Bài số 37

Thơ Funya no Asayasu  文屋朝康

 

a) Nguyên văn:

白露に

風の吹きしく

秋の野は

つらぬきとめぬ

玉ぞ散りける

b) Phiên âm:

Shiratsuyu ni

Kaze no fukishiku

Aki no no wa

Tsuranukitome nu

Tama zo chiri keri

c) Diễn ý:

Trên cánh đồng mùa thu,

Những hạt móc trắng, bị cơn bão thổi

Bay tán loạn như những hạt ngọc,

Không thể nào đem kết thành xâu chuổi được nữa.

d) Dịch thơ:

Trên cánh đồng mùa thu,
Móc trắng bị bão quét.
Tán loạn trong không gian,
Chuỗi ngọc làm sao kết?

(ngũ ngôn) 

Bão thu thổi qua cánh đồng,
Móc bay tán loạn, khó lòng đem xâu.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất Xứ: Gosen-shuu (Hậu Tuyển Tập). Thơ Thu quyển Trung, bài 308.

Tác Giả: Funya no Ayasu (Văn Ốc, Triêu Khang), sinh sống giữa hậu bán thế kỷ thứ 9 sang đầu thế kỷ thứ 10, là con của Funya no Yasuhide, tác giả bài thứ 22. Không rõ về các hoạt động của tác giả, chỉ biết ông là một chức quan nhỏ nhưng có tài thơ lớn..

Đây là một bài thơ làm ra ở một họi bình thơ trong cung hoàng hậu vào khoảng năm Kanpyô (889-898).

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Vẻ đẹp của những hạt móc trắng bị gió thổi bay tán loạn trên cánh đồng mùa thu.

Việc so sánh những hạt móc trắng (bạch lộ) như những hạt ngọc có thể dùng dây xâu lại là một sáo ngữ thường dùng thời Heian. Ở đây tác giả vẽ nên hình ảnh những hạt móc đó bị những cơn bão mùa thu ngoài đồng (nowaki) thổi bay tan tác, không thể lấy dây nào mà xỏ qua cho được nữa. Thông thường, những hạt móc đọng trên những cành cây susuki hay hagi là những loại thảo mộc quen thuộc trên cánh đồng. Khi trận bão lớn thổi qua, nó sẽ bay óng ánh, tán loạn trong không gian.

So sánh hạt móc trắng lấp lánh như ngọc trang sức là sử dụng thủ pháp mitate. Trợ động từ keri như “kìa xem” nhấn mạnh sự ngạc nhiên của tác giả khi nhìn thấy quang cảnh lần đầu tiên.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Bạch Lộ.
白 露

 

Thảo diệp ngưng hàn lộ,
草 葉 凝 寒 露

Phong xuy thảo trầm phù.
風 吹 草 沈 浮

Tiêu sắt thu dã lý,
蕭 瑟 秋 野 里

Loạn sái[1] bạch ngọc châu.
乱 洒 白 玉 珠


[1] Sái: vãi tung ra, vẩy ra

Anh dịch:

Now dew-drops sparkling o’er the moor are seen,

The autumn guts sweeps howling by,

Scarce lurks an instant’mid the reeds I ween:

In timid show’r the dew-drops fly,

And, scatterred o’er the grass, there lie.

(Dickins)

In the autumn fields,

When the heedless wind blows by

O'er the pure-white dew,

How the myriad unstrung gems

Everywhere are scattered round!

(Mac Cauley)

Nhìn trong các tập thơ soạn theo sắc chiếu, chỉ thấy Asayasu có vỏn vẹn 3 bài được đem đăng. Thế mà Teika lại có biệt nhãn đối với ông, không những bình chọn ở đây mà còn khen ngợi thơ ông trong hai tác phẩm của mình (Kindai Shuka tức Cận Đại Tú Ca và Eika Taigai tức Vịnh Ca Đại Khái), đánh giá chúng là những giai tác.

 

 





Bài số 37

Thơ Funya no Asayasu  文屋朝康

 

a) Nguyên văn:

白露に

風の吹きしく

秋の野は

つらぬきとめぬ

玉ぞ散りける

b) Phiên âm:

Shiratsuyu ni

Kaze no fukishiku

Aki no no wa

Tsuranukitome nu

Tama zo chiri keri

c) Diễn ý:

Trên cánh đồng mùa thu,

Những hạt móc trắng, bị cơn bão thổi

Bay tán loạn như những hạt ngọc,

Không thể nào đem kết thành xâu chuổi được nữa.

d) Dịch thơ:

Trên cánh đồng mùa thu,
Móc trắng bị bão quét.
Tán loạn trong không gian,
Chuỗi ngọc làm sao kết?

(ngũ ngôn) 

Bão thu thổi qua cánh đồng,
Móc bay tán loạn, khó lòng đem xâu.

(lục bát)

 

e) Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất Xứ: Gosen-shuu (Hậu Tuyển Tập). Thơ Thu quyển Trung, bài 308.

Tác Giả: Funya no Ayasu (Văn Ốc, Triêu Khang), sinh sống giữa hậu bán thế kỷ thứ 9 sang đầu thế kỷ thứ 10, là con của Funya no Yasuhide, tác giả bài thứ 22. Không rõ về các hoạt động của tác giả, chỉ biết ông là một chức quan nhỏ nhưng có tài thơ lớn..

Đây là một bài thơ làm ra ở một họi bình thơ trong cung hoàng hậu vào khoảng năm Kanpyô (889-898).

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Vẻ đẹp của những hạt móc trắng bị gió thổi bay tán loạn trên cánh đồng mùa thu.

Việc so sánh những hạt móc trắng (bạch lộ) như những hạt ngọc có thể dùng dây xâu lại là một sáo ngữ thường dùng thời Heian. Ở đây tác giả vẽ nên hình ảnh những hạt móc đó bị những cơn bão mùa thu ngoài đồng (nowaki) thổi bay tan tác, không thể lấy dây nào mà xỏ qua cho được nữa. Thông thường, những hạt móc đọng trên những cành cây susuki hay hagi là những loại thảo mộc quen thuộc trên cánh đồng. Khi trận bão lớn thổi qua, nó sẽ bay óng ánh, tán loạn trong không gian.

So sánh hạt móc trắng lấp lánh như ngọc trang sức là sử dụng thủ pháp mitate. Trợ động từ keri như “kìa xem” nhấn mạnh sự ngạc nhiên của tác giả khi nhìn thấy quang cảnh lần đầu tiên.

 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Bạch Lộ.
白 露

 

Thảo diệp ngưng hàn lộ,
草 葉 凝 寒 露

Phong xuy thảo trầm phù.
風 吹 草 沈 浮

Tiêu sắt thu dã lý,
蕭 瑟 秋 野 里

Loạn sái[1] bạch ngọc châu.
乱 洒 白 玉 珠


[1] Sái: vãi tung ra, vẩy ra

Anh dịch:

Now dew-drops sparkling o’er the moor are seen,

The autumn guts sweeps howling by,

Scarce lurks an instant’mid the reeds I ween:

In timid show’r the dew-drops fly,

And, scatterred o’er the grass, there lie.

(Dickins)

In the autumn fields,

When the heedless wind blows by

O'er the pure-white dew,

How the myriad unstrung gems

Everywhere are scattered round!

(Mac Cauley)

Nhìn trong các tập thơ soạn theo sắc chiếu, chỉ thấy Asayasu có vỏn vẹn 3 bài được đem đăng. Thế mà Teika lại có biệt nhãn đối với ông, không những bình chọn ở đây mà còn khen ngợi thơ ông trong hai tác phẩm của mình (Kindai Shuka tức Cận Đại Tú Ca và Eika Taigai tức Vịnh Ca Đại Khái), đánh giá chúng là những giai tác.