúc Lâm Thiền ViệnVề thế học, Thầy đã đạt được mức độ tột cao, về đạo học Thầy có một kiến thức uyên thâm, Thầy được mọi nơi biết tiếng, từ quê nhà đến nơi hải ngoại, nhưng phong cách của Thầy luôn luôn khiêm tốn hiền hòa.
Mọi người còn nhớ hình ảnh của một vị sư trẻ, năm xưa, sống thanh đạm, đơn sơ, trong một căn phòng trọ nhỏ tí, chót vót trên lầu sáu, lầu bẩy, xát mái nhà, tại thành phố Paris. Và hình ảnh của những trại hè sinh viên, một người tu sĩ áo nâu, chiều chiều ngồi dùng trà trước túp lều nhỏ, được kín đáo dựng bên cạnh bụi cây. Một bình trà nhỏ, bốn chén đất nung, nhỏ bằng đốt ngón tay, ai có duyên ghé ngang xin mời ngồi, giọng nói luôn luôn hòa ái, dịu ngọt, khiêm tốn, lễ độ với mọi người, từ cụ già cho tới những thanh thiếu niên, hay đám sinh viên cứng đầu cứng cổ, tưởng như trên đời chẳng biết nể vì ai... Vâng! "lễ độ" với mọi người, không mảy may phân biệt ! Gói ghém trong những cái đơn sơ, tầm thường, nhỏ bé ấy, là một lòng tin vững chắc vào Ðạo Phật Việt Nam, vào Dân tộc Việt Nam, vào tiếng nói của người Việt Nam... với một quyết tâm thực hiện cho được lý tưởng của mình, không sợ hãi bất cứ một thế lực nào, và không một sức mạnh nào lay chuyển nổi.
Lúc 11 giờ 30 ngày 05 tháng 10 năm 1998 tức ngày rằm tháng 8 năm Mậu Dần, Thầy đã ra đi ! Phải chăng là ra đi vĩnh viễn ? không hẳn đâu, vì Thầy vẫn còn để lại cho đệ tử, cho hậu thế cả một chương trình to lớn để theo đuổi, với những mục tiêu rõ rệt, cụ thể. Chương trình này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các bài giảng, các bài báo hay sách vở Thầy soạn từ hơn 30 năm qua, và có thể tóm thâu trong những điểm sau đây:
1 - Sống sao cho đúng là người Phật tử Việt Nam, sống đạo Phật với bản sắc văn hóa Việt Nam, gột sạch những vẩn đục của mê tín dị đoan.
2 - Thể hiện phương châm "người Việt nói tiếng nước Việt", cố gắng Việt hóa kinh điển, tụng niệm. Quyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Trúc Lâm hoàn toàn bằng tiếng Việt, không một bài kinh chữ hán, không một bài chú. Và quyển Nghi thức này đã được Phật tử tụng từ hơn 30 năm nay.
3 - Vận dụng "cộng nghiệp" để thực thi phương châm "Thể hiện đạo Pháp, phục vụ dân tộc"
4 - Vận dụng Giáo lý Phật để tìm câu trả lời cho các vấn đề lớn của thời đại.
Thầy đã ra đi, nhưng những ai còn kiên tâm đi theo đường Thầy chỉ dạy sẽ luôn luôn có Thầy bên cạnh.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Villebon ngày 11 tháng 10 năm 1998
( 21 tháng 8 năm Mậu Dần )
đệ tử Nguyên Ðạo Lại Như Bằng*** Những tác Phẩm của
HT Thích Thiện Châu. Ðường về xứ Phật (đồng tác giả), Sài Gòn 1964
. Tin Tưởng, 1964
. Vài lá Bồ đề, Paris 1972
. Phật Tử, TPHCM 1972
. Nghi Thức Lễ Phật, Paris 1968
. Pháp Cú (Dhammapada) dịch từ Pàli, Paris 1980
. Tìm Ðạo, TP HCM 1996
. Le traité des trois lois (Tridharmakasàstra), Luận án Tiến sĩ Triết Học - Sorbonne 1971
. La littérature des personnalistes (Pudgalavadin) dans le boudhisme ancien, Luận án Tiến sĩ Quốc Gia về văn chương và Khoa học nhân văn - Sorbonne 1977
. La recherche spirituelle dans le bouddhisme, Paris 1978
. La vie et la mort dans le bouddhisme, Paris, Paris 1978
. Dictionnaire des philosophes (đồng soạn giả) - Paris 1988
. The literature of the Personnalists (Pudgalavadins) of early buddhism - 1997
. Être Bouddhiste, Paris 1997
. Và rất nhiều bài báo, giới thiệu, diễn giải Kinh được đăng trong Gió Nội, Tin Phật, Ði Tới, Hương Sen trong hơn 30 năm.
[ Trở Về ] [^ đầu trang]