Bài số :  88

Thơ bà Bettô ở Kôkamon-in 皇嘉門院別当

 

a) Nguyên văn:

難波江の

芦のかりねの

ひとよゆゑ

みをつくしてや

恋ひわたるべき

b) Phiên âm:

Naniwa-e no

Ashi no karine no

Hitoyo yue

Mi wo tsukushite ya

Koiwataru beki

c) Diễn ý:

Tuy không phải là một đốt (一節hitoyo) rễ lau cắt (刈根karine) trên cửa sông Naniwa,

Nhưng vì lỡ ngủ trọ (仮寝karine) một đêm (一夜hitoyo).

Cho nên mình phải mất cả thân danh (身を尽くしmi wo tsukushi) để trọn mối tình,

Như cọc phao ( 澪標miotsukushi) cắm ở giữa giòng nước.

d) Dịch thơ:

Bến nước ngàn lau xanh,
Chỉ một đêm ngủ đỗ,
Thế mà trọn đời mình,
Tương tư bao nhiêu khổ.

(ngũ ngôn) 

Ngàn lau có thấu cho mình,
Gối chăn một tối, nợ tình trăm năm.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Senzai-shuu (Thiên Tải Tập), thơ luyến ái, phần 3, bài 807.

Tác Giả: Kôkamon-in no Betto (Trưởng quan coi sóc phủ của Hoàng Gia Môn Viện) , một nữ thi nhân không rõ họ tên, năm sinh năm mất. Chỉ biết bà là con gái của chức trưởng quan tại phủ Thái Hoàng Thái Hậu Seiko (Đằng Nguyên Thánh Tử, 1122-1181, hoàng hậu của Thiên Hoàng Sutoku) tên là Minamoto no Toshitaka (Nguyên, Tuấn Long). Bà cũng là nữ quan có nhiệm vụ hầu hạ bà Seiko và sống vào thế kỷ 12. 

Lời bình trong Senzai-shuu xếp bài thơ này vào “tình gặp giữa đường” trong một chuyện du hành.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Mối tình ngắn ngủi một đêm ngủ trọ như đốt lau ngắn bên sông Naniwa.

Đương thời trên bến Naniwa có rất nhiều gái làng chơi (du nữ). Có lẽ tác giả đã vịnh thay cho người con gái ấy và tình huống kể từ cuộc gặp gỡ một đêm của nàng

Đây là một bài thơ nặng về kỹ xảo, gây khó khăn cho người dịch. Không chịu dịch thoát thì phải bó tay. Tác giả sử dụng nhiều kỹ thuật tu từ một lượt:

- Jo-kotoba ( cụm từ Naniwae no ashi đặt ở đầu bài).
- Kake-kotoba (mỗi từ hitoyo, karine, miotsukushi đều có 2 nghĩa đen và bóng).
- Engo (giữa ashi, hitoyo, karine, miotsukushi và Naniwae có sự liên kết ngữ nghĩa).

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Nạn Ba Giang.
難 波 江

Nạn Ba giang bạn lô vi thâm,
難 波 江 畔 芦 葦 深

Thanh thanh lô vi biến[1] hà tân.
青 青 芦 葦 遍 河 浜

Dữ quân tương phùng chỉ nhất dạ,
与 君 相 逢 只 一 夜

Tùng thử thâm tình vĩnh ký tâm.
従 此 深 情 永 記 心


[1] Biến: đầy khắp

Anh dịch:

Dịch giả Dickins thú nhận phải đầu hàng:

(The plays upon words in this Ode render it quite untranslatable, with any approach, in any event, to the force and the point of the original)

For but one night's sake,

Short as is a node of reed

Grown in Naniwa bay,

Must I, henceforth, long for him

With my whole heart, till life's close?

(Mac Cauley)

Bài thơ này làm ta liên tưởng đến Lời Kỹ Nữ của Xuân Diệu:

Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn,
Chớ để riêng em gặp phải hồn em.
Tay ái ân du khách hãy làm rèm,
Tóc xanh tốt em xin nguyền dệt mộng.                                        

Lòng em như nước Trường Giang ấy,
Sớm tối theo chàng tới Phúc Châu.

 

 





Bài số :  88

Thơ bà Bettô ở Kôkamon-in 皇嘉門院別当

 

a) Nguyên văn:

難波江の

芦のかりねの

ひとよゆゑ

みをつくしてや

恋ひわたるべき

b) Phiên âm:

Naniwa-e no

Ashi no karine no

Hitoyo yue

Mi wo tsukushite ya

Koiwataru beki

c) Diễn ý:

Tuy không phải là một đốt (一節hitoyo) rễ lau cắt (刈根karine) trên cửa sông Naniwa,

Nhưng vì lỡ ngủ trọ (仮寝karine) một đêm (一夜hitoyo).

Cho nên mình phải mất cả thân danh (身を尽くしmi wo tsukushi) để trọn mối tình,

Như cọc phao ( 澪標miotsukushi) cắm ở giữa giòng nước.

d) Dịch thơ:

Bến nước ngàn lau xanh,
Chỉ một đêm ngủ đỗ,
Thế mà trọn đời mình,
Tương tư bao nhiêu khổ.

(ngũ ngôn) 

Ngàn lau có thấu cho mình,
Gối chăn một tối, nợ tình trăm năm.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Senzai-shuu (Thiên Tải Tập), thơ luyến ái, phần 3, bài 807.

Tác Giả: Kôkamon-in no Betto (Trưởng quan coi sóc phủ của Hoàng Gia Môn Viện) , một nữ thi nhân không rõ họ tên, năm sinh năm mất. Chỉ biết bà là con gái của chức trưởng quan tại phủ Thái Hoàng Thái Hậu Seiko (Đằng Nguyên Thánh Tử, 1122-1181, hoàng hậu của Thiên Hoàng Sutoku) tên là Minamoto no Toshitaka (Nguyên, Tuấn Long). Bà cũng là nữ quan có nhiệm vụ hầu hạ bà Seiko và sống vào thế kỷ 12. 

Lời bình trong Senzai-shuu xếp bài thơ này vào “tình gặp giữa đường” trong một chuyện du hành.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Mối tình ngắn ngủi một đêm ngủ trọ như đốt lau ngắn bên sông Naniwa.

Đương thời trên bến Naniwa có rất nhiều gái làng chơi (du nữ). Có lẽ tác giả đã vịnh thay cho người con gái ấy và tình huống kể từ cuộc gặp gỡ một đêm của nàng

Đây là một bài thơ nặng về kỹ xảo, gây khó khăn cho người dịch. Không chịu dịch thoát thì phải bó tay. Tác giả sử dụng nhiều kỹ thuật tu từ một lượt:

- Jo-kotoba ( cụm từ Naniwae no ashi đặt ở đầu bài).
- Kake-kotoba (mỗi từ hitoyo, karine, miotsukushi đều có 2 nghĩa đen và bóng).
- Engo (giữa ashi, hitoyo, karine, miotsukushi và Naniwae có sự liên kết ngữ nghĩa).

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Nạn Ba Giang.
難 波 江

Nạn Ba giang bạn lô vi thâm,
難 波 江 畔 芦 葦 深

Thanh thanh lô vi biến[1] hà tân.
青 青 芦 葦 遍 河 浜

Dữ quân tương phùng chỉ nhất dạ,
与 君 相 逢 只 一 夜

Tùng thử thâm tình vĩnh ký tâm.
従 此 深 情 永 記 心


[1] Biến: đầy khắp

Anh dịch:

Dịch giả Dickins thú nhận phải đầu hàng:

(The plays upon words in this Ode render it quite untranslatable, with any approach, in any event, to the force and the point of the original)

For but one night's sake,

Short as is a node of reed

Grown in Naniwa bay,

Must I, henceforth, long for him

With my whole heart, till life's close?

(Mac Cauley)

Bài thơ này làm ta liên tưởng đến Lời Kỹ Nữ của Xuân Diệu:

Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn,
Chớ để riêng em gặp phải hồn em.
Tay ái ân du khách hãy làm rèm,
Tóc xanh tốt em xin nguyền dệt mộng.                                        

Lòng em như nước Trường Giang ấy,
Sớm tối theo chàng tới Phúc Châu.