|    | 
      
         Chương 
        V 
        Sự Khác 
        Biệt Giữa Thiền Ðịnh Phật Giáo 
        Và Thiền Ðịnh Ngoại Ðạo
         
        Qua 
        các tài liệu lịch sử về đức Phật, và qua các kinh nói 
        đến quảng đường xuất gia tu hành của Ngài, có một sự 
        kiện lịch sử đánh mạnh vào sự chú ý của chúng ta là: 
        Thoạt tiên Thế Tôn tu tập Thiền định với hai ngoại đạo 
        sư là Alàra và Uddaka (xem "Phật Học Khái Luận", cùng 
        soạn giả) chứng đắc đến định Vô Sở hữu và Phi tưởng 
        phi phi tưởng, cảnh giới định cao nhất của ngoại đạo. 
        Bây giờ Thế Tôn đã thấy rõ các định ấy còn bị vướng 
        mắc vào sanh tử, Ngài đã một mình từ giả con đường tu 
        chân chánh dẫn đến đoạn tận khổ đau. 
        Sau sáu năm khổ hạnh dò dẫm, 
        Thế Tôn lại thấy rõ đây cũng không phải là Chánh đạo. 
        Sau cùng, Ngài đã trải qua bốn tuần lễ Thiền quán dưới 
        cội Bồ-đề ở Ưu-tâu-lần-hoa (Uruvelà) và chứng đắc Vô 
        Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. 
        Ðiều đó nói lên con đường 
        Thiền định Phật giáo do Thế Tôn khai mở hoàn toàn khác 
        biệt với các lối Thiền định của ngoại đạo đương 
        thời. Chúng ta hãy đi thẳng vào nội dung của sự khác 
        biệt này. 
        Trước khi Thế Tôn ra đời và 
        trong thời Thế Tôn tại thế, tại Ấn Ðộ đã có 62 học 
        thuyết ngoại đạo chủ trương khác nhau về con người và 
        thế giới. Có một số ít học thuyết là kết quả của các 
        suy luận thuần lý đầy tham ái và chấp thủ kiến. Những 
        chủ trương khác còn lại là do kinh nghiệm thực tại có 
        giới hạn của các nhà khởi xướng, và do tham ái và chấp 
        thủ kiến của họ. Do vì họ tu tập Thiền định qua ngõ 
        đường: "Nhiệt tâm, tinh tấn, cần mẫn, không phóng dật, 
        chánh ức niệm nên tâm nhập định". Do tâm nhập định 
        họ biết được nhiều đời sống quá khứ, nhiều thành 
        kiếp hoại kiếp, nhiều trăm ngàn thành kiếp, hoại kiếp, 
        và họ chấp thủ vào cái thấy qua ký ức giới hạn ấy. 
        (Kinh Phạm Võng, Trường Bộ Kinh I). Thế Tôn đã xác nhận, 
        "các kiến chấp của họ là do xúc phạm các căn", do "cảm 
        thọ qua các định" và "do bị tham ái chi phối" mà có (Trường 
        Bộ Kinh I, Kinh Phạm Võng). 
        Như vậy nội dung và kết quả tu 
        tập Thiền định của ngoại giao là do tu tập thuần túy 
        Thiền chỉ và thiếu sự giác tỉnh về vô ngã tính, duyên 
        sinh tính của các pháp nên rơi vào tham ái và chấp thủ, dù 
        họ có thể vào đến định Phi tưởng phi phi tưởng và 
        thấy được rất xa các đời quá khứ về con người và 
        thế giới. 
        Con đường Thiền định của 
        Thế Tôn cũng thấy được tất cả những gì mà ngoại đạo 
        thấy, còn thấy xa và nhiều hơn thế nữa. Thế Tôn ngoài 
        phần Thiền chỉ, còn hành sâu Thiền quán và thường giác 
        tỉnh các pháp là duyên sinh vô ngã, vô thường, khổ đau mà 
        rời khỏi hết các tham ái và chấp thủ nên đoạn trừ 
        hết nhân sinh tử, chứng đắc Niết-bàn. 
        Từ đó, ta rút ra hai điểm khác 
        biệt chính, rất nền tảng, giữa hai ngã đường Thiền định 
        trên. 
        
          1. Thiền định ngoại đạo 
          chỉ có Thiền chỉ (nhiệt tâm, tinh cần, không phóng dật 
          và nhiếp niệm tập trung) mà không có Thiền quán (quán vô 
          ngã, vô thường tan rã, hoại diệt) như ở Phật giáo. 
          2. Do ngoại đạo chỉ có Thiền 
          chỉ giới hạn, không nhận rõ lý Duyên sinh, Vô ngã của 
          các pháp nên dẫn hành giả vào sâu hướng tham ái và 
          chấp thủ. Con đường Thiền đinh Phật giáo thường nuôi 
          dưỡng chánh niệm tỉnh giác (thấy rõ vô ngã, vô thường 
          và khổ đau của các pháp) lìa khỏi các tham ái và chấp 
          thủ. 
         
        Từ hai điểm khác biệt lớn trên 
        dẫn đến hai kết quả tu tập thật là khác biệt: 
        
          - Phật giáo nhờ hành Thiền quán, 
          giác tỉnh, ly tham ái, ly chấp thủ mà dẫn đến kết 
          quả đoạn tận khổ đau, dứt trừ nhân sinh tử. 
          - Thiền định ngoại đạo, do vì 
          bị vướng mắc vào cảm thọ, vào xúc, vào chấp thủ và 
          tham ái nên dẫn hành giả chạy vòng quanh trong sinh tử, vướng 
          mắc sinh tử, tuyệt nhiên không thể dứt trừ được sinh 
          tử, đoạn tận khổ đau. 
         
        Do đó, con đường ngoại đạo 
        dừng lại ở định Phi tưởng phi phi tưởng mà không bao 
        giờ thoát qua khỏi định này. 
        Tu tập theo Phật giáo, hành giả 
        có thể từ Tứ thiền sắc định, hành Thiền quán để vào 
        thẳng Diệt thọ tưởng định hay chứng đắc các Thánh 
        quả (từ đệ nhất đến đệ Tứ Thánh quả). Cũng có 
        thể từ Tứ thiền phát triển mạnh Thiền quán để dứt 
        trừ hết các lậu hoặc chứng đắc A-la-hán. Cũng có thể 
        từ Vô sở hữu xứ định hành Thiền quán hay Bốn vô lượng 
        tâm để vào thẳng Diệt thọ tưởng định và đắc Thánh 
        trí giải thoát. Cũng có thể bằng Thiền quán đi vào Phi tưởng 
        phi phi tưởng xứ định rồi xuất khỏi định này để vào 
        Diệt thọ tưởng định và chứng ngộ Niết-Bàn. 
        Trong một số trường hợp đặc 
        biệt, đối với các đệ tử của Thế Tôn có trí tuệ siêu 
        việt, có thể từ Sơ thiền, Nhị thiền hay Tam thiền vào 
        thẳng các Thánh quả và dứt trừ vô minh lậu hoặc bằng 
        Thiền quán. 
        Nói tóm lại, Thiền định ngoại 
        đạo chỉ có Thiền chỉ (Samatha) thiếu hẳn Thiền quán 
        (Vipassana) -- chánh kiến và chánh tư duy, nên chỉ có thể 
        đưa hành giả vào tâm giải thoát và dẫn đến các quả 
        vị cao nhất là Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông và Thần túc 
        thông. Thiền định Phật giáo gồm đủ Thiền chỉ và 
        Thiền quán nên dẫn đưa hành giả vào tâm giải thoát và 
        tuệ giải thoát, chứng đắc Lục thông - Thiên nhĩ thông, 
        Thần túc thông, Tha tâm thông, Thiên nhãn thông, Túc mệnh thông 
        và Lậu tận thông. Ở đây hành giả hoàn toàn thoát khỏi 
        sanh tử, chứng đắc Niết-bàn. 
        Từ các điểm khác biệt căn 
        bản trên đưa đến một số điểm khác biệt liên hệ khác 
        về các mặt nhận thức và tu tập của hành giả. 
        Về mặt nhận thức, một Phật 
        tử luôn luôn đi với Chánh kiến và Chánh tư duy trên suốt 
        lộ trình giải thoát (xem thêm "Phật Học Khái Luận" của 
        cùng soạn giả). Phật tử khởi đầu bằng nhận thức 
        cuộc đời là vô thường và khổ đau, gốc của khổ đau là 
        tham ái và chấp thủ; con đường diệt tận khổ đau là hành 
        Thiền định để loại trừ tham ái và chấp thủ các tướng. 
        Từ đó, họ rời khỏi tham ái ngũ dục để vào Sơ Thiền, 
        rồi Sơ Thiền để vào Nhị Thiền..., họ từ bỏ các pháp 
        bị tác thành bởi các nhân duyên cho đến khi Chánh trí 
        giải thoát xuất hiện thấy rõ mình đã lìa hết tham, sân, 
        si, thể nhập Niết-bàn. Trên đường đi, Phật tử giữ gìn 
        các hành động của thân, khẩu, ý phù hợp với hướng ly 
        tham và ly thủ ấy. Có nghĩa là họ niệm tưởng đến vô 
        tham, vô sân,vô si, vô hoại ấy. Họ vào định, vận dụng 
        định để phát triển tâm lý về vô tham, vô sân, vô si, vô 
        hại mà không phải để hưởng thụ các lạc thú Thiền định 
        hay để chấp chặt những gì đang có. Họ luôn luôn, dù ở 
        trong định nào, giác tỉnh rằng Năm Uẩn (sắc, thọ, tưởng, 
        hành, thức) là duyên sinh; vì duyên sinh nên chúng vô ngã, vô 
        thuờng, khổ đau nên không nhìn chúng là ta, là của ta hay là 
        bản ngã của ta. Nhìn với sự giác tỉnh như thế, họ đoạn 
        trừ được lòng tham ái Năm uẩn và lòng chấp thủ Năm 
        uẩn, đi vào tối thắng tịch tịnh. Ở đâu Chánh trí 
        giải thoát phát khởi. 
        Còn hành giả ngoại đạo vì không 
        có Chánh kiến và Chánh tư duy nên đi đến chỗ không có Chánh 
        niệm, Chánh tinh tấn và Chánh định. Ở định nào, họ cũng 
        thiếu mặt Chánh kiến và Chánh tư duy. Do thiếu mặt Chánh 
        kiến và Chánh tư duy họ rơi vào chấp thủ và tham ái. Họ 
        từ bỏ dục lạc để nắm giữ và thụ hưởng lạc Sơ 
        thiền; họ từ bỏ Sơ thiền đó nắm giữ và thụ hưởng 
        lạc Nhị thiền ... . Dừng lại ở cảnh Thiền nào thì họ 
        cho cảnh Thiền ấy là có thật, là thường hằng, còn các 
        cõi thấp hơn là không thật. Bởi vì họ chấp Năm uẩn là 
        họ, là của họ, là tự ngã của họ cho nên cái thấy 
        của họ luôn luôn bị giới hạn bởi những gì họ đang có 
        và đang là (như 62 chủ trương học thuyết ngoại đạo được 
        trình bày ở kinh Phạm Võng, Trường Bộ Kinh I). Chính vì 
        tham ái và chấp thủ là nhân tố của sinh tử, nên việc 
        nắm giữ tham ái, chấp thủ đã giữ chặt họ trong vòng 
        sinh tử. Họ có vào định, nghĩa là có tâm giải thoát, nhưng 
        thiếu tuện nên ở cảnh Thiền nào họ cũng xa rời chân lý, 
        sự thật vô ngã của các pháp. Vô minh phủ dày suốt lộ 
        trình Thiền định ngoại đạo đó. 
        Từ điểm khác biệt về chánh 
        kiến ở trên đưa đến hiện tượng hai kết quả tái sinh 
        khác nhau. Do có Chánh kiến, một người được sanh Thiên. 
        Sau khi hết tuổi thọ ở cõi trời đó, người ấy được 
        tiếp tục thác sanh trên cõi Trời cao hơn; cứ thế, người 
        ấy đi dần đến giải thoát. Do thiếu Chánh kiến, một người 
        có phước báo sanh Thiên, sau khi hết phước báo ở cõi 
        trời, người ấy thác sanh xuống cõi thấp hơn, có thể rơi 
        vào ba đường dữ. Chính nhờ có Chánh kiến mà người trước 
        xa lìa dục vọng nên được thác sinh đi lên; chính vì 
        thiếu Chánh kiến, nên người sau đắm chìm vào hưởng 
        dục, nên thác sinh đi xuống địa ngục, bàng sinh (Theo kinh 
        Ðại Nghiệp Phân Biệt, Trung Bộ Kinh III). 
        
        Về Mặt Tu Tập 
        Nhận thức hướng dẫn hành động. 
        Nhận thức hữu ngả sẽ dẫn đến các hành động nuôi dưỡng 
        ngã mạn, nuôi dưỡng dục, sân và chấp thủ kiến. Do 
        chấp thủ kiến, dẫn đến hành động khen mình, chê người, 
        không chấp nhận quan điểm khác, dù quan điểm ấy tốt đẹp 
        hơn; thái độ sống này sẽ đưa đến tình trạng chậm 
        tiến bộ. 
        Do hành Thiền chỉ, chỉ vận 
        dụng được sức tập trung tư tưởng, nhiệt tâm và tinh 
        cần qua động cơ ham muốn một cảnh giới cao hơn, bền 
        vững hơn, nên năng lực xả ly các dục chậm và yếu hơn là 
        do thấy thẳng vô thường tướng, khổ tướng và bất 
        tịnh tướng của cảnh giới đang là. 
        Do không có hành Thiền quán, nên 
        phạm vi tu tập bị thu hẹp lại. Với Thiền quán và Chỉ 
        quán của Phật giáo, hành giả có thể thực hiện mọi lúc 
        trong các thế đi, đứng, nằm, ngồi, miễn rằng giữ được 
        Chánh niệm tỉnh giác. Bạn đang làm gì, bạn biết bạn đang 
        làm gì về nhiếp phục tham ưu ở đời là đủ. Với phương 
        pháp thực hiện này, các căn cơ đều có thể thích ứng, 
        khác với Thiền định ngoại đạo (Thiền chỉ), chỉ thích 
        ứng với với một số căn cơ phù hợp. Bạn có thể ngắm 
        cảnh trời chiều, nhìn lá đổ, mây bay, hay đi chơi núi, chơi 
        biển v.v... ở đâu bạn cũng có thể thực hiện Thiền quán 
        và phát triển Thiền quán. Tiến bộ tâm lý của bạn đáng 
        được ghi nhận là thấy rõ tướng vô thường và khổ đau 
        ở trong bạn và xung quanh bạn để xả dần các dục ái và 
        chấp ngã, đều hoàn toàn không có ở ngoại đạo. 
        Hẳn nhiên, hướng đi của hai con 
        đường Thiền định khác nhau, còn nảy sinh ra nhiều thái 
        độ sống và biện pháp thực hiện khác nhau nữa. Ở chương 
        sách nhỏ này, người viết không có tham vọng đi sâu vào các 
        điểm khác biệt ấy. 
        Ðến đây, hẳn bạn đã thấy rõ 
        danh từ Thiền định, định lực, và cả thế ngồi hoa sen, 
        niệm hơi thở vào, hơi thở ra, chưa nói lên được gì cả 
        về ý nghĩa như thế nào là Thiền định ngoại đạo. Chỉ 
        ở nội dung của việc vận dụng tâm lý và chuyển đổi tâm 
        lý nói lên được sắc thái của Thiền định mà bạn đang 
        hành. Ðiều này chỉ có hành giả mới xác định được 
        về mình cho chính mình. 
        Ngoài sự khác biệt về nội dung 
        của Thiền định Phật giáo và Thiền định ngoại đạo như 
        vừa được trình bày, các phương thức tu tập, thực hiện 
        Thiền định Phật giáo ở các dòng văn hóa khác nhau vẫn 
        biểu hiện khác nhau. Nói thế, có nghĩa là giữa phương 
        thức thực hiện Thiền định Phật giáo truyền thống của 
        đời đức Thế Tôn tại thế ở Ấn Ðộ hẳn là có khác 
        biệt với phương thức thực hiện Thiền định Phật giáo 
        ở Việt Nam ngày xưa và ngày nay. 
        Bây giờ, chúng ta đi vào chương 
        sách tiếp theo: Thử tìm hiểu sắc thái của Thiền định 
        Phật giáo Việt Nam của nhiều thế kỷ qua và thử nghiệm 
        xem phương thực thực hiện nào sẽ thích ứng tốt nhất 
        cho xã hội Việt Nam hiện đại theo hướng đi lên của 
        lịch sử. 
        -oOo- 
        Chương 
        trước | Mục lục | Chương 
        kế  |