Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 47: Ba ải của Đâu Suất (Đâu Suất tam quan)[1].

兜率三関

Bản tắc:

Hòa Thượng Đâu Suất Tùng Duyệt[2] dựng ba cửa ải[3] (đặt ba vấn đề) để hỏi người tu học:

1-Ông tham thiền các nơi, thâu thập được nhiều cơ sở về tôn chỉ (bát thảo tham huyền[4]) hẳn chỉ vì một lý do mà thôi, đó là tìm hiểu cho được bản tính của mình (kiến tính)[5]. Thế thì ngay ở đây, bây giờ, thử hỏi cái bản tính của ông (tự tính) nằm ở chỗ nào?

2-Chỉ cần nắm được vững vàng cái bản tính của mình thôi, nhất định sẽ thoát khỏi sự mê muội trong vòng sinh tử. Như gặp trường hợp sắp sửa chết (nhãn quang thoát thì), thử hỏi ông làm cách nào để thoát ra khỏi tấm thân của mình?

3-Nếu thóat được khỏi vòng sinh tử thì sẽ biết khi chết rồi mình sẽ đi về đâu. Thế thì khi xương thịt của ông tan rã (tứ đại phân ly), ông định lựa hướng nào mà đi đây?

 

Bình Xướng:

Vô Môn mới nói rằng:

Nếu như khi đứng trước ba câu hỏi như thế này mà đưa ra được những câu trả lời đúng đắn và chân thực để khai ngộ (chuyển ngữ) thì cho dù ở đâu cũng tiếp tục giữ được chủ thể tính (tác chủ) mà không hề bị hoàn cảnh chi phối. Rồi nếu được cơ duyên nào đó dẫn dắt (ngộ duyên), cứ thế mà đi đúng theo Phật đạo (tức Tông). Thế nhưng nếu cho mình chưa tìm ra câu trả lời thì nên bỏ lối ăn uống ngấu nghiến sao cho đầy bụng mà ăn uống từ tốn, nhai cho kỹ lưỡng để chịu đói được lâu [6].

 

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Nhất niệm phổ quan vô lượng kiếp[7],
Vô lượng kiếp sự tức như kim.
Như kim thứ
[8] phá cá nhất niệm,
Thứ phá như kim thứ để nhân.

一 念 普 觀 無 量 劫
無 量 劫 事 即 如 今 
如 今 覷 破 個 一 念 
覷 破 如 今 覷 底 人

(Trong sát na thấy muôn ngàn kiếp,
Thì muôn ngàn kiếp tức giờ đây,
Một sát na này mà hiểu thấu,
Sẽ rõ con người của hiện nay).

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Thiền sư Đâu Suất Tùng Duyệt (1044-1091) là tăng tông Lâm Tế dòng Hoàng Long. Pháp tổ Hoàng Long có làm ra Hoàng Long tam quan để làm điểm tựa dạy cho người tu hành. Có lẽ vì thế Đâu Suất mới bắt chước, dựng ra Đâu Suất tam quan cũng với mục đích hướng dẫn thiền sinh học tập.

Để tiện bề tham khảo, xin kể ra Hoàng Long tam quan là những cửa ải (câu hỏi) sau đây:

1-     Nếu so sánh cánh tay của ta với cánh tay của Phật thì thấy thế nào?

2-     Nếu so sánh chân ta với chân lừa thì thấy thế nào?.

3-     Mối người đều có cái duyên sinh ra ở một vùng đất khác nhau. Đất là ông có sinh duyên là ở đâu?

Trở lại với nội dung của tắc này. Câu hỏi đầu tiên của Đâu Suất là nếu mục đích của người tu học là kiến tính (dùng tâm nhãn để nhìn thấy một cách triệt để bản tính của mình, và như thế sẽ ngộ thành Phật), thế thì bây giờ tự tính của anh nằm ở đâu? “Bát thảo tham huyền” không chỉ có nghĩa là vẹt cỏ, lặn lội khắp nơi tìm thầy học đạo mà còn có nghĩa trừ hết phiền não để đến gần với đạo nữa.Nói chung, ông muốn hỏi: Tham thiền nay đã đến đâu rồi?

Do đó, “kiến tính” là một chữ trọng yếu, dùng làm chìa khóa cho cửa ải đầu tiên này. Thế nhưng trong dòng thiền Hakuin, chúng tôi không dùng nó như là một công án đặt vấn đề về pháp thân (dharma-kaya) của tự tính. Có thể xem nó như công án giúp cho người tiến lên trong tâm cảnh đến một chỗ gọi là cửa vào của kiến tính (kiến tính nhập lý) hay chung quanh pháp thân (pháp thân biên tế) mà thôi, nhưng quả là một công án khó nhai. Xưa nay, nó vẫn được xem như công án nghiên cứu về “tự lợi” (làm lợi cho chính mình).

Câu hỏi thứ hai hỏi về thái độ của người ngộ đạo trước cái sống và sự chết. Trước giờ nhắm mắt, làm sao giải thoát mình khỏi nó. Người anh em bà con tôi, một trí thức Nhật Bản bình thường, có bảo tôn giáo chỉ có giá trị cho những người sắp chết và muốn chết yên ổn. Chắc thường tình ai nấy cũng đều nghĩ như vậy. Thế nhưng đối với người tu thiền, phút lâm chung không có gì quan trọng cho lắm. Điều quan trọng là mỗi ngày trong cuộc đời bình thường, mình đã sống như thế nào mà thôi. Nếu thực sự là người đã kiến tính, thì phải thoát ra được khỏi vòng sinh tử. Vòng sinh tử không có nghĩa là cảnh “sinh ra và chết đi” những phải hiểu là “cuộc sống mê lầm”. Thành ra phải trả lời câu hỏi: “Làm sao thoát khỏi cuộc sống mê lầm?”.Câu hỏi làm cách nào để tự giải thoát vào lúc mắt lạc thần (nhãn quang thoát thì), cũng quan trọng nhưng sao quan trọng bằng câu hỏi làm cách nào để giải thoát được trong cuộc sống mỗi ngày (bình sinh). Còn như lúc lâm chung thì tùy theo cái nghiệp (nhân quả của hành vi trong quá khứ) và cái duyên, người ta có thể chết trong sự thư thái hay thống khổ, là điều không còn gì đáng quan trọng nữa.

Câu thứ ba hỏi khi được giải thoát rồi thì muốn đi về chỗ nào (khứ xứ)? Chữ “sinh tử” trong tiếng Phạn bên Ấn Độ, gọi là samusâra, cũng là nguyên ngữ của chữ luân hồi. Người Ấn khi xưa, không cho rằng chết là hết mà tin rằng nhục thể chết rồi vẫn có thể tái tạo để sống trở lại trong một cuộc sống tiếp theo. Chết đi, sinh lại, như thế mà tiếp tục đến vô hạn cái vòng sinh tử. Nhân quả là một cái bánh xe nhỏ. Con người vì cái nghiệp (hành vi) lúc sinh tiền mà sa vào cái  vòng quay của nó (luân hồi) trong lục đạo (địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, tu la, nhân gian và thiên thượng). Nếu cuộc đời có từ năm mươi dến bảy mươi năm thì người ta còn ẩn nhẫn ráng chịu khổ chứ nếu cứ nối tiếp chịu đựng chuỗi dài đau khổ đến vô hạn thì tự thời cổ, con người thể nào không khỏi lo sợ và chỉ mong sao thoát khỏi cái vòng sinh tử luân hồi đó. 

Điểm xuất phát cuộc đời cầu đạo của Đức Thế Tôn cũng là điều đó. Vì muốn thoát khỏi sinh tử, Thế Tôn mới đi tìm bình an vĩnh cửu ở một nơi không có sự tái sinh của khổ giới. Chỗ đó gọi là Niết Bàn. Trên đường tìm về Niết Bàn, ngài tuy không mong đợi mà đã chứng được tâm Bồ Đề, khai ngộ. Trạng thái đó là sự tự giác tự nhận cái tự kỷ bản lai tức là tâm tính bản thanh tĩnh và bất sinh bất diệt nơi mình. Thế rồi, ngài mới đem cái tự kỷ bản lai đó như một cách sống để dạy cho người khác. Phật giáo là như thế.

Vì vậy, tôi mới nghĩ rằng sau khi đã giác ngộ, nhất định Đức Thế Tôn không còn tin vào luân hồi, chuyển sinh gì nữa. Thiền sư Dôgen (Đạo Nguyên) cũng đã gọi ý tưởng “tâm thường, tướng diệt” là “tà kiến ngoại đạo”. “Thân tướng” hay nhục thể, thân xác đã chết đi và bị hủy diệt rồi nhưng “tâm tính” hay linh hồn vẫn thường trụ hay bất diệt, chỉ là lối suy nghĩ của những kẻ ngoại đạo trước đó (nguyên văn: tiên ni) chứ không phải là điều Phật dạy (Phật giáo). Thế mà một số đông người Nhật vẫn còn tin “nhục thể chết chứ linh hồn không chết” và lầm tưởng rằng lý thuyết luân hồi chuyển sinh của người Ấn Độ cổ đại chắc cũng phải là giáo lý nhà Phật nữa. Cứ xem việc mình tin là đúng rồi mở miệng nói rằng những người không tin vào “tam thế nhân quả” là đã suy nghĩ trái với Phật giáo thì rõ khổ!  

Câu hỏi thứ ba của công án này: “Thế ông có biết chết rồi sẽ đi về đâu không?” cũng có liên quan đến lý thuyết “tam thế nhân quả” mà tam thế ở đây có thể hiểu là tiền thế, hiện thế và lai thế. Trong thất của của thiền sư Việt Khê, dưới trướng ngài Hòa Sơn, các bậc thầy không bao giờ đặt vấn đề chết rồi sẽ đi về đâu. Họ chỉ dạy thiền sinh chúng tôi phải nhìn công án này với nhãn quan “tức kim, thử xứ, tự kỷ” nghĩa là dùng nó để hiểu những gì thuộc về cuộc sống thường nhật thiết thân trước mắt.

Tôi có nói rằng sau khi đã giác ngộ, không lý nào Đức Thế Tôn còn tin vào những chuyện sinh tử luân hồi kia nọ.Tuy nhiên, điều tôi muốn đề cập là chuyện sinh tử trong một đời (nhất kỳ sinh tử), nghĩa là việc, sau một cuộc đời năm mươi hay bảy mươi năm, lại tiếp tục sinh ra rồi chết đi, chuyển sinh mãi mãi. Đối với người đã giác ngộ chỉ sống cho “tức kim, thử xứ, tự kỷ (bây giờ, ở đây, chính mình) (hiện thế), không lý gì lại phải bắt buộc họ ôm mối phiền não về những gì gọi là kiếp trước, kiếp sau (tiền thế, lai thế). Tư tưởng luân hồi chuyển sinh của nhất kỳ sinh tử hoàn toàn không mắc mớ gì đến thiền gia cả!

Tuy nhiên, lập trường nói trên của tôi không nhằm phủ định một sự thực nghiễm nhiên là cái sinh tử trong một sát na. (nhất niệm sinh tử). “Nếu sinh ra lòng tham trong một niệm, sẽ rơi xuống hàng ngạ quỉ, nếu sinh ra sự giận dữ trong một niệm, sẽ rơi vào cõi tu la” (Tâm sinh  tham nhật niệm, đọa ngạ quỷ đạo. Tâm sinh sân nhất niệm, đọa tu la đạo). Đó là chỗ mà chúng sinh sẽ đi đến (khứ xứ) nếu trong lòng còn bị ba thứ độc (tam độc) tên gọi tham, sân, si dày vò mình trong sự phiền não, kéo mình lạc lõng giữa bóng tối của vô minh. Lúc đó tuy vẫn còn sống mà đã bị dẫn dắt đến những nơi như “tam ác đạo, tứ ác thú”![9] Chính là sau khi thành đạo, kiến tính thành Phật rồi, Đức Thế Tôn mới giải thoát ra cái vòng sinh tử này. Tuy nhiên, vẫn phải nhớ rằng vấn đề của người tu thiền là sự “tự do” tại đây, bây giờ và chính mình đấy nhé!


 


[1] Thoại này không thấy trong Đâu Suất Tùng Duyệt Thiền Sư Ngữ Lục nhưng có chép ở Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 17 chương nói về Đâu Suất Tùng Duyệt.

[2] Thiền sư Đâu Suất Tùng Duyệt (1044-1091) người đời Bắc Tống, nhận pháp tự của tăng đời thứ hai phái Hoàng Long là Bảo Phong Khắc Văn (còn gọi là Chân Tĩnh Khắc Văn, 1025-1102). Có để lại Đâu Suất Tùng Duyệt Thiền Sư Ngữ Lục (còn gọi là Chân Tịch Thiền Sư Ngữ Lục) 1 quyển. Tiểu sử có trong Tục Đăng Lục quyển 23, Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 17 và Liêu Đăng Hội Yếu quyển 15.

[3] Có thể phỏng đoán Đâu Suất đã bắt chước pháp tổ của mình là Hoàng Long Huệ Nam dựng tam quan để làm dụng cụ giáo khoa cho thiền sinh.

[4] Bát thảo: vẹt rễ cỏ. Ý nói đi nhiều nơi, kiếm nhiều thầy để tìm tòi học hỏi đạo huyền vi (tham huyền). Ngũ Đăng Lục chép là Bát thảo chiêm phong.

[5] Ý nói “muốn thành Phật” vì có câu “Kiến tính thành Phật”.

[6] Lời trong Tục Cổ Tôn Túc Ngữ Lục chương Tam Bảo Ninh Dũng.

[7] Phỏng theo Lục Thập Hoa Nghiêm Kinh quyển 5 (xem Đại Chính Tạng 9-426 trung): Vô lượng vô số kiếp. Nhất niệm tất quan sát. Vô lai diệc vô khứ. Hiện tại diệc bất trú.

[8] Thứ: nhìn lén, coi trộm, coi thường.

[9] Ác đạo, ác thú là những cảnh khổ. Chính ra là tứ đạo, lục thú.


 

Trở về



Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 47: Ba ải của Đâu Suất (Đâu Suất tam quan)[1].

兜率三関

Bản tắc:

Hòa Thượng Đâu Suất Tùng Duyệt[2] dựng ba cửa ải[3] (đặt ba vấn đề) để hỏi người tu học:

1-Ông tham thiền các nơi, thâu thập được nhiều cơ sở về tôn chỉ (bát thảo tham huyền[4]) hẳn chỉ vì một lý do mà thôi, đó là tìm hiểu cho được bản tính của mình (kiến tính)[5]. Thế thì ngay ở đây, bây giờ, thử hỏi cái bản tính của ông (tự tính) nằm ở chỗ nào?

2-Chỉ cần nắm được vững vàng cái bản tính của mình thôi, nhất định sẽ thoát khỏi sự mê muội trong vòng sinh tử. Như gặp trường hợp sắp sửa chết (nhãn quang thoát thì), thử hỏi ông làm cách nào để thoát ra khỏi tấm thân của mình?

3-Nếu thóat được khỏi vòng sinh tử thì sẽ biết khi chết rồi mình sẽ đi về đâu. Thế thì khi xương thịt của ông tan rã (tứ đại phân ly), ông định lựa hướng nào mà đi đây?

 

Bình Xướng:

Vô Môn mới nói rằng:

Nếu như khi đứng trước ba câu hỏi như thế này mà đưa ra được những câu trả lời đúng đắn và chân thực để khai ngộ (chuyển ngữ) thì cho dù ở đâu cũng tiếp tục giữ được chủ thể tính (tác chủ) mà không hề bị hoàn cảnh chi phối. Rồi nếu được cơ duyên nào đó dẫn dắt (ngộ duyên), cứ thế mà đi đúng theo Phật đạo (tức Tông). Thế nhưng nếu cho mình chưa tìm ra câu trả lời thì nên bỏ lối ăn uống ngấu nghiến sao cho đầy bụng mà ăn uống từ tốn, nhai cho kỹ lưỡng để chịu đói được lâu [6].

 

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Nhất niệm phổ quan vô lượng kiếp[7],
Vô lượng kiếp sự tức như kim.
Như kim thứ
[8] phá cá nhất niệm,
Thứ phá như kim thứ để nhân.

一 念 普 觀 無 量 劫
無 量 劫 事 即 如 今 
如 今 覷 破 個 一 念 
覷 破 如 今 覷 底 人

(Trong sát na thấy muôn ngàn kiếp,
Thì muôn ngàn kiếp tức giờ đây,
Một sát na này mà hiểu thấu,
Sẽ rõ con người của hiện nay).

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Thiền sư Đâu Suất Tùng Duyệt (1044-1091) là tăng tông Lâm Tế dòng Hoàng Long. Pháp tổ Hoàng Long có làm ra Hoàng Long tam quan để làm điểm tựa dạy cho người tu hành. Có lẽ vì thế Đâu Suất mới bắt chước, dựng ra Đâu Suất tam quan cũng với mục đích hướng dẫn thiền sinh học tập.

Để tiện bề tham khảo, xin kể ra Hoàng Long tam quan là những cửa ải (câu hỏi) sau đây:

1-     Nếu so sánh cánh tay của ta với cánh tay của Phật thì thấy thế nào?

2-     Nếu so sánh chân ta với chân lừa thì thấy thế nào?.

3-     Mối người đều có cái duyên sinh ra ở một vùng đất khác nhau. Đất là ông có sinh duyên là ở đâu?

Trở lại với nội dung của tắc này. Câu hỏi đầu tiên của Đâu Suất là nếu mục đích của người tu học là kiến tính (dùng tâm nhãn để nhìn thấy một cách triệt để bản tính của mình, và như thế sẽ ngộ thành Phật), thế thì bây giờ tự tính của anh nằm ở đâu? “Bát thảo tham huyền” không chỉ có nghĩa là vẹt cỏ, lặn lội khắp nơi tìm thầy học đạo mà còn có nghĩa trừ hết phiền não để đến gần với đạo nữa.Nói chung, ông muốn hỏi: Tham thiền nay đã đến đâu rồi?

Do đó, “kiến tính” là một chữ trọng yếu, dùng làm chìa khóa cho cửa ải đầu tiên này. Thế nhưng trong dòng thiền Hakuin, chúng tôi không dùng nó như là một công án đặt vấn đề về pháp thân (dharma-kaya) của tự tính. Có thể xem nó như công án giúp cho người tiến lên trong tâm cảnh đến một chỗ gọi là cửa vào của kiến tính (kiến tính nhập lý) hay chung quanh pháp thân (pháp thân biên tế) mà thôi, nhưng quả là một công án khó nhai. Xưa nay, nó vẫn được xem như công án nghiên cứu về “tự lợi” (làm lợi cho chính mình).

Câu hỏi thứ hai hỏi về thái độ của người ngộ đạo trước cái sống và sự chết. Trước giờ nhắm mắt, làm sao giải thoát mình khỏi nó. Người anh em bà con tôi, một trí thức Nhật Bản bình thường, có bảo tôn giáo chỉ có giá trị cho những người sắp chết và muốn chết yên ổn. Chắc thường tình ai nấy cũng đều nghĩ như vậy. Thế nhưng đối với người tu thiền, phút lâm chung không có gì quan trọng cho lắm. Điều quan trọng là mỗi ngày trong cuộc đời bình thường, mình đã sống như thế nào mà thôi. Nếu thực sự là người đã kiến tính, thì phải thoát ra được khỏi vòng sinh tử. Vòng sinh tử không có nghĩa là cảnh “sinh ra và chết đi” những phải hiểu là “cuộc sống mê lầm”. Thành ra phải trả lời câu hỏi: “Làm sao thoát khỏi cuộc sống mê lầm?”.Câu hỏi làm cách nào để tự giải thoát vào lúc mắt lạc thần (nhãn quang thoát thì), cũng quan trọng nhưng sao quan trọng bằng câu hỏi làm cách nào để giải thoát được trong cuộc sống mỗi ngày (bình sinh). Còn như lúc lâm chung thì tùy theo cái nghiệp (nhân quả của hành vi trong quá khứ) và cái duyên, người ta có thể chết trong sự thư thái hay thống khổ, là điều không còn gì đáng quan trọng nữa.

Câu thứ ba hỏi khi được giải thoát rồi thì muốn đi về chỗ nào (khứ xứ)? Chữ “sinh tử” trong tiếng Phạn bên Ấn Độ, gọi là samusâra, cũng là nguyên ngữ của chữ luân hồi. Người Ấn khi xưa, không cho rằng chết là hết mà tin rằng nhục thể chết rồi vẫn có thể tái tạo để sống trở lại trong một cuộc sống tiếp theo. Chết đi, sinh lại, như thế mà tiếp tục đến vô hạn cái vòng sinh tử. Nhân quả là một cái bánh xe nhỏ. Con người vì cái nghiệp (hành vi) lúc sinh tiền mà sa vào cái  vòng quay của nó (luân hồi) trong lục đạo (địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, tu la, nhân gian và thiên thượng). Nếu cuộc đời có từ năm mươi dến bảy mươi năm thì người ta còn ẩn nhẫn ráng chịu khổ chứ nếu cứ nối tiếp chịu đựng chuỗi dài đau khổ đến vô hạn thì tự thời cổ, con người thể nào không khỏi lo sợ và chỉ mong sao thoát khỏi cái vòng sinh tử luân hồi đó. 

Điểm xuất phát cuộc đời cầu đạo của Đức Thế Tôn cũng là điều đó. Vì muốn thoát khỏi sinh tử, Thế Tôn mới đi tìm bình an vĩnh cửu ở một nơi không có sự tái sinh của khổ giới. Chỗ đó gọi là Niết Bàn. Trên đường tìm về Niết Bàn, ngài tuy không mong đợi mà đã chứng được tâm Bồ Đề, khai ngộ. Trạng thái đó là sự tự giác tự nhận cái tự kỷ bản lai tức là tâm tính bản thanh tĩnh và bất sinh bất diệt nơi mình. Thế rồi, ngài mới đem cái tự kỷ bản lai đó như một cách sống để dạy cho người khác. Phật giáo là như thế.

Vì vậy, tôi mới nghĩ rằng sau khi đã giác ngộ, nhất định Đức Thế Tôn không còn tin vào luân hồi, chuyển sinh gì nữa. Thiền sư Dôgen (Đạo Nguyên) cũng đã gọi ý tưởng “tâm thường, tướng diệt” là “tà kiến ngoại đạo”. “Thân tướng” hay nhục thể, thân xác đã chết đi và bị hủy diệt rồi nhưng “tâm tính” hay linh hồn vẫn thường trụ hay bất diệt, chỉ là lối suy nghĩ của những kẻ ngoại đạo trước đó (nguyên văn: tiên ni) chứ không phải là điều Phật dạy (Phật giáo). Thế mà một số đông người Nhật vẫn còn tin “nhục thể chết chứ linh hồn không chết” và lầm tưởng rằng lý thuyết luân hồi chuyển sinh của người Ấn Độ cổ đại chắc cũng phải là giáo lý nhà Phật nữa. Cứ xem việc mình tin là đúng rồi mở miệng nói rằng những người không tin vào “tam thế nhân quả” là đã suy nghĩ trái với Phật giáo thì rõ khổ!  

Câu hỏi thứ ba của công án này: “Thế ông có biết chết rồi sẽ đi về đâu không?” cũng có liên quan đến lý thuyết “tam thế nhân quả” mà tam thế ở đây có thể hiểu là tiền thế, hiện thế và lai thế. Trong thất của của thiền sư Việt Khê, dưới trướng ngài Hòa Sơn, các bậc thầy không bao giờ đặt vấn đề chết rồi sẽ đi về đâu. Họ chỉ dạy thiền sinh chúng tôi phải nhìn công án này với nhãn quan “tức kim, thử xứ, tự kỷ” nghĩa là dùng nó để hiểu những gì thuộc về cuộc sống thường nhật thiết thân trước mắt.

Tôi có nói rằng sau khi đã giác ngộ, không lý nào Đức Thế Tôn còn tin vào những chuyện sinh tử luân hồi kia nọ.Tuy nhiên, điều tôi muốn đề cập là chuyện sinh tử trong một đời (nhất kỳ sinh tử), nghĩa là việc, sau một cuộc đời năm mươi hay bảy mươi năm, lại tiếp tục sinh ra rồi chết đi, chuyển sinh mãi mãi. Đối với người đã giác ngộ chỉ sống cho “tức kim, thử xứ, tự kỷ (bây giờ, ở đây, chính mình) (hiện thế), không lý gì lại phải bắt buộc họ ôm mối phiền não về những gì gọi là kiếp trước, kiếp sau (tiền thế, lai thế). Tư tưởng luân hồi chuyển sinh của nhất kỳ sinh tử hoàn toàn không mắc mớ gì đến thiền gia cả!

Tuy nhiên, lập trường nói trên của tôi không nhằm phủ định một sự thực nghiễm nhiên là cái sinh tử trong một sát na. (nhất niệm sinh tử). “Nếu sinh ra lòng tham trong một niệm, sẽ rơi xuống hàng ngạ quỉ, nếu sinh ra sự giận dữ trong một niệm, sẽ rơi vào cõi tu la” (Tâm sinh  tham nhật niệm, đọa ngạ quỷ đạo. Tâm sinh sân nhất niệm, đọa tu la đạo). Đó là chỗ mà chúng sinh sẽ đi đến (khứ xứ) nếu trong lòng còn bị ba thứ độc (tam độc) tên gọi tham, sân, si dày vò mình trong sự phiền não, kéo mình lạc lõng giữa bóng tối của vô minh. Lúc đó tuy vẫn còn sống mà đã bị dẫn dắt đến những nơi như “tam ác đạo, tứ ác thú”![9] Chính là sau khi thành đạo, kiến tính thành Phật rồi, Đức Thế Tôn mới giải thoát ra cái vòng sinh tử này. Tuy nhiên, vẫn phải nhớ rằng vấn đề của người tu thiền là sự “tự do” tại đây, bây giờ và chính mình đấy nhé!


 


[1] Thoại này không thấy trong Đâu Suất Tùng Duyệt Thiền Sư Ngữ Lục nhưng có chép ở Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 17 chương nói về Đâu Suất Tùng Duyệt.

[2] Thiền sư Đâu Suất Tùng Duyệt (1044-1091) người đời Bắc Tống, nhận pháp tự của tăng đời thứ hai phái Hoàng Long là Bảo Phong Khắc Văn (còn gọi là Chân Tĩnh Khắc Văn, 1025-1102). Có để lại Đâu Suất Tùng Duyệt Thiền Sư Ngữ Lục (còn gọi là Chân Tịch Thiền Sư Ngữ Lục) 1 quyển. Tiểu sử có trong Tục Đăng Lục quyển 23, Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 17 và Liêu Đăng Hội Yếu quyển 15.

[3] Có thể phỏng đoán Đâu Suất đã bắt chước pháp tổ của mình là Hoàng Long Huệ Nam dựng tam quan để làm dụng cụ giáo khoa cho thiền sinh.

[4] Bát thảo: vẹt rễ cỏ. Ý nói đi nhiều nơi, kiếm nhiều thầy để tìm tòi học hỏi đạo huyền vi (tham huyền). Ngũ Đăng Lục chép là Bát thảo chiêm phong.

[5] Ý nói “muốn thành Phật” vì có câu “Kiến tính thành Phật”.

[6] Lời trong Tục Cổ Tôn Túc Ngữ Lục chương Tam Bảo Ninh Dũng.

[7] Phỏng theo Lục Thập Hoa Nghiêm Kinh quyển 5 (xem Đại Chính Tạng 9-426 trung): Vô lượng vô số kiếp. Nhất niệm tất quan sát. Vô lai diệc vô khứ. Hiện tại diệc bất trú.

[8] Thứ: nhìn lén, coi trộm, coi thường.

[9] Ác đạo, ác thú là những cảnh khổ. Chính ra là tứ đạo, lục thú.


 

Trở về