|
Thiền học Nam Truyền
Giác Nguyên dịch Việt
Chương 11
Hiểu biết
về Nghiệp Lý:
Con đường đến Tự do
Còn có một
trình độ hiểu biết khác về nghiệp lý mà không hề liên
quan đến vấn đề tái sinh. Chẳng hạn một thứ kiến thức về
nhân quả báo ứng để ta từ đó đầu tư những thiện sự mang ý
nghĩa dẫn sanh vào các sinh thú cao cấp như thiên giới hoặc nhân giới với
những điều kiện sống tuyệt với. Kiến thức về nghiệp
lý ở đây cần được hiểu là một con đường đưa đến một khả
năng tâm linh thật sự tự tại giữa đôi bờ tương đối của sự sống và cái
chết, sanh và diệt.
Tinh hoa của đạo Phật chỉ nằm trong trí tuệ nội quán về qui luật
Vô Ngã. Trong giáo lý tuyệt vời mà đồng thời cũng là cốt lõi này
của Phật giáo có nội dung là phủ nhận một cái tôi ảo vọng. Tất cả
những cấu tố tâm sinh lý vẫn làm nên sự có mặt của chúng ta, chúng luôn
thay đổi và biến tướng một cách nhất định. Cái mà chúng ta vẫn gọi
là thực thể, cái tôi,... đều chỉ là một khối tổng hợp của từng
thành phần tâm vật lý nương nhau mà hiện hữu thông qua một khối quan
hệ hữu cơ. Phật giáo vẫn gọi chung các cấu tố đó là Ngũ Uẩn
(Khandha).
Uẩn hay cấu tố đầu tiên trong năm uẩn chính là những nguyên tố vật chất
(Sắc uẩn) mà chúng ta có thể cảm nhận qua các quan sinh lý,
dưới nhiều hình thái cảm nghiệm: Thô ráp, mềm mại, nóng lạnh,
rung động, nặng nề, nhẹ nhàng... Uẩn thứ hai vẫn được gọi là Thọ
uẩn, bao gồm tất cả những cảm giác và xúc động tốt xấu như buồn, vui
hay sự hờ hững thản nhiên mà từ ngữ thông thường vẫn gọi là tình trạng
tâm lý vô cảm. Uẩn thứ ba tức Tưởng uẩn, cũng thuộc lãnh vực tâm
lý như hai uẩn vừa kể trên và với một định nghĩa nôm na thì đó là
những quan niệm, những liên tưởng tập quán mang tính phân biệt và kinh
nghiệm về các đối tượng sở tri. Chẳng hạn, chính nhờ có nó, khi nghe
một tiếng động, ta lập tức nhận ra ngay rằng đó là tiếng còi xe hay
tiếng chó sủa. Hồi ức là một trong những chức năng đặc trưng của tưởng
uẩn. Uẩn thứ tư chính là những hình thái tư tưởng tích lũy tất cả những
cấu tố tâm lý ngoài thọ uẩn và tưởng uẩn, những uẩn mà theo đặc
tính có thể được xem là độc lập. Uẩn thứ tư này bao gồm tất cả những
hình thái ý thức sai biệt và có di hậu những phản ứng nhất định nào
đó trong tương lai bất luận là tốt hay xấu. Chúng là những cấu tố tâm
lý có hiệu quả xây dựng và qui định nhân cách cũng như hướng đi
của mỗi chúng sanh. Gọi theo thuật ngữ phật học thì Uẩn thứ tư
chính là Hành uẩn, nội dung có thể là tam độc (tham, sân, si) hoặc
tam học (giới, định, tuệ). Uẩn thứ năm tức Thức uẩn là cái
biết đơn thuần, vô tư, vô cảm đối với tất cả đối tượng sở tri bất
luận thuộc tâm lý hay vật lý, một cái biết đơn giản chưa thông
qua cũng như chưa bị định trị (đánh giá) bởi bất cứ lăng kính ý thức
nào hết. Chúng ta thật ra chỉ là một thành phẩm được cấu hợp từ sự
tương tác của năm uẩn. Những khái niệm tôi, anh, nam, nữ, người, thú...
chỉ là những ngôn ngữ mang ý nghĩa phương tiện để diễn dịch
những hình thái vận động nhất định của các uẩn mà thôi.
Chẳng hạn khi ta nghe tiếng động thì sự ghi nhận ban đầu về âm
thanh đó chính là Thức uẩn (ở đây là nhỉ thức). Thần kinh thính giác và
âm thanh kia là Sắc uẩn. Những cảm xúc tiêu cực hay tích cực trước âm thanh
đó, chính là Thọ uẩn. Sự nhận ra (bằng kinh nghiệm quá khứ) rằng đó
là âm thanh, tiếng động gì thì đây là Tưởng uẩn; và tất cả những
phản ứng tâm lý mang tính đầu tư, định trị bằng các tình trạng tâm
lý thương hoặc ghét hay hiểu biết (bằng trí tuệ) thì chính là
sự hiện hữu, tồn tại của Hành uẩn.
Trong một bộ kinh quan trọng của Phật giáo là Milindapanha (Milinda Vấn
Ðạo) có nhắc đến một đoạn đối thoại giữa nhà vua Hy lạp tại Ấn
Ðộ tên Milinda (hậu duệ của A-lịch-sơn Ðại Ðế) với Ngài Nàgasena
(Na-tiên), một vị thánh tăng bác học thời danh, về giáo lý vô
ngã. Nhà vua yêu cầu Ngài Nàgasena hãy giải thích rõ hơn cho mình về vấn
đề giáo lý thâm sâu mà cũng vô cùng tế nhị này. Nhà vua đặt
vấn đề với tư cách một người đứng trên lập trường chủ trương một
cái Tôi. Ngài Nàgasena trỏ vào chiếc long xa của nhà vua rồi hỏi:
- Thưa đại vương, ở đây cái gì được gọi là cổ long xa? Có phải
chăng từng món phụ tùng được lắp ghép vào đây đều có thể được
gọi là chiếc long xa hay không, chẳng hạn như các món đùm xe, trục xe,
căm xe, thùng xe, mui xe, rèm xe,...?
- Tất nhiên, nếu kể ra từng món một thì không có món nào có
thể được gọi là cổ long xa cả! Vua Milinda trả lời.
Ðến đây, nhà vua Milinda coi như đã thấu suốt được giáo lý vô
ngã một cách sâu sắc và sinh động qua chính hình ảnh về cổ long xa mà
Ngài Nàgasena đã tạm mượn làm một thí dụ để trình bày về một
giáo lý vô ngã xuyên qua phép diễn dịch về đặc tính nương đỡ và
tương quan hữu cơ như một qui luật sinh tồn của vạn pháp: Không có sự góp
mặt của các món phụ tùng cần thiết thì chẳng có một chiếc xe nào
cả. Vẫn bằng phương thức suy luận tương tự, cái mà chúng ta vẫn gọi là
"tôi, của tôi" thật ra chỉ là một khái niệm giả lập để chỉ
cho môi trường gặp gỡ, tương ngộ của các uẩn luôn sanh diệt triền
miên trong từng chớp mắt. Bản chất và đặc tính cố nhiên của chúng là luôn
luôn thay đổi, phân hóa, biến tướng và bất thường.
Chúng ta hãy quan sát mọi sự trong từng ngày như người ta vẫn tự nhìn
ngắm mình trong tấm gương soi. Tình trạng hiện hữu của các uẩn hôm nay
qua đến ngày mai sẽ đổi khác nhiều lắm. Mọi thứ luôn trôi qua đi
và tự đnh mất khuôn mặt cũ của mình, cái còn gọi có chăng chỉ là tên
gọi. Bằng vào những khái niệm tập quán ngộ nhận, trong đó có cả
thói quen định danh (gọi tên), chúng ta vẫn luôn tự ám ảnh mình bằng một
niềm tin vào những sự vật nào đó miên viễn và hằng tại, trường cữu,
thậm chí dù có tận mắt nhìn thấy những hiện tượng vô thường, đổi
thay, ta vẫn cứ xem chúng hiện hữu, vận động, biến tướng vì một
quyền sở hữu hay dưới sự điều hành của ai đó, cái gì đó. Nhưng
nếu bằng một cái nhìn nghiêm túc, trung thực, khách quan và tỉnh thức,
thông qua trí tuệ thiền định vốn đã được trao luyện thuần thục,
thì ta sẽ thấy rằng ngay bản thân của ý thức (ở đây là tứ danh uẩn,
các uẩn thuộc tâm lý) tự bản thân chúng chỉ là một qui trình vận động
luôn mang tính vô thường và bất cứ cái gì vẫn được gọi là bản ngã
hay cái tôi cũng chỉ là một chuỗi dài đổi thay liên tục của ngũ uẩn mà
không hề có một thực thể bất biến, vĩnh hằng nào nấp kín đàng
sau hay tàng ẩn bên trong chúng cả.
Dòng sinh diễn cố nhiên của ngũ uẩn tuyệt đối không xảy ra một cách
ngẫu nhiên, tình cờ, đột biến, đột xuất hay hỗn độn, thiếu trật
tự. Nó sinh hóa trên một hệ thống hẳn hoi, mang tính thừa tiếp hữu
cơ, tuân theo qui luật vận động tất yếu của các pháp tự muôn đời.
Những qui luật có điều động tất cả những mối quan hệ tương thuộc
của các cấu tố tâm vật lý làm nên sự tồn tại, vận động của các pháp
và ta cóthể học hỏi thấu suốt vấn đề này trong tạng Vi Diệu
Pháp (Abhidhamma-pitaka), một hệ thống giáo lý có nội dung chủ yếu
là về tâm lý học (từ ngữ này ở đây nên hiểu theo định
nghĩa chiết tự chứ không mang ý nghĩa thông thường ở các bộ tự
điển). Theo tạng Vi Diệu Pháp thì ý thức của chúng ta là một
chuỗi dài của những đơn vị cảm nghiệm tâm lý mà gọi theo từ
chuyên môn của Phật học là các Tâm lộ. Trong hình thái vận động này
các đơn vị ý thức tuyệt nhiên không diễn ra trong một tình trạng
hỗn mang hay xơ cứng, dính dấp đến từ ngữ văn tự, mà thay vào đó
mỗi tâm lộ bao gồm một loạt tối đa mười bảy đơn vị ý thức,
gọi theo thuật ngữ của tạng Vi Diệu Pháp là mười bảy Sát-na Tâm. Giả
dụ như khi ta nghe một tiếng động, các đơn vị ý thức tương ứng lập
tức nối đuôi nhau hình thành ra một tâm lộ với số lượng tối đa là mười
bảy Sát-na để tập trung vào một đối tượng sở tri, mà ở đây là âm
thanh mà mình vừa nghe qua.
Ðối với trường hợp cảm nghiệm (ghi nhận, đón bắt) các đối tượng
ý thức khác như hình ảnh, hương vị hay đối tượng xúc giác, tư tưởng
nào đó, tất cả cũng đều diễn ra theo qui trình này: Tính ở mức tối đa,
mỗi lộ tâm gồm có mười bảy sát na và thời gian tồn tại của mỗi một
sát na là cực ngắn (tạm hiểu là một phần tỷ của mỗi giây đồng
hồ) và trong suốt đời sống chúng ta, các Tâm lộ luôn liên tục thế
chỗ cho nhau. Trong mỗi Tâm Lộ như vậy, có một số Sát-na chỉ đơn
giản có ý nghĩa là hậu quả thừa tiếp từ các tiền nghiệp quá
khứ. Thuật ngữ của tạng Vi Diệu Pháp gọi chúng là những Sát-na Tâm
Quả. Chúng hiển hiện trong lộ tâm dưới hình thức của những cảm giác
tốt xấu (Thọ uẩn). Chẳng hạn như khi chúng ta bị nghe phải những câu nói,
những âm thanh khó chịu thì đó chính là lúc lộ diện của Sát-na tâm quả
bất thiện vốn đã được đầu tư từ một hành động ác xấu tương ứng
nào đó trong quá khứ. Còn đối với các Sát-na tâm còn lại trong một tâm lộ
thông thường thì chúng có chức năng gây tạo ra những tác động mà nãy giờ
ta vẫn gọi là quả và nhân tố tác nghiệp hay sức mạnh tác động của
chúng hoàn toàn tùy thuộc vào thái độ phản ứng tâm lý của chúng ta
trước các đối tượng sở tri. Như khi nghe một câu nói, một âm thanh dễ gây
bất mãn thì thay vì chúng ta chỉ đơn giản ghi nhận nó là quả xấu của một
tiền nghiệp bất chánh để rồi bình thản nhìn ngắm và bỏ mặc cho
nó trôi qua, nhưng nếu ta lại đón nhận nó bằng một sự bất mãn thì vô
tình ta đã lại đầu tư thêm một ác nghiệp mới nữa trong tương lai. Tất
cả chỉ vì thái độ đối kháng tệ hại của chúng ta mà thôi.
Nói một cách khác đi, ta đã đối diện và xử lý một cách
thiếu thông minh trước đối tượng sở tri. Và ở đây có một qui luật mà
có lẽ ai cũng biết, đó là "Nhân nào quả nấy": Cơn nóng giận
hôm nay sẽ cho ra những nổi buồn khổ ở ngày mai. Ngược lại, với một thái
độ phản ứng và xử lý ngoại cảnh bằng tất cả những giá trị tinh thần
như tỉnh thức, bao dung và một trình độ thấu đáo về nghiệp lý
thì dầu bất cứ ở tình huống nào, đối với bất cứ một đối tượng sở tri
nào tốt xấu bất luận, ta đều có cơ hội để vun bồi và gieo hạt cho
những hạnh phúc mai sau.
Tất cả những cảm xúc tâm sinh lý dù tốt xấu đều là hậu quả của
tiền nghiệp. Những phản ứng của chúng ta hôm nay đều luôn có
thể tạo nên những hậu quả trong tương lai mà mình sẽ phải chấp nhận,
thưởng thức hoặc chịu đựng. Qui luật về nghiệp lý là cả một
vòng tuần hoàn luân lưu: Từ một hạnh nghiệp quá khứ sẽ tạo ra những hậu
quả trong hiện tại và chính những thái độ phản ứng, xử lý tốt hoặc
xấu đối với chúng, lại tiếp tục tạo ra những hậu quả mới... Cứ thế
và cứ thế. Vòng tuần hoàn nghiệp lý báo ứng này đã qui định
nên cuộc luân hồi của tất cả chúng sanh và tất cả chỉ nằm vỏn vẹn trong
từng sát na tâm.
Giáo lý thiền quán đặc biệt nhấn mạnh hai vấn đề lớn là
sự thức tỉnh trong mỗi thái độ xử lý của ta đối với nó. Bởi chính
điều này là cội nguồn cho tất cả hạnh nghiệp của chúng ta. Mỗi
phút giây cảm nghiệm thực tại đều có thể trở thành một tác nhân
cho một báo ứng nào đó trong ngày sau. Tất cả đều tùy thuộc ở chúng ta,
mỗi người đều có quyền chọn lựa cho mình một thái độ sống:
Ðể mặc cho từng phút giây đối diện và xử lý thực tại bị cuốn
hút vào trong vòng tuần hoàn của nghiệp lý vay trả triền miên, hay
chỉ ngắm nhìn từng thực tại một cách tự do, vô hệ lụy, không đầu tư
một hạt giống nhân quả xuẩn động nào.
Con đường tối ưu để chúng ta vực mình ra khỏi vòng tuần hoàn mù mịt
vô cực của nghiệp lý chính là chánh niệm hay thái độ tỉnh thức.
Ðó là một trình độ nội tâm nằm ngoài tất cả phân biệt hẹp hòi, luôn
phơi mở và khách quan đón nhận tất cả những gì xảy đến, không thương
ghét mà cũng chẳng vô tâm lãnh đạm, hờ hững và thiếu trách nhiệm.
Một khi có được cái bản lãnh chào đón mọi cảm giác vốn là hậu quả
của tiền nghiệp, bằng tất cả bình tâm thì coi như chúng ta đã tự
tạo được cho mình những điều kiện giác ngộ, những nhân tố giải
thoát thật sự rồi đó!
Hãy nhớ rằng ngay cả đối với một người đã hoàn mãn túc duyên giác ngộ
(thậm chí đến cả chư Phật) cũng phải chấp nhận những ác quả từ các
tiền nghiệp mà mình đã tạo. Dĩ nhiên các Ngài cũng vẫn có thể
thọ lãnh tất cả những thiện quả đã được gieo trồng từ quá khứ.
Ở đây chúng ta có lẽ ai cũng biết đến câu chuyện về một
tay sát thủ khét tiếng trong thời Ðức Phật, tên là Angulimàla. Số nạn
nhân của chàng ta lên đến chín trăm chín mươi chín người. Sở dĩ tay
sát thủ này được gọi tên như vậy vì bởi vì chàng ta chỉ giết
người để lấy trên bàn tay của mỗi nạn nhân một ngón tay rồi xâu
lại thành chuỗi đeo trên cổ. Nạn nhân cuối cùng mà Angulimàla nhắm tới,
chính là bà mẹ ruột của mình. Bằng Phật trí, Ðức Thế Tôn biết
được mọi sự và Ngài đã kịp thời xuất hiện để can thiệp.
Nhìn thấy Ðức Phật, Angulimàla liền thay đổi đối tượng truy sát và
bằng tất cả sức chạy vốn chưa có đối thủ, Angulimàla đã dốc sức rượt
đuổi Ðức Phật trong khi Ngài vẫn từng bước thong thả như không có gì xảy
ra. Như ta đã biết, tay sát thủ khát máu này không cách nào theo kịp
Ðức Phật, cuối cùng khi đã kiệt sức, Angulimàla lớn tiếng bắt buộc
Ðức Phật dừng bước.
Trước thái độ hung hăn của Angulimàla, Ðức Thế Tôn từ tốn trả lời:
"Thực ra Như Lai đã đứng lại từ lâu lắm rồi, chỉ có ngươi mới là
người chưa chịu dừng bước đó thôi, Angulimàla ạ!"
Và Angulimàla đã dừng bước, dừng bước thật sự và bị tác động mãnh
liệt bởi chính phong thái đại hùng, đại bi của Ðức Phật. Sau đó,
Angulimàla xuất gia và trở thành một vị A La Hán. Theo như kinh sách ghi lại,
trong những đoạn đời còn lại của mình, ngài Thánh Tăng Angulimàla đã phải
trả giá cho những ngày tháng khát máu của mình bằng những nếm trải cay
đắng trên suốt những nẽo đường du hóa vị tha: Hầu như ở bất cứ nơi nào
Ngài cũng đều bị nguyền rủa, hành hung một cách tàn nhẫn. Nhưng dĩ
nhiên đối với trí tuệ của một bậc A La Hán, ngài đã mĩm cười đón
nhận tất cả với một tấm lòng bao dung vô hạn. Bởi đó chính là một trong
những nét đặc trưng cho trí tuệ của một bậc thánh: Trí tuệ về
nghiệp lý, chấp nhận nghiệp quả mà không đầu tư thêm nghiệp
nhân. Các bậc thánh bình thản cảm nhận tất cả những báo ứng của mình như
một người đang có mặt tại kịch trường để quan sát những vỡ kịch, mà
ở đây là những vở bi hài kịch của tuồng nghiệp lý!
Vạn hữu, từ các tầng địa ngục sâu nhất cho đến những cảnh giới phạm
thiên cao nhất cũng chỉ đều là những hình thái hiển thị của ý
thức, nội tâm chúng sanh. Có hiểu được nghiệp lý, tức những qui
luật điều hành và qui định sự tồn tại của mọi loài thì coi như ta
đã có thể tự chọn cho mình một hướng đi, một sinh thú. Chúng ta
không cần phải lo âu trước con đường tử sinh dường như có vẻ đáng sợ
này. Chúng ta có thể tự có cho mình một con đường tràn đầy trí tuệ
và an lành; bằng vào sự thấu suốt vấn đề nghiệp lý một cách chi
li, sâu sắc qua sự vận động của tâm lý ở cấp độ tế vi của khái
niệm về mỗi sát-na tâm, xâu chuỗi luân hồi hữu cơ của chúng
ta xem như có cơ may được cắt đứt. Và với sức mạnh của chánh niệm,
của thái độ vô cầu, vô chấp và độc lập đối với tất cả thực tại sở tri,
chúng ta có thể phá vỡ vòng luân lưu của cuộc sinh tử tuần hoàn, đồng
thời có thể phơi mở được cho mình một cảm giác tự do thật sự.
J. K.
Hướng dẫn thực tập
Chiêm ngắm ý hướng
hành động
Ðể hiểu được nghiệp lý, điều căn
bản và cốt lõi là việc nhìn thấy phương thức vận động hoặc những
khuynh hướng ý thức mang tính quy định một chủng tử tạo quả trong tương
lai trong chính hành động mà mỗi người thực hiện. Từ đó suy ra, một
sở hành (trong tam nghiệp) được điều động bằng thiện tâm thì
kết quả tất yếu của nó sẽ là các quả lành. Bằng ngược lại một sở
hành được điều động bởi các phiền não thì hậu quả dĩ nhiên của
nó sẽ là tất cả những gì cay đắng chua chát trong tương lai. Có điều
là các quả nghiệp không phải luôn luôn là nhãn tiền nên ta phải nói
rằng thật không dễ dàng gì nhìn thấy được quá trình quan hệ tương
thuộc giữa nhân và quả.
Tuy nhiên trong đời sống thường nhật ta vẫn có lắm dịp để thấm thía
một cách dễ dàng và trực tiếp vấn đề nghiệp lý xuyên qua
trường hợp khẫu nghiệp, những ngôn ngữ đối giao với mọi người xung
quanh. Chúng ta hãy làm một thử nghiệm bằng cách bỏ ra đôi ba ngày ghi
nhận cẩn thận và trung thực từng động lực tâm sinh lý của mỗi lời
nói mà mình phát biểu. Hãy cố gắng nhìn thẳng vào từng phút giây tâm
não trạng gắn liền với ý muốn phát ngôn, nhìn thẳng vào những động
lực, phản ứng tâm lý vào cả sự chọn lựa ngữ ngôn của mình. Hãy cố
gắng tỉnh thức để nhận diện tất cả những gì thúc đẩy ta nói, bất
luận đó là một thứ tâm trạng thô tế, tốt xấu ra sao. Ðại khái, càng
tỉnh thức càng tốt, đối với tất cả hình thái ý thức và những gì thật
sự có tác động đến khẩu nghiệp của mình.
Ta chỉ nhìn ngắm thôi, một cách khách quan về đáy sâu thật sự của
nội tâm mình, không thông qua một toan tính khuôn sáo nào cả. Hãy đơn giản
ghi nhận các vận động sai biệt của ý thức cùng những ngôn ngữ mà
chúng điều động.
Sau chừng đó nỗ lực, ta hãy tiếp tục ghi nhận ảnh hưởng của
mỗi lời nói mà mình phát biểu: Ta sẽ phải nhận lấy những gì từ
thế giới chung quanh khi ngôn ngữ của mình được phát biểu bằng một
nội tâm nhỏ nhen, vị kỷ, cao ngạo,...? Người khác sẽ có phản ứng ra sao
trước những câu nói đầy tình thương?
Qui luật nghiệp báo luôn buộc ta phải tự chịu trách nhiệm về
tất cả những tác động của mình (mà mỗi người có thể chọn lựa)
đối với thế giới chung quanh trong từng giây phút. Với sự khám phá tinh vi
và kỳ thú về những năng lực nội tại này ở mỗi người cũng giúp ta
tự qui định lấy điều kiện sinh tồn ngoại tại: Ta có thể chọn
lấy cho mình một hướng đi an lành, giải thoát.
[Chương trước][Mục
lục][Chương kế] |