Bài số 2:  

Thơ Nữ Thiên Hoàng Jitô 持統天皇

 

a) Nguyên văn:

春過ぎて

夏来にけらし

白妙の

衣干すてふ

天の香具山

b) Phiên âm:

Haru sugite

Natsu kinike rashi

Shirotae no

Koromohosu tefu

Ama no Kaguyama

c) Diễn ý:

Mùa xuân qua mất rồi,

Mùa hạ hình như đã đến thì phải.

Áo ai đem ra phơi trắng

Trên ngọn núi Kagu linh thiêng.

 

d) Dịch thơ:

Mùa xuân đi qua rồi,
Hạ cũng vừa đến nơi.
Trên Kagu lớp lớp,
Áo phơi trắng núi đồi.

(ngũ ngôn)

Xuân vừa đi hạ đến rồi,
Áo ai phơi trắng núi đồi Kagu.

(lục bát)

 

e)      Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Shin Kokin-shuu (Tân Cổ kim tập), quyển 3, thơ mùa hạ, bài số 175.

Tác giả: tương truyền là Nữ Thiên Hoàng Jitô (Trì Thống, 646-702).

Bài thơ vịnh cảnh dân chúng đem áo vải thô màu trắng ra phơi giữa nền xanh lục của ngọn núi Kaguyama khi trời mới vào hè, nói lên được sự nhạy cảm của người Nhật thời cổ trước những biến chuyển của thiên nhiên. Nó tương tự bài ca gốc mang số 28 trong Man.yô-shuu.

Về việc bài thơ này có phải của bà Jitô hay không thì vẫn còn nhiều nghi vấn nhưng nội dung của nó cũng không ngoài mục đích ca tụng các vua hiền, hết cha (Tenji) đến con (Jitô). Theo hình ảnh gợi ra ở đây, bà là một vị quân chủ biết hòa mình với đời sống của người thường dân, một buổi sáng đứng từ cung điện Fujiwara nhìn ra cảnh núi non một thời thái bình và tức cảnh sinh tình. 

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Mùa hạ vừa đến mang đến cho cảnh vật màu trắng và màu lục tươi mát.

Ở vùng Yamato (Đại Hòa), nay thuộc Nara có ba ngọn núi Unebi, Miminashi và Kagu, (cao 148m) gọi là Đại Hòa Tam Sơn. Chính ra đó chỉ là ba quả đồi nhưng có vai trò rất quan trọng trong tâm hồn người Nhật cổ xưa vì nó kết hợp với bao nhiêu truyền thuyết linh thiêng. Theo Suzuki Tadao, cảnh “áo trắng đem phơi” (shirotae no koromo hosu) theo lời chú thích đã có từ xưa, không phải là cảnh thực mà chỉ là ví dụ. Nhà biên tập Teika trong Shuui Guusô (Thập Di Ngu Thảo, 1216) của mình cũng có bài thơ nói đến hoa u no hana (tiếng Anh là deutzia, một loài bên trên cánh màu trắng, bên dưới xanh) nở trên hàng dậu như áo trắng đem phơi. Do đó Suzuki chủ trương đây chỉ là một vần thơ sử dụng thể Tỉ (so sánh hoa với áo) mà thôi.

Các nhà chú giải khác không nhắc tới quan điểm độc đáo của Suzuki Tadao mà chỉ đơn thuần nghĩ về cảnh “áo trắng đem phơi”. Áo trắng (shirotae no komo) ở đây tuy viết là “bạch diệu” (áo màu trắng mỹ miều) nhưng chỉ là một từ trang sức vì nó vốn là một loại vải tầm thường tước từ vỏ cây kaji (một loại dâu tằm) non và có màu trắng, được dân chúng yêu chuộng. Shirotae no là chữ gối đầu (makura-kotoba) khi nói về những vật màu trắng như áo (koromo), ống tay (sode) , tay áo (tamoto), giải thắt (himo), tuyết (yuki), mây( (kumo)... Còn cụm từ Ama no Kaguyama muốn ví ngọn Kagu như núi thiêng (thần sơn) tự trời cao xuống nhưng cũng chỉ là một hình thức tu từ.

Trong tâm thức người Nhật, màu trắng nói ở đây có thể là màu sắc có tính tôn giáo, màu của cô đồng (miko), của thần đạo. Kaguyama (Hương Cụ Sơn) cùng với Minebiyama (Mẫu Bàng Sơn) và Miminashiyama (Nhĩ Thành Sơn) đã họp nhau lại thành ba ngọn thần sơn. Tuy nhiên, nữ sĩ Shirasu Masako cho rằng không nên nghĩ xa xôi đến thế. Màu trắng chỉ là màu thường dân thời ấy hay mặc, chung quanh Kaguyama lại có những người Triều Tiên (chuộng màu trắng) vượt biển qua sinh sống nữa.

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Xuân Phương Tiên Tiên[1] Khứ
春 方 姍 姍 去

Xuân phương tiên tiên khứ,
春 方 姍 姍 去

Hạ hựu đáo nhân gian.
夏 又 到 人 間

Bạch y vô số điểm,
白 衣 無 数 点

Lượng[2] mãn Hương Cụ Sơn.
晾 満 香 具 山


[1] Tiên tiên (san san): chậm rãi, tha thướt.

[2] Lượng: hong, phơi.

Anh dịch:

The pleasant spring hath passed away,
Now summer follows close, I ween,
And Ama’s secret summit may
In all its grandeur now be seen;
Of yore the drying ground,
Whitened with angels’ robes, spread far around.

(Dickins)

Spring, it seems, has passed,
And the summer come again;
For the silk-white robes,
So 'tis said, are spread to dry
On the "Mount of Heaven's Perfume."

(Mac Cauley)

Nữ thiên hoàng Jitô là công chúa thứ hai, con thiên hoàng Tenji đã nói ở trên. Bà là hoàng hậu của Thiên Hoàng Tenmu, thực ra ông là vai chú của bà. Khi chồng mất, bà buộc con riêng của chồng là hoàng tử Ốtsuu (Đại Tân) vào tội mưu phản và xử tử. Tuy nhiên vì con ruột của bà là hoàng tử Kusakabe mất sớm, bà tự lên ngôi và thiên đô về Fujiwara. Trị vì 8 năm, nổi tiếng là người cứng rắn nhưng đức độ. Lúc chết, khi hỏa táng, được mọi người khóc than thương xót. Bà thường cùng quần thần (có cả đại thi hào Kakimoto no Hitomaro) tuần du vùng Yoshino nhiều phong cảnh đẹp và những nơi khác nên vua tôi có dịp làm nhiều thơ. Thời bà trị vì là một cao điểm của thơ Waka. Giỏi về chính trị nên đã giúp chồng thoát hiểm trong việc tranh ngôi với người cháu (Hoàng Tử Ôtomo sau là Thiên Hoàng Kôbun) của chính bà mà sử gọi là loạn năm Nhâm Thân (Ninjin no ran, 672). Bà có làm nhiều thơ theo thể banka (vãn ca) than khóc cái chết của ông (xem Man.yôshuu 159, 160, 161).

 





Bài số 2:  

Thơ Nữ Thiên Hoàng Jitô 持統天皇

 

a) Nguyên văn:

春過ぎて

夏来にけらし

白妙の

衣干すてふ

天の香具山

b) Phiên âm:

Haru sugite

Natsu kinike rashi

Shirotae no

Koromohosu tefu

Ama no Kaguyama

c) Diễn ý:

Mùa xuân qua mất rồi,

Mùa hạ hình như đã đến thì phải.

Áo ai đem ra phơi trắng

Trên ngọn núi Kagu linh thiêng.

 

d) Dịch thơ:

Mùa xuân đi qua rồi,
Hạ cũng vừa đến nơi.
Trên Kagu lớp lớp,
Áo phơi trắng núi đồi.

(ngũ ngôn)

Xuân vừa đi hạ đến rồi,
Áo ai phơi trắng núi đồi Kagu.

(lục bát)

 

e)      Tác giả và hoàn cảnh sáng tác:

Xuất xứ: Shin Kokin-shuu (Tân Cổ kim tập), quyển 3, thơ mùa hạ, bài số 175.

Tác giả: tương truyền là Nữ Thiên Hoàng Jitô (Trì Thống, 646-702).

Bài thơ vịnh cảnh dân chúng đem áo vải thô màu trắng ra phơi giữa nền xanh lục của ngọn núi Kaguyama khi trời mới vào hè, nói lên được sự nhạy cảm của người Nhật thời cổ trước những biến chuyển của thiên nhiên. Nó tương tự bài ca gốc mang số 28 trong Man.yô-shuu.

Về việc bài thơ này có phải của bà Jitô hay không thì vẫn còn nhiều nghi vấn nhưng nội dung của nó cũng không ngoài mục đích ca tụng các vua hiền, hết cha (Tenji) đến con (Jitô). Theo hình ảnh gợi ra ở đây, bà là một vị quân chủ biết hòa mình với đời sống của người thường dân, một buổi sáng đứng từ cung điện Fujiwara nhìn ra cảnh núi non một thời thái bình và tức cảnh sinh tình. 

f) Thưởng ngoạn và phẩm bình:

Đề tài: Mùa hạ vừa đến mang đến cho cảnh vật màu trắng và màu lục tươi mát.

Ở vùng Yamato (Đại Hòa), nay thuộc Nara có ba ngọn núi Unebi, Miminashi và Kagu, (cao 148m) gọi là Đại Hòa Tam Sơn. Chính ra đó chỉ là ba quả đồi nhưng có vai trò rất quan trọng trong tâm hồn người Nhật cổ xưa vì nó kết hợp với bao nhiêu truyền thuyết linh thiêng. Theo Suzuki Tadao, cảnh “áo trắng đem phơi” (shirotae no koromo hosu) theo lời chú thích đã có từ xưa, không phải là cảnh thực mà chỉ là ví dụ. Nhà biên tập Teika trong Shuui Guusô (Thập Di Ngu Thảo, 1216) của mình cũng có bài thơ nói đến hoa u no hana (tiếng Anh là deutzia, một loài bên trên cánh màu trắng, bên dưới xanh) nở trên hàng dậu như áo trắng đem phơi. Do đó Suzuki chủ trương đây chỉ là một vần thơ sử dụng thể Tỉ (so sánh hoa với áo) mà thôi.

Các nhà chú giải khác không nhắc tới quan điểm độc đáo của Suzuki Tadao mà chỉ đơn thuần nghĩ về cảnh “áo trắng đem phơi”. Áo trắng (shirotae no komo) ở đây tuy viết là “bạch diệu” (áo màu trắng mỹ miều) nhưng chỉ là một từ trang sức vì nó vốn là một loại vải tầm thường tước từ vỏ cây kaji (một loại dâu tằm) non và có màu trắng, được dân chúng yêu chuộng. Shirotae no là chữ gối đầu (makura-kotoba) khi nói về những vật màu trắng như áo (koromo), ống tay (sode) , tay áo (tamoto), giải thắt (himo), tuyết (yuki), mây( (kumo)... Còn cụm từ Ama no Kaguyama muốn ví ngọn Kagu như núi thiêng (thần sơn) tự trời cao xuống nhưng cũng chỉ là một hình thức tu từ.

Trong tâm thức người Nhật, màu trắng nói ở đây có thể là màu sắc có tính tôn giáo, màu của cô đồng (miko), của thần đạo. Kaguyama (Hương Cụ Sơn) cùng với Minebiyama (Mẫu Bàng Sơn) và Miminashiyama (Nhĩ Thành Sơn) đã họp nhau lại thành ba ngọn thần sơn. Tuy nhiên, nữ sĩ Shirasu Masako cho rằng không nên nghĩ xa xôi đến thế. Màu trắng chỉ là màu thường dân thời ấy hay mặc, chung quanh Kaguyama lại có những người Triều Tiên (chuộng màu trắng) vượt biển qua sinh sống nữa.

g)      Dư Hứng:

Hán dịch:

Xuân Phương Tiên Tiên[1] Khứ
春 方 姍 姍 去

Xuân phương tiên tiên khứ,
春 方 姍 姍 去

Hạ hựu đáo nhân gian.
夏 又 到 人 間

Bạch y vô số điểm,
白 衣 無 数 点

Lượng[2] mãn Hương Cụ Sơn.
晾 満 香 具 山


[1] Tiên tiên (san san): chậm rãi, tha thướt.

[2] Lượng: hong, phơi.

Anh dịch:

The pleasant spring hath passed away,
Now summer follows close, I ween,
And Ama’s secret summit may
In all its grandeur now be seen;
Of yore the drying ground,
Whitened with angels’ robes, spread far around.

(Dickins)

Spring, it seems, has passed,
And the summer come again;
For the silk-white robes,
So 'tis said, are spread to dry
On the "Mount of Heaven's Perfume."

(Mac Cauley)

Nữ thiên hoàng Jitô là công chúa thứ hai, con thiên hoàng Tenji đã nói ở trên. Bà là hoàng hậu của Thiên Hoàng Tenmu, thực ra ông là vai chú của bà. Khi chồng mất, bà buộc con riêng của chồng là hoàng tử Ốtsuu (Đại Tân) vào tội mưu phản và xử tử. Tuy nhiên vì con ruột của bà là hoàng tử Kusakabe mất sớm, bà tự lên ngôi và thiên đô về Fujiwara. Trị vì 8 năm, nổi tiếng là người cứng rắn nhưng đức độ. Lúc chết, khi hỏa táng, được mọi người khóc than thương xót. Bà thường cùng quần thần (có cả đại thi hào Kakimoto no Hitomaro) tuần du vùng Yoshino nhiều phong cảnh đẹp và những nơi khác nên vua tôi có dịp làm nhiều thơ. Thời bà trị vì là một cao điểm của thơ Waka. Giỏi về chính trị nên đã giúp chồng thoát hiểm trong việc tranh ngôi với người cháu (Hoàng Tử Ôtomo sau là Thiên Hoàng Kôbun) của chính bà mà sử gọi là loạn năm Nhâm Thân (Ninjin no ran, 672). Bà có làm nhiều thơ theo thể banka (vãn ca) than khóc cái chết của ông (xem Man.yôshuu 159, 160, 161).