Chim Việt Cành Nam [ Trở Về ]
Lê Văn Hảo |
Từ điển Bách khoa Việt Nam,
tập 2 (E-M), xuất bản tại Hà Nội, 2002, ở mục từ "Hoa
Kì" thửa nhận HK là " một nước có tiềm lực kinh tế và
quân sự mạnh vào hàng đầu thế giới. Sau 1945, Hoa Kì tiến
hành "chiến tranh lạnh" với Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa. Đối với Việt Nam, Hoa Kì tiến hành "chiến tranh
nóng" kết thúc vào 1973 sau Hội nghị Paris. Với xu thế hòa
bình chung từ 1989-1990, Hoa Kì và nhà nước Việt Nam đã thiết
lập quan hệ ngoại giao từ tháng 7-1995". Một sơ kết khá
đúng đắn.
Chúng ta có quyền hi vọng rằng những vấn đề do quá khứ đặt ra, những biến cố quan trọng đã xảy ra trong quan hệ Việt-Mỹ sẽ được lịch sử phán xét một cách khách quan và công bằng. Đã đến lúc cần lấy quan điểm hòa bình, hòa giải, hòa hợp, tình nhân đạo và tình hữu nghị giữa các dân tộc để xem xét quan hệ giao lưu văn hóa Việt-Mỹ và tìm ra những điều tốt đẹp đáng ghi nhận và phát huy. |
|
![]() Năm 1832, tàu Peacock chở phái đoàn sứ giả Mỹ, do hai ông Edmund Robert và Georges Thompson cầm đầu, cập bến Đà Nẵng xin trình quốc thư và thỉnh cầu được ký kết một hiệp ước thương mãi, nhưng vì quốc thư không ghi rõ danh hiệu của vua và quốc hiệu Đại Nam nên Minh Mạng không tiếp nhận. Vua chỉ truyền lệnh đón tiếp tử tế phái đoàn Mỹ ở Công quán và chỉ định cho họ chỗ đậu tàu là vụng Sơn Trà ở Đà Nẵng. Sau đó tàu Peacock nhổ neo rời Đại Nam đi Xiêm La. Năm 1836, tàu Peacock cũng với đặc sứ E. Robert trở lại Đà Nẵng với hi vọng ký một hiệp ước thương mãi, nhưng ông E. Robert bị bệnh, tàu Peacock phải rời Đà Nẵng đi Macao đề cấp cứu; tàu cập bến Ma Cap thì ông E. Robert đã chết . Sau lần gặp gỡ bất thành này, quan hệ giữa Hoa Kì và Đại Nam bị gián đoạn trong gần bốn thập niên (1836-1873). |
|
Từ giữa thế kỷ 19 đất
nước ta lâm vào một tình thế nghiêm trọng : 1858 liên quân
Pháp-Tây Ban Nha đánh chiếm bán đảo Sơn Trà ở Đà Nẵng
; 1859 thành Gia Định bị chiếm, 1861 lần lượt mất Định
Tường, Côn Lôn, Biên Hòa. Với Hòa ước 1862, triều đình
Huế phải nhượng đứt cho Pháp ba tỉnh miền Đông. Đến
tháng 6-1867 chúng ta mất toàn bộ sáu tỉnh Nam Kì. Trước
tình hình đen tối ấy, nhiều danh sĩ cấp tiến, giàu lòng
yêu nước, có óc thực tế, muốn sử dụng tri thức của
mình vào công cuộc cách tân để cứu đất nước ra khỏi
nguy cơ bị xâm lược. Đó là những Hoàng Phan Thái, Nguyễn
Tư Giản, Đặng Đức Thuận, Đinh Văn Điền, Nguyễn Lộ Trạch
và xuất sắc nhất là Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) và Bùi
Viện (1839-1878). Bùi Viện đáng được xem là một nhà kinh
bang tế thế: có công lớn trong việc xây dựng cảng Hải
Phòng, lập ra "Tuần dương quân" (lực lượng hải quân thường
trực) gồm 200 chiến thuyền và 2.000 quân thủy thiện chiến
và lập ra hệ thống thương điếm ở khắp các tỉnh ven biển
Đại Nam. Là nhà ngoại giao năng nổ, Bùi Viện được vua
Tự Đức cử sang Hoa Kì đề nghị đặt quan hệ chính thức
và được viện trợ chống thực dân Pháp. Rời Đại Nam tháng
7-1873, Bùi Viện đến Hồng Kông rồi Hoành Tân (Nhật Bản),
vượt trùng dương đến New York rồi Washington (1874). ![]() |
|
Nhà sử học Mỹ Cecil B. Currey, tác giả cuốn "Võ Nguyên Giáp - Chiến thắng bằng bất cứ giá nào", đã cung cấp cho chúng ta nhiều tài liệu và thông tin về một giai đoạn độc đáo của bang giao Mỹ-Việt từ sau tháng 8-1945 đến trước khi nổ ra chiến tranh Việt-Pháp (từ tháng 12-1946 đến tháng 7-1954) : Mỹ và cơ quan tình báo quân sự OSS của họ là đồng minh của phong trào Việt Minh. Vì vậy ở thời đó có nhiều người Mỹ đến làm việc tại Hà Nội. Đó là những đại úy Lucien Concin, thiếu tá Allison Thomas, thiếu tá Patti và nhóm của ông ta, còn tướng Philip Gallagher thì làm cố vấn cho tướng Tàu Lư Hán. Những sĩ quan Mỹ trong phái đoàn OSS đã chụp nhiều ảnh của Hà Nội sau tháng 8-1945, ảnh lễ chào quốc kì các nước Đồng Minh tại nơi ở của phái đoàn OSS ở Hàng Trống (nay là trụ sở báo Nhân Dân), ảnh Hồ Chí Minh chiêu đãi các vị khách Đồng Minh của mình : Hà Ưng Khâm (Tàu), Gallagher (Mỹ). Chính Gallagher đã điện về Washington ngày 20-9-1945 : ông Hồ là "một sản phẩm của Moskova, một người cộng sản" làm chấm dứt tuần trăng mật Hoa Kì-Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào buổi bình minh của chiến tranh lạnh tư bản - cộng sản (2) . Rồi một nhà sử học Mỹ khác, John Prados, mới đây đã cho ra đời cuốn Cuộc hành binh chim kền kền, dự án bí mật Mỹ ném bom nguyên tử xuống Việt Nam trong thập niên 1950. Ôi những oái oăm của lịch sử không ai lường trước được ! |
|
Hiện nay trong hơn 80 triệu
dân có khoảng ba triệu người sống trên hàng chục nước
trên các châu lục, đông đảo nhất là cộng đồng người
Việt và người Mỹ gốc Việt sinh sống tại Hoa Kì (khoảng
trên dưới hai triệu người). Nhìn chung cộng đồng ấy đang
an cư lạc nghiệp và đã thành công hội nhập xã hội Mỹ,
nhiều người đang ở trong bộ máy chính quyền Hoa Kì như
bà Trần Ngọc Chi Ray, phó giám đốc Cơ quan Tị nạn thuộc
Bộ Xã hội Hoa Kì, Bà Lê Thị Ngoan, phụ tá đặc biệt Thống
đốc Tiểu bang Illinois đặc trách về các dân tộc châu Á,
Ô. John Quốc Dương, Tổng giám đốc Chương trình Dân nhập
cư gốc Châu Á - Thái Bình Dương, Ô. Đinh Việt, trợ lí Bộ
trưởng Tư pháp Hoa Kì v.v...
Qua các phương tiện truyền thông phong phú, qua các websites đông đảo, qua những tổ chức khoa học và công nghệ quan trọng như Vietnamese Association For Computing Engineering Technology and Science (VACETS), chúng ta sẽ thấy một vài trường hợp nổi bật vừa nêu trên chỉ là một phần nhỏ của những đóng góp mà cộng đồng người Việt và người Mỹ gốc Việt đã và đang thực hiện trên quê hương mới của mình (4). Bây giờ hãy xem xét một số lãnh vực văn hóa, nghệ thuật, mĩ nghệ Việt Nam đã lọt vào mắt xanh của nhân dân Hoa Kì.
Những năm gần đây một ngành
mĩ nghệ quan trọng của Việt Nam liên quan đến làng gốm
Chu Đậu (nổi tiếng từ tk. 14-15), làng gốm sứ Bát Tràng
(nổi tiếng từ tk. 15-16) đã được khôi phục và đang phát
triển mạnh. Trong khi các sản phẩm gốm sứ của miền Bắc
thâm nhập công thị trường Pháp, Đức, Nhật Bản, Hồng
Kông, thì các doanh nghiệp gốm miền Nam (TP. HCM, Ninh Thuận,
Bình Dương, Vĩnh Long ... ) cũng có thêm nhiều đơn đặt hàng
mới từ châu Âu, Úc, Hoa Kì. Theo những thông tin mới nhất (5),
ưu thế của hàng gốm Việt Nam trên thị trường Mỹ, một
thị trường mới so với thị trường truyền thống EU (Liên
Hiệp Châu Âu) là có những cách tân về kiểu dáng, màu sắc.
Ông Thái Hồ Hải giám đốc Công ti Lạc Phương Nam (Thủ Đức)
cho biết: Đang có rất nhiều khách hàng Mỹ đổ về chọn
mua hàng gốm phủ sơn mài vì nét độc đáo riêng của mặt
hàng này là mặt hàng thế mạnh của Việt Nam mà Trung Quốc
và các nước khu vực Đông Nam Á không có. Công ti Lạc Phương
Nam nay đã đẩy doanh số lên hơn 300.000 USD/năm chỉ riêng
trên thị trường Mỹ. Ô. Ngô Công Đức giám đốc công ti
Saiga cho biết Saiga hiện có một lượng hàng lớn trải khắp
châu Âu, Úc, Mỹ; thị trường Mỹ hiện rất chuộng các mặt
hàng gốm kết hợp với sơn mài, phủ sơn mài, vỏ trứng,
cẩn ốc hoặc kết hợp với tre, bọc tre ... |
|
![]() ![]() |
|
Trần Đức Thảo (1917-1993),
sau một cuộc đời cần mẫn đầy nhọc nhằn, truân chuyên,
đã để lại hai tác phẩm : "Phénoménologie et matérialisme
dialectique" (Hiện tượng luận và duy vật biện chứng)
được nxb Minh Tân, Paris, cho ra mắt năm 1951, sau đó được
dịch ra tiếng Ý (1970), tiếng Anh (1986). Đến năm 1973, Nxb
Editions Sociales, Paris, lại cho ra mắt một số công trình của
ông được tập hợp lại trong tập "Recherches sur l' Origine
du Langage et de la Conscience" (Tìm hiểu về nguồn gốc của
Ngôn ngữ và Lương tri) (1973). Khúc hát thiên nga này của Trần
Đức Thảo đã lọt vào mắt xanh của giới triết học Hoa
Kì, và trước khi trái tim của nhà triết học Việt Nam ngừng
đập (14-6-1993) ông còn có niềm vui thấy tác phẩm cuối đời
ấy được dịch ra tiếng Mỹ : Investigations into Origin of Language
and Consciousness , Nxb D. Reidel Pub. Com., Boston, 1984, một nét son
muộn màng của giao lưu văn hóa Việt-Mỹ !.
Trong sinh hoạt rầm rộ và
mênh mông của văn học Hoa Kì, nếu có một số công trình
trí tuệ cổ kim của Việt Nam được dịch, được xuất bản,
được đánh giá cao và gây được tiếng vang thì nên xem đó
là điều bình thường hay hãn hữu? Hãy cử ra vài trường
hợp tiêu biểu.
Cần nói rõ thêm rằng đây là lần đầu tiên cách viết tiếng Việt cổ truyền được in ra bằng phương tiện điện tử, mỗi chữ Nôm có một mã unicode. Đó là điều mới lạ và rất tiện lợi, có ý nghĩa lớn đối với văn hóa Việt Nam. Tập thơ Hồ Xuân Hương này đã nhiều lần được giới thiệu bằng thái độ trân trọng của các cây bút điểm sách Mỹ, trở thành một best-seller bất ngờ, được tái bản lần thứ ba sau hai đợt in bán hết sạch từ lần ra mắt đầu tiên (tháng 10 - 2000). (7) Bảy năm trước đó, dưới nhan đề Paradise of the Blind, nhà xuất bản Morrow, New York, đã công bố tiểu thuyết Những Thiên Đường Mù của nhà văn Dương Thu Hương, bản dịch của Nina McPherson và Phan Huy Đường. Giới báo chí và văn hóa Mỹ đã chào đón nó như một sự kiện tinh thần quan trọng : "Cuốn tiểu thuyết Việt Nam đầu tiên được xuất bản tại Hoa Kì đã được quảng cáo rầm rộ, nhưng nó rất xứng đáng bởi vì Những Thiên Đường Mù là viên ngọc quí đầy chất thơ. [...] Một cuốn sách như vậy là một bước dài trên con đường dẫn tới sự giao cảm giữa hai nền văn hóa" (Joe Collins) (8). Cách nay hai năm, tiểu thuyết Số Đỏ, kiệt tác của nhà văn Vũ Trọng Phụng, được dịch ra tiếng Anh và được nhà xuất bản Đại học Michigan UMP phát hành vào tháng 6-2002 dưới tựa đề Dumb Luck. Nếu Lỗ Tấn đã sáng tạo được hình tượng A.Q., và Nam Cao đã sáng tạo được hình tượng Chí Phèo để bất tử hóa người nông dân cùng khổ Trung Quốc và Việt Nam xưa, thì Vũ Trọng Phụng cũng đã thành công sáng tạo hình tượng Xuân Tóc Đỏ trong Số Đỏ tiêu biểu cho anh chàng lưu manh thành thị chó ngáp phải ruồi của xã hội thực dân đầu thế kỷ 20. Thế là Dumb Luck đã được đưa vào danh mục những tác phẩm văn học kinh điển Việt Nam được giảng dạy trong các đại học Mỹ, và báo Los Angeles Times đã bình chọn kiệt tác Dumb Luck này là một trong 50 tác phẩm hay nhất được xuất bản tại Hoa Kì trong năm 2002. Cuốn sách Việt Nam đã gây được tiếng vang trong giới văn học Mỹ gần đây nhất có lẽ là tuyển tập truyện ngắn đương đại Việt Nam nhan đề Love After War (Tình Yêu Sau Chiến Tranh) của 45 nhà văn Việt Nam thuộc nhiều thế hệ từ 70-80 tuổi đến thế hệ trên dưới 30, còn sống hay đã mất, từ Tô Hoài, Chu Văn, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Minh Khuê, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Huy Thiệp ... đến Bảo Ninh, Da Ngân, Ngô Thị Kim Cúc, Phan Thị Vàng Anh, Phan Triều Hải, Nguyễn Ngọc Tư... Tuyển tập được dịch ra tiếng Anh này đã lọt vào Danh sách bình chọn 100 cuốn sách hay nhất năm 2003 của báo San Francisco Chronicle, một tờ báo có uy tín ở Hoa Kì. Trong một bài viết dài 16.000 chữ về 100 cuốn sách được chọn ấy, bỉnh bút của San Francisco Chronicle đã dành những dòng trân trọng cho Love After War như là "Tuyển tập văn xuôi đương đại Việt Nam bằng tiếng Anh lớn nhất được xuất bản tại Hoa Kì", một tuyển tập có văn phong đẹp phản ánh một đất nước ma,ø sau nhiều thập kỉ chiến tranh, cả văn học và đời sống không bị yếu đi, ở đó tình yêu vẫn mãnh liệt, cái mãnh liệt của trữ tình xen lẫn bi tráng. |
|
Vì Hoa Kì là " đồng minh của
miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa)" chống miền Bắc "tiền
đồn của thế giới cộng sản ở Đông Nam Á" cho nên đã
có hơn một trăm tác phẩm, hàng ngàn bài báo viết về chiến
tranh Việt-Mỹ những thập niên 1960-1970, và hàng chục cuốn
phim Mỹ đã để lại một dấu ấn khó quên trong lịch sử
điện ảnh thế giới trong gần nửa thế kỉ qua, từ
Apocalyse
now của Francis F. Coppola (1979) đến
Rambo First Blood của
Ted Kotcheff (1982), Rambo II của George P. Cosmatos (1985), Rambo
III của Peter Mac Donald (1988) ... Nhưng đó không phải là
điều quan trọng và đáng ghi nhớ nhất trong quan hệ giao lưu
văn hóa Việt-Mỹ. Cái sẽ mãi mãi còn lại và sẽ được
trân trọng hơn cả là sự quan tâm và nhiệt tình của nhân
dân Hoa Kì đã và sẽ dành cho con người và văn hóa Việt
Nam như là biểu hiện của tình hữu nghị giữa hai dân tộc.
Cách nay vài năm, giáo sư Keith W. Taylor, Đại học Cornell, đã cung cấp cho chúng ta một bức tranh tổng hợp khá phong phú về "Việt Nam học ở Bắc Mỹ", qua đó nổi bật lên nhiều trung tâm Việt Nam học tại các Đại học Hawai, California (Berkeley), Washington (Seattle), Michigan (Ann Arbor), Cornell, Harvard, Trung Tâm Việt Nam của Đại học Kỹ thuật Texas (Lubbock), Nhóm Nghiên Cứu Việt Nam (VSG) của Hội Nghiên Cứu Châu Á của Hoa Kì (AAS) và nhiều nữa... Nhiều hội thảo khoa học quan trọng đã được tổ chức như Vietnam Legacies : Twenty Years later (Việt Nam : những gì còn lại 20 năm sau) tại Đại học California, Davis (28/30-4-1995) hay hội thảo quốc tế Việt Nam học Vietnam : Beyond the Frontiers (Việt Nam : vượt qua các biên giới) do Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á, Đại học Caliofornia, tổ chức tại Los Angeles (11/12-5-2001). Khi Việt Nam tổ chức Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất tại Hà Nội (15/17-7-1998) với chủ đề "Nghiên Cứu Việt Nam và Phát triển Hợp tác Quốc tế" thì nhà tài trợ chính của hội thảo là Quỹ Ford của Hoa Kì, và phái đoàn Mỹ gồm hơn 30 đại biểu là một trong ba phái đoàn hùng hậu nhất, bên cạnh phái đoàn Nhật, Úc trong 26 nước tham dự (9). |
trên đất nước Hoa Kì |
![]() Và cái đinh của liên hoan này là một cuộc triển lãm dân tộc học - văn hóa học lớn mà hai phía Hoa Kì và Việt Nam đã để ra hơn 10 năm để chuẩn bị và đã khai mạc tại Viện Bảo tàng Vạn vật học Hoa Kì (AMNH) ngày 15-3-2003 tại New York. Tháng 1-2004 triển lãm đã đi một vòng Hoa Kì (Texas, California, Colorado...) rồi mới quay trở về Việt Nam (tháng 3-2005). Đó là cuộc triển lãm mang tên : Việt Nam : những hành trình của Thể xác, Tâm hồn và Trí tuệ (Vietnam : Journeys of Body, Mind and Spririt ) trưng bày hơn 400 hiện vật, hàng trăm hình ảnh, phần lớn mượn từ Việïn Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (Hà Nội), phần còn lại là của Viện Bảo tàng Vạn vật học Hoa Kì (New York) hay mượn của một số bảo tàng châu Âu, chủ yếu là Pháp. Qua những hình ảnh sống động, tiêu biểu nhất của văn hóa văn minh Việt Nam từ ngàn xưa, triển lãm lần lượt đưa người xem qua những chuyến hành trình độc đáo : - Những hành trình của thần linh, gia đình và tổ tiên ; - Hành trình của con người và hàng hóa ; - Hành trình của sự sống và cái chết ; - Hành trình vào rừng, đi săn thú và tìm thuốc ; - Hành trình sang thế giới khác, v.v. Bà Ellen V. Futter, chủ tịch Viện Bảo tàng Vạn vật học Hoa Kì, người đã cùng với giáo sư Nguyễn Văn Huy, giám đốc Viện Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, đã để ra hơn 10 năm để chuẩn bị hoàn hảo cuộc triển lãm, cho biết : "Đây là lần đầu tiên một cuộc trưng bày dân tộc học lớn về Việt Nam được thực hiện tại Hoa Kì. Nó là một phần trong truyền thống lâu đời của Bảo tàng chúng tôi nhằm giới thiệu và tôn vinh các nền văn hóa khác trên thế giới. Triển lãm này là những câu chuyện được kể qua những cuộc hành trình. Đó là cuộc hành trình qua thời gian: từ Tết Nguyên đán đến rằm tháng giêng, sang Tết Đoan ngọ giết sâu bọ mồng 5 tháng 5 rồi vào rằm tháng 7 xá tội vong nhân, qua rằm Trung thu trông trăng phá cỗ, lại đến Tết Cơm mới mồng 10 tháng 10 ... Đó cũng là cuộc hành trình qua không gian: từ Hà Nội vào TP. HCM, từ một bản người Dao vùng núi phía Bắc xuống một chiếc thuyền đánh cá ở ven biển miền Trung, rồi lại lên một lễ hội Đâm trâu ở Tây Nguyên ... Và đó cũng là những cuộc hành trình của một chiếc xe đạp chở những sản phẩm của một làng gốm từ ngoại thành vào nội đô, những chiếc bình, những chiếc vại, những bát, đĩa chất nặng trên chiếc xe đang được một người dân bình thường đạp vào thành phố để bán dạo ... Có những cuộc hành trình thật cụ thể: mọi người chen chúc trên các chuyến xe để trở về nhà trong dịp Tết và cũng có những cuộc hành trình của tâm linh: các vị thần được rước trong lễ hội, linh hồn tổ tiên trở về nhà với con cháu vào các dịp lễ tết, cưới xin, ma chay" (10). Có lẽ gian trưng bày ấn tượng
nhất là "Những linh hồn lang thang" với bài Văn tế
Thập loại chúng sinh của thi hào Nguyễn Du đã làm cho
nhiều người không cầm nổi nước mắt. Qua cuộc triển lãm
không tiền khống hậu này, tại thành phố New York ấy, nôi
có trụ sở của Liên Hiệp Quốc, ở một ngã tư quốc tế
lớn, chắc chắn nhiều người Mỹ và công dân thế giới
sẽ hiểu, sẽ mến thương, quí trọng Việt Nam hơn. Ngẫm
ra, giao lưu văn hóa, tình hữu nghị giữa những con người,
giữa các dân tộc tốt hơn chiến tranh gấp triệu lần.
|
|
(1)
Đào Đức Chương, "Lịch sử bang giao Việt-Mỹ", Làng Văn,
Westminster, California, Hoa Kì, số tháng 4-1977, tr. 51-55.
- Nhiều tác giả, Bùi Viện (1839-1878) : Cuộc đời kì lạ, chí lớn phi thường, Kỷ yếu hội thảo, Sở Văn hóa, Thông tin và Thể thao Thái Bình, 1992. (2)
Cecil B. Currey, "Những người Mỹ ở Hà Nội năm 1945", Xưa
và Nay, Hà Nội, số 149, 10-2003 (trích cuốn Võ Nguyên Giáp,
nguyên văn tiếng Anh, bản dịch tiếng Pháp : Vo Nguyen Giap -
La Victoire à tout prix, Phébus, Paris, 2003).
(3) Trần Ngọc Châu, "Người vẽ quỹ đạo cho phi thuyền Apollo bây giờ"..., Thanh Niên, Hà Nội, Xuân Nhâm Ngọ, 2002, tr. 19. (4) Trọng Minh, "VACETS chứng minh giới trẻ Việt Nam đang làm rạng danh quê mẹ", Quê Hương, Hà Nội, số 6/2002, tr. 26-27. (5) Hoài Trang, Khánh Ngọc, Gốm Việt "nối mạng" toàn cầu, Ts. Tuổi Trẻ Chủ nhật, số 21, 30-5-2004, tr. 20-21 (6) Nguyễn Đức Thế, "Múa Rối Nước thành phố Hồ Chí Minh : Ngang dọc trong lòng nước Mỹ", Tuổi Trẻ Chủ Nhật, Sài Gòn, số 25 (25-6-2000), tr. 27. (7) D. Thu, "Từ Hồ Xuân Hương đến John Balaban - Chiếc cầu nối ba thế kỷ", Tuổi Trẻ Chủ Nhật, Sài Gòn, số 11 (25-3-2001), tr. 13. (8) "Dương Thu Hương, tác giả Việt Nam được dịch sang nhiều thứ tiếng", Diễn Đàn, Paris, số 17 (tháng 3-1993), tr. 17. (9)
Đại học Quốc gia Hà Nội và Trung tâm Quốc gia Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Việt Nam học, Kỷ yếu Hội thảo quốc
tế lần thứ nhất, Hà Nội, 15/17-7-1998, Thế Giới, Hà Nội,
2000, tập I-V.
(10)
Thu Hà (phỏng vấn bà Ellen Futter), "Hành trình vượt Thái Bình
Dương cả hai chiều và liên tục", Tuổi Trẻ Chủ Nhật, Sài
Gòn, số 11 (24-3-2003), tr. 14-15, 39.
|
[ Trở Về ]