| 
         PHẦN THỨ NHẤT - GIỚI 
        
        -ooOoo- 
        
        CHƯƠNG 
        I - GIẢNG NGHĨA VỀ GIỚI. 
        
        Muốn đạt đến đạo 
        quả thanh tịnh đương nhiên phải áp dụng 3 môn học Vô lậu 
        là Giới, Ðịnh và Tuệ. Trước hết hãy nói về 
        Giới. Nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của Giới, Kinh Tương 
        Ưng I, tr 13 có bài kệ: 
        
          "Người trú giới 
          có trí 
          Tu tập tâm và Tuệ 
          Nhiệt tâm và thận trọng 
          Tỳ kheo ấy thoát triền". 
         
        
        Trú giới 
        nghĩa là đứng vững trên đất giới. Chỉ có người thực 
        sự thành tựu trọn vẹn giới, mới được gọi là 
        "Trú giới". Có trí là có tuệ do nghiệp sinh. 
        Tu tập tâm và tuệ là tu tập cả định và tuệ. Tâm 
        ở đây chỉ Ðịnh, còn tuệ là quán. Nhiệt tâm là 
        có nghị lực, không thối chí. Thận trọng là có tuệ 
        giác, luôn luôn phòng hộ các căn. Thoát triền: như 
        người cầm con dao bén phát quang một bụi tre rậm rạp chằng 
        chịt. 
        Ðể giúp cho mọi người 
        thấy rõ nội dung của giới, chúng ta sẽ lần lượt bàn về 
        các vấn đề sau: 
        
          1. Ðịnh nghĩa về giới. 
          2. Ðặc tính và nhiệm vụ của giới. 
          3. Lợi ích của giới. 
          4. Chủng loại của giới. 
         
        1. Ðịnh nghĩa: 
        Giới có nghĩa là chế ngự theo 5 cách như sau: Chế ngự 
        với sự chế ngự của giới bổn pàtimokkha; chế ngự bằng 
        tỉnh giác; chế ngự bằng tri kiến; chế ngự bằng kham nhẫn; 
        chế ngự bằng tinh tấn. Giới có nghĩa là kết hợp, vì 
        nó kết hợp 3 nghiệp thân, khẩu, ý, hướng đến con đường 
        thánh thiện. Giới có nghĩa là nền tảng, vì nó làm 
        cơ sở cho các thiện pháp phát sinh. Giới còn có nghĩa là 
        thanh lương, vì nó làm cho người giữ giới cảm thấy thân 
        tâm mát mẻ. 
        2. Nhiệm vụ của giới: 
        Nhằm ngăn chận và chấm dứt các tà hạnh, ngõ hầu thành 
        tựu các chánh hạnh, Luật tạng nói: " Giới là để chế 
        ngự, chế ngự là để khỏi hối hận, không hối hận là 
        để được hân hoan, hân hoan để được hỉ, hỉ để được 
        khinh an, khinh an để được lạc, lạc để được định, 
        định để được chánh kiến, chánh kiến để được vô dục, 
        vô dục để được ly tham, ly tham để giải thoát, giải 
        thoát để có giải thoát tri kiến, giải thoát tri kiến để 
        đi đến vô thủ trước Niết bàn. (Vin, V, 164) 
        3. Lợi ích của giới: 
        Kinh Trường Bộ II tr.86, kể về 5 lợi ích của giới như 
        sau: Người có giới đức sẽ hưởng được gia tài pháp bảo 
        nhờ tinh cần; được tiếng tốt đồn xa; không sợ hãi rụt 
        rè khi đến trước các hội chúng đông đảo; khi chết tâm 
        không rối loạn; sau khi mệnh chung được sinh vào thiện 
        thú, cõi trời. 
        Tạng luật còn kể 10 
        lợi ích khác như sau: 1. Vì để thu nhiếp chúng Tăng. 2. Vì 
        muốn cho chúng Tăng hoan hỉ. 3. Vì muốn cho chúng Tăng sống 
        an lạc. 4. Vì để hàng phục những kẻ phá giới. 5. Vì để 
        cho những người có tàm quí được an ổn. 6. Vì để cho những 
        người không tin phải tin tưởng. 7. Vì để cho những người 
        đã tin càng thêm tin. 8. Vì muốn đoạn trừ các pháp hữu lậu 
        trong hiện tại. 9. Vì muốn đoạn trừ các pháp hữu lậu 
        trong tương lai 10. Vì muốn cho nếp sống phạm hạnh được 
        tồn tại lâu dài. (Căn bản Thuyết nhất thiết hữu bộ Tỳ 
        nại da, Ð. 23 tr.629b) 
        4. Phân 
        loại về giới: 
        
        
          a. Giới thuộc một 
          loại: Giới mang đặc tính kết hợp. 
          b. Giới thuộc 2 loại: 
          Chỉ trì và Tác trì. Không làm những gì do Phật 
          cấm chỉ là Chỉ trì, phải làm những gì do Phật 
          chế định là tác trì. Giới tạm thời và giới 
          trọn đời. Giới tạm thời là được thọ với 
          thời gian hạn định, giới trọn đời là thọ trì 
          đến khi mạng chung. Giới thế gian và Giới Xuất 
          thế gian. Giới thế gian là giới thuộc phạm vi 
          hữu lậu. Giới xuất thế gian là giới thuộc lãnh 
          vực vô lậu. 
          c. Giới thuộc 3 loại: 
          Giới bậc hạ, bậc trung và bậc thượng. Giới 
          thọ trì vì mưu cầu danh lợi là giới bậc hạ; vì 
          ham quả báo công đức là giới bậc trung; Vì tôn trọng 
          giới pháp là giới bậc thượng. Hoặc, giới có động 
          lực tham ái, còn tái sinh là giới bậc hạ; giới thực 
          hành vì mục đích giải thoát riêng mình là giới bậc 
          trung; thực hành giới Ba la mật vì mục đích giải 
          thoát cho chúng sanh là giới bậc thượng. 
          Giới Vị kỷ, vị 
          tha và vị pháp. Giới thực hành vì bản thân là 
          giới vị kỷ; giới thực hành vì quan tâm đến thế 
          gian là giới vị tha; giới thực hành vì tôn trọng 
          Pháp và Luật là vị pháp. 
          
          Giới thanh tịnh, bất 
          tịnh và khả nghi. 
          Giới được tuân thủ trọn vẹn, hoặc phạm tội đã 
          sám hối, gọi là giới thanh tịnh; vi phạm mà chưa 
          sám hối, gọi là giới không thanh tịnh; một người 
          đang nghi ngờ không biết mình có phạm giới hay không phạm, 
          gọi là giới khả nghi. 
          d. Giới thuộc 4 loại: 
          Giới của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, giới của người chưa thọ 
          cụ túc, và giới của người tại gia. Giới chỉ dành 
          riêng cho Tỳ kheo, gọi là giới tỳ kheo, gồm có 250 
          giới (theo Bắc truyền), và 227 giới (theo Nam truyền); giới 
          dành riêng cho Tỳ kheo ni, gọi là Giới Tỳ kheo ni, gồm 
          có 348 giới (theo Bắc truyền). Mười giới của Sa di và 
          Sa di ni là Giới của người chưa thọ cụ túc, giới của 
          người tại gia gồm 5 giới, hoặc 8 giới, hoặc 58 giới 
          của Bồ tát (theo Bắc truyền). 
          
          Giới tự nhiên, giới 
          theo cổ tục, giới tất yếu, và giới do nhân đời trước. 
          Người không cần gắng giữ giới mà không hề phạm giới, 
          gọi là giới tự nhiên; mỗi bộ lạc, địa phương 
          có luật lệ riêng, gọi là giới theo phong tục; Giới 
          của mẹ Bồ tát khi Bồ tát nhập thai "không có tư 
          tưởng dục nhiễm" gọi làà Giới tất yếu; Giới 
          của người sinh ra đã thanh tịnh như trường hợp tôn giả 
          Ca Diếp, gọi là Giới do 
          nhân sinh đời trước. 
          
          đ. Giới thuộc 5 
          loại: Giới thanh tịnh 
          hữu hạn, thanh tịnh vô hạn, thanh tịnh đã viên mãn, 
          thanh tịnh không dính mắc và thanh tịnh đã tịnh chỉ. 
          Giới của người chưa nhập Tăng chúng, gọi là Giới 
          thanh tịnh hữu hạn; giới của những người đã nhập 
          Tăng chúng, đã thọ cụ túc, gọi là giới thanh tịnh 
          vô hạn; giới của phàm phu có đức hạnh, chuyên hành 
          thiện, đang viên mãn bậc hữu học, gọi là giới thanh 
          tịnh đã viên mãn. Giới của bậc hữu học không 
          dính mắc tà kiến, gọi là giới không dính mắc; giới 
          của bậc A La Hán, gọi là Giới đã tịnh chỉ, vì 
          không còn cấu uế. 
         
        Ngoài ra, Patisambhidà 
        còn phân loại giới thành ra 47 loại tất cả. 
        Nếu người giữ giới 
        không thanh tịnh, phạm giới, thì có các trường hợp xảy 
        ra: Giới bị rách nát, giới bị lủng, giới bị hoen ố, 
        giới bị lốm đốm. Khi một người phạm giới do vì lợi 
        dưỡng, tiếng khen, hay bị dục vọng sai khiến, thì gọi 
        là giới bị rách nát, như tấm vải bị cắt ở ngoài 
        biên, nhưng nếu vị ấy phạm giới trong lúc đang tu học tiến 
        bộ, thì gọi là giới bị lủng, như tấm vải bị cắt 
        ở giữa; khi một người phạm giới liên tiếp 2, 3 lần, 
        thì gọi là giới bị hoen ố, như một con bò đen, bỗng 
        có một mảng lông khác màu ở trên mình; khi vị ấy phạm 
        giới thường xuyên thì gọi là giới bị lốm đốm, 
        như một còn bò màu vàng, lại có nhiều đốm trắng khắp 
        mình. 
        Một người thiếu giới 
        hạnh thì không thể làm cho chư thiên hoan hỷ, mà còn trở 
        thành kẻ ngoan cố đối với các bạn đồng phạm hạnh. Vị 
        ấy đau khổ khi phạm giới, vì bị chỉ trích, và hối hận 
        khi thấy những người giữ giới được tán dương. Người 
        ấy vô giá trị, vì không đem lại quả báo tốt đẹp cho các 
        thí chủ. Người ấy khó làm cho sạch, như thùng phân dơ lâu 
        năm, như một khúc gỗ mục trên giàn hoả, vì không phải 
        người xuất gia, cũng không phải cư sĩ. Mặc dù tự xưng là 
        Tỳ kheo mà không phải Tỳ kheo, nên giống như con lừa đi 
        theo bầy bò. Vị ấy luôn nóng nảy, như kẻ thù của mọi 
        người. Sống chung với vị ấy khó khăn, như sống chung với 
        một xác chết. Mặc dù vị ấy có thể là người đa văn, 
        nhưng vị ấy không đáng được các bậc đồng phạm hạnh 
        cung kính. Vị ấy không thể đạt được các quả thù thắng, 
        như người mù không thể thấy sắc. Vị ấy bất cẩn đối 
        với diệu pháp, như kẻ nghèo sống trong một đất nước 
        phú cường. Mặc dù vị ấy tưởng mình hạnh phúc, nhưng kỳ 
        thực rất đau khổ, vì phải gặt hái những ác quả do sự 
        phạm giới đem lại. (Kinh Hoả tụ, A. IV, 128-34). 
        Trái lại, người giữ 
        giới trọn vẹn là: Không vi phạm các học xứ, sám hối những 
        giới đã phạm, không có các sự trói buộc của dục vọng, 
        không khởi những ác pháp như phẫn nộ, hận thù, độc đoán, 
        khinh thường, đố kỵ, bỏn xẻn, lừa dối, gian lận, cứng 
        đầu, kiêu căng, ngã mạn, cao ngạo, khoe khoang, lơ đễnh, mà 
        thường khởi những đức tính như ít muốn, biết đủ, viễn 
        ly. (Trung bộ kinh, số 7 và số 24) 
        Cách sử dụng 4 sự 
        cúng dường liên quan đến giới hạnh: dùng như kẻ trộm, 
        dùng như kẻ mắc nợ, dùng như hưởng gia tài của tổ 
        tiên, dùng như người chủ. Một người không giới đức sử 
        dụng 4 vật dụng được cúng dường, ngay cả sự có mặt 
        trong Tăng chúng, gọi là dùng như kẻ trộm, Một người 
        có giới mà không chân chánh giác sát trong khi dùng 4 vật 
        cúng dường, thì gọi là dùng như kẻ mắc nợ. Trái 
        lại, sử dụng 4 vật cúng dường để đạt được bảy bậc 
        Hữu học (4 đạo, 3 quả), thì gọi là dùng như hưởng 
        gia tài của tổ tiên, vì họ là những người con của 
        Như Lai, họ dùng những vật dụng như thừa hưởng gia tài 
        của cha để lại. Một vị đã đoạn trừ hết phiền não, 
        không còn bị các dục sai sử, là dùng các vật cúng dường 
        như người chủ. 
        
        -ooOoo- 
        
        CHƯƠNG II - HẠNH ÐẦU 
        ÐÀ (KHỔ HẠNH) 
        Dhutanga-niddesa 
        
        A. SỐ LƯỢNG CÁC PHÁP 
        KHỔ HẠNH 
        
        Khi một Thiền giả 
        theo đuổi con đường giới luật, quyết tâm kiện toàn các 
        đức tính ít muốn, biết đủ, viễn ly, độc cư, tinh cần 
        v.v.. Mong đạt đến đạo quả giải thoát, đức Thế tôn 
        cho phép thực hành 13 pháp Khổ hạnh sau đây: 
        
          1. Hạnh mặc y phấn 
          tảo. 
          2. Hạnh chỉ mặc 3 y. 
          3. Hạnh sống bằng khất thực. 
          4. Hạnh khất thực theo thứ lớp. 
          5. Hạnh nhất tọa thực. 
          6. Hạnh chỉ ăn một bát. 
          7. Hạnh không ăn đồ dư tàn. 
          8. Hạnh ở rừng. 
          9. Hạnh ở gốc cây. 
          10. Hạnh ở giữa trời. 
          11. Hạnh ở nghĩa địa. 
          12. Hạnh nghỉ chỗ nào cũng được. 
          13. Hạnh ngồi không nằm. 
         
        
        B. Ý NGHĨA CÁC PHÁP KHỔ 
        HẠNH 
        
        Các pháp khổ hạnh 
        trên được bộ luận nầy định nghĩa như sau: 
        
          1. Hạnh mặc y phấn 
          tảo: Phấn tảo (pamsukùla: bụi bặm): Loại vải bị vứt 
          bỏ ở những đống rác bên đường, nghĩa địa, hay những 
          đống phân. Một người đã thọ giới nầy chỉ mặc một 
          y trong những loại sau: Vải lấy từ nghĩa địa; từ cửa 
          hàng; từ đường cái; từ hố phân; từ giường trẻ; vải 
          tẩy uế; vải từ chỗ tắm; vải bị cháy; bị gia súc 
          ăn; bị kiến ăn; bị chuột ăn; vải rách ở biên; rách 
          ở đầu; vải làm cờ; vải bỏ tại điện thờ; y của 
          nhà khổ hạnh; vải từ cuộc lễ; vải do thần thông biến 
          hóa (tức tấm y do pháp Phật biến hóa lúc Ngài nói 
          "Thiện lai Tỳ kheo", thì pháp phục tự nhiên xuất 
          hiện trên vị nầy, nhờ công đức đời trước của thầy); 
          vải trên xa lộ; vải gió bay; vải do thiên thần bố thí; 
          vải trôi giữa biển. 
          2. Hạnh chỉ mặc 
          3 y: Ðó là y Tăng già lê, thượng y và hạ y. 
          3. Hạnh sống bằng 
          khất thực: Chỉ nhận thức ăn do đi khất thực mà 
          được. 
          4. Hạnh khất thực 
          theo thứ lớp: Ði từ nhà nầy đến nhà khác, không chừa 
          một nhà nào ở khoảng giữa. 
          5. Hạnh nhất tọa 
          thực: Ăn một lần mà thôi, đứng lên rồi, không ngồi 
          xuống ăn lại. 
          6. Hạnh chỉ ăn một 
          bát: Chỉ ăn những gì đã xin được trong bát, không 
          nhận thêm bát thứ hai 
          7. Hạnh không ăn 
          đồ dư tàn: Không ăn đồ ăn thừa, và không nhận đồ 
          ăn sau khi ăn xong. 
          8. Hạnh ở rừng: 
          Vị nầy chỉ sống trong rừng. 
          9. Hạnh ở gốc cây: 
          Vị nầy chỉ sống dưới gốc cây. 
          10. Hạnh ở giữa 
          trời: Vị nầy chỉ sống ở ngoài trời 
          11. Hạnh ở nghĩa 
          địa: Vị nầy chỉ sống tại các nghĩa địa. 
          12. Hạnh nghỉ chỗ 
          nào cũng được: Ai phân phối cho mình chỗ nào cũng đều 
          chấp nhận. 
          13. Hạnh ngồi không 
          nằm: Khi ngủ cũng ngồi chứ không nằm. 
         
        
        C. PHƯƠNG PHÁP THỌ 
        TRÌ, CẤP BẬC VÀ LỢI ÍCH 
        
        * 1. Hạnh mặc phấn tảo 
        y: 
        
        
        a. Cách thức thọ trì: 
        Người thọ trì hạnh nầy nói lên một trong 2 lời nguyện 
        như sau: "Tôi nguyện giữ khổ hạnh phấn tảo y" hoặc 
        "Tôi từ chối những y do gia chủ cúng dường". 
        b. Gồm 3 cấp bậc: -Cấp 
        thượng: giữ một cách nghiêm ngặt, chỉ lượm vải ở 
        nghĩa địa về làm y. Cấp trung: giữ một cách trung bình, lượm 
        vải do người khác bỏ. Cấp hạ: lượm vải do một Tỳ 
        kheo khác cho mình bằng cách đặt dưới chân. 
        c. Lợi ích: Vị nầy 
        không đau khổ do phải giữ gìn y phục; sống không tuỳ thuộc 
        vào người khác; không sợ trộm cướp; không có sự thèm 
        muốn đối với y phục. Vì những vải ấy dễ kiếm, ít 
        giá trị; nhờ đó sẽ phát sinh kết quả ít muốn, biết đủ 
        và tinh tấn tu tập. 
         
        
        * 2. Hạnh 3 y: 
        
        
        a. Cách thức thọ trì: 
        Giới nầy được thọ trì bằng cách nói: "Tôi giữ giới 
        mặc 3 y" hoặc "Tôi không nhận cái y thứ tư". 
        b. Các cấp bậc: Cấp 
        thượng: khi nhuộm phải nhuộm từng cái, nhuộm xong thay 
        cái khác để nhuộm tiếp. Cấp trung: Khi nhuộm có thể 
        dùng một miếng vải vàng thay cái y nầy để nhuộm. Cấp hạ: 
        Có thể mượn y của Tỳ kheo khác mặc để nhuộm. 
        
        c. Lợi ích: Vị nầy đi đâu cũng chỉ mang 
        theo 3 y như chim mang đôi cánh, không tích trữ, sống đạm bạc, 
        từ bỏ tánh tham y phục, sống viễn ly. 
         
        
        * 3. Hạnh khất thực: 
        
        
        a. Cách thức thọ trì: 
        Giới nầy được thọ trì bằng cách nói: "Tôi thọ 
        trì hạnh khất thực hằng ngày", hoặc "Tôi không 
        nhận đồ ăn để dành (tàn thực)". Người đã thọ giới 
        nầy không được nhận 14 thứ thực phẩm sau đây: bữa ăn 
        do cư sĩ cúng dường cho chư Tăng; bữa ăn cúng cho một số 
        Tỳ kheo đặc biệt; bữa ăn do người ta mời; bữa ăn được 
        mời bằng một phiếu ăn; bữa ăn vào ngày lễ trai giới 
        Uposatha; bữa ăn vào ngày rằm; bữa ăn vào ngày đầu tháng; 
        bữa ăn dành cho khách; bữa ăn cho kẻ lữ hành; bữa ăn cho 
        người bệnh; bữa ăn cho kẻ nuôi bệnh; bữa ăn cúng cho một 
        trú xứ nào đó; bữa ăn được bố thí tại một ngôi nhà 
        chính (dhurabhatta); bữa ăn cúng theo thứ tự. 
        b. Ba cấp bậc: Cấp thượng, 
        nhận đồ ăn do người ta đem đến trước mặt và sau lưng 
        (đi qua rồi thí chủ mới chạy theo cúng). Cấp trung, có thể 
        ngồi chờ người ta mang đồ ăn đến. Cấp hạ, có thể 
        ăn đồ ăn được hứa mang đến hôm sau và hôm sau nữa. 
        c. Lợi ích: Sự sống 
        không lệ thuộc vào kẻ khác; sự phóng dật được trừ khử, 
        mạng sống được thanh tịnh; thực hành các học pháp dễ 
        đạt được kết quả. 
         
        
        * 4. Hạnh khất thực 
        theo thứ lớp: 
        
        
        a. Cách thức thọ trì: 
        Thọ trì hạnh nầy bằng cách phát nguyện: "Tôi theo hạnh 
        khất thực tuần tự", hoặc "Tôi không khất thực 
        bằng cách lựa chọn" 
        b. Ba cấp bậc: Cấp thượng: 
        Không nhận đồ ăn mang đến từ trước mặt hoặc từ sau 
        lưng. Cấp trung: Có thể nhận đồ ăn đem đến từ trước 
        mặt, hoặc từ sau lưng. Cấp hạ: Ngồi đợi đồ ăn mang 
        đến nội ngày hôm ấy. 
        c. Lợi ích: Vị nầy từ 
        bỏ sự quyến luyến đối với các gia đình; có lòng từ mẫn 
        một cách bình đẳng; tránh được sự ràng buộc bởi một 
        gia đình 
         
        
        * 5. Hạnh nhất tọa thực. 
        
        
        a. Cách thức thọ trì: 
        Hạnh nầy được thọ trì bằng cách lập nguyện: "Tôi 
        nguyện theo hạnh nhất tọa thực", hoặc "Tôi không 
        ăn nhiều lần". 
        b. Ba cấp bậc: Cấp 
        thượng: Không được ăn nhiều hơn những gì mình đã lấy 
        một lần vào bát. Cấp trung: lúc đang ăn có thể nhận 
        thêm thức ăn bỏ vào bát. Cấp hạ: Có thể ăn đến lúc rời 
        chỗ mới thôi. 
        c. Lợi ích: Vị nầy 
        ít bệnh, ít não, thân thể nhẹ nhàng, có sức khỏe, có một 
        đời sống hạnh phúc, loại trừ được lòng tham vị ngon 
        và sống thiểu dục tri túc. 
         
        
        * 6. Hạnh ăn một bát. 
        
         
        a. Cách thức thọ trì: 
        Ðược thọ trì bằng cách phát nguyện: "Tôi giữ hạnh 
        ăn một bát", hoặc "Tôi từ chối ăn bát thứ 
        hai". 
        
        b. Ba cấp bực: Cấp thượng: Không được ném 
        bỏ thức ăn không vừa ý, trừ xác mía. Cấp trung: được 
        bẻ nhỏ đồ ăn trong khi ăn. Cấp hạ: được bẻ nhỏ thức 
        ăn bằng tay hoặc bằng răng. 
        
        c. Lợi ích: Lòng tham vị 
        ngon được đoạn trừ; mong cầu thái quá được từ bỏ; 
        thấy rõ mục đích và lượng thức ăn vừa đủ. 
        
        
        * 7. Hạnh không ăn đồ 
        dư tàn: 
        
        
          a. Cách thức thọ 
          trì: Người thọ hạnh nầy phát nguyện: " Tôi thọ giới 
          không ăn tàn thực", hoặc "Tôi từ chối đồ ăn 
          thêm". 
          b. Ba cấp bậc: Cấp 
          thượng: khi đã chứng tỏ mình ăn vừa đủ thì không 
          được nhận thêm thức ăn nữa. Cấp trung: vẫn có thể 
          ăn thêm sau khi đã nói thôi. Cấp hạ: có thể tiếp tục 
          ăn cho đến khi rời khỏi chỗ. 
          c. Lợi ích: Khỏi bị 
          bội thực, khỏi cất giữ thức ăn, khỏi tìm kiếm thêm 
          đồ ăn. 
         
        
        * 8. Hạnh ở rừng: 
        
        
        a. Cách thức thọ trì: 
        Người theo hạnh nầy phát nguyện: "Tôi lập hạnh sống 
        ở rừng", hoặc "Tôi không ở một trú xứ trong 
        xóm làng". 
        b. Ba cấp bậc: Cấp thượng: 
        Người nầy phải luôn luôn trở về rừng vào lúc bình 
        minh. Cấp trung: có thể cư trú tại một khu làng vào 4 
        tháng mùa mưa. Cấp hạ: có thể ở trong làng luôn cả mùa 
        đông. 
        c. Lợi ích: Tâm hành 
        giả không bị dao động bởi những sắc pháp không thích đáng; 
        thoát khỏi những lo âu, từ bỏ bám víu vào cõi đời và hưởng 
        được lạc thú độc cư. 
         
        
        * 9. Hạnh ở gốc cây: 
        
        
        a. Cách thức thọ trì: 
        Người theo hạnh nầy phát nguyện: "Tôi theo khổ hạnh 
        ở gốc cây", hoặc "Tôi từ chối một mái 
        nhà". 
        b. Ba cấp bậc: Cấp thượng: 
        Không được phép quét dọn sạch sẽ gốc cây đã chọn. Cấp 
        trung: có thể nhờ người nào đó quét dọn gốc cây. Cấp 
        hạ: có thể sai những chú tiểu trong chùa quét dọn sạch sẽ, 
        trải cát bằng phẳng xung quanh gốc cây. 
        c. Lợi ích: Dễ quán 
        vô thường khi thấy lá cây luôn thay đổi, đoạn trừ được 
        lòng tham về trú xứ, phù hợp với nếp sống ít muốn. 
         
        
        * 10. Hạnh ở ngoài trời: 
        
        
        a. Cách thức thọ trì: 
        Ðược thọ trì bằng cách phát nguyện: " Tôi tu hạnh 
        ở giữa trời", hoặc "Tôi từ chối mái nhà và gốc 
        cây". 
        b. Ba cấp bậc: Cấp thượng: 
        Không được ở gần một gốc cây, hang đá hay nhà, phải 
        dùng một tấm y làm lều mà ở giữa trời. Cấp trung: Ðược 
        ở gần một gốc cây, hang đá hay nhà. Cấp hạ: có thể 
        ở dưới một hốc đá không có ống máng, hoặc dưới lều 
        bằng cành cây. 
        c. Lợi ích: Khỏi bị 
        những chướng ngại do chỗ trú gây ra, trừ được hôn trầm 
        biếng nhác, sống không ràng buộc, muốn đi đâu cũng được. 
         
        
        * 11. Hạnh ở nghĩa địa: 
        
         
        a. Cách thức thọ trì: 
        Người theo hạnh nầy phát nguyện: "Tôi lập hạnh sống 
        tại nghĩa địa", hoặc "Tôi từ chối chỗ trú 
        không phải nghĩa địa". 
        b. Ba cấp bậc: Bậc 
        thượng: Phải sống tại những nơi luôn luôn có tử thi 
        được thiêu đốt và tang lễ. Bậc trung: được sống tại 
        những nơi chỉ có một trong các điều ấy. Bậc hạ: có thể 
        sống tại một nơi chỉ có đặc tính của một nghĩa địa. 
        c. Lợi ích: Hành giả 
        được sự tưởng niệm về cái chết, sống tinh tấn, tưởng 
        bất tịnh luôn hiện tiền, tham dục biến mất, có tỉnh 
        giác cao độ, từ bỏ 3 kiêu mạn về sự sống, tuổi trẻ 
        và vô bệnh, chinh phục được sợ hãi khiếp đảm. 
        
        
        * 12. Hạnh nghỉ ở đâu cũng được: 
        
         
        a. Cách thức thọ trì: 
        Ðược thọ trì bằng cách phát nguyện: "Tôi giữ hạnh 
        nghỉ đâu cũng được", hoặc "tôi từ bỏ lòng 
        tham đắm sàng toạ". 
        b. Ba cấp bậc: Bậc thượng: 
        Không được hỏi thăm về trú xứ dành cho mình. Bậc trung: 
        được phép hỏi, nhưng không được đi quan sát trước. Bậc 
        hạ: được đi quan sát trước và nếu không thích có thể 
        chọn một chỗ ở khác. 
        c. Lợi ích: Có thể 
        tùy hỉ với những gì mình có được, có tâm nghĩ tưởng 
        đến những bạn đồng phạm hạnh, từ bỏ so đo cao thấp, 
        bỏ tâm thuận nghịch, đóng cái cửa tham muốn. 
        
        
        * 13. Hạnh ngồi không 
        nằm: 
        
        
        a. Cách thức thọ trì: 
        Ðược thọ trì bằng cách phát nguyện: "Tôi giữ hạnh 
        ngồi, không nằm", hoặc "Tôi sẽ không nằm". 
        b. Ba cấp bậc: Bậc thượng: 
        Không được dùng một chỗ tựa lưng hay dây vải nịt lưng. 
        Bậc trung: được dùng bất cứ thứ nào trong những phương 
        tiện ấy. Bậc hạ: được dùng một chỗ tựa, một băng vải, 
        một nịt lưng, một gối dựa. 
        c. Lợi ích: Thói lười 
        biếng bị cắt đứt, dễ chú tâm vào đề tài thiền quán, 
        dễ tinh cần tinh tấn. 
         
        Nói chung phương pháp 
        tu khổ hạnh thường có những hiệu quả tích cực, và 
        khái quát có thể chia thành mấy hạng người sau: có người 
        tu khổ hạnh mà không giảng về khổ hạnh; có người giảng 
        về khổ hạnh mà không phải là người tu khổ hạnh; có người 
        không giảng cũng không tu; có người vừa giảng vừa tu. 
        Pháp khổ hạnh thường 
        đi đôi với 5 tác dụng: ít muốn, biết đủ, viễn ly, độc 
        cư và kết quả từ các thiện pháp ấy. Ít muốn, biết đủ 
        và viễn ly là không tham. Ðộc cư thuộc vô si. Vì khổ hạnh 
        thích hợp cho những người nhiều tham và si. 
        Nếu chia theo nhóm thì 
        pháp môn khổ hạnh nầy gồm có 8: Ba chính và năm lẻ. Ba 
        chính là: Khất thực từng nhà, nhất tọa thực, và ở 
        ngoài trời. Năm lẻ là: Hạnh mặc y phấn tảo, hạnh 3 y, hạnh 
        ở rừng, hạnh ngồi và hạnh ở nghĩa địa. 
        Nếu chia riêng biệt 
        thì có 13 khổ hạnh cho Tỳ kheo, 8 cho Tỳ kheo ni, 12 cho Sa 
        di, 7 cho Sa di ni và tịnh nữ, 2 cho nam nữ cư sĩ. Như vậy, 
        tất cả có 42 khổ hạnh. 
        Tỳ kheo có thể thực 
        hiện cả 13 khổ hạnh, nhưng Tỳ kheo ni thì không được thực 
        hành 5 pháp nầy: Hạnh ở rừng, không ăn tàn thực, hạnh 
        ở giữa trời, ở gốc cây và ở nghĩa địa. Ðối với Sa 
        di, chỉ trừ khổ hạnh 3 y, còn lại 12 pháp kia có thể thực 
        hành. Ðối với Sa di ni và tịnh nữ, thực hành theo Tỳ 
        kheo ni, chỉ trừ khổ hạnh 3 y, nên còn lại 7 khổ hạnh. 
        Nam nữ cư sĩ thì lại thích hợp đối với 2 khổ hạnh nhất 
        tọa thực và chỉ ăn một bát. 
        -ooOoo- 
        Ðầu 
        trang | 01 
        | 02 | 03 | 04 
        | 05 | 06 | 07 
        | 08 | Mục lục  |