Bài số 49

Thơ Ônakatomi no Yoshinobu 大中臣能宣朝臣

 

a) Nguyên văn:

みかきもり

衛士のたく火の

夜は燃え

昼は消えつつ

ものをこそ思へ

b) Phiên âm:

Mikaki mori

Eji no taku hi no

Yoru wa moe

Hiru wa kie tsutsu

Mono wo koso omoe

c) Diễn ý:

Lửa đi tuần của lính cảnh vệ cung môn,

Mỗi đêm nhóm lên đến ngày lại tắt.

Lửa tình của ta cũng phừng cháy mỗi đêm và tắt lịm trong ngày,

Sáng chiều như thế làm mình đau khổ.

d) Dịch thơ:

Như lửa lính tuần đêm,
Mỗi tối tình bùng lên.
Đến ngày lại tàn lụi,
Sáng chiều mơ kề bên.

(ngũ ngôn) 

Tình bừng bừng lửa tuần đêm,
Sáng sao tàn lạnh, nỗi niềm ai hay.

(lục bát)

 

 e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Shika-shuu (Từ Hoa Tập) thơ luyến ái phần thượng, bài 225.

Tác Giả: Ônakatomi no Yoshinobu Ason (Đại Trung Thần, Năng Tuyên Triều Thần, 921-991) sinh trong một gia đình cha ông ba đời quan giữ đền. Với tư cách là một người trong nhóm Lê Hồ Ngũ Nhân, đã góp phần biên soạn Gosen-shuu (Hậu Tuyển Tập). Nữ thi sĩ Ise no Taifu (tác giả bài 61) là cháu gọi bằng ông. Có chân trong 36 ca tiên.

Ônakatomi no Yoshinobu Ason

Bài thơ này được Shika-shuu (ra đời năm 1144) xếp vào thơ Yoshinobu nhưng trong tuyển tập thơ Kokin Waka Rokujô (Cổ Kim Hòa Ca Lục Thiếp) xuất hiện trước đó (khoảng giữa 951-1007) , lại có chép một bài thơ của tác giả vô danh tương tự như thế, chỉ khác ở hai câu 3 và 4:

Hiru wa tae
Yoru wa moetutsu

(Ngày thì lửa tàn dần,
Đêm lại bừng bừng lên)

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề Tài: Tình của ta đêm thì nồng nàn bỏng cháy, ngày thì trầm uất khổ muộn.

Hai câu đầu tả cảnh ngọn lửa tuần đêm của lính ngự lâm trong cung được sử dụng như cụm từ mào đầu (jo-kotoba). Những người này do các địa phương mỗi năm (về sau cứ ba năm một) thay nhau gửi tới để giữ việc đi tuần cung môn. Cảnh lửa đỏ bùng lên trong đêm đen cho ta một ấn tượng mạnh về nhiệt tình của tác giả. Thế nhưng tình ấy lại tiêu tan lúc ngày lên, làm cho mình như thể không còn là mình nữa. Chỉ có lý do duy nhất là ban đêm mình được gặp gỡ người đẹp, còn ban ngày thì trống vắng vì thiếu nàng.

Mikakimori nghĩa là lính tuần đêm. Chữ kietsutsu (tàn dần) vừa có nghĩa lửa tàn dần, mạng sống tàn dần hay nhớ nhung nhạt nhòa, được sử dụng ở đây như một kake-kotoba (chữ đa nghĩa). Những âm ru, wa, e, mo lập lại nhiều lần tạo ra một âm hưởng hạp tai người Nhật.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Cung Môn Câu Hỏa.
宮 門 篝 火

 

Môn vệ dạ gian câu hỏa hồng,
門 衛 夜 間 篝 火 紅

Ngã tình nhiệt tự hỏa ban đồng[1].
我 情 熱 似 火 般 同

Trú lai hỏa tức[2], nhiệt tình giảm,
昼 来 火 熄 熱 情 減

Tương tư tiều[3] lự khước trùng trùng.
相 思 焦 慮 却 重 重


[1] Ban đồng: giống như.
[2] Hỏa tức : lửa tắt.
[3] Tiều: Cháy.

 

Anh dịch:

Th’Mikakimori through the night

(And men the warder Yeji name)

The watch-fire’s blaze keeps full and bright;

When morning breaks, then dies the flame:

So, too, at dawn

My happiness is past and gone.

(Dickins)

Like the warder's fires

At the Imperial gateway kept,--

Burning through the night,

Through the day in ashes dulled,--

Is the love aglow in me.

(Mc Cauley)

Nhà thơ Kitahara Hakushuu (1885-1942), người nhiều đam mê, có thời mang án vì tội ngoại tình với vợ người, cũng ví tình yêu như ngọn lửa:

Yuu sareba
Hi no tsuku gotoku
Kimi koishi
Inochi ito hoshi
Akiramerarezu 

(Nắng chiều châm ngọn lửa tình,
Còn chút hơi thở, bên mình chẳng xa)

 

 





Bài số 49

Thơ Ônakatomi no Yoshinobu 大中臣能宣朝臣

 

a) Nguyên văn:

みかきもり

衛士のたく火の

夜は燃え

昼は消えつつ

ものをこそ思へ

b) Phiên âm:

Mikaki mori

Eji no taku hi no

Yoru wa moe

Hiru wa kie tsutsu

Mono wo koso omoe

c) Diễn ý:

Lửa đi tuần của lính cảnh vệ cung môn,

Mỗi đêm nhóm lên đến ngày lại tắt.

Lửa tình của ta cũng phừng cháy mỗi đêm và tắt lịm trong ngày,

Sáng chiều như thế làm mình đau khổ.

d) Dịch thơ:

Như lửa lính tuần đêm,
Mỗi tối tình bùng lên.
Đến ngày lại tàn lụi,
Sáng chiều mơ kề bên.

(ngũ ngôn) 

Tình bừng bừng lửa tuần đêm,
Sáng sao tàn lạnh, nỗi niềm ai hay.

(lục bát)

 

 e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Shika-shuu (Từ Hoa Tập) thơ luyến ái phần thượng, bài 225.

Tác Giả: Ônakatomi no Yoshinobu Ason (Đại Trung Thần, Năng Tuyên Triều Thần, 921-991) sinh trong một gia đình cha ông ba đời quan giữ đền. Với tư cách là một người trong nhóm Lê Hồ Ngũ Nhân, đã góp phần biên soạn Gosen-shuu (Hậu Tuyển Tập). Nữ thi sĩ Ise no Taifu (tác giả bài 61) là cháu gọi bằng ông. Có chân trong 36 ca tiên.

Ônakatomi no Yoshinobu Ason

Bài thơ này được Shika-shuu (ra đời năm 1144) xếp vào thơ Yoshinobu nhưng trong tuyển tập thơ Kokin Waka Rokujô (Cổ Kim Hòa Ca Lục Thiếp) xuất hiện trước đó (khoảng giữa 951-1007) , lại có chép một bài thơ của tác giả vô danh tương tự như thế, chỉ khác ở hai câu 3 và 4:

Hiru wa tae
Yoru wa moetutsu

(Ngày thì lửa tàn dần,
Đêm lại bừng bừng lên)

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề Tài: Tình của ta đêm thì nồng nàn bỏng cháy, ngày thì trầm uất khổ muộn.

Hai câu đầu tả cảnh ngọn lửa tuần đêm của lính ngự lâm trong cung được sử dụng như cụm từ mào đầu (jo-kotoba). Những người này do các địa phương mỗi năm (về sau cứ ba năm một) thay nhau gửi tới để giữ việc đi tuần cung môn. Cảnh lửa đỏ bùng lên trong đêm đen cho ta một ấn tượng mạnh về nhiệt tình của tác giả. Thế nhưng tình ấy lại tiêu tan lúc ngày lên, làm cho mình như thể không còn là mình nữa. Chỉ có lý do duy nhất là ban đêm mình được gặp gỡ người đẹp, còn ban ngày thì trống vắng vì thiếu nàng.

Mikakimori nghĩa là lính tuần đêm. Chữ kietsutsu (tàn dần) vừa có nghĩa lửa tàn dần, mạng sống tàn dần hay nhớ nhung nhạt nhòa, được sử dụng ở đây như một kake-kotoba (chữ đa nghĩa). Những âm ru, wa, e, mo lập lại nhiều lần tạo ra một âm hưởng hạp tai người Nhật.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Cung Môn Câu Hỏa.
宮 門 篝 火

 

Môn vệ dạ gian câu hỏa hồng,
門 衛 夜 間 篝 火 紅

Ngã tình nhiệt tự hỏa ban đồng[1].
我 情 熱 似 火 般 同

Trú lai hỏa tức[2], nhiệt tình giảm,
昼 来 火 熄 熱 情 減

Tương tư tiều[3] lự khước trùng trùng.
相 思 焦 慮 却 重 重


[1] Ban đồng: giống như.
[2] Hỏa tức : lửa tắt.
[3] Tiều: Cháy.

 

Anh dịch:

Th’Mikakimori through the night

(And men the warder Yeji name)

The watch-fire’s blaze keeps full and bright;

When morning breaks, then dies the flame:

So, too, at dawn

My happiness is past and gone.

(Dickins)

Like the warder's fires

At the Imperial gateway kept,--

Burning through the night,

Through the day in ashes dulled,--

Is the love aglow in me.

(Mc Cauley)

Nhà thơ Kitahara Hakushuu (1885-1942), người nhiều đam mê, có thời mang án vì tội ngoại tình với vợ người, cũng ví tình yêu như ngọn lửa:

Yuu sareba
Hi no tsuku gotoku
Kimi koishi
Inochi ito hoshi
Akiramerarezu 

(Nắng chiều châm ngọn lửa tình,
Còn chút hơi thở, bên mình chẳng xa)