Bài số :  64

Thơ Quyền Trung Nạp Ngôn Sadayori 権中納言定頼

 

a) Nguyên văn:

朝ぼらけ

宇治の川霧

たえだえに

あらわれわたる

瀬瀬の網代木

b) Phiên âm:

Asaborake

Uji no kawagiri

Taedae ni

Araware wataru

Seze no ajirogi

c) Diễn ý:

Trời vừa hừng hừng sáng,

Qua màn sương đầu đông giăng trên mặt sông Uji.

Thấp thoáng đâu đây bên những chỗ nước cạn,

Mấy cọc cây ai đặt nơm (lưới tre) đơm cá.

d) Dịch thơ:

Ngày thức giấc trên sông,
Xua màn sương mịt mùng.
Thấp thoáng ven dòng nước,
Hàng nơm đơm cá đông.

(ngũ ngôn) 

Sớm mai, sương phủ mờ sông,
Nơm ai kiếm cá mùa đông bên dòng.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Senzai-shuu (Thiên Tải Tập) thơ mùa Đông, bài 420.

Tác Giả: Gon Chuunagon (chức Quyền Trung Nạp Ngôn) Fujiwara no Sadayori (Đằng Nguyên, Định Lại, 995-1045), con trai Kintô (bài 55). Chữ đẹp, có quan hệ thân thiết với Koshikibu (bài 60).  

Theo lời bình trong tập Senzai-shuu, tác giả đã làm bài thơ trên đường đi Uji. Khu vực này là nơi phong cảnh thanh u, có nhiều trang viện của quí tộc trong triều đình Heian (xem bài số 8). Phong cảnh mùa đông trong vùng với những hàng cây cọc giăng nơm đơm cá (ajirogi) nên thơ đã được ghi lại trong các tập nhật ký như Kagerô hay Sarashina. Dĩ nhiên có nhiều thơ vịnh về nó nhưng mô tả được toàn thể cảnh vật chắc phải là mười chương cuối nói về đất Uji (Uji Juujô) trong Truyện Genji. Lồng vào đấy là không khí trữ tình của những buổi sáng”chia áo” từ giã, soi bóng trên sông, giữa các chàng Niou no Miya, Kaoru và các nàng Agemaki, Kozeri và Ukifune.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Cảnh những hàng cọc đặt nơm bắt cá che khuất trong sương đông buổi sớm mai trên sông Uji.

Buổi sáng một ngày chớm đông, lớp sương trắng phủ kín mặt sông bắt đầu tan loãng để lộ những cọc cắm nơm đơm cá là một quang cảnh thi vị như thấy qua một bức tranh thủy mặc.

Con sông Uji nói đến ở đây phát xuất từ phía nam hồ Biwa. Một khúc được gọi là Seta, trước khi qua Kyôto đã hợp lưu với các sông Kizu, Katsura và đoạn này mang tên là sông Uji. Nó rất quen thuộc với người dân ở Kyôto vì là con đường đi hành hương bằng đường thủy của họ đến đền Hatsuse.

Se tức là lạch hay chỗ cạn của khúc không. Còn ajirogi chỉ những cọc cây cắm thành hàng ở trên lạch để giữ những nơm (hay lưới tre) đơm cá hio (băng ngư), loại cá ayu (sweetfish) con.

Chữ ajorigi đặt ở cuối câu theo kỹ thuật taigendome nhằm tập trung tất cả ấn tượng của bài thơ vào trong một chữ chủ chốt.

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Mông Lung Thự Sắc.
朦 朧 曙 色 

Mông lung thự sắc Vũ Trị xuyên,
朦 朧 曙 色 宇 治 川

Mê mông vụ khí đoạn hoàn liên.
迷 濛 霧 氣 断 還 連

Dao vọng cấp lưu thiển than xứ,
遥 望 急 流 浅 灘 処

Vô số ngư lương[1] hà thủy gian.
無 数 漁 梁 河 水 間


[1] Ngư lương: nơm hay lưới tre đan bằng trúc để bắt cá.

Anh dịch:

By th’ dim grey light of early dawn

I stray’d by Uji’s wave,

From whence the rifting mist upborne

Me scattered glimpses gave.

Of Zeze’s stakes there set,

Whereon the fisher spreads his net.

(Dickins)

Lo! at early dawn,

When the mists o'er Uji's stream

Slowly lift and clear,

And the net-stakes on the shoals,

Near and far away, appear!

(Mac Cauley)

 

 





Bài số :  64

Thơ Quyền Trung Nạp Ngôn Sadayori 権中納言定頼

 

a) Nguyên văn:

朝ぼらけ

宇治の川霧

たえだえに

あらわれわたる

瀬瀬の網代木

b) Phiên âm:

Asaborake

Uji no kawagiri

Taedae ni

Araware wataru

Seze no ajirogi

c) Diễn ý:

Trời vừa hừng hừng sáng,

Qua màn sương đầu đông giăng trên mặt sông Uji.

Thấp thoáng đâu đây bên những chỗ nước cạn,

Mấy cọc cây ai đặt nơm (lưới tre) đơm cá.

d) Dịch thơ:

Ngày thức giấc trên sông,
Xua màn sương mịt mùng.
Thấp thoáng ven dòng nước,
Hàng nơm đơm cá đông.

(ngũ ngôn) 

Sớm mai, sương phủ mờ sông,
Nơm ai kiếm cá mùa đông bên dòng.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Senzai-shuu (Thiên Tải Tập) thơ mùa Đông, bài 420.

Tác Giả: Gon Chuunagon (chức Quyền Trung Nạp Ngôn) Fujiwara no Sadayori (Đằng Nguyên, Định Lại, 995-1045), con trai Kintô (bài 55). Chữ đẹp, có quan hệ thân thiết với Koshikibu (bài 60).  

Theo lời bình trong tập Senzai-shuu, tác giả đã làm bài thơ trên đường đi Uji. Khu vực này là nơi phong cảnh thanh u, có nhiều trang viện của quí tộc trong triều đình Heian (xem bài số 8). Phong cảnh mùa đông trong vùng với những hàng cây cọc giăng nơm đơm cá (ajirogi) nên thơ đã được ghi lại trong các tập nhật ký như Kagerô hay Sarashina. Dĩ nhiên có nhiều thơ vịnh về nó nhưng mô tả được toàn thể cảnh vật chắc phải là mười chương cuối nói về đất Uji (Uji Juujô) trong Truyện Genji. Lồng vào đấy là không khí trữ tình của những buổi sáng”chia áo” từ giã, soi bóng trên sông, giữa các chàng Niou no Miya, Kaoru và các nàng Agemaki, Kozeri và Ukifune.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Cảnh những hàng cọc đặt nơm bắt cá che khuất trong sương đông buổi sớm mai trên sông Uji.

Buổi sáng một ngày chớm đông, lớp sương trắng phủ kín mặt sông bắt đầu tan loãng để lộ những cọc cắm nơm đơm cá là một quang cảnh thi vị như thấy qua một bức tranh thủy mặc.

Con sông Uji nói đến ở đây phát xuất từ phía nam hồ Biwa. Một khúc được gọi là Seta, trước khi qua Kyôto đã hợp lưu với các sông Kizu, Katsura và đoạn này mang tên là sông Uji. Nó rất quen thuộc với người dân ở Kyôto vì là con đường đi hành hương bằng đường thủy của họ đến đền Hatsuse.

Se tức là lạch hay chỗ cạn của khúc không. Còn ajirogi chỉ những cọc cây cắm thành hàng ở trên lạch để giữ những nơm (hay lưới tre) đơm cá hio (băng ngư), loại cá ayu (sweetfish) con.

Chữ ajorigi đặt ở cuối câu theo kỹ thuật taigendome nhằm tập trung tất cả ấn tượng của bài thơ vào trong một chữ chủ chốt.

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Mông Lung Thự Sắc.
朦 朧 曙 色 

Mông lung thự sắc Vũ Trị xuyên,
朦 朧 曙 色 宇 治 川

Mê mông vụ khí đoạn hoàn liên.
迷 濛 霧 氣 断 還 連

Dao vọng cấp lưu thiển than xứ,
遥 望 急 流 浅 灘 処

Vô số ngư lương[1] hà thủy gian.
無 数 漁 梁 河 水 間


[1] Ngư lương: nơm hay lưới tre đan bằng trúc để bắt cá.

Anh dịch:

By th’ dim grey light of early dawn

I stray’d by Uji’s wave,

From whence the rifting mist upborne

Me scattered glimpses gave.

Of Zeze’s stakes there set,

Whereon the fisher spreads his net.

(Dickins)

Lo! at early dawn,

When the mists o'er Uji's stream

Slowly lift and clear,

And the net-stakes on the shoals,

Near and far away, appear!

(Mac Cauley)