Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 5: Hương Nghiêm leo cây (Hương Nghiêm thượng thụ)[1].

香厳上樹

Bản tắc:

Hòa thượng Hương Nghiêm nói (với môn đệ) như sau:

Cái quan trọng của thiền vốn giống người leo cây. Miệng ngoặm lấy cành cây, thân treo lủng lẳng, tay không bám tới cành, chân không đạp được cành. Lúc đó nếu có người đứng bên dưới cây đặt câu hỏi:

-Lúc Đạt Ma ở Thiên Trúc qua thì bản tâm[2] của ngài như thế nào?

Người đó không mở miệng trả lời thì phụ lòng kẻ hỏi, nhưng nếu trả lời sẽ rơi từ trên cây xuống mất mạng. Giữa lúc như thế, thử hỏi phải đáp làm sao?”

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Kể cả người biết đối đáp thao thao bất tuyệt[3], trong trường hợp này đành để uổng tài.Hơn nữa, có sức giảng được cả một pho Đại Tạng[4] đi chăng, cũng chả đem đến kết quả nào. Tìm được lối giải quyết phù hợp với hoàn cảnh này là có thể làm sống lại người đã chết và giết được kẻ hiện đang sống. Còn như không tìm ra giải đáp thì (sau khi Thích Ca nhập diệt, phải đợi thêm 56 ức 7 thiên vạn niên nữa mà) hỏi thẳng Bồ Tát Di Lặc[5] vậy.  

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Hương Nghiêm chân Đỗ[6] soạn,
Ác độc vô tận hạn.
Á khước nạp tăng khẩu,
Thông thân bình quỉ nhãn
[7].

香 嚴     
惡 毒     
啞 卻       
通 身     

(Hương Nghiêm nói ẩu thiệt,
Tâm ác độc khôn cùng.
Đã bịt miệng thầy tăng,
Còn bóc mắt người chết).

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Công án này là lời thị chúng (lời dạy các môn đồ theo học) của thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn (?- 898)[8]. Ông là cao đồ của hòa thượng Quy Sơn Linh Hựu (người thừa kế Bách Trượng Hoài Hải). Ông từng được biết đến với công án nổi danh Văn thanh ngộ đạo. Ông cho rằng dù người nào có tài hùng biện, ăn nói thư thác đổ hay tri thức nhiều hiểu được hết kinh kệ nhưng có khi đứng truớc một hoàn cảnh nào đó, tài năng ấy chỉ bằng thừa. Nếu tìm ra được lối giải quyết phù hợp với hoàn cảnh, sẽ có thể làm sống lại người đã chết và giết được kẻ đang sống[9]. Như thế là khỏi lệ thuộc vào sự giáo huấn. Còn như không làm được thì đành đợi vị Phật tương lai trả lời hộ vì khả năng con người chỉ có thế.

Tìm cách thoát ra khỏi nguy cơ sinh tử không phải mục đích của người tu thiền. Không trốn thoát, không tránh né, mà phải xông vào bắt lấy và đương đầu với nó. Trước tình huống nào cũng vậy, không trốn thoát, không tránh né, không vờ vĩn mà phải tập trung tinh thần để đối phó. Nếu tích cực như thế thì sẽ tự nhiên khai thông lẽ đạo, tìm ra giải pháp, “khổ trung sinh lạc”.

Hòa thượng Ryôkan (Lương Khoan)[10] từng viết: “Khi gặp tai nạn thì coi tai nạn là điều thường gặp, đứng trước cái chết thì xem cái chết là chuyện vẫn xảy ra. Đó là phương pháp linh diệu để vượt qua”.

Nói sạch chẳng bùn vương? Sao còn cứ khoe sương!

(Ý thơ thi tăng Nhật Bản Henjô, 816-890)


 


[1] Có chép trong Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 9, chương về Hương Nghiêm Trí Nhàn.

[2] Nguyên văn “Tây lai ý”. Nói cách khác, đó là câu hỏi: Mục đích của thiền là gì? Cho nên, hiểu được “Tây lai ý” là nắm được cốt lõi của Thiền tông.

[3]Huyền hà tả thủy”. Chữ trong Tấn Thư để nói về tài hùng biện của Quách Tượng.

[4] Chỉ ba tạng Kinh, Luật, Luận. Ý nói những lời thuyết pháp của Thích Ca.

[5] Nguyên văn Maitreya trong Phạn ngữ. Vị này thuyết pháp cho thần tiên trên cõi trời Đâu Suất, trong tương lai xa sẽ hạ thế và thành Phật dưới bóng cây Long Hoa.

[6] Thi nhân đời Tống tên Đỗ Mặc, soạn thơ không đúng niêm luật nên những việc gì làm cẩu thả thường gọi là Đỗ soạn.

[7] Quỉ ở đây có nghĩa là người chết.

[8] Tiểu truyện của ông xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển 11, Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 9 và Tống Cao Tăng Truyện, quyển 13.

[9] Nghĩa là “sát hoạt tự tại”. Làm sống lại người đang mê lầm trong địa ngục đạo hay giết chết được người mang ảo vọng tưởng mình đang sống.

[10] Ryôkan (Lương Khoan, 1758-1831), hiệu Đại Ngu, thi tăng Nhật Bản thời Edo. Sống đời thoát tục, thích chơi đùa với trẻ con. Về già tìm thấy tình yêu bên nữ đệ tử là ni sư Teishin. Giỏi cả Hán thi lẫn Hòa ca.


 

Trở về



Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 5: Hương Nghiêm leo cây (Hương Nghiêm thượng thụ)[1].

香厳上樹

Bản tắc:

Hòa thượng Hương Nghiêm nói (với môn đệ) như sau:

Cái quan trọng của thiền vốn giống người leo cây. Miệng ngoặm lấy cành cây, thân treo lủng lẳng, tay không bám tới cành, chân không đạp được cành. Lúc đó nếu có người đứng bên dưới cây đặt câu hỏi:

-Lúc Đạt Ma ở Thiên Trúc qua thì bản tâm[2] của ngài như thế nào?

Người đó không mở miệng trả lời thì phụ lòng kẻ hỏi, nhưng nếu trả lời sẽ rơi từ trên cây xuống mất mạng. Giữa lúc như thế, thử hỏi phải đáp làm sao?”

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Kể cả người biết đối đáp thao thao bất tuyệt[3], trong trường hợp này đành để uổng tài.Hơn nữa, có sức giảng được cả một pho Đại Tạng[4] đi chăng, cũng chả đem đến kết quả nào. Tìm được lối giải quyết phù hợp với hoàn cảnh này là có thể làm sống lại người đã chết và giết được kẻ hiện đang sống. Còn như không tìm ra giải đáp thì (sau khi Thích Ca nhập diệt, phải đợi thêm 56 ức 7 thiên vạn niên nữa mà) hỏi thẳng Bồ Tát Di Lặc[5] vậy.  

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Hương Nghiêm chân Đỗ[6] soạn,
Ác độc vô tận hạn.
Á khước nạp tăng khẩu,
Thông thân bình quỉ nhãn
[7].

香 嚴     
惡 毒     
啞 卻       
通 身     

(Hương Nghiêm nói ẩu thiệt,
Tâm ác độc khôn cùng.
Đã bịt miệng thầy tăng,
Còn bóc mắt người chết).

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Công án này là lời thị chúng (lời dạy các môn đồ theo học) của thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn (?- 898)[8]. Ông là cao đồ của hòa thượng Quy Sơn Linh Hựu (người thừa kế Bách Trượng Hoài Hải). Ông từng được biết đến với công án nổi danh Văn thanh ngộ đạo. Ông cho rằng dù người nào có tài hùng biện, ăn nói thư thác đổ hay tri thức nhiều hiểu được hết kinh kệ nhưng có khi đứng truớc một hoàn cảnh nào đó, tài năng ấy chỉ bằng thừa. Nếu tìm ra được lối giải quyết phù hợp với hoàn cảnh, sẽ có thể làm sống lại người đã chết và giết được kẻ đang sống[9]. Như thế là khỏi lệ thuộc vào sự giáo huấn. Còn như không làm được thì đành đợi vị Phật tương lai trả lời hộ vì khả năng con người chỉ có thế.

Tìm cách thoát ra khỏi nguy cơ sinh tử không phải mục đích của người tu thiền. Không trốn thoát, không tránh né, mà phải xông vào bắt lấy và đương đầu với nó. Trước tình huống nào cũng vậy, không trốn thoát, không tránh né, không vờ vĩn mà phải tập trung tinh thần để đối phó. Nếu tích cực như thế thì sẽ tự nhiên khai thông lẽ đạo, tìm ra giải pháp, “khổ trung sinh lạc”.

Hòa thượng Ryôkan (Lương Khoan)[10] từng viết: “Khi gặp tai nạn thì coi tai nạn là điều thường gặp, đứng trước cái chết thì xem cái chết là chuyện vẫn xảy ra. Đó là phương pháp linh diệu để vượt qua”.

Nói sạch chẳng bùn vương? Sao còn cứ khoe sương!

(Ý thơ thi tăng Nhật Bản Henjô, 816-890)


 


[1] Có chép trong Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 9, chương về Hương Nghiêm Trí Nhàn.

[2] Nguyên văn “Tây lai ý”. Nói cách khác, đó là câu hỏi: Mục đích của thiền là gì? Cho nên, hiểu được “Tây lai ý” là nắm được cốt lõi của Thiền tông.

[3]Huyền hà tả thủy”. Chữ trong Tấn Thư để nói về tài hùng biện của Quách Tượng.

[4] Chỉ ba tạng Kinh, Luật, Luận. Ý nói những lời thuyết pháp của Thích Ca.

[5] Nguyên văn Maitreya trong Phạn ngữ. Vị này thuyết pháp cho thần tiên trên cõi trời Đâu Suất, trong tương lai xa sẽ hạ thế và thành Phật dưới bóng cây Long Hoa.

[6] Thi nhân đời Tống tên Đỗ Mặc, soạn thơ không đúng niêm luật nên những việc gì làm cẩu thả thường gọi là Đỗ soạn.

[7] Quỉ ở đây có nghĩa là người chết.

[8] Tiểu truyện của ông xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển 11, Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 9 và Tống Cao Tăng Truyện, quyển 13.

[9] Nghĩa là “sát hoạt tự tại”. Làm sống lại người đang mê lầm trong địa ngục đạo hay giết chết được người mang ảo vọng tưởng mình đang sống.

[10] Ryôkan (Lương Khoan, 1758-1831), hiệu Đại Ngu, thi tăng Nhật Bản thời Edo. Sống đời thoát tục, thích chơi đùa với trẻ con. Về già tìm thấy tình yêu bên nữ đệ tử là ni sư Teishin. Giỏi cả Hán thi lẫn Hòa ca.


 

Trở về