Bài số 43

Thơ Quyền Trung Nạp Ngôn Atsutada 権中納言敦忠

 

a) Nguyên văn:

逢ひ見ての

のちの心に

くらぶれば

昔はものを

思はざりけり

b) Phiên âm:

Ai mite no

Nochi no kokoro ni

Kurabureba

Mukashi wa mono wo

Omowazari keri

c) Diễn ý:

Sau khi qua đêm với người yêu,

Thử dò xem lòng mình như thế nào.

Mới thấy đối với cảnh khổ tâm bây giờ

Nỗi nhớ nhung khi chưa được gặp đã thấm vào đâu.

d) Dịch thơ:

Sau đêm đầu được gặp,
Tự hỏi lòng sao đây?
Mới biết tương tư khổ,
Nỗi ấy trước đâu tày.

(ngũ ngôn) 

Gặp rồi lòng lại thêm càng,
Tương tư nay khổ muôn vàn, so xưa.

(lục bát)

 

 e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Shuui-shuu (Thập Di Tập), thơ luyến ái phần 2, bài 710.

Tác giả: Quan Quyền Trung Nạp Ngôn Fujiwara no Atsutada (Đằng Nguyên, Đôn Trung, 906-943) là công tử con thứ ba Tả Đại Thần Tokihira (Thời Bình). Nổi tiếng đẹp trai, phong vận, giỏi về đàn tì bà (biwa) ngang hàng với Minamoto no Hiromasa (Nguyên, Bác Nhã), một nhạc sư đương thời.Làm quan đến chức Gon-Chuunagon (Quyền Trung Nạp Ngôn), tòng tam phẩm. Do đó, còn được gọi là Biwa no Chuunagon.

Bà Shirasu Masako cho biết mẹ của Atsusada là con gái của Muneyana (Đống Lương) tức người con trai của vương tử đa tình Ariwara no Narihira, nên Atsutada có thể thừa hưởng dòng máu phong lưu của gia đình bên mẹ. Bà là môt mỹ nhân, nhà văn Tanizaki Jun.ichirô đã dùng làm người mẫu cho nhân vật tiểu thuyết Shôshô Shigemoto no Haha (Người mẹ của Tướng Shigemoto).

 

Fujiwara no Atsutada

Sau khi có được một dịp gặp gỡ lén lút (逢う瀬ôse) thường là qua đêm với người yêu, tác giả tưởng như thế lòng sẽ thanh thản ra, ai ngờ lại càng thêm nhớ nhung đau khổ, hơn cả khi chưa gặp. Chủ đích của bài thơ là để ca ngợi xúc cảm tuyệt đỉnh mà lần hội ngộ đầu tiên đã đem đến và so sánh hương vị nỗi nhớ nhung ở hai thời điểm trước và sau đó.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Sau khi gặp người yêu được một lần đầu, lại càng thêm nhớ nhung đau khổ.

Đây là bài thơ nói về tình cảm người trong cuộcvào sáng hôm sau cuộc gặp gỡ (kinuginu). Kinuginu vừa có thể viết với chữ Hán 後朝hậu triêu (sáng hôm sau), vừa viết với chữ Hán 衣衣y y (áo áo). Y y ám chỉ cảnh hai người tình nhân đêm trước xếp áo để ngủ chung, sáng ra về phải “chia áo” cho nhau mặc lại trước khi ai về nhà nấy. Thơ gọi là 後朝の歌kinuginu no uta, tóm lại là “thơ chia tay” mà người đàn ông viết tặng người đàn bà trước lúc giã từ.

Có thể vì một sự tình gì khiến đôi tình nhân không thể gặp lại lần thứ hai nên lòng họ mới não nuột đến thế. Mono wo omou thật ra phải viết đầy đủ là Koi no mono wo omou có nghĩa là thương nhớ, tương tư.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Dữ quân tương kiến hậu.
与 君 相 見 後 

Dữ quân tương kiến hậu,
与 君 相 見 後

Tâm uẩn[1] vô hạn tình.
心 蘊 無 限 情

Nhược dữ tích thời tỉ,
若 与 昔 日 比

Kim trọng, tích thời khinh.
今 重 昔 日 軽


[1] Uẩn: chất chứa.

Anh dịch:

I went to meet thee, dearest maid,

And when I parted loth from thee,

Upon my soul such mis’ry weighed,

I mourned the love that burdened me:

O that my heart

Were still unvexed by lover’s smart!

(Dickins)

Having met my love,

Afterwards my passion was,

When I measured it

With the feeling of the past,

As, if then, I had not loved.

(Mac Cauley)

Atsutada chết lúc mới có 38 tuổi. Thời ấy, người ta tin rằng cái chết ấy là hậu quả của một sự báo oán. Địch thủ trên chính trường của Tokihira, cha ông, nhà thơ Sugawara no Michizane (tác giả bài 24), bị đày đi Dazaifu ở đảo Kyuushuu, chết ở đó, đã hiện hồn về “bắt” ông. Chính trong thơ văn, ông cũng đã tiên đoán là mình sẽ chết sớm cũng như những người trong giòng họ (theo quyển dã sử Ôkagami).

 

 





Bài số 43

Thơ Quyền Trung Nạp Ngôn Atsutada 権中納言敦忠

 

a) Nguyên văn:

逢ひ見ての

のちの心に

くらぶれば

昔はものを

思はざりけり

b) Phiên âm:

Ai mite no

Nochi no kokoro ni

Kurabureba

Mukashi wa mono wo

Omowazari keri

c) Diễn ý:

Sau khi qua đêm với người yêu,

Thử dò xem lòng mình như thế nào.

Mới thấy đối với cảnh khổ tâm bây giờ

Nỗi nhớ nhung khi chưa được gặp đã thấm vào đâu.

d) Dịch thơ:

Sau đêm đầu được gặp,
Tự hỏi lòng sao đây?
Mới biết tương tư khổ,
Nỗi ấy trước đâu tày.

(ngũ ngôn) 

Gặp rồi lòng lại thêm càng,
Tương tư nay khổ muôn vàn, so xưa.

(lục bát)

 

 e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Shuui-shuu (Thập Di Tập), thơ luyến ái phần 2, bài 710.

Tác giả: Quan Quyền Trung Nạp Ngôn Fujiwara no Atsutada (Đằng Nguyên, Đôn Trung, 906-943) là công tử con thứ ba Tả Đại Thần Tokihira (Thời Bình). Nổi tiếng đẹp trai, phong vận, giỏi về đàn tì bà (biwa) ngang hàng với Minamoto no Hiromasa (Nguyên, Bác Nhã), một nhạc sư đương thời.Làm quan đến chức Gon-Chuunagon (Quyền Trung Nạp Ngôn), tòng tam phẩm. Do đó, còn được gọi là Biwa no Chuunagon.

Bà Shirasu Masako cho biết mẹ của Atsusada là con gái của Muneyana (Đống Lương) tức người con trai của vương tử đa tình Ariwara no Narihira, nên Atsutada có thể thừa hưởng dòng máu phong lưu của gia đình bên mẹ. Bà là môt mỹ nhân, nhà văn Tanizaki Jun.ichirô đã dùng làm người mẫu cho nhân vật tiểu thuyết Shôshô Shigemoto no Haha (Người mẹ của Tướng Shigemoto).

 

Fujiwara no Atsutada

Sau khi có được một dịp gặp gỡ lén lút (逢う瀬ôse) thường là qua đêm với người yêu, tác giả tưởng như thế lòng sẽ thanh thản ra, ai ngờ lại càng thêm nhớ nhung đau khổ, hơn cả khi chưa gặp. Chủ đích của bài thơ là để ca ngợi xúc cảm tuyệt đỉnh mà lần hội ngộ đầu tiên đã đem đến và so sánh hương vị nỗi nhớ nhung ở hai thời điểm trước và sau đó.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Sau khi gặp người yêu được một lần đầu, lại càng thêm nhớ nhung đau khổ.

Đây là bài thơ nói về tình cảm người trong cuộcvào sáng hôm sau cuộc gặp gỡ (kinuginu). Kinuginu vừa có thể viết với chữ Hán 後朝hậu triêu (sáng hôm sau), vừa viết với chữ Hán 衣衣y y (áo áo). Y y ám chỉ cảnh hai người tình nhân đêm trước xếp áo để ngủ chung, sáng ra về phải “chia áo” cho nhau mặc lại trước khi ai về nhà nấy. Thơ gọi là 後朝の歌kinuginu no uta, tóm lại là “thơ chia tay” mà người đàn ông viết tặng người đàn bà trước lúc giã từ.

Có thể vì một sự tình gì khiến đôi tình nhân không thể gặp lại lần thứ hai nên lòng họ mới não nuột đến thế. Mono wo omou thật ra phải viết đầy đủ là Koi no mono wo omou có nghĩa là thương nhớ, tương tư.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Dữ quân tương kiến hậu.
与 君 相 見 後 

Dữ quân tương kiến hậu,
与 君 相 見 後

Tâm uẩn[1] vô hạn tình.
心 蘊 無 限 情

Nhược dữ tích thời tỉ,
若 与 昔 日 比

Kim trọng, tích thời khinh.
今 重 昔 日 軽


[1] Uẩn: chất chứa.

Anh dịch:

I went to meet thee, dearest maid,

And when I parted loth from thee,

Upon my soul such mis’ry weighed,

I mourned the love that burdened me:

O that my heart

Were still unvexed by lover’s smart!

(Dickins)

Having met my love,

Afterwards my passion was,

When I measured it

With the feeling of the past,

As, if then, I had not loved.

(Mac Cauley)

Atsutada chết lúc mới có 38 tuổi. Thời ấy, người ta tin rằng cái chết ấy là hậu quả của một sự báo oán. Địch thủ trên chính trường của Tokihira, cha ông, nhà thơ Sugawara no Michizane (tác giả bài 24), bị đày đi Dazaifu ở đảo Kyuushuu, chết ở đó, đã hiện hồn về “bắt” ông. Chính trong thơ văn, ông cũng đã tiên đoán là mình sẽ chết sớm cũng như những người trong giòng họ (theo quyển dã sử Ôkagami).