Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 22: Trụ cờ của Ca Diếp (Ca Diếp sát can)[1].

迦葉刹竿

Bản tắc:

Có hôm, A Nan[2] hỏi Ca Diếp[3]:

- Đức Thế Tôn (Thích Ca Mâu Ni) ngoài tấm áocà sa dệt bằng tơvàng, có truyền lại gì cho sư huynh không?

Nghe thế, Ca Diếp mới lên tiếng gọi:

-Này, A Nan!

An Nan đáp:

-Vâng!

Thì lúc đó, Ca Diếp bảo:

-Thôi, hãy ra hạ cây cờ hiệu (của ta) đang cắm trước cửa xuống!

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Nếu trong tình huống như thế này, thốt được một lời chuyển mê khai ngộ thân ái (như Ca Diếp đã làm) thì sẽ thấy rằng đám đông tụ tập nghe buổi giảng pháp ngày nọ trên núi Linh Thứu[4] hãy còn tiếp tục quây quần bên nhau. Nhược bằng không nghĩ ra một lời cho đúng, thì có lẽ dầu dốc lòng tu hành từ thuở xa xưa như Phật Tỳ Bà Thi[5] (vị cổ Phật trong quá khứ, trước cả Phật Thích Ca), đến lúc này (tâm) vẫn chưa có thể đạt được diệu cảnh của sự giác ngộ.

 

Tụng:

Bèn có lời tụng:

Vấn xứ hà như đáp xứ thân
Kỷ nhân ư thử nhãn sinh cân
[6].
Huynh hô đệ ứng dương gia xú
[7],
Bất thuộc âm dương biệt thị xuân.

問 處 何 如 答 處 親
幾 人 於 此 眼 生 筋 
兄 呼 弟 應 揚 家 醜 
不 屬 陰 陽 別 是 春

(Hỏi, đáp, so đi! Bên nào thân?
Banh tròng, đoán được ý sâu chăng?
Anh hô em dạ, nhà sao thối,
Chẳng thụ âm dương vẫn cõi xuân
[8]).

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Sau khi A Nan, sau là tổ thứ hai ở Tây Thiên, lúc ấy “coi như” đã ngộ đạo rồi, đến gặp tôn giả Ca Diếp tức là vị sơ tổ, để hỏi rằng ngoài chiếc áo cà sa dệt bằng tơ kim lan, Đức Thế Tôn có truyền lại gì nữa không thì Ca Diếp chỉ thân ái gọi tên ông. Bất chợt A Nan đã dạ. A Nan vô tâm dạ xong bỗng nhận ra khi đáp lời, ông đã biểu lộ được cái “tự kỷ vô tướng” và “Phật” tính. Gọi là Thiền Đạo Phật Giáo đi nữa, ngoài cái đó cũng không có gì khác.   

Sau đó, Ca Diếp bảo A Nan hãy ra hạ cây cờ hiệu ngoài sân. Từ khi đạo Phật còn ở bên Ấn Độ, đã có tục lệ dựng cây sát can (cờ hiệu) mỗi lúc giảng kinh. Cho nên khi Ca Diếp bảo “Hãy hạ cây cờ hiệu của ta đi!” là muốn nói với A Nan, nay ngươi đã đại ngộ, có thể thành vị tổ thứ hai, nên từ hôm nay, ta sẽ lui bước, không còn thuyết pháp nữa. Ông như muốn bảo: Cờ hiệu của ta không cần thiết nữa. “Tiệm” ta đã đóng, đến lượt ngươi “khai trương”.

Tuy nhiên, ở trong thất, người ta lại suy gẫm về công án này một cách khác. Con người khi đã giác ngộ để “thành” Phật rồi thì tâm trí hay bị ô nhiễm vì cái ý thức “Ta là một vị Phật”. Cũng như lúc nghiên cứu một công án và đắc pháp rồi thì lại nuôi ý tưởng thừa thãi: mình là người đã đắc pháp. Ngày nay, tông Lâm Tế (kể cả tông Hoàng Bá) có tổng cộng 3.400 cảnh chùa (ở Nhật). Nếu xem số tăng lữ cũng bằng số chùa thì mới thấy rằng trong đám đó, có khoảng hơn 80 vị là “sư gia phân thượng” nhận được ấn khả “đại sự liễu tất” (các đề tài lớn đã xong hết) nghĩa là đã tu hành đầy đủ các công án của thiền sư Hakuin. Còn như những cư sĩ không có thiền tịch mà tu chứng được “đại sự liễu tất” lại còn thưa thớt hơn nữa. Do đó, những người được dự phần vào nhóm ưu tú đó sẽ có kẻ đâm ra nghĩ mình vượt trội hơn người.

Thế nhưng, khi là người hãy còn chấp vào “Phật kiến, Pháp kiến”, cho dù cái chấp đó cỏn con như một sợi lông thỏ thôi thì vẫn chưa thông suốt câu nói: “Dầu được thế chăng nữa...” thấy trong công án “hướng thượng” (nằm ở phía trên Phật) của Thiền sư Hakuin. Phật giáo vốn dạy “vô ngã”, cho nên dầu có thành Phật, đắc Pháp rồi mà còn gánh tất cả những thứ đó trên vai, sẽ rơi tức khắc vào trong “đại ngã”. Người xưa gọi đó là cái tai ách bị buộc vào sợi dây xích bằng vàng (kim tỏa nạn) và khuyên người tu hành hết sức chú ý. Nói là mình đắc Pháp, sung sướng được giải thoát khỏi cái xích sắt (thiết xích) của phiền não và vọng tưởng, ai ngờ bây giờ lại bị ràng buộc vào trong sợi xích vàng của Ngộ và Pháp. Nói gì thì nói, khi hãy còn một chút xíu tư niệm về tự ngã ở trong lòng mình thì chớ bàn đến cái “vô ngã chân thực” của Phật pháp. Do đó hòa thượng Vô Môn mới dạy rằng, nói chi Phật Thích Ca, ngay Phật Tỳ Bà Thi - vị cổ Phật tu hành từ thuở xa xưa (cửu viễn) - mà ngay bây giờ (tức kim) không ngộ đạo một cách đúng đắn (đắc chân ngộ) thì công tu hành muôn kiếp của ngài cũng chỉ là vô ích.


 


[1] Thoại này chép trong Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 1, chương nói về A Nan. Cách thức truyền thụ thiền bằng tâm nhãn ở đây giống như những gì đã mô tả trong tắc 6 Thế Tôn Niêm Hoa và tắc 13 Đức Sơn Thác Bát. Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận cũng đã nhắc đến thoại này trong Dĩ Tâm Pháp Yếu của ông. Sát can có nghĩa là cây phan (cờ hiệu) cắm trước cửa chùa báo tin có cuộc giảng pháp. 

[2] A Nan, lược âm Hán của tiếng Phạn Ananda (A Nan Đà), dịch ý thành Khánh Hỷ, Vô Nhiễm. Một trong 10 đại đệ tử của Phật Đà, xưng hiệu Đa Văn Đệ Nhất. Tổ thiền thứ 2 ở Tây Thiên (sau Ca Diếp). Tiểu sử xem Tổ Đường Tập quyển 1, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 1 vv…

[3] Xem chú ở tắc 6.

[4] Về pháp hội trên Linh Thứu, xem tắc 6 Thế Tôn Niêm Hoa.

[5] Tỳ Bà Thi Phật, chữ Phạn là Vipasyin, dịch ý thành Tĩnh Quán, Thắng Quán. Vị Phật đầu tiên trong các vị Phật trong quá khứ, trước cả Thích Ca rất xa. Truyện có trong các quyển 1 của Tổ Đường Tập và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục.

[6] Banh cả gân mắt nhìn cho thật kỹ.

[7] Dương gia xú: bày ra cái thối tha của gia đình, tập thể. Tuy nhiên ở đây Vô Môn chỉ mắng yêu theo kiểu đè xuống để nâng lên, lối sáo ngữ “ức hạ thác thượng” quen thuộc của thiền gia.

[8] Một cõi xuân vĩnh viễn, tuyệt đối vì không thuộc thế giới tương đối của nhị nguyên (còn có âm dương).


 

Trở về



Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 22: Trụ cờ của Ca Diếp (Ca Diếp sát can)[1].

迦葉刹竿

Bản tắc:

Có hôm, A Nan[2] hỏi Ca Diếp[3]:

- Đức Thế Tôn (Thích Ca Mâu Ni) ngoài tấm áocà sa dệt bằng tơvàng, có truyền lại gì cho sư huynh không?

Nghe thế, Ca Diếp mới lên tiếng gọi:

-Này, A Nan!

An Nan đáp:

-Vâng!

Thì lúc đó, Ca Diếp bảo:

-Thôi, hãy ra hạ cây cờ hiệu (của ta) đang cắm trước cửa xuống!

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Nếu trong tình huống như thế này, thốt được một lời chuyển mê khai ngộ thân ái (như Ca Diếp đã làm) thì sẽ thấy rằng đám đông tụ tập nghe buổi giảng pháp ngày nọ trên núi Linh Thứu[4] hãy còn tiếp tục quây quần bên nhau. Nhược bằng không nghĩ ra một lời cho đúng, thì có lẽ dầu dốc lòng tu hành từ thuở xa xưa như Phật Tỳ Bà Thi[5] (vị cổ Phật trong quá khứ, trước cả Phật Thích Ca), đến lúc này (tâm) vẫn chưa có thể đạt được diệu cảnh của sự giác ngộ.

 

Tụng:

Bèn có lời tụng:

Vấn xứ hà như đáp xứ thân
Kỷ nhân ư thử nhãn sinh cân
[6].
Huynh hô đệ ứng dương gia xú
[7],
Bất thuộc âm dương biệt thị xuân.

問 處 何 如 答 處 親
幾 人 於 此 眼 生 筋 
兄 呼 弟 應 揚 家 醜 
不 屬 陰 陽 別 是 春

(Hỏi, đáp, so đi! Bên nào thân?
Banh tròng, đoán được ý sâu chăng?
Anh hô em dạ, nhà sao thối,
Chẳng thụ âm dương vẫn cõi xuân
[8]).

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Sau khi A Nan, sau là tổ thứ hai ở Tây Thiên, lúc ấy “coi như” đã ngộ đạo rồi, đến gặp tôn giả Ca Diếp tức là vị sơ tổ, để hỏi rằng ngoài chiếc áo cà sa dệt bằng tơ kim lan, Đức Thế Tôn có truyền lại gì nữa không thì Ca Diếp chỉ thân ái gọi tên ông. Bất chợt A Nan đã dạ. A Nan vô tâm dạ xong bỗng nhận ra khi đáp lời, ông đã biểu lộ được cái “tự kỷ vô tướng” và “Phật” tính. Gọi là Thiền Đạo Phật Giáo đi nữa, ngoài cái đó cũng không có gì khác.   

Sau đó, Ca Diếp bảo A Nan hãy ra hạ cây cờ hiệu ngoài sân. Từ khi đạo Phật còn ở bên Ấn Độ, đã có tục lệ dựng cây sát can (cờ hiệu) mỗi lúc giảng kinh. Cho nên khi Ca Diếp bảo “Hãy hạ cây cờ hiệu của ta đi!” là muốn nói với A Nan, nay ngươi đã đại ngộ, có thể thành vị tổ thứ hai, nên từ hôm nay, ta sẽ lui bước, không còn thuyết pháp nữa. Ông như muốn bảo: Cờ hiệu của ta không cần thiết nữa. “Tiệm” ta đã đóng, đến lượt ngươi “khai trương”.

Tuy nhiên, ở trong thất, người ta lại suy gẫm về công án này một cách khác. Con người khi đã giác ngộ để “thành” Phật rồi thì tâm trí hay bị ô nhiễm vì cái ý thức “Ta là một vị Phật”. Cũng như lúc nghiên cứu một công án và đắc pháp rồi thì lại nuôi ý tưởng thừa thãi: mình là người đã đắc pháp. Ngày nay, tông Lâm Tế (kể cả tông Hoàng Bá) có tổng cộng 3.400 cảnh chùa (ở Nhật). Nếu xem số tăng lữ cũng bằng số chùa thì mới thấy rằng trong đám đó, có khoảng hơn 80 vị là “sư gia phân thượng” nhận được ấn khả “đại sự liễu tất” (các đề tài lớn đã xong hết) nghĩa là đã tu hành đầy đủ các công án của thiền sư Hakuin. Còn như những cư sĩ không có thiền tịch mà tu chứng được “đại sự liễu tất” lại còn thưa thớt hơn nữa. Do đó, những người được dự phần vào nhóm ưu tú đó sẽ có kẻ đâm ra nghĩ mình vượt trội hơn người.

Thế nhưng, khi là người hãy còn chấp vào “Phật kiến, Pháp kiến”, cho dù cái chấp đó cỏn con như một sợi lông thỏ thôi thì vẫn chưa thông suốt câu nói: “Dầu được thế chăng nữa...” thấy trong công án “hướng thượng” (nằm ở phía trên Phật) của Thiền sư Hakuin. Phật giáo vốn dạy “vô ngã”, cho nên dầu có thành Phật, đắc Pháp rồi mà còn gánh tất cả những thứ đó trên vai, sẽ rơi tức khắc vào trong “đại ngã”. Người xưa gọi đó là cái tai ách bị buộc vào sợi dây xích bằng vàng (kim tỏa nạn) và khuyên người tu hành hết sức chú ý. Nói là mình đắc Pháp, sung sướng được giải thoát khỏi cái xích sắt (thiết xích) của phiền não và vọng tưởng, ai ngờ bây giờ lại bị ràng buộc vào trong sợi xích vàng của Ngộ và Pháp. Nói gì thì nói, khi hãy còn một chút xíu tư niệm về tự ngã ở trong lòng mình thì chớ bàn đến cái “vô ngã chân thực” của Phật pháp. Do đó hòa thượng Vô Môn mới dạy rằng, nói chi Phật Thích Ca, ngay Phật Tỳ Bà Thi - vị cổ Phật tu hành từ thuở xa xưa (cửu viễn) - mà ngay bây giờ (tức kim) không ngộ đạo một cách đúng đắn (đắc chân ngộ) thì công tu hành muôn kiếp của ngài cũng chỉ là vô ích.


 


[1] Thoại này chép trong Ngũ Đăng Hội Nguyên quyển 1, chương nói về A Nan. Cách thức truyền thụ thiền bằng tâm nhãn ở đây giống như những gì đã mô tả trong tắc 6 Thế Tôn Niêm Hoa và tắc 13 Đức Sơn Thác Bát. Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận cũng đã nhắc đến thoại này trong Dĩ Tâm Pháp Yếu của ông. Sát can có nghĩa là cây phan (cờ hiệu) cắm trước cửa chùa báo tin có cuộc giảng pháp. 

[2] A Nan, lược âm Hán của tiếng Phạn Ananda (A Nan Đà), dịch ý thành Khánh Hỷ, Vô Nhiễm. Một trong 10 đại đệ tử của Phật Đà, xưng hiệu Đa Văn Đệ Nhất. Tổ thiền thứ 2 ở Tây Thiên (sau Ca Diếp). Tiểu sử xem Tổ Đường Tập quyển 1, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục quyển 1 vv…

[3] Xem chú ở tắc 6.

[4] Về pháp hội trên Linh Thứu, xem tắc 6 Thế Tôn Niêm Hoa.

[5] Tỳ Bà Thi Phật, chữ Phạn là Vipasyin, dịch ý thành Tĩnh Quán, Thắng Quán. Vị Phật đầu tiên trong các vị Phật trong quá khứ, trước cả Thích Ca rất xa. Truyện có trong các quyển 1 của Tổ Đường Tập và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục.

[6] Banh cả gân mắt nhìn cho thật kỹ.

[7] Dương gia xú: bày ra cái thối tha của gia đình, tập thể. Tuy nhiên ở đây Vô Môn chỉ mắng yêu theo kiểu đè xuống để nâng lên, lối sáo ngữ “ức hạ thác thượng” quen thuộc của thiền gia.

[8] Một cõi xuân vĩnh viễn, tuyệt đối vì không thuộc thế giới tương đối của nhị nguyên (còn có âm dương).


 

Trở về