Bài số 11  

Thơ quan tham nghị Takamura 参議篁

 

a) Nguyên văn:

わたの原

八十島かけて

漕ぎ出でぬと

人には告げよ

海人の釣り船

 

b) Phiên âm:

Wata no hara

Yasoshima kakete

Kogiidenu to

Hito wa tsuge yo

Ama no tsuribune

c) Diễn ý:

Biển rộng bao la, nhắm phía tám mươi hòn đảo nhỏ,

Ta đã chèo được ra khỏi bờ rồi.

Xin nhờ chiếc thuyền đánh cá,

Nhắn hộ người ở kinh đô như thế nhé.

d) Dịch thơ:

Biển rộng, đảo lô nhô,
Chèo mãi mới xa bờ.
Thuyền câu, xin nhắn hộ,
Người tựa cửa kinh đô.

(ngũ ngôn) 

Thuyền ra biển rộng, đảo khơi,
Nhờ ông câu nhắn hộ người kinh đô.

(lục bát)

 

e)      Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Kokin-shuu, (Cổ kim tập), quyển 9, bài 407, thơ lữ hành.

Tác giả: Sangi (quan tham nghị) Ono no Takamura (Tiểu Dã, Hoàng, 802-852).

 

 

Ono no Takamura

Ono no Takamura 小野篁là con trai của Ono no Minemori (嶺守Lĩnh Thủ), dòng dõi họ Ono, một gia đình quí tộc bác học, đa tài. Cháu ông, Ono no Tôfuu (道風Đạo Phong, 894-966) và Yoshifuru (好古Hiếu Cổ, 884-968) đều có cao danh. Ông giỏi văn chương Hán Hòa từ trẻ (đã theo chiếu chỉ soạn ra tập thơ chữ Hán, 凌雲集Lăng Vân Tập, 814), và được xem như học giả hàng đầu đương thời.

Được Thiên Hoàng Saga (một ông vua yêu văn học) sủng ái nên hoạn lộ thông suốt, năm 834 được cất nhắc vào chức phó sứ trong sứ bộ qua nhà Đường. Thế nhưng, hai lần chẳng may gặp bão lớn, không khởi hành được. Lần thứ ba (838), thuyền chánh sứ Fujiwara no Tsunetsugu (Đằng Nguyên,Thường Tự) bị vỡ, chánh sứ mới lấy thuyền phó sứ dùng cho mình. Tuy nhiên, vốn là người không khuất phục ai, ông phẫn nộ về sự chuyên quyền này nên thác bệnh không nhận mệnh. Vì lẽ ấy, Thiên Hoàng Saga khép ông vào tội tử hình vì phạm phép nước nhưng giảm một cấp thành án phối lưu ra ngoài hoang đảo Oki giữa biển Nhật Bản, một vùng khí hậu khắc nghiệt. Lúc đó ông 37 tuổi.

Giữa mùa đông lạnh, cô đơn, nhắm những hòn đảo nhỏ, chèo mãi mới ra khỏi bờ. Ông làm bài thơ này để nhớ về mẹ già và vợ con còn ở kinh đô. Dù vậy, chỉ hai năm sau đó, ông đã được triệu về kinh lãnh chức tham nghị (sangi) hàng tứ phẩm, một chức vụ quan trọng nên còn được hậu thế gọi là Sangi Takamura.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Nỗi buồn và sự lo âu trên bước đường lưu ly tội đồ.

Thời đó, khi bị đày ra đảo Oki, tội nhân phải lấy đường thủy từ cảng Naniwa ở Ôsaka, đi trong biển nội địa Seto rồi mới quanh ra biển Nhật Bản vì Oki nằm ở ngoài khơi tỉnh Shimane, trông ra hướng Hàn Quốc. Hành trình do đó rất dài. Ở đây, cũng như các nhà chú thích đã nêu ra, dĩ nhiên Ono no Takamura nhớ về gia đình ở kinh đô Kyôto nhưng tình cảm của ông dường như rộng lớn hơn, nỗi buồn cô độc và bất an, tuyệt vọng vượt khỏi phạm vi khung cảnh gia đình và người quen biết.

Chữ yasoshima 八十島 (tám mươi hòn đảo) ý nói vô số đảo. Còn tsuribune 釣舟 (thuyền câu) được sử dụng theo thủ pháp gijin.hô (nhân cách hóa). Trong thơ waka, thuyền câu tượng trưng cho sự cô đơn trong bước lữ hành. Kogiidenu to có nghĩa “Chèo đã ra khỏi được” (idenu, “ ra khỏi” vì nu là trợ động từ để chỉ một việc đã hoàn thành) như lời ông tự nhủ với mình (to). Thủ pháp này gọi là shikugire (四句切りtứ cú thiết) vì nó chấm hết (cắt) lời ông muốn nói ở cuối câu thứ tư. 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Hải thượng.
海 上 

Viễn phương dương diện đảo thành quần,
遠 方 洋 面 島 成 群

Nhất diệp khinh phàm ly hải tân.
一 葉 軽 帆 離 海 浜

Ký ngữ ngư chu thừa điếu giả,
寄 語 漁 舟 乗 釣 者

Kỳ truyền tiêu tức dữ y nhân[1].
其 伝 消 息 与 伊 人


 


[1] Y nhân: người ấy, thường thường chỉ nữ giới.

 

Anh dịch:

Ye fishermen, who range the sea,

In many a barque, I pray ye tell

My fellow-villagers of me –

How that far o’er vast ocean’s swell.

In vessel frail,

Towards Yasoshima I sail.

(Dickins)

O'er the wide, wide sea,

Towards its many distant isles,

Rowing I set forth.

This, to all the world proclaim,

O ye boats of fisher-folk!

(Mac Cauley)

Có nhà bình luận còn cho rằng Takamura muốn phúng thích việc đi sứ sang nhà Đường trong bài này nhưng không lấy gì làm chắc.

Vì tính tình cứng cõi, không khuất phục quyền thế và hay nói thẳng, có tư cách đại trượng phu nên Takamura rất được kính trọng. Người đời xưng tụng là Tại Dã Tể Tướng (Tể Tướng ở bên ngoài triều đình) hay Dã Tướng. Bà Shirasu Masako cho biết ông còn có hiệu Dã Cuồng nhưng để ngầm chỉ cái tính ăn ngay nói thẳng của ông thôi. Sách Konjaku Monogatari nói rằng ban ngày ông làm quan trong triều nhưng tối về lại đi chơi ở âm phủ vì quen biết với vua Diêm La. Ở Nhật, tên Takamura có dính líu đến tín ngưỡng về âm phủ.

Dickins dịch “many barques” và “fishermen” theo số nhiều trong khi tiếng Nhật không phân biệt giống và số. Có thể không sai nhưng vô hình trung đã làm mất mát nhiều thi vị.

 

 





Bài số 11  

Thơ quan tham nghị Takamura 参議篁

 

a) Nguyên văn:

わたの原

八十島かけて

漕ぎ出でぬと

人には告げよ

海人の釣り船

 

b) Phiên âm:

Wata no hara

Yasoshima kakete

Kogiidenu to

Hito wa tsuge yo

Ama no tsuribune

c) Diễn ý:

Biển rộng bao la, nhắm phía tám mươi hòn đảo nhỏ,

Ta đã chèo được ra khỏi bờ rồi.

Xin nhờ chiếc thuyền đánh cá,

Nhắn hộ người ở kinh đô như thế nhé.

d) Dịch thơ:

Biển rộng, đảo lô nhô,
Chèo mãi mới xa bờ.
Thuyền câu, xin nhắn hộ,
Người tựa cửa kinh đô.

(ngũ ngôn) 

Thuyền ra biển rộng, đảo khơi,
Nhờ ông câu nhắn hộ người kinh đô.

(lục bát)

 

e)      Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Kokin-shuu, (Cổ kim tập), quyển 9, bài 407, thơ lữ hành.

Tác giả: Sangi (quan tham nghị) Ono no Takamura (Tiểu Dã, Hoàng, 802-852).

 

 

Ono no Takamura

Ono no Takamura 小野篁là con trai của Ono no Minemori (嶺守Lĩnh Thủ), dòng dõi họ Ono, một gia đình quí tộc bác học, đa tài. Cháu ông, Ono no Tôfuu (道風Đạo Phong, 894-966) và Yoshifuru (好古Hiếu Cổ, 884-968) đều có cao danh. Ông giỏi văn chương Hán Hòa từ trẻ (đã theo chiếu chỉ soạn ra tập thơ chữ Hán, 凌雲集Lăng Vân Tập, 814), và được xem như học giả hàng đầu đương thời.

Được Thiên Hoàng Saga (một ông vua yêu văn học) sủng ái nên hoạn lộ thông suốt, năm 834 được cất nhắc vào chức phó sứ trong sứ bộ qua nhà Đường. Thế nhưng, hai lần chẳng may gặp bão lớn, không khởi hành được. Lần thứ ba (838), thuyền chánh sứ Fujiwara no Tsunetsugu (Đằng Nguyên,Thường Tự) bị vỡ, chánh sứ mới lấy thuyền phó sứ dùng cho mình. Tuy nhiên, vốn là người không khuất phục ai, ông phẫn nộ về sự chuyên quyền này nên thác bệnh không nhận mệnh. Vì lẽ ấy, Thiên Hoàng Saga khép ông vào tội tử hình vì phạm phép nước nhưng giảm một cấp thành án phối lưu ra ngoài hoang đảo Oki giữa biển Nhật Bản, một vùng khí hậu khắc nghiệt. Lúc đó ông 37 tuổi.

Giữa mùa đông lạnh, cô đơn, nhắm những hòn đảo nhỏ, chèo mãi mới ra khỏi bờ. Ông làm bài thơ này để nhớ về mẹ già và vợ con còn ở kinh đô. Dù vậy, chỉ hai năm sau đó, ông đã được triệu về kinh lãnh chức tham nghị (sangi) hàng tứ phẩm, một chức vụ quan trọng nên còn được hậu thế gọi là Sangi Takamura.

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Nỗi buồn và sự lo âu trên bước đường lưu ly tội đồ.

Thời đó, khi bị đày ra đảo Oki, tội nhân phải lấy đường thủy từ cảng Naniwa ở Ôsaka, đi trong biển nội địa Seto rồi mới quanh ra biển Nhật Bản vì Oki nằm ở ngoài khơi tỉnh Shimane, trông ra hướng Hàn Quốc. Hành trình do đó rất dài. Ở đây, cũng như các nhà chú thích đã nêu ra, dĩ nhiên Ono no Takamura nhớ về gia đình ở kinh đô Kyôto nhưng tình cảm của ông dường như rộng lớn hơn, nỗi buồn cô độc và bất an, tuyệt vọng vượt khỏi phạm vi khung cảnh gia đình và người quen biết.

Chữ yasoshima 八十島 (tám mươi hòn đảo) ý nói vô số đảo. Còn tsuribune 釣舟 (thuyền câu) được sử dụng theo thủ pháp gijin.hô (nhân cách hóa). Trong thơ waka, thuyền câu tượng trưng cho sự cô đơn trong bước lữ hành. Kogiidenu to có nghĩa “Chèo đã ra khỏi được” (idenu, “ ra khỏi” vì nu là trợ động từ để chỉ một việc đã hoàn thành) như lời ông tự nhủ với mình (to). Thủ pháp này gọi là shikugire (四句切りtứ cú thiết) vì nó chấm hết (cắt) lời ông muốn nói ở cuối câu thứ tư. 

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Hải thượng.
海 上 

Viễn phương dương diện đảo thành quần,
遠 方 洋 面 島 成 群

Nhất diệp khinh phàm ly hải tân.
一 葉 軽 帆 離 海 浜

Ký ngữ ngư chu thừa điếu giả,
寄 語 漁 舟 乗 釣 者

Kỳ truyền tiêu tức dữ y nhân[1].
其 伝 消 息 与 伊 人


 


[1] Y nhân: người ấy, thường thường chỉ nữ giới.

 

Anh dịch:

Ye fishermen, who range the sea,

In many a barque, I pray ye tell

My fellow-villagers of me –

How that far o’er vast ocean’s swell.

In vessel frail,

Towards Yasoshima I sail.

(Dickins)

O'er the wide, wide sea,

Towards its many distant isles,

Rowing I set forth.

This, to all the world proclaim,

O ye boats of fisher-folk!

(Mac Cauley)

Có nhà bình luận còn cho rằng Takamura muốn phúng thích việc đi sứ sang nhà Đường trong bài này nhưng không lấy gì làm chắc.

Vì tính tình cứng cõi, không khuất phục quyền thế và hay nói thẳng, có tư cách đại trượng phu nên Takamura rất được kính trọng. Người đời xưng tụng là Tại Dã Tể Tướng (Tể Tướng ở bên ngoài triều đình) hay Dã Tướng. Bà Shirasu Masako cho biết ông còn có hiệu Dã Cuồng nhưng để ngầm chỉ cái tính ăn ngay nói thẳng của ông thôi. Sách Konjaku Monogatari nói rằng ban ngày ông làm quan trong triều nhưng tối về lại đi chơi ở âm phủ vì quen biết với vua Diêm La. Ở Nhật, tên Takamura có dính líu đến tín ngưỡng về âm phủ.

Dickins dịch “many barques” và “fishermen” theo số nhiều trong khi tiếng Nhật không phân biệt giống và số. Có thể không sai nhưng vô hình trung đã làm mất mát nhiều thi vị.