Bài số :  80

Thơ bà Taikenmon-in no Horikawa 待賢門院堀河

 

a) Nguyên văn:

長からむ

心も知らず

黒髪の

乱れて今朝は

ものをこそ思へ

b) Phiên âm:

Nagakaramu (ran)

Kokoro mo shirazu

Kurokami no

Middarete kesa wa

Mono wo koso omoe

c) Diễn ý:

Đêm qua chàng nói tình mãi mãi không hề thay đổi,

Lời ấy sao thấy khó thực hiện.

Gặp gỡ rồi sáng nay chia tay, tóc em rối,

Lòng cũng rối theo, trầm ngâm nghĩ ngược nghĩ xuôi.

d) Dịch thơ:

Chàng thề lòng chẳng đổi,
Em chưa hết hoang mang.
Sáng chia tay, tóc rối
Băn khoăn, lòng ngổn ngang.

(ngũ ngôn) 

Chàng rằng tình chẳng đổi thay,
Cớ sao tóc rối, lòng này ngổn ngang.

(lục bát)

 

 e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất Xứ: Senzai-shuu (Thiên Tải Tập), thơ luyến ái, phần 3, bài 802.

Tác Giả: Taikenmon-in Horikawa là tên mượn để gọi (yobina) bà con gái của Minamoto no Akinaka (Nguyên, Hiển Trọng) môt chức thần quan coi việc đền thần đạo và nghi lễ. Bà theo hầu Taikenmon-in (Đãi Hiền Môn Viện) tức người mẹ đẻ của Thái Thượng Hoàng Sutoku (Sùng Đức Viện, tác giả bài 77). Sau khi mẹ nhà vua xuất gia bà cũng đi tu luôn. Horikawa có lẽ là tên chỗ ở của bà trong thành Kyôto.

Bà là một nữ ca nhân tiêu biểu của thời viện chính tức là thời các thái thượng hoàng về ở ẩn nhưng vẫn giật giây chính trị.

Theo lời thuyết minh của Senzai-shuu, đây cũng là một trong những bài thơ thuộc Cửu An Bách Thủ như các bài 77, 79 và 83, mà người đàn bà gửi cho người yêu như một bài hanka (thơ đáp lời) trong giờ “chia áo”.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài:Mái tóc rối trong buổi sáng chia tay làm lòng càng thêm bấn loạn vì yêu.

Nagakaramu kokoro là cụm từ nói lên lời hứa trung thành của người đàn ông, cùng lúc biểu hiện thái độ bất an vì nghi ngờ (shirazu =không biết) của người đàn bà về lời khẳng định rằng tình yêu của chàng sẽ không hề thay đổi (giống như tâm sự tác giả bài 54). Còn Kurokami no midare, qua hình ảnh rất nhục cảm của mái tóc đen rối bời, diễn tả tâm trạng chưa trở lại bình thường của nàng sau giờ ân ái. Mái tóc rối và tâm hồn cũng rối: midare (rối) được hiểu với hai nghĩa đen và nghĩa bóng. Các chữ kurokami (tóc đen), nagakara (dài, lâu dài) và midare (rối) đều có quan hệ engo.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Quân Tâm Bất Biến Phủ.
君 心 不 変 否

 

Năng phủ trường kỳ bất biến tâm,
能 否 長 期 不 変 心

Kim nông tróc mô[1] phí tư tầm.
今 儂 捉 撫 費 思 尋

Nông tâm loạn như thần khởi phát[2],
儂 心 乱 如 晨 起 

Mãn phúc tân toan ưu lự thâm.
満 腹 辛 酸 憂 慮 深


[1] Tróc mô: mò mẫm bắt được.
[2] Thần khởi phát: buổi sáng vừa tỉnh ngủ.

 

Anh dịch:

I fear me thou wilt break the pact

Thou mad’st with me – thy love will pass

Away from me, whom thoughts distract,

As tangled as the unkempt mass

My ravel treeses show.

That o’er my waking pillow flow.

(Dickins)

If it be for aye

That he wills our love should last?

Ah! I do not know!

And this morn my anxious thoughts,

Like my black hair, are confused.

(Mac Cauley)

Đối với phụ nữ thời Heian, mái tóc và tiếng nói tiêu biểu cho sắc đẹp của họ. Mái tóc đen, dài và bóng mượt, xõa hết tấm lưng, đã được ngâm vịnh bởi rất nhiều thi nhân Nhật Bản. Pháp sư Kenko cũng nhắc lại điều này trong tập tùy bút Tsurezure-gusa (Buồn Buồn Phóng Bút, đoạn 9- Mái Tóc Đẹp) của ông:

Nơi người đàn bà, mái tóc đẹp là cái thu hút tia nhìn của đàn ông hơn cả.... Cũng vì lý do đó nên mới có truyền thuyết là sợi dây thừng xe bằng lọn tóc của người đàn bà có thể cột được con voi khổng lồ, mà ống tiêu đẽo từ gỗ đôi guốc của người đàn bà có thể làm cho con nai mùa thu động tình đi tìm nai cái lần đến gần”

Ngoài bà Horikawa, ta còn thấy các bà Izumi Shikibu và sau này Yosano Akiko (1878-1942), là những nhà thơ nữ nói về mái tóc như suối nguồn tình yêu. Nhiều người như Maruya Saiiichi cho rằng “tóc rối” “mái tóc xô lệch”, “vuốt tóc” là biểu tượng quan hệ tính dục vì đàn bà ngày xưa thường ngồi sau mành tiếp khách, ngay cả không cho người lạ thấy mái tóc của mình.

 

 





Bài số :  80

Thơ bà Taikenmon-in no Horikawa 待賢門院堀河

 

a) Nguyên văn:

長からむ

心も知らず

黒髪の

乱れて今朝は

ものをこそ思へ

b) Phiên âm:

Nagakaramu (ran)

Kokoro mo shirazu

Kurokami no

Middarete kesa wa

Mono wo koso omoe

c) Diễn ý:

Đêm qua chàng nói tình mãi mãi không hề thay đổi,

Lời ấy sao thấy khó thực hiện.

Gặp gỡ rồi sáng nay chia tay, tóc em rối,

Lòng cũng rối theo, trầm ngâm nghĩ ngược nghĩ xuôi.

d) Dịch thơ:

Chàng thề lòng chẳng đổi,
Em chưa hết hoang mang.
Sáng chia tay, tóc rối
Băn khoăn, lòng ngổn ngang.

(ngũ ngôn) 

Chàng rằng tình chẳng đổi thay,
Cớ sao tóc rối, lòng này ngổn ngang.

(lục bát)

 

 e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất Xứ: Senzai-shuu (Thiên Tải Tập), thơ luyến ái, phần 3, bài 802.

Tác Giả: Taikenmon-in Horikawa là tên mượn để gọi (yobina) bà con gái của Minamoto no Akinaka (Nguyên, Hiển Trọng) môt chức thần quan coi việc đền thần đạo và nghi lễ. Bà theo hầu Taikenmon-in (Đãi Hiền Môn Viện) tức người mẹ đẻ của Thái Thượng Hoàng Sutoku (Sùng Đức Viện, tác giả bài 77). Sau khi mẹ nhà vua xuất gia bà cũng đi tu luôn. Horikawa có lẽ là tên chỗ ở của bà trong thành Kyôto.

Bà là một nữ ca nhân tiêu biểu của thời viện chính tức là thời các thái thượng hoàng về ở ẩn nhưng vẫn giật giây chính trị.

Theo lời thuyết minh của Senzai-shuu, đây cũng là một trong những bài thơ thuộc Cửu An Bách Thủ như các bài 77, 79 và 83, mà người đàn bà gửi cho người yêu như một bài hanka (thơ đáp lời) trong giờ “chia áo”.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài:Mái tóc rối trong buổi sáng chia tay làm lòng càng thêm bấn loạn vì yêu.

Nagakaramu kokoro là cụm từ nói lên lời hứa trung thành của người đàn ông, cùng lúc biểu hiện thái độ bất an vì nghi ngờ (shirazu =không biết) của người đàn bà về lời khẳng định rằng tình yêu của chàng sẽ không hề thay đổi (giống như tâm sự tác giả bài 54). Còn Kurokami no midare, qua hình ảnh rất nhục cảm của mái tóc đen rối bời, diễn tả tâm trạng chưa trở lại bình thường của nàng sau giờ ân ái. Mái tóc rối và tâm hồn cũng rối: midare (rối) được hiểu với hai nghĩa đen và nghĩa bóng. Các chữ kurokami (tóc đen), nagakara (dài, lâu dài) và midare (rối) đều có quan hệ engo.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Quân Tâm Bất Biến Phủ.
君 心 不 変 否

 

Năng phủ trường kỳ bất biến tâm,
能 否 長 期 不 変 心

Kim nông tróc mô[1] phí tư tầm.
今 儂 捉 撫 費 思 尋

Nông tâm loạn như thần khởi phát[2],
儂 心 乱 如 晨 起 

Mãn phúc tân toan ưu lự thâm.
満 腹 辛 酸 憂 慮 深


[1] Tróc mô: mò mẫm bắt được.
[2] Thần khởi phát: buổi sáng vừa tỉnh ngủ.

 

Anh dịch:

I fear me thou wilt break the pact

Thou mad’st with me – thy love will pass

Away from me, whom thoughts distract,

As tangled as the unkempt mass

My ravel treeses show.

That o’er my waking pillow flow.

(Dickins)

If it be for aye

That he wills our love should last?

Ah! I do not know!

And this morn my anxious thoughts,

Like my black hair, are confused.

(Mac Cauley)

Đối với phụ nữ thời Heian, mái tóc và tiếng nói tiêu biểu cho sắc đẹp của họ. Mái tóc đen, dài và bóng mượt, xõa hết tấm lưng, đã được ngâm vịnh bởi rất nhiều thi nhân Nhật Bản. Pháp sư Kenko cũng nhắc lại điều này trong tập tùy bút Tsurezure-gusa (Buồn Buồn Phóng Bút, đoạn 9- Mái Tóc Đẹp) của ông:

Nơi người đàn bà, mái tóc đẹp là cái thu hút tia nhìn của đàn ông hơn cả.... Cũng vì lý do đó nên mới có truyền thuyết là sợi dây thừng xe bằng lọn tóc của người đàn bà có thể cột được con voi khổng lồ, mà ống tiêu đẽo từ gỗ đôi guốc của người đàn bà có thể làm cho con nai mùa thu động tình đi tìm nai cái lần đến gần”

Ngoài bà Horikawa, ta còn thấy các bà Izumi Shikibu và sau này Yosano Akiko (1878-1942), là những nhà thơ nữ nói về mái tóc như suối nguồn tình yêu. Nhiều người như Maruya Saiiichi cho rằng “tóc rối” “mái tóc xô lệch”, “vuốt tóc” là biểu tượng quan hệ tính dục vì đàn bà ngày xưa thường ngồi sau mành tiếp khách, ngay cả không cho người lạ thấy mái tóc của mình.